

















Preview text:
lOMoAR cPSD| 44919514
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH ------****------
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH NỘI DUNG QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG
THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ
NGƯỢC LẠI. TỪ ĐÓ RÚT RA Ý NGHĨA THỰC TIẾN CỦA QUY LUẬT
VÀ ỨNG DỤNG VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
Họ và tên sinh viên: Phạm Ngọc Ánh
Lớp học phần: Triết học Mác – Lênin 37
Mã sinh viên: 11234265
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Ngọc Thông
HÀ NỘI, THÁNG 12, NĂM 2023 lOMoAR cPSD| 44919514 LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hàng ngày, con người dần dần nhận thức được trật tự các hiện tượng
và mối liên hệ lặp lại đằng sau các hiện tượng khác nhau, từ đó xuất hiện khái niệm
“quy luật”. Là một phạm trù của lý thuyết nhận thức, thuật ngữ “quy luật” là sản
phẩm của tư duy khoa học, phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật và tính toàn vẹn của chúng.
Các quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy của con người đều mang tính khách quan.
Con người không thể tạo ra hay tự ý loại bỏ quy luật mà chỉ nhận thức và áp dụng chúng vào thực tế.
Quy luật biến đổi về lượng dẫn đến biến đổi về chất và ngược lại là một trong ba
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật về các quá trình vận động, phát triển
chung của tự nhiên, xã hội và tư duy. Quy luật này thể hiện sự vận động, phát triển
phổ biến nhất, cho thấy những biến đổi về chất sẽ chỉ xảy ra khi những biến đổi về
lượng đã tích lũy trong sự vật, hiện tượng đến một mức độ nhất định. Quy luật còn
chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển, khi nó thể hiện sự thay đổi về lượng
của sự vật, sự thay đổi diễn ra từng chút một, kết hợp với sự nhảy vọt về chất làm
cho sự vật, hiện tượng thay đổi đột phá. Ph. Ăngghen đã viết: “…trong giới tự nhiên,
thì những sự biến đổi về chất – xảy ra một cách xác định chặt chẽ đối với từng trường
hợp cá biệt – chỉ có thể có được do thêm vào hay bớt đi một số lượng vật chất hay
vận động”. Nhận thức về quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động thực
tiễn khi chúng ta nhìn vào các sự vật, hiện tượng. Nếu không hiểu đúng quy luật này
sẽ dẫn đến tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là phủ nhận sự tích lũy về
lượng, muốn có ngay sự thay đổi về chất, còn hữu khuynh là khi chất đã biến đổi
vượt quá giới hạn độ nhưng không dám thực hiện sự thay đổi căn bản về chất. MỤC LỤC 2 lOMoAR cPSD| 44919514
CHƯƠNG 1: NỘI DUNG QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG THAY
ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC
LẠI ............................................................................................................................ 5
1.1. Nội dung quy luật lượng – chất .................................................................... 5
1.2. Phân tích quy luật lượng – chất ................................................................... 5
1.2.1. Phạm trù “chất” .....................................................................................5
1.2.2. Phạm trù “lượng” ..................................................................................7
1.3. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất theo quy
luật lượng – chất ................................................................................................... 8
1.3.1. “Độ” ......................................................................................................9
1.3.2. “Điểm nút” .............................................................................................9
1.3.3. “Bước nhảy” ........................................................................................ 10
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận ......................................................................... 11
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ
NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN NHỮNG THAY ĐỔI VỀ
CHẤT ...................................................................................................................... 12
VÀ NGƯỢC LẠI ................................................................................................... 12
2.1. Quy luật lượng chất trong khoa học tự nhiên ........................................... 13
2.2. Quy luật lượng chất trong quá trình học tập và rèn luyện của học sinh,
sinh viên ............................................................................................................... 14
2.3. Vận dụng quy luật lượng chất vào việc xây dựng kế hoạch học tập đại
học ........................................................................................................................ 16
2.3.1. Tích lũy về lượng để biến đổi chất ........................................................ 16
2.3.2. Biện pháp tích lũy về lượng để biến đổi chất ......................................... 16 3 lOMoAR cPSD| 44919514
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 18 4 lOMoAR cPSD| 44919514
CHƯƠNG 1: NỘI DUNG QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG THAY
ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI
1.1. Nội dung quy luật lượng – chất
Theo quan điểm của Triết học Mác - Lênin, mọi sự vật, hiện tượng đều có
mặt chất và mặt lượng. Hai mặt này có mối liên hệ hữu cơ với nhau trong sự vật,
hiện tượng. Mối quan hệ giữa chất và lượng hình thành nên quy luật lượng - chất
hay còn gọi là quy luật biến đổi, sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
và ngược lại. Nó cũng là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật trong Triết học Mác - Lênin.
