Phân tích những điều kiện kt-xh cho sự ra đời của CNXH không tưởng môn Chủ nghĩa xã hội và khoa học | Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là khái niệm dùng để chỉ những họcthuyết, những quan điểm phản ánh về những khát vọng về việc giải phóng xã hội thoát khỏi tình trạng người áp bức, bóc lột người và xây dựng một xã hội thực sự bình đẳng, ấm no, hạnh phúc. Nhưng sao hạn chế lịch sử, những học thuyết, những quan điểm đó không thể chỉ ra được cách thức và lực lượng xã hội thực hiện những khát vọng đó. Do đó những học thuyết đó là không tưởng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: chủ nghĩa xã hội và khoa học
Trường: Đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 47028186
Câu 1: Phân tích những điều kiện kt-xh cho sự ra đời của CNXH không tưởng
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là khái niệm dùng để chỉ những học thuyết, những quan điểm
phản ánh về những khát vọng về việc giải phóng xã hội thoát khỏi tình trạng người áp bức, bóc
lột người và xây dựng một xã hội thực sự bình đẳng, ấm no, hạnh phúc. Nhưng sao hạn chế lịch
sử, những học thuyết, những quan điểm đó không thể chỉ ra được cách thức và lực lượng xã hội
thực hiện những khát vọng đó. Do đó những học thuyết đó là không tưởng.
Từ định nghĩa trên ta có thể hiểu CNXHKT là một hệ thống những quan điểm, tư tưởng về
giải phóng xã hội, giải phóng con người; xây dựng một xã hội mới tốt đẹp không có áp bức,
bóc lột, đảm bảo cho mọi người thực sự có cuộc sống bình đẳng, hạnh phúc nhưng lại đưa ra
con đường, biện pháp sai lầm, đó là bằng giáo dục thuyết phục và tuyên truyền hòa bình....cho lý tưởng của họ.
- Điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội không tưởng
+ Điều kiện kinh tế: sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đến một thời điểm, thời sự phát triển của lực
lượng sản xuất, đã hình thành chế độ sở hữu tư nhân và dụng đất và các tư liệu sản xuất chủ
yếu khác. Đây chính là cơ sở kinh tế của sự phân chia giai cấp, phân chia giàu nghèo và của
tình trạng không bình đẳng, nạn người áp bức, bóc lột người; là điều kiện kinh tế cho sự xuất
hiện, hình thành những tư tưởng mang tính CNXH. + Điều kiện xã hội: sự trưởng thành của giai cấp công nhân.
Trong xã hội phân chia giai cấp, mâu thuẫn giữa giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp chính
là cơ sở xã hội làm nảy sinh những nguyện vọng, mong ước muốn xóa bỏ tình trạng không bình
đẳng, là người áp bức, bóc lột người. Có thể nói những nguyện vọng, những tư tưởng này là có tính chất XHCN.
Từ thời cổ đại, trung đại rồi đến cận đại, những nguyện vọng mong ước mang tính chất xã hội
chủ nghĩa nói trên của tầng lớp lao khổ bị áp bức bóc lột ta được thể hiện dưới nhiều hình thức.
Tóm lại, đặc điểm chung của những tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong các thời kỳ này là xã
hội không tưởng không chỉ ra được chính xác, đúng đắn những biện pháp cũng như những lực
lượng xã hội tiến hành hiện những ước mơ nguyện vọng tốt đẹp nói trên thể hiện thực. - Những
điều kiện trên khiến cho xã hội tư bản chùa bộc lộ hết bản chất quy luật của xã hội phân chia
giai cấp; tính tất yếu và con đường đúng đắn của việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản chưa rõ ràng,
lập luận giai cấp công nhân chưa trưởng thành, chưa trở thành lực lượng chính trị độc lập.
Câu 2: Phân tích những giá trị lịch sử của CNXH không tưởng thể hiện qua một số quan
điểm của các nhà không tưởng.
Đ/N: chủ nghĩa xã hội không tưởng là một hệ thống những quan điểm, tư tưởng về giải phóng
xã hội giải phóng con người; xây dựng một xã hội mới tốt đẹp không có áp bức, bóc lột, đảm
bảo cho con người thực sự có cuộc sống bình đẳng, hạnh phúc, nhưng lại đưa ra con đường,
biện pháp sai lầm, đó là bằng giáo dục, thuyết phục và tuyên truyền hoà bình....cho lý tưởng của họ.
- Những giá trị lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng + Phê phán chủ nghĩa tư bản:
Các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng, với những mức độ khác nhau, đều phê phán, lên án
ngày càng sâu sắc, gay gắt hơn tình trạng bất công, Người áp bức bóc lột người trong chế độ
quân chủ chuyên chế và chế độ tư bản chủ nghĩa đương thời; phần nào nói lên tiếng nói của
quần chúng nhân dân lao động, của tầng lớp nghèo khổ trong xã hội phản đối với tình trạng bị
áp bức, bóc lột ngày càng nặng nề.
Đặc điểm chung là phê phán chủ nghĩa tư bản theo quan điểm kinh tế chứ không theo quan
điểm đạo đức, lý luận. Chỉ rõ chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát triển lịch sử, nhưng chưa
phải là chế độ xã hội tốt đẹp nhất của loài người. Vạch rõ mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, sự
kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển và cần phải thay thế bằng xã hội mới. Tuy nhiên con
đường họ đề xuất xây dựng xã hội mới có tính chất không tưởng. Ví dụ:
- Phê phán chủ nghĩa tư bản : lOMoAR cPSD| 47028186
Saint Simon nổi bật với tư tưởng lý luận giai cấp và xung đột giai cấp. Không chưa xã hội tương
đương với ba giai cấp: quý tộc, nhà tư tưởng và nhà công nghiệp. Trong đó, giai cấp nhà công
nghiệp là giai cấp trí tuệ, có khả năng quản lý nhà nước. Trong giai cấp công nghiệp, phân chia
thành 2 nhóm: một bên là nhóm giai cấp ít ỏi những người sở hữu; muốn bên khác là đồng đẳng người không có của.
Dưới con mắt của những là chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa xã hội tư bản được miêu
tả như những hiện tượng " cừu ăn thịt người" của Thomas More; "bệnh dịch nguy hiểm" của
Thomas Campanella,...và do đó, theo các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa, xã hội tư bản cần phải
loại bỏ và thay thế bằng một xã hội khác.
+ Những luận điểm có giá trị tương lai
Các nhà chủ nghĩa xã xã hội không tưởng đã nêu lên những đặc điểm có giá trị về sự phát
triển của xã hội tương lai mà sau này các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa
một cách chọn lọc và đã chứng minh trên cơ sở khoa học. Ví dụ: tiêu biểu là mô hình "hòn đảo
không tưởng" của T.More; " thành phố mặt trời" của T. Campanella, và mô hình "Công xưởng
Niulanac" của R.Oen. Trong các người này cũng như trong tư tưởng của một nhà tư tưởng xã
hội chủ nghĩa đã nêu lên tư tưởng về một xã hội tương lai, ở đó: xây dựng chế độ sở hữu chung
phân phối công bằng; ai cũng phải lao động và mỗi lao động được coi trọng như nhau; không
có sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn; trẻ em ở giáo dục miễn phí,........
+ Thức tính tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân
Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển và những tư tưởng tiến bộ và bằng những hoạt động
thực tiễn không biết mệt mỏi. Tiêu biểu là các hoạt động thực tiễn mang tính cách mạng của
Grắc-cơ Ba-bớp, Ô-oen,... Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đã góp phần thức tính tinh
thần đấu tranh của tầng lớp nhân dân lao động chống lại ách áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị đương thời.
+ Những tư tưởng nhân văn, nhân đạo
Các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng trong các tác phẩm và trong các hoạt động thực tiễn,
đã nêu lên những tư tưởng nhân đạo, nhân văn, lòng yêu thương, cảm thông và bênh vực đại
đa số người lao khổ, mong muốn giúp đỡ và giải phóng họ. Giăng Mê-li- ê cũng đã cho rằng
nông dân chỉ có thể tự giải phóng bằng con đường tham gia cách mạng. Quan điểm của Grắccơ
Ba-bớp về xã hội cộng sản là mọi người đều có cuộc sống hạnh phúc, tất cả mọi người đều sung
túc, được học hành, bình đẳng, tự do, hạnh phúc và chế khi nào mọi người có hạnh phúc thì
thương người mới có hạnh phúc.
- là một trong những tiền đề lý luận cho CNXHKH
Các tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng, đặc biệt là chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán
với những giá trị nêu trên đã được các Mác và ăng-gtrị nguồn gốc của chủ nghĩa xã hội khoa
học. Ph. Ăng-ghen viết: "chủ nghĩa xã hội lý đạo đức sẽ không bao giờ quên nói là sự tiếp nối
H.Xanh xi-mông, S.Phu-ri-ê, R.Ô-oen, tòa nhà tư tưởng này bất chấp cả tính chất ảo tưởng và
không tưởng trong các học thuyết của họ đã được liệt vào những trí tuệ vĩ đại của tất cả các
thời đại và đã tiên đoán được một cách Thiên Tài rất nhiều những chân lý mà ngày nay chúng
ta đang chứng kiến sự đúng đắn một cách khoa học.
Câu 3: Phân tích những hạn chế và nguyên nhân những hạn chế của CNXHKT
- Định nghĩa: chủ nghĩa xã hội không tưởng là một hệ thống những quan điểm, tư tưởng về
giải phóng xã hội giải phóng con người; xây dựng một xã hội mới tốt đẹp không có áp bức,
bóc lột, đảm bảo cho con người thực sự có cuộc sống bình đẳng, hạnh phúc, nhưng lại đưa ra
con đường, biện pháp sai lầm, đó là bằng giáo dục, thuyết phục và tuyên truyền hoà bình....cho lý tưởng của họ. - Những hạn chế:
+ Hạn chế 1: Không chỉ ra được bản chất của CNTB
CNXHKT phê phán, kết tội, nguyền rủa CNTB nhưng không chỉ ra được bản chất của CNTB,
không phát hiện được những quy luật phát triển của CNTb, do đó không xđ được tính tất yếu
của việc xóa bỏ CNTB, thay thế bằng CNXH.
Ví dụ: C.Fourier cũng mắc phải sai lầm trong khi phê phán CNTB trong đó có sai lầm quan
trọng khi ông phê phán một cách cực đoan nền thương nghiệp trong XHCNTB lúc bấy giờ. lOMoAR cPSD| 47028186
Ông xem thương nghiệp là nguyên nhân của mọi “bệnh hoạn” trongg xã hội lúc ấy. Điều này
dẫn tới việc ông đưa ra những lí luận sai lầm. Rõ ràng ông không hiểu được rằng bản chất đúng
của thương nghiệp trong nền sx xh TBCN. Thực chất thương nghiệp chỉ là một hoạt động sinh
ra từ nền sx tư bản mà thôi. Trong khi ấy, ông lại coi nó như một hình thái chủ yếu trong TBCN
mà không thấy được vai trò của nó. + Hạn chế 2: Không chỉ ra được con đường biện pháp :
Mơ ước xóa bỏ CNTB và xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn nhưng không chỉ ra được
đúng đắn con người và biện pháp thực hiện ước mơ đó. Nhiều nhà XHCN không tưởng hy vọng
vào lòng tốt của giai cấp thống trị, muốn dùng những biện pháp hòa bình để thực hiện sự chuyển
biến xã hội từ CNTB lên CNXH.
