Phân tích nội dung quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất (và ngược lại). Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận gắn với ngành học của bản thân | Tiểu luận môn triết học mác - lênin
Phân tích nội dung quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất (và ngược lại). Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận gắn với ngành học của bản thân | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ---o0o--- TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: Phân tích nội dung quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất (và ngược lại). Từ đó rút ra ý nghĩa phương
pháp luận gắn với ngành học của bản thân
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nghiêm Thị Châu Giang
Họ và tên: Nguyễn Thị Ngọc Linh Mã sinh viên: 11230988
Lớp tín chỉ: Triết học Mác - Lênin
Lớp chuyên ngành: Công nghệ tài chính BFT 65B
Hà Nội, tháng 12, năm 2023 MỤC LỤC
Lời nói đầu ...................................................................................... 2
Nội dungChương I. Cơ sở lý luận quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn
đến sự ............................................................................................. 4 lOMoAR cPSD| 23022540
thay đổi về chất (và ngược lại) ....................................................... 4
1.1. Các khái niệm cơ bản .......................................................... 4
1.2. Nội dung quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi
về chất (và ngược lại) ................................................................. 5
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận ................................................... 7
1.4. Vai trò quy luật .................................................................... 7
1.5. Ví dụ về quy luật lượng- chất ............................................... 8
Chương II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN GẮN VỚI NGÀNH
CÔNG NGHỆ TÀI CHÍNH ........................................................... 8
2.1. Giới thiệu sơ lược về ngành công nghệ tài chính.................... 8
2.2. Ý nghĩa phương pháp luận gắn với ngành công nghệ tài
chính ......................................................................................... 9
Lời kết ........................................................................................... 14
Tài liệu tham khảo ......................................................................... 14 Lời nói đầu
Triết gia Hy Lạp cổ đại Heraclitus từng khẳng định “ Không ai tắm hai
lần trên một dòng sông”, hàm ý rằng vạn vật trên thế gian này đều không
ngừng vận động, biến đổi và phát triển, không có gì tồn tại nhiều hơn một
khoảnh khắc. Có thể nói, “ vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất” và là
“phương thức tồn tại của vật chất”. Trong hầu hết các quá trình và các lĩnh
vực của đời sống, quá trình sinh sống của con người đều tồn tại sự vận động,
biến đổi. Những vận động, biến đổi đó chịu sự ràng buộc của “ Quy luật
chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất
và ngược lại” hay gọi tắt là quy luật Lượng-Chất.
Theo triết học Mác-Lênin thì quy luật Lượng-Chất là một trong ba quy
luật cơ bản nhất của phạm trù triết học, tác động đến toàn bộ sự hình thành,
biến đổi, chuyển hoá của sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội. Quy luật
này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy
sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích lũy những thay
đổi về lượng đạt đến ngưỡng nhất định. Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự
vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về lượng của sự vật, hiện
tượng diễn ra từ từ kết hợp với sự thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự vật,
hiện tượng vừa tiến bước tuần tự, vừa có những bước đột phá vượt bậc. Ph.
Ăngghen viết: “... trong giới tự nhiên, thì những sự biến đổi về chất - xảy ra lOMoAR cPSD| 23022540
một cách xác định chặt chẽ đối với từng trường hợp cá biệt chỉ có thể có được
do thêm vào hay bớt đi một số lượng vật chất hay vận động”.
Trong bối cảnh phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có vị thế ngày
càng quan trọng trong khu vực và quốc tế, nhà nước ta đã và đang vận dụng
khá triệt để quan điểm khoa học về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và
chất vào sự nghiệp phát triển đất nước để tìm ra những biện pháp tối ưu phát
triển nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, kiến thiết và đổi mới đất nước.