Quy luật quy định rằng: “Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất về chất
và lượng; sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay
đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động
trở lại với sự thay đổi của lượng”.
Quy luật cho chúng ta thấy sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
thông qua những biến đổi về lượng xảy ra trong mỗi sự vật, dẫn đến sự biến đổi
về chất của sự vật và đưa nó đến giai đoạn phát triển tiếp theo. Theo Ph. Ăngghen,
ông đã khái quát định luật này như sau: “Những thay đơn thuần thuần về lượng,
đến một mức độ nhật định, sẽ được chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”.
1.2. Phân tích quy luật lượng – chất
1.2.1. Phạm trù “chất”
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính chất quyết định khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính và yếu 5 lOMoAR cPSD| 44919514
tố tạo nên sự vật, hiện tượng tạo nên chúng chứ không phải sự vật, hiện tượng
khác (trả lời câu hỏi sự vật, hiện tượng đó là gì? Cái này là cái gì? Nó giúp phân
biệt nó với những sự vật và hiện tượng khác).
Đặc tính cơ bản của chất là nó thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật,
hiện tượng; điều này có nghĩa là trừ khi nó được chuyển hóa thành một vật thể
hay hiện tượng khác, chất của nó vẫn không thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều
có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn đều có chất
riêng. Do đó, mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất mà có thể có nhiều chất.
Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và không thể tách rời nhau.
Trong hiện thực khách quan, sự vật không thể tồn tại nếu không có chất, và không
thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất của một sự vật được thể hiện bằng các thuộc
tính của nó, nhưng không phải tất cả các thuộc tính đều thể hiện chất của sự vật.
Thuộc tính của sự vật có thuộc cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Những đặc tính
cơ bản được tổng hợp để tạo thành chất của sự vật; chi phối sự tồn tại, vận động
và phát triển của sự vật, chỉ khi chúng thay đổi hoặc biến mất thì sự vật mới thay
đổi hoặc biến mất. Nhưng tính chất của sự vật chỉ xuất hiện thông qua mối quan
hệ đặc biệt với sự vật khác. Vì vậy, việc phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ
bản và thuộc tính không cơ bản chỉ mang tính chất tương đối. Trong bối cảnh cụ
thể này, thuộc tính này là thuộc tính cơ bản thể hiện chất lượng của một sự vật.
Các quan hệ cụ thể có thêm thuộc tính khác hoặc thuộc tính khác là thuộc tính cơ bản.
Ví dụ: Trong mối quan hệ với động vật, các thuộc tính có khả năng chế
tạo, sử dụng công cụ và tư duy là những thuộc tính cơ bản của con người, trong
khi các đặc điểm khác không phải là thuộc tính cơ bản. Nhưng trong một số mối 6 lOMoAR cPSD| 44919514
quan hệ nhất định của con người, danh tính của một người, dấu vân tay, …trở
thành thuộc tính cơ bản.
Chất của một sự vật không chỉ được quyết định bởi các yếu tố cấu thành
nên nó mà còn bởi mối quan hệ giữa các yếu tố tạo nên sự vật đó, tức là cấu trúc
của sự vật. Trong thực tế, mọi thứ đều được tạo thành từ những yếu tố giống nhau
nhưng chất của chúng là khác nhau.
Ví dụ: Kim cương và than chì có thành phần hóa học giống nhau, gồm các
nguyên tố cacbon, nhưng cách các nguyên tử cacbon liên kết với nhau là khác
nhau nên chất của chúng hoàn toàn khác nhau. Kim cương rất cứng, còn than chì
thì mềm. Trong một nhóm nhất định, khi sự tiếp xúc giữa các cá nhân thay đổi,
nhóm có thể trở nên mạnh hơn hoặc yếu hơn, tức là chất lượng của nhóm thay đổi.