Ví dụ: Qua tác phẩm “Utopia” của Tô-mát Mo-rơ thể hiện ước mơ về một xã hội lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa và nhiều tác phẩm khác…nhưng không chỉ ra được đúng đắn con đường và
biện pháp thực hiện ước mơ đó. Nhiều nhà XHCNKT hy vọng vào lòng tốt của giai cấp thống
trị, muốn dùng những giải pháp hòa bình để thực hiện sự chuyển biến xã hội. Phơ-răngxoa Mô-
ren-ly đã đưa ra biện pháp để xóa bỏ chế độ xh đương thời đó là chỉ cần làm cho mọi người,
nhất là những kẻ cầm đầu có học thức và đạo đức, hoặc thay luật lệ cũ mà ông nêu ra trong “Bộ
luật của tự nhiên” nhưng chính ông cũng thấy điều kiện thực tế không thể thực hiện được.
+ Hạn chế 3: Không chỉ ra được lực lượng xóa bỏ CNTB :
Không chỉ ra được đúng đắn lực lượng xã hội thực hiện công cuộc xóa bỏ chế độ XHCN xây
dựng chế độ xã hội mới tiến bộ hơn. Những dự kiến về xã hội mới của Xanh Xi-mông còn mơ
hồ chưa chỉ ra lực lượng xã hội thật sự sẽ biến đổi XNTBCN thành XHCN. * Nguyên nhân:
- Nguyên nhân khách quan: Phương thức sản xuất TBCN chưa phát triển đầy đủ; Giai
cấp công nhân hiện đại chưa hình thành với tư cách một giai cấp trưởng thành, đấu tranh còn tự phát.
- Nguyên nhân chủ quan: các nhà chủ nghĩa không tưởng chưa thoát khỏi những quan niệm duy tâm về ls.
Câu 4: PT những đk kt-xh và những tiền đề ll cho sự ra đời của CNXHKH
- Đ/N: Theo nghĩa hẹp, CNXHKH là một trong ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mác
Lê-nin. Theo nghĩa rộng, Triết học Mác Lê-nin, kinh tế chính trị khoa học Mác Lê-nin và CNXHKH. - Những đk kt-xh :
+ Sự phát triển mạnh mẽ của CNTB: Vào những năm 40 của tk XIX, CNTB ở châu Âu đã
đạt đc những bước phát triển rất quan trọng trong KT. Cuộc c/m khoa học- kỹ thuật lần thứ nhất
đã thúc đẩy phương thức sx TBCN phát triển mạnh mẽ.
+ Sự trưởng thành của giai cấp công nhân: Cùng với sự phát triển của CNTB, giai cấp công
nhân hiện đại trưởng thành bước lên vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một
lực lượng xã hội độc lập. Giai cấp công nhân đã thực sự trở thành lực lượng xh có khả năng
giải quyết những mâu thuẫn của XHTBCN. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân chuyển từ
trình độ tự phát lên trình độ tự giác đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng.
- Những tiền đề lý luận:
+ CNXHKT-phê phán: Cơ sở lý luận cho sự ra đời của CNXHKT-phê phán là cơ sở lý luận
cho sự ra đời của CNXHKH.
+ Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Trên cơ sở kế thừa “hạt nhân hợp lý” và lọc bỏ quan điểm duy
tâm thần bí của phép biện chứng V.Ph.Hêghen; kế thừa những giá trị duy vật và lọc bỏ quan
điểm siêu hình của triết học L.Phoi-ơ-bắc, đồng thời tiếp thu những thành tựu của khoa học tự
nhiên. C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng để lý giải quá
trình vận động và phát triển xh loài người.
+ Học thuyết giá trị thặng dư: Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu nền
sx công nghiệp và hình thái kt-xh, C.Mác đã xây dựng nên tác phẩm “Tư bản”, ông đã vậ dụng
quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử để nghiên cứu hình thái kt-xh TBCN, phát hiện những
quy luật kinh tế của sự vận động XHTS, chỉ ra bản chất là điều kiện sống còn của CNTB là bóc lOMoAR cPSD| 47028186
lột giá trị thặng dư, chỉ ra những mâu thuẫn cơ bản của CNTB, khẳng định tính tất yếu diệt
vong của CNTB, tất yếu chiến thắng của chủ nghĩa cộng sản.
+ Học thuyết về sứ mệnh ls toàn thế giới của giai cấp công nhân
Trên cơ sở hai phát kiến vĩ đại nói trên, C.Mác và Ph.Ăngghen đã có phát kiến vĩ đại thứ ba,
Học thuyết về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
kđ, do địa vị kinh tế > xã hội khách quan, g/c công nhân là g/c gắn với lực lượng sx tiên tiến
nhất trong nền kinh tế TBCN. Chính vì vậy, g/c công nhân sẽ là lực lượng quyết định phá vỡ
quan hệ sx TBCN. Lý luận nói trên đã là những điều kiện khách quan cần và đủ để kế thừa
những giá trị ls và khắc phục những hạn chế của CNXh không tưởng để hình thành CNXHKH.
Câu 5: Phân tích những quan điểm cơ bản do Mác và Ăngghen nêu ra thời kì hình
thành của CNXHKH (1844-1848) -
Mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp trong lòng CNTB
Mâu thuẫn giữa g/c vô sản và g/c tư sản này nảy sinh từ mâu thuẫn cơ bản của CNTB.
Chính sự phát triển của các mâu thuẫn trên đây đã khiến cho sự tự phủ định của CNTB là một
quá trình không thể đảo ngược được và sự thay thế CNTB bằng một xh tương lai tốt đẹp hơn
CNTB trở thành một điều tất yếu. Xh tương lai ấy, được C.Mác và Ăngghen gọi là XH cộng
sản chủ nghĩa chứ không gọi là XHCN. -
Vai trò của LLSX trong chủ nghĩa cộng sản
Mác coi LLSX cùng với cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là những yếu tố tổ hợp
thành không thể thiếu được của một hình thái kt-xh nhất định, đồng thời ông cũng coi mqh biện
chứng trong quá trình vận động của các yếu tố đó chính là nội dung những quy luật phát triển
của các hình thái kt-xh trong lịch sử.
LLSX ngày càng được xã hội hóa, sx ngày càng mang tính chất xã hội, trong khi đó trao
đổi và cùng với trao đổi là sự chiếm hữu vẫn mang t/c tư nhân TNCN.
Quy luật về mqh biện chứng giữa LLSX và quan hệ sản xuất, cùng với quy luật về mối
quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, C.Mác và Ăng ghen đã rút ra
kết luận về sự diệt vong tất yếu của thương thức sản xuất TBCN và sự thay thế tất yếu nó bằng
phương thức sx cộng sản chủ nghĩa. -
Những nguyên lý của CNXHKH trong tác phẩm tuyên ngôn của ĐCS
Kđ tính tất yếu của sự sụp đổ của CNTB và thắng lợi của CNCS
Xóa bỏ chế độ tư hữu tư liệu sản xuất
Xđ sứ mệnh ls của g/c công nhân
Kđ vai trò của Đảng Cộng sản
Nêu ra tư tưởng chuyên chính vô sản trong xây dựng chủ nghĩa cộng sản tương lai.
Câu 6: PT những quan điểm của Mác và Ăng ghen nêu ra trong….(1848-1878) -
Luận điểm g/c vô sản phải đập tan bộ máy nhà nước của g/c tư sản và thiết lập bộ máy
nhà nước của g/c vô sản.
Bộ “Tư bản” đã làm sáng tỏ quy luật hình thành, tồn tại, phát triển và diệt vong tất yếu của
CNTB, và sự thay thế CNTB bằng CNXH là một tất yếu khách quan, đồng thời chỉ ra sứ mệnh
lịch sử của g/c công nhân là xóa bỏ TBCN và xây dựng XHCN. -
Luận điểm về lm g/c giữa hai g/c công nhân với g/c nông dân; ý nghĩa, vai trò của lm
công-nông đối với quá trình tiến hành c/m vô sản.
C.Mác và Ăng ghen đã bàn luận và đưa ra kết luận rằng, những cuộc cách mạng sắp tới chỉ
có thể thu được những thắng lợi nếu g/c nông dân ủng hộ những thắng lợi nếu g/c nông dân ủng
hộ những cuộc đấu tranh của g/c vô sản, nếu không thì bài “đơn ca” cách mạng của g/c vô sản
sẽ trở thành bài ca “ai điếu”.
Trong tuyên ngôn của ĐCS, Mác và Ăngghen đã nói đến khả năng và sự cần thiết phải đoàn
kết của g/c vô sản với các tầng lớp trung gian. Mác chỉ rõ lm công-nông dưới sự lãnh đạo của
g/c vô sản là đk quyết định cho thắng lợi của cuộc c/m vô sản.
Sự cần thiết của lm công-nông không chỉ từ phía g/c công nhân, mà còn từ phía g/c nông
dân. Trong g/đ xây dựng CNXH thì lm về kinh tế là lm cơ bản, thường xuyên và lâu dài, là cơ
sở cho lm trên các lĩnh vực khác. lOMoAR cPSD| 47028186 -
Luận điểm về c/m không ngừng; chiến lược sách lược của g/c công nhân về c/m không ngừng
Mác và Ăngghen là những người đầu tiên nêu lên tư tưởng về c/m không ngừng. Mỗi giai
đoạn của c/m g/c công nhân đều phát triển không ngừng, mỗi gđ có những y/c và nhiệm vụ cụ
thể, tạo tiền đề cho gđ phát triển tiếp theo. Tư tưởng đó thể hiện tính g/đ và tính liên tục của sự phát triển cách mạng. -
Bộ Tư bản đánh dấu sự phát triển vượt bậc của CNXHKH.
Mác xuất bản tập I bộ "Tư bản” (1867) đánh dấu sự phát vượt bậc của Chủ nghĩa xã hội
khoa học, bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, phát hiện những quy luật vận động, phát triển
và diệt vong của chủ nghĩa tư bản, khẳng định trên cơ sở khoa học địa vị kinh tế - xã hội và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Tóm lại, bộ "Tư bản " đã làm sáng tỏ quy luật hình thành,
tồn tại, phát triển và diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, và sự thay thế chủ nghĩa tư bản
bằng chủ nghĩa xã hội là một tất nếu khách quan, đồng thời chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Câu 7: Phân tích những quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăng ghen nêu ra trong
thời kỳ chín muồi của Chủ nghĩa xã hội khoa học (1871 - 1895). -
Từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp và Công xã Pa-ri năm 1871, Mác và Ăng ghen
chỉ ra Công xã là hình thức nhà nước của giai cấp vô sản. Trả lời:
Qua thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp và Công xã Pa- năm 1871, C.Mác Coi Công xã là
một hình thức nhà nước của giai cấp vô sản. - Nhiệm vụ của CNXHKH
Tổng kết Công xã Pa-ri, C.Mác đã nêu lên những đặc trưng Cơ bản trong hình thức đầu tiên
của chuyên chính vô sản:
Công xã Pa-ri đã đập tan bộ máy nhà nước tư sản cũ, lập nền chuyên chính của giai cấp vô
sản. Cơ quan cao nhất là Hội đồng Công xã, gồm nhiều ủy ban, đứng đầu mỗi ủy ban là một
Ủy viên Công xã, chịu trách nhiệm trước nhân dân và có thể bị bãi miễn.