Đối với quá trình sinh sống, học tâp-lao động xã hội của con người, đặc
biệt là trong quá trình học tập, tích luỹ tri thức của sinh viên, khi sự tích luỹ
tri thức ấy dẫn đến những sự thay đổi nhất định trong nhận thức, quá trình
học tập tức là có sự biến đổi về chất. Chính bởi tính quy định chặt chẽ của
quy luật này, nếu sinh viên nắm rõ bản chất và biết vận dụng quy luật Lượng-
Chất vào quá trình học tập, nghiên cứu thì sẽ cải thiện, nâng cao hiệu quả,
năng suất học tập, tối ưu quá trình học tập. Bởi vậy em đã chọn đề tài “Phân
tích nội dung quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
(và ngược lại). Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận gắn với ngành học của
bản thân” làm đề tài nghiên cứu. Với mục tiêu nắm rõ đề tài nghiên cứu, vận
dụng tốt quy luật lượng chât để nâng cao hiệu quả - kết quả học tập, em rất
mong nhận được sự góp ý từ cô để khắc phục những thiếu sót còn tồn đọng
trong quá trình nghiên cứu. lOMoAR cPSD| 23022540
Nội dung Chương I. Cơ sở lý luận quy luật từ
sự thay đổi về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất (và ngược lại). 1.1.
Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm quy luật
Quy luật là mối liên hệ phổ biến, khách quan, bản chất, bền vững, tất yếu
giữa các đối tượng và nhất định tác động khi có các điều kiện phù hợp.
Sự thừa nhận tính khách quan của các quy luật tự nhiên và xã hội là
nguyên tắc phương pháp luận quan trọng đối với sự phát triển tri thức khoa
học. Mục đích của con người khi nhận thức được các quy luật của tự nhiên
và xã hội là để vận dụng vào thực tiễn, làm thay đổi tự nhiên và xã hội. Nếu
muốn “ làm chủ giới tự nhiên” con người phải nhận thức được các quy luật
để từ đó tách biệt hoàn toàn sự lệ thuộc của quy luật tác động vào ý chí và
ý thức của con người, thậm chí vận dụng quy luật này để kiềm chế sự tác
động của quy luật khác.
Việc nhận thức các quy luật khách quan, nhất là các quy luật phổ biến,
có ý nghĩa thực tiễn to lớn, tạo điều kiện cho con người làm chủ tốt hơn tự
nhiên và xã hội. Những quy luật phổ biến của phép biện chứng duy vật khái
quát cách thức, nguyên nhân và khuynh hướng vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng, phản ánh bản chất biện chứng của thế giới khách quan vốn
được con người rút ra từ trong lịch sử của giới tự nhiên và lịch sử của xã
hội loài người. Các quy luật này định hướng việc nghiên cứu các quy luật
đặc thù, mối liên hệ giữa chúng, từ đó tạo ra cơ sở khách quan cho mối liên
hệ giữa triết học duy vật biện chứng với khoa học chuyên ngành.
1.1.2. Khái niệm về chất
Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố
tạo nên sự vật, hiện tượng làm cho sự vật, hiện tượng là nó mà không phải
là sự vật, hiện tượng khác (trả lời cho câu hỏi sự vật, hiện tượng đó là gì?
Giúp phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác). Đặc điểm cơ bản của chất
là nó thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng; nghĩa là khi nó
chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa
thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua
nhiều giai đoạn, trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy, mỗi
sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có thể có nhiều chất.
Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó, nhưng
không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính
của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. lOMoAR cPSD| 23022540
Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố
tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa
là bởi kết cấu của sự vật.
1.1.3. Khái niệm về lượng
Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện
tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng
các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Lượng còn biểu hiện ở kích
thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao
hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt...
Đặc điểm cơ bản của lượng là tính khách quan vì nó là một dạng biểu
hiện của vật chất, chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại
trong thời gian nhất định. Trong tự nhiên và phần nhiều trong xã hội, lượng
có thể đo, đếm được nhưng trong một số trường hợp của xã hội và nhất là
trong tư duy, lượng khó đo được bằng số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận biết
được bằng năng lực trừu tượng hóa. Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có
ý nghĩa tương đối, tùy theo từng mối quan hệ mà xác định đâu là lượng và
đâu là chất; cái là lượng trong mối quan hệ này, lại có thể là chất trong mối quan hệ khác.