Từ đó có thể thấy, sự thay đổi về chất của sự vật vừa phụ thuộc vào sự thay
đổi của các yếu tố cấu thành nên sự vật, vừa phụ thuộc vào sự thay đổi mối quan
hệ giữa các yếu tố đó.
1.2.2. Phạm trù “lượng”
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự
vật, hiện tượng về quy mô, mức độ phát triển, số lượng các yếu tố, tổng số bộ
phận, số lượng, tốc độ vận động và nhịp điệu và sự phát triển của sự vật, hiện
tượng. Lượng còn được thể hiện bằng kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay
nhỏ, tổng số lượng nhỏ hay lớn, mức độ cao hay thấp, tốc độ di chuyển nhanh hay
chậm, màu đậm hay nhạt….
Đặc điểm cơ bản của lượng mang tính khách quan vì nó là một dạng biểu
hiện của vật chất, có một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong một
thời gian nhất định. Có nhiều lượng khác nhau trong sự vật và hiện tượng; có 7 lOMoAR cPSD| 44919514
lượng là yếu tố quyết định bên trong (số lượng nguyên tử tạo nên một nguyên tố
hóa học, số lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội…), có lượng chỉ thể hiện yếu tố
bên ngoài của sự vật, hiện tượng (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật…);
sự vật, hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng càng phức tạp.
Trong tự nhiên và phần lớn xã hội, kích thước có thể được đo và tính toán
bằng các đơn vị đo lường cụ thể và chính xác. Ví dụ: dài 3 mét, nặng 20 kg, số tín
chỉ của sinh viên chuyên ngành NHTC Đại học KTQD là 135 tín chỉ... nhưng
trong một số trường hợp của xã hội và đặc biệt là trong tư duy khó có thể đo lường
được bằng một số dữ liệu nhất định mà chỉ có thể phát hiện ra nó bằng cách trừu
tượng hóa bằng năng lực.
Chất và lượng của mọi sự vật đều mang tính khách quan. Trong sự tồn tại
khách quan, sự vật có vô số chất. Do đó sự vật cũng có vô số lượng. Chất và lượng
là hai mặt không thể tách rời và quy định lẫn nhau. Một chất nhất định của một sự
vật có một lượng tương ứng với nó. Sự khác biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa
tương đối, tùy theo mối quan hệ xác định đâu là lượng, đâu là chất; cái là lượng ở
khía cạnh này có thể là chất ở khía cạnh khác. Ví dụ: Trong mối quan hệ giữa sinh
viên năm thứ nhất và sinh viên năm thứ hai, nó đề cập đến chất của sinh viên năm
thứ nhất và sinh viên năm thứ hai. Đối với toàn bộ khóa học, năm thứ nhất và năm thứ hai lại là lượng.
1.3. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất theo quy
luật lượng – chất
Mối liên hệ giữa các khái niệm tạo nên quy luật cho thấy mỗi sự vật, hiện
tượng là một thực thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng, chúng tác động biện
chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang tồn tại chất và lượng thống
nhất ở một mức độ; nhưng trong lĩnh vực này, chất và lượng tác động lẫn nhau 8 lOMoAR cPSD| 44919514
khiến cho sự vật, hiện tượng dần dần thay đổi, bắt đầu từ số lượng. Quá trình thay
đổi về lượng xảy ra theo chiều hướng tăng lên hoặc giảm xuống nhưng không dẫn
đến ngay sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Chỉ khi lượng thay đổi đến
một giới hạn nhất định (đến một mức nhất định) thì mới dẫn đến sự thay đổi về
chất. Như vậy, sự thay đổi về lượng sẽ tạo điều kiện cho sự thay đổi về chất và kết
quả là sự vật, hiện tượng cũ biến mất và nảy sinh sự vật, hiện tượng mới.
Các khái niệm độ, điểm nút, bước nhảy trong quá trình tác động lẫn nhau giữa chất và lượng. 1.3.1. “Độ”
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ mối quan hệ thống nhất và được
quy định lẫn nhau giữa chất và lượng; đó là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng,
trong đó những biến đổi về lượng chưa gây ra những biến đổi về chất; sự vật, hiện
tượng vẫn như cũ, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ: Độ tuổi trung bình của người Việt Nam là 73 tuổi nên khoảng thời
gian từ 0-73 tuổi là tuổi của một người.