Quân đội và bộ máy cảnh sát cũ bị giải tán, thay thế vào là lực lượng vũ trang nhân dân.
Công xã tách nhà thờ khỏi các hoạt động của trường học, nhà nước, nhà trường không dạy Kinh Thánh.
Công xã còn thi hành nhiều chính sách tiến bộ khác: công nhân được làm chủ những xí
nghiệp mà bọn chủ bỏ trốn, kiểm soát tiền lương của các xí nghiệp, giảm bớt lao động đêm,..
Đề ra chủ trương giáo dục bắt buộc và không mất tiền cho toàn dân, cải thiện điều kiện làm việc cho nữ công nhân.
Như vậy, Cơ cấu tổ chức và hoạt động thực tế chứng tỏ Công xã Pa-ri là một nhà nước khác
hẳn các kiểu nhà nước của những giai cấp bóc lột trước đó. Nhà nước Công xã là chính quyền
trực tiếp của giai cấp công nhân; là hình thức nhà nước cho phép giải phóng người lao động về
kinh tế, không còn là công cụ áp bức, đàn áp đa số nhân dân... Đây là một nhà nước kiểu mới -
nhà nước vô sản, do dân và vì dân.
Dự báo khoa học về xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai: Đưa ra những dự kiến khoa học về
xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai. -
Nêu nguyên lý về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội Mác viết:
"Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biển cách mạng
từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà
nước của thời kỳ ấy không thể gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Năm 1875 Mác viết tác phẩm "Phê phán Cương lĩnh Gô-ta Đây là tác phẩm nhằm phê phán
cương lĩnh của Đảng xã hội Dân chủ Đức tại Đại hội hợp nhất hai tổ chức của phong trào Công
nhân, đi ngược lại những nguyên tắc chủ nghĩa Mác, -
Nêu nguyên lý về hai giai đoạn phát triển của xã hội cộng sản chủ nghĩa và sự khác
nhau giữa hai giai đoạn đó.
Trong tác phẩm "Phê phán Cương lĩnh Gô-ta”, C.Mác đã nêu ra quan điểm về hai giai đoạn
phát triển của chủ nghĩa cộng sán:
Từ xã hội tư bản chủ nghĩa chuyển lên xã hội cộng sản chủ nghĩa phải trải qua hai giai đoạn:
giai đoạn đầu (chủ nghĩa xã hội) và giai đoạn hoàn chỉnh (chủ nghĩa cộng sản). lOMoAR cPSD| 47028186
Chủ nghĩa xã hội khoa học dựa vào lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch
sử để rút ra kết luận về sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản là có tính lịch sử. Điều đó có nghĩa là,
hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa chỉ là một trong những giai đoạn phát triển của lịch
sử xã hội loài người.
Câu 8: Phân tích quá trình phát triển của Lenin về những tư tưởng Chủ nghĩa xã hội
khoa học trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới. -
Hoàn cảnh lịch sử mới
+ CNTB phát triển đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Những tác phẩm này hình thành nên Học thuyết của Lênin về chủ nghĩa đế quốc, là một hệ
thống lý luận về quy luật ra đời, bản chất và xu hướng vận động của chủ nghĩa đế quốc. Phát
triển và nổ ra đấu tranh chống CNTB ở Nga.
+ GCCN Nga bắt đầu ống CNTB ở Nga +
Chủ nghĩa Mác đã thâm nhập vào nước Nga
- Thời kỳ trước Cách mạng tháng Mười Nga:
+ Phát triển lý luận về CNXHKH
Hình thành học thuyết: chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của CNTB.
Phát hiện ra quy luật về phát triển không đều dẫn đến kết luận cách mạng vô sản có thể nổ
ra ở một số nước, thậm chí một nước tư bản.
Giai cấp vô sản phải nắm quyền lãnh đạo sau thắng lợi của cách mạng dân chủ tư sản.
Bảo vệ và phát triển lý luận về chuyên chính vô sản
+ Hoạt động thực tiễn: Lãnh đạo CM Nga giành chính quyền, thiết lập chuyên chính vô sản.
Bên cạnh hoạt động lý luận Lênin đã lãnh đạo Đảng của giai cấp công nhân đấu tranh chống
chế độ chuyên chế Nga hoàng, tiến tới giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
- Thời kỳ sau Cách mạng tháng Mười Nga:
Bắt tay vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin đã phân tích, làm rõ nội dung, bản
chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, xác
định Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội về mọi mặt, cụ thể: + Phát triển lý luận về chuyên
chính vô sản trong thời kỳ quá độ
+ Đề xuất những lý luận về xây dựng CNXH
+ Phát triển lý luận về liên minh công - nông
+ Làm rõ nội dung thời kỳ quá độ + Hoạt động thực tiễn: lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH trong hiện thực.
Chuyên chính vô sản là nội dung quan trọng trong di sản lý luận và thực tiễn cách mạng của
V.I.Lênin sau Cách mạng Mười. Đây là vấn đề cơ bản cần giải quyết trong thời kỳ độ lên
CNXH. Sau Cách mạng Tháng Mười, trên cơ sở phân đặc trưng kinh tế, chính trị của thời kỳ
quá độ ở nước Nga, đã nêu rõ quan điểm về tính tất yếu của chuyên chính sản trong thời kỳ quá độ
Câu 9: Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa xã hội khoa học về tính tất yếu của sự thay
thế xã hội Tư bản chủ nghĩa bằng xã hội Cộng sản chủ nghĩa. -
Phân tích hai quy luật khách quan quy định sự biến tất yếu của các hình thái kinh tế-xã
hội trong lịch sử loài người:
Hai quy luật khách quan quy định sự chuyển biến tất yếu của các hình thái kinh tế-xã hội
trong lịch sử loài người: Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX và Quy luật
về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT. sở.
Xuất phát từ quan niệm duy vật về lịch sử , trên cơ nghiên cứu sự phát triển của xã hội loài
người nói chung , của chủ nghĩa tư bản nói riêng , đã trên cơ sở phân tích sự phát triển những
mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản - mâu thuẫn giữa sự sản xuất ngày càng mang tính chất
xã hội, trong khi chiếm hữu lại mang tính chất tự nhận tư bản chủ nghĩa - C.Mác và
Ph.Ăngghen đã phát hiện ra xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài người là xã hội tư bản chủ
nghĩa tất yếu sẽ bị thay thế bởi một xã hội mới mà C.Mác và Ph.Ăngghen gọi là xã hội cộng sản chủ nghĩa . lOMoAR cPSD| 47028186 -
Phân tích mâu thuẫn cơ bản của xã hội Tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt, tất yếu
dẫn đến sự thay thế xã hội Tư bản chủ nghĩa bằng xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Mâu thuẫn cơ
bản của xã hội Tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt, tất yếu dẫn đến xóa bỏ QHSX cũ hình
thành quan hệ QHSX mới, là cơ sở kinh tế cho một chế độ xã hội mới xã hội CSCN tiến bộ
hơn, tốt đẹp hơn chế độ Tư bản chủ nghĩa.
Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản này nảy sinh từ mâu thuẫn cơ bản của CNTB.
Chính sự phát triển của các mâu thuẫn trên đây đã khiến cho sự tự phủ định của CNTB là
một quá trình không thể đảo ngược được và sự thay thế CNTB bằng một xã hội tương lai tốt
đẹp ơn CNTB trở thành một điều tất yếu. -
Quan điểm này đã khắc phục hạn chế của chủ nghĩa xã hội không tưởng là không chỉ
ra được tính tất yếu của sự thay thế xóa bỏ chủ nghĩa tư bản bằng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Vì vậy, trước Phê phán Cương lĩnh Gota , những gì C. Mác và Ph. Ăngghen nói về xã hội
tương lai đều là những điều nói về cả giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa ( mà chứ
không phân biệt một cách rạch ròi điểm nào nói về chủ nghĩa xã hội, điểm nào nói về chủ nghĩa
cộng sản theo cách hiểu về các khái niệm này được hình thành từ sau Phê phán cương lĩnh Goto. -
Phân tích kết luận về sự phát triển của các HT KT-XH là quá trình lịch sử tự nhiên
C. Mác coi lực lượng sản xuất cùng với cơ sở hạ tầng (những quan hệ sản xuất cấu thành cơ
sở kinh tế của một xã hội nhất định) và kiến trúc thượng tầng là những yếu tố hợp thành không
thể thiếu được của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, đồng thời ông cũng coi mối quan
hệ biện chứng trong quá trình vận động của các yếu tố đó chính là nội dung những quy luật
phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.
Mác đã rút ra kết luận "có sự phát triển của những hình thải kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên ".
Câu 10: Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa xã hội khoa học về giải pháp xóa bỏ chế
độ tư bản chủ nghĩa bằng cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Định nghĩa Cách mạng xã hội chủ nghĩa: Theo nghĩa rộng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là
cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ cũ, nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa, bằng chế độ xã hội
chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là người lãnh đạo và cùng với quần
chúng nhân dân lao động khác xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn nổ ra, giai cấp vô sản phải nhận thức được sử mệnh lịch
sử của mình, thực hiện việc tuyên truyền vận động nhân dân lật đổ chính quyền nhà nước của
giai cấp tư sản để giành lấy chính quyền, giành lấy dân chů.
Những cuộc đấu tranh của công nhân chống lại giai cấp tư sản đã nổ ra ngay từ khi chủ nghĩa
tư bản ra đời. Quy mô những cuộc đấu tranh của công nhân chống lại giai cấp tư sản ngày càng
mở rộng và chuyển đồn từ những cuộc đấu tranhh tự phát lên trình độ đấu tranh tự giác.
Chỉ khi nào giai cấp công nhân nhận thức được rằng, chỉ có xoá bỏ chế độ nô lệ làm thuê,
giải phóng giai cấp minh và giải phóng toàn xã hội bằng một cuộc cách mạng thắng lợi triệt để,
họ mới được giải phóng thật sự.
Giai cấp công nhân phải nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, của việc thực hiện việc
xoá bỏ trật tự của chế độ tự bản chủ nghĩa, thiết lập nên chế độ xã hội chủ nghĩa. phải nhận thức
được "việc giải phóng giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân"
Câu 11: Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa xã hội khoa học về vai trò tiên phong và
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. -
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng
định, giai cấp công nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, có khả năng
tổ chức và lãnh đạo tiến hành cuộc cải biến cách mạng từ hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ
nghĩa lên hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải phóng nhân loại khỏi áp bức bất
công và mọi hình thức bóc lột.