1.1.4. Các khái niệm liên quan trong quá trình tác động lẫn nhau giữa chất và lượng
Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau
giữa chất với lượng; là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó
sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng
vẫn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.
Điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ,
làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời
điểm mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy, gọi là điểm nút.
Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất
của sự vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là
bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng. Bước nhảy kết thúc một
giai đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên
tục của sự vật, hiện tượng.
1.2. Nội dung quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất (và ngược lại).
Sự vật, hiện tượng mới xuất hiện là do bước nhảy được thực hiện; trong
sự vật, hiện tượng đó lượng lại biến đổi, đến điểm nút mới, lại xảy ra bước lOMoAR cPSD| 23022540
nhảy mới. Cứ như thế, sự vận động của sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì
biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì nhảy vọt về chất, tạo nên một đường dài
thay thế nhau vô tận sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới. Quy
luật lượng đổi - chất đổi còn nói lên chiều ngược lại, nghĩa là khi chất mới
đã khẳng định mình, nó tạo ra lượng mới phù hợp để có sự thống nhất mới giữa chất với lượng.
1.2.1. Quá trình thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
Trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, thông thường sự
biến đổi về lượng là khởi đầu cho sự biến đổi về chất. Tuy nhiên, “lượng”
và “chất” có mối quan hệ biện chứng, nên ngược lại sự biến đổi về chất
cũng gây ra sự biến đổi lượng. Nhưng trong quan hệ đó, “chất” là mặt tương
đối ổn định, còn “lượng” lại dễ biến đổi hơn. Bởi vậy, sự biến đổi về
“lượng” thường diễn ra trước.
Mối quan hệ giữa các khái niệm cấu thành quy luật chỉ ra rằng,
mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng,
chúng tác động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang
tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ; nhưng cũng trong phạm
vi độ đó, chất và lượng đã tác động lẫn nhau làm cho sự vật, hiện tượng dần
biến đổi bắt đầu từ lượng. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu
hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng không lập tức dẫn đến sự thay đổi về
chất của sự vật, hiện tượng; chỉ khi nào lượng thay đổi đến giới hạn nhất
định (đến độ) mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Như vậy, sự thay đổi về
lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quả là sự vật, hiện tượng cũ mất đi,
sự vật, hiện tượng mới ra đời. Sự vật, hiện tượng mới xuất hiện là do bước
nhảy được thực hiện; trong sự vật, hiện tượng đó lượng lại biến đổi, đến
điểm nút mới, lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như thế, sự vận động của sự
vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì nhảy vọt
về chất, tạo nên một đường dài thay thế nhau vô tận sự vật, hiện tượng cũ
bằng sự vật, hiện tượng mới.
1.2.2. Quá trình thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng
Quan hệ biện chứng Lượng–Chất cũng đúng trong trường hợp ngược lại,
bởi bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất
và mặt lượng và tác động qua lại lẫn nhau nên thay đổi về chất tác động trở
lại đối với sự thay đổi về lượng. Lượng thay đổi luôn luôn trong mối quan
hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Song sự tác động của chất đối với
lượng rõ nét nhất khi xảy ra bước nhảy về chất, chất mới thay thế chất cũ,
nó quy định quy mô và tốc độ phát triển của lượng mới trong một độ mới.
Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác động
trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng lOMoAR cPSD| 23022540
mới phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự quy
định này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới
của lượng. Có thể nói, quá trình biến đổi của chất diễn ra sau nhưng biến
đổi và tạo ra tác động với “lượng” một cách nhanh chóng hơn quá trình tích
luỹ của “ lượng” để gây nên biến đổi cho “chất”. 1.3.
Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết
tích lũy về lượng để có biến đổi về chất; không được nôn nóng cũng như
không được bảo thủ. Bước nhảy làm cho chất mới ra đời, thay thế chất cũ
là hình thức tất yếu của sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng;
nhưng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích lũy
về lượng để có biến đổi về chất.
Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu
cầu khách quan của sự vận động của sự vật, hiện tượng; tư tưởng nôn nóng
thường biểu hiện ở chỗ không chú ý thỏa đáng đến sự tích lũy về lượng mà
cho rằng sự phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ là những bước nhảy liên
tục; ngược lại, tư tưởng bảo thủ thường biểu hiện ở chỗ không dám thực
hiện bước nhảy, coi sự phát triển chỉ là những thay đổi về lượng. Do vậy,
cần khắc phục cả hai biểu hiện trên.
Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải có thái độ khách quan,
khoa học và quyết tâm thực hiện bước nhảy; tuy đều có tính khách quan,
nhưng quy luật xã hội chỉ diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con
người; do vậy, khi thực hiện bước nhảy trong lĩnh vực xã hội, tuy vẫn phải
tuân theo điều kiện khách quan, nhưng cũng phải chú ý đến điều kiện chủ
quan. Nói cách khác, trong hoạt động thực tiễn, không những cần xác định
quy mô và nhịp điệu bước nhảy một cách khách quan, khoa học, chống giáo
điều, rập khuôn, mà còn phải có quyết tâm và nghị lực để thực hiện bước
nhảy khi điều kiện đã chín muồi, chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện
kịp thời bước nhảy khi điều kiện cho phép, chuyển thay đổi mang tính
tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn
phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện
tượng; do đó, phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào
phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng. 1.4. Vai trò quy luật
Vạch ra cách thức của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. lOMoAR cPSD| 23022540
Nếu trong tự nhiên, nội tại sự vật, hiện tượng chỉ diễn ra sự biến đổi về
lượng thì chung quy chỉ có sự biến đổi về quy mô, mức độ, trình độ phát triển
mà không bao giờ có thể phá vỡ điểm nút để hình thành một chất mới, sự
vật, hiện tượng mới – đồng nghĩa xã hội không thể sáng tạo ra những cái
mới, con người không thể khám phá ra một lĩnh vực mới hay đột phá một
quy luật, quá trình mới.
Ngược lại, nếu sự nhảy vọt về chất không quy định bất cứ sự biến đổi về
lượng nào thì sự vật, hiện tượng hay con người sẽ mang những thuộc tính cố
hữu, không có khả năng thay đổi, phát triển về quy mô, năng lực trình độ,
không có khả năng được cải tiến, nâng cấp, trở nên vượt trội, ưu việt hay tiên tiến.
Chung quy, nếu mối quan hệ giữa lượng và chất không phải là quan hệ
biện chứng hoặc thiếu đi môt trong hai quá trình, các quá trình vận động và
phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy sẽ bị gián đoạn hoặc phá vỡ, ngăn
cản các bước tiến trong nền văn minh nhân loại. 1.5.
Ví dụ về quy luật lượng- chất.
Lấy ví dụ một loại vật chất là nước (H2O) thì sự chuyển biến về chất (trạng
thái) được quy định bởi lượng (nhiệt độ). Thông thường, trạng thái lỏng của
nước tồn tại trong độ (phạm vi) từ 0℃ đến 100℃, tức là trong phạm vi này,
bất cứ sự thay đổi nào về lượng đều không gây ra sự biến đổi về chất. Trong
ví dụ này, 0℃ và 100℃được coi là điểm nút, khi lượng phá vỡ điểm nút thì
chất mới ra đời. Khi vượt qua điểm nút 0℃ sẽ gây ra thay đổi về chất, cụ thể
là nước chuyển từ trạng thái lỏng sang trạng thái rắn. Sự tác động ngược trở
lại của chất đối với lượng trong trường hợp này là khi chuyển sang trạng thái
rắn, thể tích của cùng một khối lượng nước sẽ tăng lên so với khi ở trạng thái lỏng.