1.3.2. “Điểm nút”
Điểm nút là một phạm trù triết học đánh dấu thời điểm một sự thay đổi về
lượng đạt đến điểm phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi,
trở thành một chất mới, thời điểm bắt đầu bước nhảy, được gọi là điểm nút.
Ví dụ: Các giới hạn 0 tuổi (khi sinh ra), 73 tuổi, các kỳ thi, các kỳ kiểm tra chính là các điểm nút.
Độ bị giới hạn bởi hai nút và sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút trên dẫn
đến sự hình thành một chất mới. Sự thống nhất giữa lượng mới và chất mới tạo
nên độ mới và điểm nút mới. 9 lOMoAR cPSD| 44919514
1.3.3. “Bước nhảy”
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ một giai đoạn thay đổi cơ
bản về chất của sự vật, hiện tượng gây ra bởi những thay đổi về lượng trước đó và
là bước ngoặt cơ bản của những thay đổi về lượng. Bước nhảy kết thúc thời kỳ
thay đổi về lượng, là sự gián đoạn trong chuyển động liên tục của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Quá trình chuyển đổi từ nước lỏng sang hơi nước diễn ra nhanh
chóng. Bước nhảy này là do sự thay đổi nhiệt độ của nước lỏng và đạt tới 1000C.
Nhờ bước nhảy đó mà xuất hiện những sự vật, hiện tượng mới; trong mọi
thứ, hiện tượng này lại thay đổi, đạt đến một điểm nút mới, một bước nhảy mới
xảy ra. Đây chính xác là cách mà sự vật, hiện tượng vận động, lúc thay đổi lần
lượt về lượng, lúc chuyển đổi về chất, tạo thành một chuỗi vô tận để thay thế sự
vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới. Quy luật biến đổi lượng - chất
cũng nói theo chiều ngược lại, tức là khi chất mới được hình thành sẽ tạo ra một
lượng mới thích hợp, có sự thống nhất mới giữa chất và lượng.
Như vậy, quy luật cho thấy mối quan hệ lượng – chất là mối quan hệ biện
chứng. Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại;
chất là một khía cạnh tương đối ổn định, lượng là một khía cạnh thay đổi nhiều
hơn. Lượng thay đổi, mâu thuẫn với chất cũ, phá hủy chất cũ, với lượng mới hình
thành chất mới; lượng mới tiếp tục thay đổi cho đến khi nó phá vỡ chất cũ đang
kìm hãm nó lại. Sự tương tác giữa lượng và chất tạo nên sự vận động không ngừng.
Tùy theo sự vật, hiện tượng, những mâu thuẫn riêng của chúng và những điều kiện
mà tính chất của sự vật, hiện tượng diễn ra biến đổi mà có nhiều bước nhảy.
Tóm lại, quy luật lượng - chất cho thấy mối quan hệ lượng - chất là mối
quan hệ biện chứng. Mọi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất về lượng 10 lOMoAR cPSD| 44919514
và chất. Sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Chất
lượng là mặt ổn định, lượng là mặt biến đổi hơn. Sự thay đổi dần dần về lượng đạt
tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất qua bước nhảy. Chất mới tạo ra tác
động trở lại với sự thay đổi về lượng mới dẫn đến chất mới cao hơn. Quá trình
ảnh hưởng này diễn ra liên tục, kế tiếp nhau khiến cho sự vật, hiện tượng không
ngừng thay đổi. Cần lưu ý rằng quy luật này chỉ được thể hiện dưới dạng mối quan
hệ được xác định đầy đủ giữa chất và lượng, mối quan hệ này được hình thành
một cách khách quan và không thể xác định một cách tùy tiện. Đồng thời, sự
chuyển đổi về lượng và chất luôn phụ thuộc vào những điều kiện nhất định.
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận
Trước hết, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chúng ta phải biết tiếp
thu về lượng để tạo ra những biến đổi về chất; đừng thiếu kiên nhẫn hoặc bảo thủ.
Bước nhảy làm phát sinh chất mới và thay thế chất cũ là một hình thức vận động,
phát triển tất yếu của mọi sự vật, hiện tượng; nhưng sự thay đổi về chất do thực
hiện bước nhảy chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến một giới hạn, tức là đến điểm
nút, thời điểm xảy ra bước nhảy thì quá trình tích lũy về lượng phải được thực hiện.
Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút, bước nhảy là yêu cầu khách quan đối
với sự vận động của sự vật, hiện tượng; sự thiếu kiên nhẫn thường thể hiện ở
việc chưa quan tâm đúng mức tới việc tích lũy về lượng mà tin rằng sự phát
triển của sự vật, hiện tượng chỉ là những bước nhảy liên tục; ngược lại, tư tưởng
bảo thủ thường thể hiện ở chỗ không dám thực hiện bước nhảy mà chỉ coi những
thay đổi về lượng là sự phát triển. Vì vậy, cần phải khắc phục cả hai triệu chứng trên. 11 lOMoAR cPSD| 44919514
Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi một thái độ khách quan, khoa
học và một quyết tâm thực hiện bước nhảy; tuy tất cả đều có tính khách quan
nhưng quy luật xã hội chỉ xuất hiện thông qua hành động có ý thức của con người;
vì vậy, muốn có bước nhảy trong lĩnh vực xã hội, vẫn phải thực hiện điều kiện
khách quan nhưng chúng ta cũng phải chú ý đến điều kiện chủ quan. Nói cách
khác, trong các hoạt động thực tế không chỉ đòi hỏi sự xác định khách quan, khoa
học về phạm vi và nhịp điệu của một bước nhảy, chống lại chủ nghĩa giáo điều và
khuôn mẫu mà còn là sự quyết tâm và nghị lực để hoàn thành bước nhảy khi có
điều kiện phù hợp, chủ động nắm bắt cơ hội để có những bước nhảy kịp thời khi
hoàn cảnh cho phép, biến sự thay đổi mang tính tiến hóa thành sự thay đổi mang tính cách mạng.
Thứ tư, quy luật yêu cầu nhận thức rằng sự biến đổi về chất còn phụ thuộc
vào cách thức liên kết các yếu tố của sự vật, hiện tượng; vì vậy, chúng ta phải biết
lựa chọn những phương pháp thích hợp để tác động đến cách ràng buộc này, dựa
trên bản chất và sự hiểu biết về các quy luật của chúng.
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ
NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI
Việc áp dụng quy luật lượng và chất vào cuộc sống giúp mỗi cá nhân, cộng
đồng và xã hội tìm ra con đường phát triển đúng đắn và hiệu quả nhất.
Dưới đây là những ví dụ về ý nghĩa thực tế của quy tắc này. 12 lOMoAR cPSD| 44919514
2.1. Quy luật lượng chất trong khoa học tự nhiên
Như chúng ta đã biết, quy luật thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất
và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Nội dung của nó không giới hạn ở một hay một vài lĩnh vực đặc biệt mà bao gồm
tất cả các vấn đề, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và nhận thức của con người.
Đầu tiên, chúng ta hãy xem ví dụ về việc nước biến đổi thành các dạng tồn
tại khác nhau. Về cấu trúc hóa học, nước (ở đây chỉ xét đến nước tinh khiết) là
một hợp chất gồm hai nguyên tố là hidro và oxi. Công thức hóa học của nước là
H2O. Trong điều kiện bình thường, nước ở dạng lỏng nhưng trong điều kiện đặc
biệt, nước còn có thể tồn tại ở các dạng khác như rắn, khí hay plasma. Quy luật
lượng chất có thể thấy rõ nhất trong quá trình biến đổi giữa các dạng nước khác
nhau. Đầu tiên, nhìn vào biểu đồ các trạng thái tồn tại của nước, chúng ta thấy
nước là một trạng thái vật chất (rắn, lỏng, khí hoặc plasma) và lượng là nhiệt độ
của nước (-273°C, 0°C), tốc độ của các phân tử nước. Có thể thấy rõ rằng trạng
thái của nước luôn tương ứng với nhiệt độ của nó. Khi nhiệt độ của nước là -
273°C, nước ở thể rắn, dù nhiệt độ có tăng lên -270°C, 250°C hay thậm chí -10°C,
nước vẫn ở thể rắn. Cũng ở nhiệt độ này, tốc độ của các phân tử nước tăng dần
theo nhiệt độ của nước, nhưng điều này không đủ để gây ra những thay đổi về
trạng thái của nước, tức là. mặc dù lượng nước đã thay đổi nhưng về cơ bản lượng
của nó vẫn được giữ nguyên ổn định Tuy nhiên, khi nhiệt độ của nước tăng lên
0°C trở lên, trạng thái của nước bắt đầu thay đổi, từ rắn sang lỏng, đồng nghĩa với
việc chất lượng nước về cơ bản đã thay đổi. Quá trình biến đổi giữa các dạng nước
cũng diễn ra giống nhau ở các nhiệt độ khác nhau. Như vậy có thể thấy nhiệt độ -
273°C đến 0°C chính là độ của nước. Đây là giới hạn mà lượng nước có thể tích
tụ mà không làm thay đổi chất lượng cơ bản của nước. Sự thay đổi về chất xảy ra
ở 0°C, vì vậy 0 °C là điểm giới hạn trong đó lượng nước tích lũy đủ cho sự thay 13 lOMoAR cPSD| 44919514
đổi về chất của nó. Từ nhiệt độ 0°C, nước không còn ở thể rắn mà trở thành chất
lỏng hoàn toàn, đây là bước nhảy của nước từ thể rắn sang thể lỏng.