Từ đó có thể nói, sứ mệnh lịch sử của giai cấp xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, giải phóng
công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi chế độ người bóc lột, áp bức người; lOMoAR cPSD| 47028186
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa một chế độ xã hội tiến bộ, văn minh hơn chế độ tư bản chủ nghĩa. -
Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân :
Luận thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được C.Mác và Ph.Ấngghen trình
bày trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”cũng như trong bộ "Tư bản". Trong các tác phẩm
này hai ông đã chi rõ các điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
+ Thứ nhất, do địa vị kinh tế - xã hội khách quan: Giai cấp công nhân là con đẻ, là sản phẩm
của nền đại công nghiệp trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là giai cấp gắn với, đại
diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất. Và do đó, nó là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến
bộ của lịch sử, là lực lượng duy nhất có khả năng lãnh đạo toàn xã hội xây dựng một phương
thức sản xuất mới Cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
+ Thứ hai, do địa vị chính trị-xã hội: Giai cấp công nhân, Con đẻ của nền sản xuất công
nghiệp hiện đại, được rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến bộ, đoàn kết và tổ chức lại
thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai
cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về bản chất gọi là giai cấp cách mạng triệt để
nhất, có khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp và thi đấu trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ
áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. -
Khả năng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Đại diện cho LLSX tiên
tiến nhất; là giai cấp cách mạng triệt để nhất; có khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp và đi
đầu trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Câu 12: Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa xã hội khoa học dự báo về giai đoạn đầu
của Chủ nghĩa Cộng sản. -
Cơ sở khoa học và tính chất của dự báo + Cơ sở khoa học :
Mác và Ăngghen đã vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
phương pháp biện chứng duy vật để phân tích sự chuyển biến tất yếu từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội. -
Theo C.Mác, từ xã hội tư bản chủ ghĩa chuyển lên xã hội cộng sản chủ nghĩa phải trải
qua hai giai đoạn: giai đoạn đầu (chủ nghĩa xã hội) và giai đoạn hoàn chỉnh (chủ nghĩa cộng sản)
Những đặc trưng của giai đoạn đầu chủ nghĩa xã hội: Giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản: chủ nghĩa xã hội. + Về kinh tế :
Sau khi chế độ tư bản chủ nghĩa bị lật đổ, ở giai đoạn đầu có chủ nghĩa cộng sản (giai đoạn
xã hội chủ nghĩa) chế độ tư vẫn còn tồn tại.
Tư liệu sản xuất thuộc về toàn xã hội nhưng vẫn còn hữu; công bằng nhưng chưa bình đẳng,
phân phối theo lao tồn tại nền sản xuất hàng hóa... động, còn Việc phân phối được thực hiện
theo nguyên tắc trao đổi ngang giá: một số lượng lao động dưới một hình thức này được đổi
lấy cùng một số lượng lao động dưới một hình thức khác, vẫn còn tồn tại.
+ Về chính trị: Trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa nhà nước vẫn tồn tại,
nhưng không phải nhà nước theo nghĩa cũ nữa mà là nhà nước "nửa nhà nước”, nhà nước đang
trên đường đi đến chỗ tiêu vong.
Với những đặc tính chức năng như trên, nhà nước vô sản trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa
cộng sản là một kiểu nhà nước đặc biệt, nhà nước không còn nguyên nghĩa”, là nhà nước "nửa nhà nước”.
Sau khi những cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của nhà nước ( chế độ tư hữu, sự phân
chia giai cấp....) mất đi thì nhà nước sẽ tự tiêu vong.
Câu 13: Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa xã hội khoa học dự báo về giai đoạn thứ
hai (giai đoạn hoàn chỉnh) của Chủ nghĩa Cộng sản. - Cơ sở khoa học và tính chất của dự báo + Cơ sở khoa học : lOMoAR cPSD| 47028186
Mác và Ăngghen đã vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
phương pháp biện chứng duy vật để phân tích sự chuyển biến tất yếu từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội.
Mác và Ăng-ghen cho rằng, chủ nghĩa cộng sản là kết quả tất yếu của quá trình vận động và
phát triển lịch sử xã hội loài người.
Mác và Ăngghen đã xuất phát từ hiện thực, phân tích hiện thực xã hội tư bản chủ nghĩa chỉ
ra xu hướng phát triển tất yếu, chỉ ra khả năng có thể xảy ra trong tương lai. Mặt khác, Mác và
Ăngghen cũng đã kế thừa những kết quả nghiên cứu về lịch sử phát triển xã hội loài người +
Tính chất của dự báo :
Tính khoa học: Như trên đã chỉ ra, những dự báo về xã hội cộng sản tương lai là những kết
luận dựa trên những học thuyết khoa học và dựa trên những điều kiện hiện thực của xã hội tư
bản chủ nghĩa đương thời.
Tính cách mạng: Tính tất yếu của sự ra đời chế độ xã hội công sản chủ nghĩa thay thế cho
chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã rút ra kết luận có tính khoa học sâu sắc và cách mạng
triệt để về tinh nhất thời lịch sử của chủ nghĩa tư bản.
Tính khả năng : Các quan điểm dự báo về xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lại chỉ là sự
"ngoại suy " từ các kết quả nghiên cứu xã hội tư bản chủ nghĩa đương thời, chứ không phải là
kết quả nghiên cứu chính xã hội cộng sản chủ nghĩa đã có thực
- Dự bảo về giai đoạn phát triển của xã hội Cộng sản chủ nghĩa
Trong phạm vi trả lời câu hỏi này, e xin trình bày quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học
dự báo về giai đoạn hai giai đoạn chủ nghĩa cộng sản hoàn chỉnh) của chủ nghĩa cộng sản. Giai
đoạn này có những đặc trưng sau:
+ Đặc trưng thứ nhất: Lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ cao. Năng suất lao động
của nền sản xuất động sản chủ nghĩa cao hơn hẳn năng suất lao động của nền sản xuất tự bản chủ nghĩa.
+ Đặc trưng thứ hai: Chế độ sở hữu xã hội (công hữu) về tư liệu sản xuất được xác lập, không
còn phân chia giai cấp, Chế độ người bóc lột người bị xóa bỏ.
+ Đặc trưng thứ ba: Nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn xã hội.
+ Đặc trưng thứ tư: Trong xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai không còn tồn tại nền sản
xuất hàng hóa, không còn tồn tại tiền tệ.
+ Đặc trưng thứ năm: Nền sản xuất đã có thể thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội.
Giai đoạn hoàn chỉnh xã hội cộng sản chủ nghĩa, đó là bước nhảy của nhân loại từ vương
quốc của tất yếu sang vương quốc tự do”.
Câu 14: Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa xã hội khoa học về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
* Khái niệm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. - Theo định nghĩa :
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện,
từ xã hội cũ sang xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó diễn ra từ khi cách mạng vô sản
thắng lợi, giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào việc xây dựng xã hội mới và kết
thúc khi xây dựng thành công các cơ sở của xã hội chủ nghĩa và vật chất, kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. - Theo thực tế :
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ lịch sử tất yếu mà bất cử quốc gia nào lên chủ
nghĩa xã hội cũng đều phải trải Qua, kể cả những nước đã có nền kinh tế rất phát triển.
- Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Theo V.I.Lênin, tỉnh tất yếu khách quan phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do
đặc điểm ra đời, phát triển của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy định.
* Có hai kiểu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: quá trực tiếp và quá độ gián tiếp.
- Thời kỳ quá độ trực tiếp. lOMoAR cPSD| 47028186
Đối với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ trực tiếp
chi xuất hiện ở những nước tư bản chủ nghĩa đã đạt trình độ phát triển cao hết mức trong khuôn
khổ hình thái kinh tế - xã hội của nó. Trong thực tiễn, cho đến nay, thời kỳ quá độ trực tiếp lên
chủ nghĩa xã hội từ xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển tột bậc chưa từng diễn ra.
Mác và Ănghen cũng dự báo, sự quá độ trực tiếp từ chủ tư bản đã phát triển cao lên chủ
nghĩa cộng sản được tiến hành qua hai bước:
+ Bước 1: giai cấp công nhân lãnh đạo và tiến hành cuộc mạng xã hội giành lấy chính quyền
từ tay giai cấp tư sản.
+ Bước 2: giai cấp công nhân sử dụng bộ máy chính quyền nhà nước (duyên dính vô sản)
làm hai nhiệm vụ: Trấn áp bằng bạo lực sự phản kháng của giai cấp tư sản, và đồng thời thực
hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản, có năng suất lao động
cao hơn hẳn chủ nghĩa tư bản.
- Thời kỳ quá độ gián tiếp Thời kỳ quá độ gián tiếp: diễn ra ở những nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội từ trình độ kinh tế - xã hội phát triển thấp: trình độ kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa phát
triển trung bình, tiên tư bản, thậm chí từ những nước trình độ kinh tế - xã hội nông nghiệp lạc
hậu (thực dân nửa phong kiến như ở Việt Nam). C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu ra những điều
kiện cho việc thực hiện thời kỳ quá độ gián tiếp như sau:
+ Cách mạng ở các nước tiền tư bản chủ nghĩa và mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển bổ sung , hỗ trợ cho nhau:
+ Cách mạng vô sản thắng lợi ở các nước tư nghĩa phát triển (đã xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội) nêu gương cho giai cấp vô sản ở các nước tiền tư bản học tập cách tiến hành cách mạng.
• Giai cấp vô sản ở các nước tiền tư bản phải nhận được sự giúp đỡ tích cực về mọi mặt của
giai cấp vô sản ở các nước đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
+ Với điều kiện như trên, giai cấp vô sản các nước tiên tư bản tuy vẫn phải trải qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, nhưng có thể rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 15: Phân tích quan điểm của CNXHKH về liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Những nhận định của Mác, Ăngghen, Lênin về giai cấp
- Những nhận định của Mác, Ăngghen, Lênin về giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức:
+ Về giai cấp công nhân :
Giai cấp công nhân là con đẻ, là sản phẩm của nền đại Công nghiệp trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, là giai cấp gắn với, đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất. Và do
đó, nó là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư
sản, và xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất, có khả năng đoàn kết thống nhất
giai cấp và đi đầu trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa.
+ Về giai cấp nông dân :
Là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp... trực tiếp sử dụng (canh tác) một tư liệu sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên
là đất, rừng, biển để sản xuất ra nông sản, lương thực, thực phẩm...
Giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng riêng, mà tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị xã hội.
+ Về tầng lớp trí thức.
Chủ nghĩa Mác-Lênin quan niệm trí thức là một "tầng lớp xã hội đặc biệt”. Tầng lớp trí
thức gồm những người lao động tri óc phức tạp và sáng tạo, có trình độ học vấn đủ để am hiểu
và hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực lao động của mình. Người trí thức có phương thức lao
động đặc thù, chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân. Do vậy, họ phải thường xuyên thể hiện và
nâng cao khả năng tư duy khoa học độc lập.
Tính tất yếu của việc xây dựng liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: lOMoAR cPSD| 47028186
+ Xét dưới góc độ chính trị :
Xét dưới góc độ chính trị, trong một chế độ xã hội nhất định, chính cuộc đấu tranh giai cấp
giữa các giai cấp có lợi ích đối lập nhau đặt ra nhu cầu tất yếu khách quan là mỗi giai cấp đứng
ở vị trí trung tâm đều phải tìm cách liên minh với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác có những
lợi ích phù hợp với mình để tập hợp lực lượng thực hiện những nhu cầu và lợi ích chung - đó
là quy luật mang tính phổ biến và là động lực lớn cho sự phát triển của các xã hội có phân chia giai cấp.
+ Xét dưới góc độ kinh tế.
Xét từ góc độ kinh tế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với tất yếu chính trịxã
hội (như đã nêu ở trên), tính tất yếu kinh tế của liên minh lại nổi lên với tư cách là nhân tố quyết
định nhất cho sự thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hôi.
Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động
khác, trong đó trước hết là với tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chính
là sự liên kết, hợp tác, hỗ trợ nhau ... giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm thực hiện nhu cầu
và lợi ích của các chủ thể trong khối liên minh, đồng thời tạo động lực thực hiện thắng lợi mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Câu 16: Phân tích sự giống nhau và khác nhau giữa Chủ nghĩa xã hội không tưởng và CNXHKH.
Sự giống nhau giữa chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học:
Giống nhau ở mục tiêu, Cùng có mục tiêu là phủ nhận, muốn xóa bỏ chế độ TBCN và xây
dựng một chế độ xã hội mới, chế độ XHCN tiến bộ hơn.
Sự khác nhau giữa Chủ nghĩa xã hội không tưởng và Chủ nghĩa xã hội khoa học:
+ Khác nhau trong nhận thức về bản chất của chú nghĩa tư bản, về nguồn gốc, nguyên nhân
của tình trạng bất công, người áp bức, bóc lột người.
CNXH không tưởng, mặc dù phê phán Chế độ TBCN rất gay gắt, vạch trần những bất công,
tình trạng người áp bức bóc lột người nhưng không chỉ ra được bản chất của CNTB, nguyên
nhân cơ bản của những bất công, tình trạng người áp bức bóc lột người.
Trong khi đó, CNXH khoa học nhờ có học thuyết giá trị thặng dư đã chỉ ra được nguồn gốc,
nguyên nhân của những bất công, tình trạng người áp bức bóc lột người của chế độ TBCN.
CNTB sống được là nhờ bóc lột giá trị thặng dư do giai cấp công nhân tạo ra trong quá trình
làm thuê cho giai cấp tư sản.
+ Khác nhau trong nhận thức về giải pháp và tính tất yếu của giải pháp xóa bỏ chế độ tư bản
chủ nghĩa. CNXH không tưởng mặc dù có mục tiêu là xóa bỏ chế độ TBCN nhưng không chỉ
ra tính tất yếu, không chỉ ra đúng đắn Con đường biện pháp để xóa bỏ chế độ đó.
Trong khi đó, dựa vào những quan điểm khoa học của Chủ nghĩa duy vật lịch sử (nguyên lý
về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; nguyên lý về mối quan
hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; học thuyết Hình thái kinh tếxã hội
), CNXH khoa học đã khẳng định tính tất yếu của việc xóa bỏ chế độ TBCN, nhận định biện
pháp tiến hành cách mạng để xóa bỏ chế độ đó.
+ Khác nhau trong nhận thức về lực lượng xã hội thực hiện xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa
và xây dựng chế độ mới xã hội chủ nghĩa.
CNXH không tưởng do hạn chế về thế giới quan duy tâm, do hạn chế có tính lịch sử về
những điều kiện kinh tế-xã hội khách quan nên đã không chỉ ra đúng đắn lực lượng xã hội tiến
hành công cuộc xóa bỏ chế độ TBCN và lực lượng xã hội tiến hành công cuộc xây dựng chế độ xã hội XHCN.
Trong khi đó, dựa vào những quan điểm khoa học của Chủ nghĩa duy vật lịch sử, CNXH
khoa học đã chỉ ra đúng đắn tiến hành công cuộc xóa bỏ chế độ TBCN và tiến hành công cuộc
xây dựng chế độ xã hội XHCN là sứ mệnh lịch sử của giai cấp Vô sản.
Câu 17: Phân tích quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết giai đoạn
thực hiện chính sách Cộng sản thời chiến (1918 - 1921).
- Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến chính sách Cộng sản thời chiến lOMoAR cPSD| 47028186
Nước Nga trước Cách mạng tháng 10 là một nước lạc hậu về kinh tế, tiểu nông chiếm ưu
thế, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển (tiền tư bản), lại bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng nên
giải quyết vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội rất phức tạp và khó khăn.
Sau Cách mạng Tháng Mười: Những quan điểm của Lênin ong giai đoạn này (1917-1918)
thể hiện đường lối quả độ tiếp. Tuy nhiên, kế hoạch "quá độ gián tiếp” lên CNXH nêu trên đã
bị đình lại vì bùng nổ cuộc nội chiến và sự can thiệp vũ trang quy mô lớn của các thế lực tư bản
nước ngoài. Những chính sách, biện pháp của kế hoạch " quá độ gián tiếp" bà đã nhanh chóng
được thay thế bằng được chính sách cộng sản thời chiến (quá độ trực tiếp) gay gắt hơn.
- Nguyên nhân quan của việc thực hiện chính sách Cộng sản thời chiến. + Nguyên nhân khách quan
Mùa hè năm 1918, cuộc chiến tranh quy mô lớn bùng nổ, nước Cộng hòa Xô viết nhiều lần
lâm vào tình trạng vô cùng nguy cấp. Ba phần tự lãnh thổ của nước Cộng hòa Xô viết, những
vùng sản xuất lương thực và sản xuất nguyên liệu quan trọng bị để quốc và bọn phân lọan chiếm
đóng nên việc cung cấp lương thực cực kỳ khó khăn.
Đất nước lâm vào cảnh đổi kém. Để quốc và bọn phản động trong nước không những âm
mưu dùng vũ lực để lật đổ Chính quyền Xô viết, mà chúng còn muốn dùng "bàn tay gầy Cuộc
của quỷ đói” bóp chết chính quyền non trẻ này. vấn đề lương thực trở thành thách thức sống
còn của chính quyền Xô viết.
Trong tình hình đó, Lênin buộc phải dùng mọi biện pháp để trưng thu lương thực và nguyên,
nhiên liệu công nghiệp, nhằm cứu Cách mạng, cứu Chính quyền Xô viết. + Nguyên nhân chủ quan
Một nguyên nhân quan trọng nữa của việc thi hành chính sách cộng sản thời chiến không
phải chỉ vì hoàn cảnh chiến tranh, mà còn tư tưởng chỉ đạo chủ quan của Leenin và những người
lãnh đạo Bôn-sê-vích lúc đó là tư tưởng muốn thực hiện “quá độ trực tiếp".
Lenin nhấn mạnh nhiệm vụ tổ chức to lớn là phải " biến” toàn bộ cơ cấu kinh tế của đất nước
thành " một cỗ máy khổng lồ hoàn chỉnh”, "thành một chỉnh thể kinh tế khiến hàng triệu người
phải làm việc tuân thủ theo một kế hoạch.
- Nội dung chính sách Cộng sản thời chiến :
Thứ nhất: Thực hiện chế độ trung thu lương thực thừa, cản cử vào nhu cầu của nhà nước,
quy định cứng nhắc số lượng, giao cho Cơ sở trong thu bắt buộc theo giá quy định.
Thứ hai: Cãm tư nhân buôn bán, xóa bỏ mạng lưới thương nghiệp tư nhân, mạng lưới thương
nghiệp quốc doanh và hợp tác xã sẽ tổ chức việc cung cấp theo kế hoạch cho nhân dân; việc
thu mua và phân phối mọi sản phẩm công, nông nghiệp đều do Bộ Dân ủy lương thực giải quyết.
Thứ ba: Thực hiện nền kinh tế hiện vật, phân phối theo tem nhiều sản phẩm công, nông
nghiệp cho nhân dân, thực hiện nguyên tắc "ai không làm thì không được ăn”, thực hiện rộng
rãi chế độ lao động nghĩa vụ, chỉ người lao động nào hoàn thành nghĩa vụ mới được phân phối thực phẩm.
Thứ tư: Về công nghiệp, tiến hành nhanh việc quỹ hữu hóa và thực hiện chế độ quản lý công
nghiệp tập trung. Tháng 6 năm 1918, các xí nghiệp công nghiệp lớn đã thực hiện quốc hữu hóa.
Đầu năm 1920, về cơ bản đã đưa các xí nghiệp loại vừa vào sở hữu nhà nước. Đánh giá mặt
tích cực và tiêu cực của chính sách cộng sản thời chiến. + Mặt tích cực :
Chính sách công sản thời chiến lúc đó là cần thiết, buộc phải áp dụng trong thời chiến, nó
bảo đảm cho thắng lợi của chiến tranh, giữ vững chính quyền Xô viết công nông. + Mặt tiêu cực :
Sựa trao đổi trực tiếp giữa thành thị và nông thôn được "hiện vật hỏa”. Nền kinh tế hiện vật
đã làm cho vai trò của tài chính, ngân hàng, tiền tệ bị suy yếu nghiêm trọng, tiền tệ đã mất hết ý nghĩa kinh tế.
Về mặt cải tạo kinh tế cũ trong đó sản xuất nhỏ chiếm ưu thế, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì
chính sách đó đã thoát ly đặc điểm tình hình nước Nga, một quốc gia ở trình độ phát triển tiền
tư bản, vì vậy nó lại là một sai lầm nghiêm trọng.
Câu 18: Phân tích quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Nga Xô viết giai
đoạn thực hiện chính sách Kinh tế mới (1921 - 1924). lOMoAR cPSD| 47028186
- Hoàn cảnh lịch sử của sự ra đời chính sách Kinh tế mới (NEP).
Hoàn cảnh lịch sử của sự ra đời chính sách kinh tế mới Từ Đại hội X Đảng Cộng sản Nga
tháng 3 năm 1921, nước Nga Xô viết đã chuyển từ chính sách cộng sản thời chiến sang chính sách kinh tế mới.
Nguyên nhân của sự chuyển biến từ chính sách Cộng sản thời chiến sang chính sách Kinh tế mới.
+ Thứ nhất, nông dân không chịu đựng nổi gánh nặng của chế độ trung thu lương thực thừa
kiều cộng sản thời chiến.
Cuối năm 1920, chiến tranh kết thúc, nông dân không thể tiếp tục chịu đựng chế độ tập trung
lương thực thừa, họ đã liên tiếp gửi thư, gặp gỡ các cấp chính quyền Xô viết, gửi trực tiếp cho
cả Lênin nữa, bày tỏ sự bất mãn, phản đối chế độ tập trung lương thực thừa.
+Thứ hai, hy vọng của Lênin dùng biện pháp canh tác chung (tức công xã nông nghiệp, hợp
tác xã cày cấy chung và các tổ hợp lao động, gọi chung là nông trạng tập thể) để quá độ lên một
"nền nông nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa” đã không thực hiện được.
Quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới (chia thành hai giai đoạn):
+ Giai đoạn thứ nhất từ tháng 3 đến tháng 10 năm 1921.