Chất mới sinh ra liên tục quay trở lại ảnh hưởng đến lượng mới, có thể thấy
ở chỗ khi nhiệt độ của nước tiếp tục tăng thì tốc độ của các phân tử nước ở trạng
thái lỏng tăng lên đáng kể so với trạng thái rắn được nâng lên... Tương tự như
phân tích ở trên, chúng ta nhận được độ, điểm nút (100°C, 550°C) và các chất
mới. Quy luật này của nước có thể thấy rõ nhất trong vòng tuần hoàn của nước tự nhiên.
Ví dụ về nước chỉ là một trong vô số ví dụ về quy luật tự nhiên về số lượng.
Việc nhận thức đúng về quy luật này rất quan trọng, hơn hết nó giúp con người
hiểu được thế giới tự nhiên đúng đắn và hoàn hảo, từ đó rút ra những gì mình đã
trải nghiệm và hoàn thiện nó, do thiên nhiên tạo ra, phục vụ đời sống con người.
2.2. Quy luật lượng chất trong quá trình học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên
Quá trình thu thập thông tin của sinh viên có vai trò rất quan trọng đối với
quá trình tiến bộ và phát triển của xã hội và đất nước. Bởi quá trình này tạo ra
những con người đủ trình độ để tiếp quản đất nước nên đất nước phát triển ngang
tầm các cường quốc năm châu. Vì vậy, mỗi học sinh, sinh viên phải có sự hiểu
biết rõ ràng và đúng đắn về vấn đề này. Họ phải thu thập đủ để đạt đến điểm giới
hạn thì khi mới có thể nhảy. Họ không được thiếu kiên nhẫn hoặc đốt cháy giai đoạn.
Hiện nay, tín chỉ đã tạo điều kiện cho sinh viên cảm thấy có thể đăng ký học
thêm các môn học thuộc kì tiếp theo để tốt nghiệp sớm. Tuy nhiên, cũng có nhiều
học sinh đăng ký học thêm nhưng không có điều kiện theo học tiếp nên phải học
lại các môn đã đăng ký. Điều đó cũng có nghĩa là những sinh viên này chưa tích 14 lOMoAR cPSD| 44919514
lũy đủ để đạt điểm tới hạn điểm nút mà đã đi ngược lại quy luật lượng - chất và
kết cục tất yếu là thất bại.
Ngoài ra, thực trạng hệ thống giáo dục nước ta vẫn còn tồn tại, đặc biệt là
ở cấp tiểu học và trung học. Nói cách khác, đối với những học sinh không tích lũy
đủ số lượng cần thiết, tạo điều kiện để nhảy thành công, hệ quả là hệ thống giáo
dục của chúng ta thiếu cả “chất” và “lượng”, dẫn đến những trường hợp rất vô lý.
Ví dụ, học sinh không được viết tên ở trường mà chỉ được lên lớp vì nếu được ở
lại sẽ ảnh hưởng đến giáo dục chung của trường.