Ở giai đoạn này, trong báo cáo tại Đại hội X Đảng Cộng sản Nga và trong tác phẩm "Bàn về
thuế lương thực”, Lênin đã luận chứng một cách đầy đủ về những căn cứ và tính tất yếu phải
thực hiện chính sách kinh tế mới.
+ Giai đoạn thứ hai từ tháng 10 năm 1921 đến lúc Lênin mất (1924). - Về mặt tư tưởng :
Trong một loạt tác phẩm, báo cáo và diễn văn, Lênin đã luận chứng đầy đủ về vấn đề rút lui
trong thương nghiệp, rút ra một loạt kết luận mới, phát triển mạnh mẽ về mặt tư tưởng thể hiện
nổi bật trên các mặt sau: Nhấn mạnh cần phải kết hợp việc xây dựng đại công nghiệp xã hội
chủ nghĩa với kinh tế tiểu nông. Phải làm sống động kinh tế tiểu nông và tiểu công nghiệp, cho
nông dân tự do bán lương thực thừa. + Về mặt sức mạnh
Bước vào giai đoạn nhỏ thứ hai, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, cùng với nhận
thức mới về sức mạnh của kinh tế tiểu nông, Lênin đã đề ra và nhiều lần nhấn mạnh: Thứ nhất,
cần phải kết hợp việc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với kinh tế tiểu nông.
Thứ hai, tìm được hình thức thông qua thương nghiệp để kết hợp công nghiệp lớn xã hội chủ
nghĩa với kinh tế tiểu nông. Thứ ba, thay đổi về căn bản cách nhìn nhận đổi với tiểu nông. Thứ
tư, tổng kết có tính phê phán đối với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. -
Đánh giá quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới Khi đánh giá chính sách cộng sản
thời chiến, Lênin phân biệt hai mặt: về chính trị, nó đã đánh thắng kẻ thù trong và ngoài nước,
giữ vững chính quyền, vì vậy nó "cổ công”, nhưng về mặt kinh tế, trong việc cải tạo nền kinh
tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới, chính sách đó đã bị thất bại nặng nề, là một sai lầm nghiêm
trọng, vì nó "không kết hợp với kinh tế nông dân ở một mức độ nào đó nó thoát ly quần chúng
nông dân”, do đó không thúc đẩy việc nâng cao sức sản xuất, cản trở việc nâng cao sức sản xuất.
Vì vậy, thực hiện chính sách kinh tế mới không phải chỉ là để phù hợp với hoàn cảnh chiến
tranh đã kết thúc mà chủ yếu là để sửa chữa căn bản những sai lầm trong chính sách và cách
làm trước đây (chính sách cộng sản thời chiến) đã thoát ly tinh hình thực tế đất nước. Công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải phù hợp với một nước tiểu nâng, kết hợp xây dựng công
nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa với kinh tế tiểu nông. Có nghĩa là phải thực hiện "quả độ gián tiếp".
Câu 19: Trình bày luận điểm của VI, Lênin: "Thông qua hình thức hợp tác xã đưa
nông dân vào con đường xã hội chủ nghĩa”.
Một trong những lý luận của Leenin đó là: "Thông qua hình thức hợp tác xã đưa nông dân
vào con đường xã hội chủ nghĩa” - Lê nin đã đề ra một cách toàn diện tương lĩnh thực hiện hợp
tác hỏa: Trong tác phẩm "Bàn về chế độ hợp tác sản xuất Lênin đã đề ra một cách toàn diện
cương lĩnh thực hiện hợp tác hỏa: chứng minh tính chất và vai trò của hợp tác xã, chính sách,
biện pháp hợp tác hóa, đề xuất những điều kiện nhằm thực hiện hợp tác hóa.... lOMoAR cPSD| 47028186 -
Phương pháp quá độ trực tiếp: Trước khi có chính sách kinh tế mới là phương pháp
tách rời tình hình thực tế của nước Nga tiền tư bản, không tìm ra được con đường đúng đắn xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông. -
Tư tưởng và kế hoạch về hợp tác hóa của Lênin là kết quả chín muồi nhất của chính
sách kinh tế mới. Khi thực hiện chính sách kinh tế mới Lênin đã tìm ra được con đường đúng
đắn là thông qua thương nghiệp để thích ứng và giúp cho lực lượng sản xuất tiểu nông phát
triển; xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua các hợp tác xã, để hướng dẫn tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội. -
Lênin đã nêu lên nhiều biện pháp thực hiện hợp tác hóa :
Thứ nhất, cần phải giúp đỡ các hợp tác xã về mặt tài chính. Lênin nhấn mạnh, sự quan tâm
giúp đỡ họp tác xã phải là sự giúp đỡ thuần túy vật chất. Nhà nước cần phải cấp vốn cho các
hợp tác xã vay nhiều hơn cho các xí nghiệp tư nhân vay, thậm chí ngang với vốn cấp cho công nghiệp nặng.
Thứ hai, cần phải động viên quần chúng nông dân tham gia thực sự tự giác vào phong trào
hợp tác hóa; cần tìm ra một phương thức khen thưởng giúp đỡ một cách đầy đủ các hợp tác xã,
đồng thời cần phải thường xuyên kiểm tra tình hình tham gia của nông dân,
Thứ ba, cần phải tiến hành công tác văn hóa đối với nông dân. Điều kiện để thực hiện thành
công hợp tác hóa là cần phải nâng cao trình độ văn hóa cho nông dân.
Cấu 20: Trình bày luận điểm của VI Lênin: "Phát triển đại công nghiệp, thực hiện công
nghiệp hóa và điện khi hóa trên cơ sở phát triển kinh tế tiểu nông”.
Quan điểm của lê nin về cách thức khôi phục và phát triển công nghiệp, thực hiện điện khí
hóa mà không tính đến nhu cầu của nông dân, không chú ý đến nền kinh tế tiểu nông:
Ngay từ mùa xuân năm 1918, trong tác phẩm "Sơ thảo kế hoạch công tác khoa học - kỹ thuật
", khi nói về nhiệm vụ xây dựng cơ sở kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, Lênin đã
nhấn mạnh: "Đặc biệt chú ý vấn đề điện khí hóa công nghiệp và giao thông vận tải và sử dụng
điện vào nông nghiệp”.
Suy nghĩ tổng thể của Lênin về kế hoạch quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: trước hết, khôi phục
và phát triển đại công nghiệp, đặt nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội, đưa chủ nghĩa tư bản,
đặc biệt là sản xuất hàng hóa nhỏ vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản nhà nước, hạn chế và từng
bước xóa bỏ thương nghiệp tư nhân, trên cơ sở phát triển công nghiệp, xây dựng một hệ thống
trao đổi sản phẩm trực tiếp giữa công, nông nghiệp với Sự khống chế của nhà nước; đồng thời
hướng dẫn những người tiểu nông thực hiện chế độ canh tác chung (tức công xã nông nghiệp,
các tập đoàn canh tác chung và tổ hợp lao động thường gọi là nông trạng tập thể); và cuối cùng
thực hiện ý tưởng xây dựng toàn bộ nền kinh tế quốc dân thành một "đại công xưởng do nhà
nước lãnh đạo thống nhất thực hiện theo một kế hoạch thống nhất,
Vì vậy nhìn tổng thể, quy hoạch đó là quy hoạch "quả độ trực tiếp”, Điều này có nghĩa là nó
không thông qua con đường làm sống động nền kinh tế tiểu nông, không dựa trên cơ sở nền
kinh tế tiểu nồng để phát triển đại công nghiệp, mà là đối lập giữa khôi phục và phát triển đội
công nghiệp xã hội chủ nghĩa với nền kinh tẻ tiểu nông, đồng thời với việc trước hết năm đại.
- Căn cứ vào tình hình thực tế của đất nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười đó là nông dân
và kinh tế tiểu nông chiếm ưu thế, chính sách kinh tế mới đã thay đổi căn bản phương pháp và
con đường khôi phục và phát triển công nghiệp, thực hiện điện khí hóa. Con đường, biện pháp đúng đắn đó là:
Căn cứ vào tình hình thực tế của đất nước Nga, Lênin chỉ rõ, trong điều kiện còn tồn tại một
số lớn tiểu nông, khi nhà nước chưa có đầy đủ hàng công nghiệp để đổi lấy nông sản phẩm của
nông dân, nếu tiếp tục thực hiện chính sách cộng sản thời chiến sẽ là ngu xuẩn và là tự sát.
Cần phải thay đổi chính sách cộng sản thời chiến, thực hiện chính sách kinh tế mới, mà đặc
trưng chủ yếu là thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực, đánh dấu bước
chuyên của Chính quyền Xô viết từ chính sách cộng sản thời chiển sang chính sách kinh tế mới. lOMoAR cPSD| 47028186
Lênin chi ra, cơ sở duy nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội và đại công nghiệp, đối với một
nước tiểu nông như nước Nga càng phải làm như vậy. Nhưng trước kia, đặc biệt là vào cuối
năm 1920 đầu năm 1921, đường lối khôi phục kinh tế bắt đầu từ đại công nghiệp là không thể
thực hiện được, đã thất bại, vì thiểu hụt nghiêm trọng về lương thực, đánh dấu bước chuyên
của Chính quyền Xô viết từ chính sách cộng sản thời chiển sang chính sách kinh tế mới.
Lênin chi ra, cơ sở duy nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội và đại công nghiệp, đối với một
nước tiểu nông như nước Nga càng phải làm như vậy. Nhưng trước kia, đặc biệt là vào cuối
năm 1920 đầu năm 1921, đường lối khôi phục kinh tế bắt đầu từ đại công nghiệp là không thể
thực hiện được, đã thất bại, vì thiểu hụt nghiêm trọng về lương thực, nguyên liệu và nhiên liệu.
Do đó cần đặt xuống hàng thứ yểu vấn đề khôi phục và phát triển đại công nghiệp mà phải bắt
đầu từ nông nghiệp, tiêu công nghiệp để khôi phục và phát triển đại công nghiệp.
Câu 21: Trình bày luận điểm của V., Lênin: "Học tập và sử dụng những gì có giá trị
của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội”. -
Phân tích quan điểm của Lênin về tính hai mặt của nền văn minh tự sản.
Trong tác phẩm " về bệnh ấu trĩ "tá khuynh” và tỉnh tiểu tư sản”, Lênin đưa ra nhận định,
văn minh tư bản chủ nghĩa có tính hai mặt: nếu so sánh với xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai
thì chủ nghĩa tư bản là lạc hậu, lỗi thời, nhưng nếu so sánh với tình trạng lạc hậu, trì trệ, quan
liêu của những xã hội tiền tư bản (như nước Nga lúc đó) thì chủ nghĩa tư bản lại là tiến bộ, cách
mạng. Do đó, nước Nga cần phải khéo lợi dụng những thành tựu văn minh của chủ nghĩa tư
bản để khắc phục tình trạng lạc hậu, trì trệ, quan liêu của chế độ trung cổ tiền tư bản; đồng thời
cũng phải đứng ở tầm cao của văn minh xã hội chủ nghĩa tương lại để phân tích tính hạn chế
lịch sử và tính hạn chế giai cấp của văn minh tư bản chủ nghĩa. -
Phân tích những quan điểm của Lênin về vấn đề học tập và sử dụng những gì có giá trị
của chủ nghĩa tư bản Cần nghiên cứu và học tập những kinh nghiệm quản lý hành chính của
các nước tư bản chủ nghĩa phát triển ở phương Tây, đặc biệt là phải tận dụng những thành tựu
văn hóa của chủ nghĩa tư bản đề khác phục sự ngu muội, lạc hậu, chủ nghĩa quan liêu do chế
độ nông nộ và chế độ gia trưởng tạo ra ở nước Nga.
Tư tưởng của Lênin về việc phải học tập và tận dụng những thành quả văn minh của chủ
nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội đến nay vẫn có ý nghĩa thời sự, cấp thiết đối với
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước tiên tư bản, kinh tế, văn hóa lạc hậu.
Câu 22: Trình bày luận điểm của V.I. Lênin về điều kiện bảo đảm cho công cuộc xây
dựng CNXH là c/m văn hóa và cải cách bộ máy lãnh đạo và quản lý. -
Điều kiện bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa thành công: cách mạng văn hóa
và cải cách bộ máy lãnh đạo và quản lý.
+ Vai trò của cách mạng văn hóa trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội: Lênin luôn coi
văn hóa, giáo dục là điều kiện và là sự bảo đảm không thể thiếu được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, vào khoảng tháng 3, tháng 4 năm 1918,
trong tác phẩm "Những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền xô viết”, Lênin đã nhấn mạnh
điều kiện quan trọng hàng đầu để nâng cao năng suất lao động chính là nâng cao binh độ văn
hóa của quần chúng nhân dân. Lênin viết: "Chỉ cần hiểu và nhớ rằng, không thể nào thực hiện
điện khí hóa trong khi chúng ta còn có những người mù chứ. Lênin nhấn mạnh, cần phải làm
cho mỗi người hiểu rằng điều đó (điện khí hóa) chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nên
học vấn hiện đại, và nếu họ không có nên học vấn đó, thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là nguyện vọng mà thôi.
+ Những biện pháp cải cách bộ máy lãnh đạo và quản lý: Trong những tác phẩm cuối cùng
của Lênin: "Chúng ta phải cải tổ Bộ dân ủy thanh tra công nông như thế nào?", "Thư gửi đại
hội”. Lênin đã bàn nhiều về vấn đề cải tạo các cơ quan đảng và nhà nước, vấn đề xây dựng nên
chính trị trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin viết: "Hiện nay chúng ta có hai
nhiệm vụ chủ yếu có ý nghĩa đánh dấu thời đại. Nhiệm vụ thứ nhất là cải tạo bộ máy quản lý
hoàn toàn vô giá trị mà thời đại cũ đã để lại toàn bộ cho chúng ta......
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
Nhiệm vụ thứ hai của chúng ta là tiến hành công tác văn hóa trong nông dân. Về nhiệm vụ
thứ nhất, cải tạo bộ máy quản lý, Lênin đề xuất những biện pháp sau:
Thứ nhất, cải cách chính trị trong đảng, mở rộng số lượng uy viên trung ương, đặc biệt số ủy
viên là công nhân; kết hợp Ban Kiểm tra trung ương với Bộ Dân ủy thanh tra công nông đã
được cải tổ để xây dựng hệ thống kiểm tra nhân dân lớn mạnh.
Thứ hai, cải tạo bộ máy nhà nước, xây dựng cơ quan nhà nước tinh giản và hiệu quả cao theo
đúng tinh thần "Thà ít mà tốt".
Rất tiếc là sau khi Lênin qua đời, những biện pháp cải tổ bộ máy của Lênin đã không được thực hiện.
Câu 23: Phân tích quan điểm của Xta-lin về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô giai đoạn 1924 đến 1936.
- Phân tích quan điểm của Xta-lin về sự khác nhau về phương pháp công nghiệp hóa của
Liên Xô với phương pháp công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa.
Để xây dựng cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa xã hội, Đại hội XIV Đảng Cộng sản Liên Xô đã đề
ra đường lối chung thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Xta-lin chỉ rõ, phương pháp công nghiệp hóa của Liên Xô cằn bản không giống với phương
pháp công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, Công nghiệp hóa các nước tư bản chủ nghĩa thường
bắt đầu tư công nghiệp nhẹ, còn Liên Xô thì bắt đầu từ công nghiệp nặng.
- Phân tích quan điểm của Xta-lin về vấn đề phát triển công nghiệp nặng tốc độ cao
Xtadin không những chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp năng mà còn nhấn mạnh đèn
phát triển công nghiệp năng tốc đó có).
Theo Xta-lin, công nghiệp hóa với tốc độ cao không chỉ là đòi họ cấp bách của đất nước mà
còn là khả năng khách quan, Xtalin đã đưa ra bốn điều kiện thuận lợi:
1) tài nguyên khoáng sản và nông nghiệp có thể thỏa mãn nhu cầu phát triển kinh
tế, 2) có chính quyền Xô viết được đông đảo nhân dân lao động ủng hộ : 3) nền
kinh tế kế hoạch có thể tránh được khủng hoảng, 4) sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng sản.
- Phân tích những mặt tích cực và những hạn chế của đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa theo quan điểm của Xta-lin
+ Tác dụng tích cực của đường lối công nghiệp hóa của Liên Xô (theo quan điểm Xta-lin).
Thời kỳ đầu công nghiệp hóa cho thấy tốc độ phát triển công nghiệp Liên Xô đã vượt xa các
nước tư bản chủ nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo của Xta-lin, Liên Xô đã công nghiệp hóa thực sự nhanh chóng. Khi hoàn
thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (bắt đầu từ năm 1921), tỷ trọng công nghiệp trong kinh tế
quốc dân đã đạt đến 70%, khi hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ hai, tỷ trọng đó lên đến 77,4%.
Năm 1937 giá trị sản lượng công nghiệp đã vượt Đức, Anh, Pháp, đứng đầu châu Âu và đứng
thứ hại trên thế giới,
+ Tác dụng tiêu cực của đường lối công nghiệp hóa của Liên Xô (theo quan điểm Xta-lin)
Đường lối Công nghiệp hóa của Liên Xô theo quan điểm XtaTin phải trả một giá rất đắt. Vì
coi nhẹ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nên đã tạo ra sự mất cân đối kéo dài trong tỷ lệ giữa
các ngành của nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành trong nội bộ công nghiệp, nông
nghiệp và công nghiệp nhe...
Câu 24: Phân tích quan điểm của Xta-lin về tập thể hóa nông nghiệp trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội Liên Xô giai đoạn 1924 đến 1936. -
Phân tích sự khác biệt giữa đường lối xây dựng hợp tác xã của Lênin với đường lối tập
thể hóa nông nghiệp nhanh chóng của Xta-lin
Mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa công nghiệp phát triển tốc độ cao với nông nghiệp lạc
hậu và cuộc khủng hoảng thu mua lương thực cuổi 1927 đầu 1928 đã thúc đẩy Xta- lin lựa chọn
con đường tập thể hóa nông nghiệp nhanh chóng.
Sự khác biệt giữa Lenin và Xta-lin: Downloaded by Tr?n Lan
Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186 *Lenin: -
Trong chính sách kinh tế mới, Lê nin đặc biệt nhấn mạnh phải kiên trì nguyên tắc tự
nguyện trong việc đưa công nhân đi theo con đường hợp tác hóa. -
Lê nin coi hợp tác xã là hình thức cơ bản của Chủ nghĩa xã hội ở nông thôn. Lênin đã
khẳng định sự phát triển hợp tác xã trong nhà nước vô sản và sự phát triển của Chủ nghĩa xã
hội ở nông thôn nước Nga là một thể thống nhất. Phong trào hợp tác hóa tiến hành từng bước,
từ hợp tác xã cung tiêu nên hợp tác xã sản xuất, từ hợp tác xã cấp thấp nên hợp tác xã cấp cao. * Xta-lin: -
Xta-lin tuy cũng nói theo nguyên tắc tự nguyện, nhưng thực tế chạy theo số lượng, đã
dùng biện pháp hành chính cưỡng bức nông dân tập thể hóa. -
khi thực hiện phong trào tập thể hóa hoàn toàn, Xta-lin lại coi tổ hợp lao động nông
nghiệp là hình thức cơ bản của tập thể hóa. Trong hình thức này tư liệu sản xuất cơ bản của
nông nghiệp bao gồm ruộng đất, máy móc và nông cụ, gia súc,... Đào được công hữu hoá,
người nông dân tiến hành lao động sản xuất tập thể như trong xí nghiệp, nhà máy. Như vậy,
Xta-lin đã không tiến hành tập thể hóa theo từng bước từ thấp đến cao mà thực hiện đưa nông
dân cá thể đi thẳng lên chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất.
Phân tích kết quả của đường lối tập thể hóa nông nghiệp nhanh chóng của Xta – lin:
Đến năm 1939, trong Đại hội XVI của Đảng Cộng sản (b) Liên Xô, Xta- lin tuyên bố, nông
trạng tập thể cuối cùng đã được củng cổ và xác lập, kinh tế tập thể xã hội chủ nghĩa là hình thức
duy nhất của nông nghiệp Liên Xô.
Việc tập thể hóa hoàn toàn đã mang lại hậu quả nghiêm trọng cho kinh tế Liên Xô. Chế độ
nông trạng tập thể lấy tổ hợp lao động làm hình thức tổ chức cơ bản, không những không thúc
đây được nông nghiệp phát triển, mà trái lại vì tổ chức và quản lý kém kéo dài, không phát huy
được tính tích cực của nông dân làm cho sản xuất trì trệ, mãi đến đầu những năm 50 thế kỷ XX,
sản lượng lương thực hàng năm mới vượt qua mức trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Câu 25: Phân tích quan điểm của Xta-lin về thể chế chính trị XHCN ở Liên Xô.
Năm 1936, Liên Xô tuyên bổ cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc
dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Với Hiến pháp được thông qua năm 1936, thể chế chính trị Liên Xô đã cơ bản hình thành.
- Về chế độ một đảng
Theo Xta-lin, ở Liên Xô đã không còn giai cấp bóc lột nửa, chỉ còn hai giai cấp là công nhân
và nông dân, mà hai giai cấp này có lợi ích cơ bản hoàn toàn nhất Ái, tương thân, tương ái. Do
đó, Liên Xô không có cơ sở xã hội cho sự tồn tại nhiều đảng.
- Về vấn đề quan hệ giữa đáng với chính quyền và các tổ chức quần chúng
Về vấn đề quan hệ giữa đáng với chính quyền và các tổ chức quần chúng. Xta- lin khẳng
định, đảng là công cụ của chuyên chính vô sản. Trong hệ thống chuyên chính vô sản, đảng là
lực lượng lãnh đạo chủ yếu. Chỉ có đảng mới có thể thống nhất và chỉ đạo tổ chức quần chúng
nhân dân tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi hoàn toàn, Xta-lin chỉ
rõ, tổ chức quần chúng nhân dân bao gồm công đoàn, xô viết, hợp tác xã, đoàn thanh niên và
rất nhiều chi nhánh của những tổ chức này ở trung ương và địa phương.