Như vậy, có thể cho rằng đốt sân khấu theo khuynh hướng tả khuynh là sai,
nhưng tính bảo thủ, trì trệ theo hướng hữu khuynh cũng vậy. Nếu đã tích lũy đủ
thì vẫn chưa đạt tới điểm nút mà thưc hiện bước nhảy thì quan niệm phát triển chỉ
là phát triển về lượng chứ không phải về chất nên mọi thứ không phát triển. Hơn
nữa, vì các hình thức bước nhảy của sự vật rất linh hoạt và phong phú nên cần vận
dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy trong những điều kiện, khu vực nhất định
trong quá trình nhận thức và vận dụng. Trong quá trình tiếp thu thông tin, học sinh
không thể thực hiện bước nhảy một cách đột ngột. Sinh viên mới không thể lấy
được bằng cấp mà phải thực hiện những bước nhảy dần dần: tức là vượt qua từng
kỳ thi nhỏ, sau đó là kỳ thi học kỳ và kỳ thi cuối kỳ, chỉ có như vậy mới thường
xuyên và hiệu quả. Như vậy, có thể thấy, việc vận dụng đúng quy luật chuyển từ
biến đổi lượng sang biến đổi về chất và ngược lại trong hoạt động sống là rất quan
trọng, đặc biệt là trong hoạt động thu thập thông tin từ học sinh, sinh viên. Bởi vì
chỉ khi đó hoạt động này mới có hiệu quả, góp phần giáo dục con người cả về chất
và lượng, để đất nước ngày càng phát triển. 15 lOMoAR cPSD| 44919514
2.3. Vận dụng quy luật lượng chất vào việc xây dựng kế hoạch học tập đại học
2.3.1. Tích lũy về lượng để biến đổi chất
- Tích lũy tri thức: Quy luật quan hệ giữa chất và lượng chỉ ra cách thức chung nhất
của sự vận động và phát triển, sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng là kết quả
của sự tích lũy những thay đổi về lượng đến một giới hạn nhất định. Vận động và
phát triển đều diễn ra tuần tự theo sự thay đổi về lượng, đồng thời là sự đột phá của
những thay đổi về chất. Ở đây, bước ngoặt là số tín chỉ và kỹ năng cần hoàn thành,
bước nhảy là quá trình chuyển đổi từ một sinh viên thành một người không còn chịu
sự kiểm soát của nhà trường. Một chu kỳ phấn đấu và nghiên cứu phải lặp lại với
các bạn sinh viên. Dù ít hay nhiều, mỗi ngày chúng ta dành một chút thời gian cho
việc học, nó dần dần trở thành thói quen - giống như tính cách của chúng ta vậy.
-Tích lũy kỹ năng: Là một sinh viên trong thời đại mới, chúng ta không thể không
ngừng nâng cấp bản thân. Chúng ta đều sinh ra đều phải sống và làm việc; nỗ lực và
rèn luyện để đạt được những thành công. Đó là lý do tại sao việc học tập, tìm kiếm,
tích cực rèn luyện và phát triển bản thân khi còn là sinh viên đại học là điều quan trọng và cần thiết.
-Tích lũy các mối quan hệ và kinh nghiệm xã hội: Đây chính là quy luật lượng chất
phát triển không ngừng, tạo ra sự vận động không ngừng, chất mới không ngừng
sinh ra, con người tích lũy dần dần trong cuộc sống những đặc điểm mới tạo nên
điểm khởi đầu cho sự phát triển của đời sống xã hội.
2.3.2. Biện pháp tích lũy về lượng để biến đổi chất
Từ việc nghiên cứu có thể rút ra vài phương pháp cho việc tích lũy lượng cho sinh viên: -
Thứ nhất, giúp học sinh hiểu được sự khác biệt khi lên đại học với học sinh 16 lOMoAR cPSD| 44919514
+ Quá trình tích lũy kiến thức sẽ ngày càng nhiều và khó khăn hơn. Bậc phổ thông
việc học kéo dài 1 năm và tất cả các môn học, thông tin được luân chuyển liên tục
thì ở trường đại học có hệ thống thông tin cho từng môn học kéo dài khoảng 1-2 tháng.
+ Sinh viên đại học phải tham gia nhiều bài tập nhóm, thuyết trình, ngoại khóa và
chủ yếu là tự học ở nhà... Không những vậy, các môn học ở bậc đại học rất đa dạng,
ngoài việc đọc giáo trình, sinh viên phải tìm nhiều nguồn thông tin.