Xta-lin thừa nhận tính độc lập tương đối của các tổ chức quần chứng, khẳng định đảng không
thể và không nên làm thay chức năng của công đoàn, xô viết và các tổ chức quần chúng khác.
Xta-lin chỉ ra cần phải có sự phân công, phân nhiệm giữa đảng và chính quyền. Đảng không
được bao biện làm thay xô viết, làm thay chức năng của cơ quan chức năng chính quyền nhà
nước và cơ quan quản lý.
Tuy nhiên, trong thực tế công tác, chính Xta-lin đã không phân biệt rạch ròi giữa dàng và
nhà nước, hiện tượng đảng bao biện làm thay chính quyền rất phổ biến và là một trong những
nguyên nhân của tình tang tập trung cao độ trong hệ thống chính trị ở Liên Xô.
Về vấn đề thể chế chính trị tập trung cao độ về vấn đề thể chế chính trị tập trung cao độ. Tập
trung cao đó là một trong những đặc điểm chủ yêu của thể chế chính trị Liên Xô hình thành
trong thời kỳ Xta-lin cầm quyền.
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
Không có sự phân tách rõ ràng về chức năng giữa đảng và chính quyền là nguyên nhân hình
thành chế độ tập trung cao độ của đảng trong toàn bộ đời sống chính trị thực tế của nhà nước Liên Xô.
Thể chế chính trị tập trung cao độ đã có hậu quả làm cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và
pháp chế xã hội chủ nghĩa bị phá hoại nghiêm trọng. Mặc dù ở Liên Xô có pháp luật tương đối
hoàn thiện, nhưng chế độ tập trung cao độ dẫn đến hậu quả là làm cho một số người lãnh đạo
bất chấp pháp luật, giải thích và vận dụng pháp luật theo ý riêng, tùy tiện phá hoại pháp chế.
Một hậu quả nghiêm trọng khác của chế độ tập trung cao độ là sự phát triển của chủ nghĩa quan liêu.
Mặc dù Xta-lin đã đưa ra những biện pháp tích cực khắc phục những hậu quả nói trên nhưng
vì không thay đổi được một cách căn bản thể chế chính trị quá tập trung nên những biện pháp
này không có nhiều hiệu quả.
Câu 26: Phân tích nội dung và đặc trưng cơ bản của mô hình CNXH Liên Xô.
Bằng công nghiệp hóa và tập thể hóa nông nghiệp Liên Xô đã xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội trong những năm 30 thế kỷ XX và hình thành mộ hình xã hội chủ nghĩa Liên Xô.
Mỏ hình này được đánh dấu bằng sự ra đời Hiến pháp mới của Liên Xó, được thông qua năm 1936.
- Đặc trưng cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô trong kinh tế
Chế độ công hữu Liên Xô có hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Không cho phép tồn tại chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Không chủ trương phát triển sở hữu cá thể.
Cơ cấu chế độ sở hữu này giữ vững nguyên tắc căn bản lấy chế độ công hữu là chủ thể của
chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối hóa thành phần chế độ công hữu, càng cống hữu hỏa càng tốt.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô đã hình thành kết cấu kinh tế nghiêng về công nghiệp nặng
Kinh tế Liên Xô là kinh tế kế hoạch tập trung cao độ. Hầu như toàn bộ quyền lực kinh tế tập
trung vào nhà nước, các xí nghiệp không có quyền tự chủ kinh doanh.
Nhưng thể chế này cũng tồn tại những mặt yếu nghiêm trọng: Do thâu tóm quá nhiều, quân
lý quá cứng nhắc, làm cho xí nghiệp không phát huy được động lực nội tại trong phát triển sản
xuất, cải tiến kinh doanh, không thể phát huy được tính tích cực và tinh thần chủ động, do vậy
mà hiệu quả thấp, chất lượng kém, chủng loại nghèo nàn.
- Đặc trưng cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô trong chính trị Đặc
điểm nổi bật nhất của mô hình Liên Xô là quyền lực tập trung cao độ.
Trong quan hệ giữa trung ương và địa phương thì quyền lực của địa phương bị tập trung về trung ương.
Trong quan hệ giữa đảng với chính quyền, quyền lực các cấp được tập trung về ngành dọc
của đảng. Liên Xô là nước do Đảng Cộng sản cầm quyền, giữa đảng và chính quyền không có
sự phân tách, do đó hiện tượng đảng làm thay chính quyền rất nghiêm trọng.
Một đặc trưng khác của thể chế chính trị Liên Xô là cơ chế giám sát dân chủ không mạnh.
Lịch sử đã chứng minh rằng thể chế chính trị tập trung cao độ của Liên Xô mặc dù có vai trò
tích cực nhất định trong chiến tranh, nhưng về cơ bản đã tạo ra một kẽ hở lớn tạo điều kiện cho
sự chuyển quyền độc đoán.
Đặc trưng cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô trong văn hóa
Liên Xô rất coi trong văn hóa giáo dục, cho rằng chỉ có làm tốt cách mạng văn hóa thì Liên
Xô mới có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Liên Xô đã đề ra rất nhiều biện pháp để
tăng cường phát triển văn hóa giáo dục do đó sự nghiệp văn hóa, khoa học giáo dục của Liên
Xô đã phát triển nhanh chóng.
Tuy nhiên, hoạt động văn hóa, khoa học, giáo dục trong mô hình Liên Xô vẫn còn tình trạng
phê phán không thỏa đáng trong lĩnh vực học thuật, tuyệt đối hóa quan điểm giai cấp trong
khoa học (phê phán Men - đen, Anh - xtanh ...)> thậm chí dùng biện pháp hành chính chèn ép,
trấn áp một số trường phái, trào lưu..., Sử dụng biện pháp hành chính can thiệp quả sâu vào Downloaded by Tr?n Lan
Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
hoạt động văn hóa, làm cho không khí tranh luận học thuật khoa học bị lắng xuống, hạn chế sự
phát triển thực sự của khoa học.
Câu 27: Phân tích quá trình xây dựng CNXH ở Liên Xô từ 1937 đến 1991.
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
* Những vấn đề cần phải giải quyết trong giai đoạn từ 1937 den 1985.
Chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xta-lin nói trên đã trải qua thủ thác và đứng vững trong cuộc
chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử,
Kế hoạch 5 năm lâu thứ ba (1938 - 1942) bị bỏ dở vì anh hưởng của chiến tranh Thế giới lần
II. Sau kế hoạch 5 năm lần thứ tư (1945 - 1950) nhầm khôi phục và phát triển kinh tế, Liên xô
bước vào giai đoạn củng cố, hoàn thiện chủ nghĩa xã hội, tiến tới giai đoạn chủ nghĩa xã hội phát triển,
Trong giai đoạn củng cố hoàn thiện chủ nghĩa xã hội, Liên Xô đã đứng trước hàng loạt vấn
đề cần phải giải quyết để chuyển sang trạng thái chất lượng mới của chủ nghĩa xã hội phát triển,
cụ thể là những vấn đề sau đây:
Những nhân tố phát triển theo chiều rộng trước đây đóng vai trò quan trọng, nay đã giảm sút
hoặc đã không còn tồn tại nữa. Trong nền kinh tế quốc dân, do đường lối nghiêng về phát triển
công nghiệp nặng, không chú trọng nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nên bị mất cân đối, đặc
biệt nổi bật là sự phát triển yếu kém của nông nghiệp.
Hệ thống quản lý chậm được đổi mới trước yêu cầu của nền kinh tế đang cần chuyển mạnh
sang con đường phát triển theo chiều sâu.
Các nhược điểm, khiếm khuyết, mâu thuẫn bị tích đọng ngày càng nhiều và không được giải quyết.
* Tình hình nền kinh tế Liên Xô trong giai đoạn giai đoạn từ 1985 đến 1991
Nền kinh tế Liên Xô dần dần tụt hậu So với nền kinh tế tư bàn chủ nghĩa phương Tây. Tình
thế này đã buộc Liên Xô phải tiến hành cải tổ.
- Nội dung của đường lối cải tổ về kinh tế.
Sự suy giảm trong phát triển kinh tế, sự trì trệ trong phát triển xã hội, những khó khăn ngày
càng tăng trong cuộc sống đã làm cho cải tổ trở thành một tất yếu khách quan và đã được chỉnh
thức quyết định tại Hội nghị toàn thể ủy ban trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp vào tháng 4 năm 1985.
Tiến hành việc cải tổ nền kinh tế theo hướng chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang phát
triển theo chiều sâu trên cơ sở tiến bộ khoa học kỹ thuật; đề ra chiến lược tăng tốc với mục tiêu
đến cuối thế kỷ, thu nhập quốc dân phải tăng gấp đôi.
Quyết định chuyên tử Cơ chế kế hoạch hoá tập trung (quan liêu bao cấp) sang cơ chế thị
trường, thừa nhận sự tồn tại của quan hệ hàng hóa - tiền tệ và vai trò của nó đối với quản lý kinh tế.
Đề xuất nhiệm vụ phải cải cách căn bản quản lý, hoàn thiện và phát triển thể chế chính trị. -
Kết quả của việc thực hiện đường lối cải tổ về kinh tế. Hàng loạt biện pháp đã được
tiến hành trong giai đoạn 1986 - 1989 và đã có tác dụng nhất định đến việc cải thiện tình hình
kinh tế. Tốc độ tăng trưởng đã hơi nhích lên: đạt 2,2% (so với 1,8% trong giai đoạn 1981- 1985).
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn chuyển biến chậm chạp, nhiều mặt vẫn còn rất khó khăn.
Đặc biệt, chủ trương tăng tốc” phát triển kinh tế một cách duy ý chí, chủ quan, nóng vội đã
làm cho nền kinh tế xuống dốc nhanh chóng. Trong năm 1988, so với năm 1985 lượng sản xuất
hàng tiêu dùng không đủ cung cấp cho nhu cầu đời sống nhân dân. -
Những nguyên nhân của sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội. Việc tiến hành cải cách chính trị
một cách thiếu thận trọng Với những bước đi không phù hợp với cải cách kinh tế đã làm cho
kiến trúc thượng tầng trở nên rệu rã, đời sống xã hội rối loạn, cải cách kinh tế đình đốn.
Ngoài ra, đã xuất hiện sự phá hoại từ bên trong, xuất phát từ những phần tử Cơ hội nằm ngay
trong cơ quan lãnh đạo cao nhất của đáng, phản bội chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời với sự
phá hoại từ bên ngoài, xuất phát từ những thế lực thù địch, từ lâu đã tìm mọi cách chống phá
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hôi.
Tất cả những yếu tố bất lợi nói trên cùng với rất nhiều sai lầm khác trong quá trình cải tổ đã
làm cho tình hình kinh tế - xã hội Liên Xô không những không được cải thiện, mà lại ngày càng
trở nên trầm trọng hơn, cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Downloaded by Tr?n Lan
Anh (lananh14062003@gmail.com)