+ Lên Đại học, ý thức của bản thân là yếu tố quan trọng nhất, tinh thần tự học sẽ là
chủ yếu trong quá trình học. Do đó, muốn đạt được những kết quả tốt ở đại học, cần
một sự chuẩn bị nghiêm túc và tinh thần tự học. -
Thứ hai, trong quá trình tích lũy kiến thức sinh viên cần tiến hành từ dễ đến
khó,tránh đốt cháy giai đoạn:
+ Nhiều sinh viên muốn học nhanh, nhiều để hơn người khác, chưa học cơ bản đã
đến nâng cao, chưa học xong lý thuyết đã thực hành. Đây cũng là điều dễ gặp ở các
sinh viên khi đến gần giai đoạn thi mới bắt đầu học, và ở nhiều sinh viên có sức học
trung bình nhưng lại muốn đăng kí nhiều môn học một kỳ để ra trường sớm.
Tóm lại, quá trình tiếp thu kiến thức cần diễn ra dần dần, từ cơ bản đến nâng cao. -
Thứ ba, sinh viên phải liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng
chủquan: Trong quá trình học tập, sinh viên phải trải qua rất nhiều kỳ thi. Kết quả
tốt của các kỳ thi đánh dấu ta kết thúc một giai đoạn và là bước khởi đầu cho ta sang
một giai đoạn mới đòi hỏi chúng ta có một trình độ cao hơn, lượng kiến thức nhiều
hơn, chính vì vậy, mỗi sinh viên cần phải không ngừng học tập phấn đấu để tiếp cận
những tri thức mới ở trình độ cao hơn. Nó giúp chúng ta tránh được tư tưởng bảo
thủ, trì trệ trong học tập rèn luyện. 17 lOMoAR cPSD| 44919514 -
Thứ tư, sinh viên cần rèn luyện ý thực học tập tích cực, chủ động: hãy chủ
độnghọc tập, tích cực rèn luyện và nghiêm túc với mục tiêu của mình. Cơ hội và
thành công sẽ chỉ đến với những ai tin vào bản thân mình, tự học tập và rèn luyện
với nó một cách nghiêm túc và trung thực. KẾT LUẬN
Để tóm tắt những nội dung trên, chúng ta phải hiểu rõ nội dung của quy luật lượng -
chất, đồng thời cũng phải hiểu rõ các khái niệm “chất”, “lượng”, “điểm nút”, “bước
nhảy”, “bước”. Qua đó ta có thể hiểu được mối quan hệ biện chứng giữa chúng và
biết cách vận dụng quy luật này vào cuộc sống một cách hiệu quả. Có thể thấy, “chất”
và “lượng” luôn gắn kết với nhau một cách hữu cơ, không thể tách rời và có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Vì vậy, bất kỳ sự thay đổi về lượng nào cũng tất yếu
dẫn đến sự thay đổi nhất định về chất của sự vật, hiện tượng. Nhưng ngay cả “lượng”
thay đổi cũng không dẫn đến sự thay đổi căn bản về “chất” và ngược lại. Ở một giới
hạn nhất định, sự thay đổi về “lượng” không đủ để gây ra sự thay đổi cơ bản về
“chất”, giới hạn này gọi là “độ”. Nếu không muốn thay đổi về “chất” thì phải biết
kiểm soát “độ”. Ngoài ra, “bước nhảy” là một bước rất quan trọng nên phải thực hiện
cẩn thận. Chỉ thực hiện “bước nhảy” khi “lượng” đã tích lũy đến giới hạn của “điểm
nút” dẫn đến những hậu quả không đáng có: không đạt được sự thay đổi về chất, dẫn
đến phải thay đổi về lượng lại từ đâu. Vì vậy chúng ta nên thực hiện bước nhảy phù
hợp từng thời điểm, hoàn cảnh và hoàn cảnh cụ thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành
cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội. [2]
Lê Doãn Tá (2003), Một số vấn đề Triết học Mác – Lênin: Lý luận và thực
tiễn (tái bản có bổ sung), NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 18 lOMoAR cPSD| 44919514 [3]
Nhiều tác giả, Trần Văn Phòng (chủ biên), (2006), Tìm hiểu môn học triết
học Mác – Lênin: Dưới dạng hỏi & đáp, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội. [4]
Khoa Khoa học Xã hội và nhân văn, Bộ môn Lý luận chính trị, (2020),
Triết học Mác – Lênin: Đề cương chi tiết, TP.HCM. 19