Chương II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN GẮN VỚI NGÀNH
CÔNG NGHỆ TÀI CHÍNH
2.1. Giới thiệu sơ lược về ngành công nghệ tài chính
Chương trình đào tạo cử nhân công nghệ tài chính (fintech), ngành tài
chính ngân hàng được thành lập từ năm 2018 tại trường Đại học kinh tế quốc
dân, đây là chương trình cử nhân công nghệ tài chính đầu tiên tại Việt Nam.
Do đặc thù của ngành là sự kết hợp giữa tài chính truyền thống và công
nghệ hiện đại, khi hoàn thành Chương trình, học viên không những được
trang bị toàn bộ các kiến thức của một cử nhân Tài chính truyền thống mà
còn được sở hữu các kiến thức quan trọng của Công nghệ Tài chính như:
quản lý công nghệ tài chính; phân tích dữ liệu tài chính qui mô lớn (Big data); lOMoAR cPSD| 23022540
quản lý và ứng dụng cơ sở dữ liệu tài chính; sử dụng phần mềm ứng dụng
trong tài chính; phân tích đầu tư và ứng dụng công nghệ; đối mới sáng tạo
tài chính; thương mại điện tử và marketing tài chính; đổi mới và sáng tạo tài
chính và quản trị khởi nghiệp trong lĩnh vực tài chính.
Các học viên hoàn thành Chương trình Cử nhân Công nghệ Tài chính
(FinTech) sẽ có triển vọng nghề nghiệp tại các vị trí công việc cần bằng cấp
về Tài chính như các cử nhân Tài chính truyền thống. Ngoài ra, với những
kiến thức Công nghệ Tài chính của mình, các học viên của Chương trình còn
rất phù hợp cho những vị trí cần kiến thức về Công nghệ Tài chính tại ngân
hàng, công ty tài chính, công ty chứng khoán và công ty công nghệ tài chính
(FinTech company) như phát triển công nghệ tài chính, ứng dụng và quản lý
các ứng dụng công nghệ tài chính.
2.2. Ý nghĩa phương pháp luận gắn với ngành công nghệ tài chính
2.2.1. Vài nét về mối quan hệ giữa quy luật lượng-chất với quá trình học tập
Học tập là quá trình tích luỹ tri thức, vốn hiểu biết về nọi mặt của tự nhiên
và đời sống xã hội, là một trong những quá trình diễn ra lâu dài và quan trọng
bậc nhất trong cuộc đời của mỗi con người nhằm mục đích xây dựng giá trị
bản thân, đóng góp, xây dựng xã hội…Mặc dù hoạt động tích luỹ tri thức có
thể diễn ra trong khoảng thời gian bao lâu phụ thuộc vào nhu cầu học tập của
mỗi người, nhưng thông thường, mười hai năm giáo dục phổ thông và những
năm trên giảng đường đại học là trọng tâm nhất bởi lượng kiến thức được
trang bị tập trung, cơ bản và đầy đủ nhất. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình
này là một vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết để từ đó có thể hiểu rõ hơn
hoạt động và giúp hoạt động này đạt được hiệu quả cao nhất.
Quá trình tích lũy tri thức, kinh nghiệm diễn ra ở mỗi người khác nhau là
khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, khả năng, điều kiện… của mỗi người.
Quá trình tích lũy tri thức ở bậc đại học cũng không nằm ngoài quy luật
lượng-chất. Bởi vì, dù nhanh hay chậm thì sớm muộn, sự tích lũy về tri thức
cũng sẽ làm con người có được sự thay đổi nhất định, tức là có sự biến đổi
về chất. Để làm rõ vấn đề này, em xin áp dụng vào ngành học của bản thân
để thấy rõ ý nghĩa phương pháp luận.
2.2.2. Ý nghĩa phương pháp luận với ngành học của bản thân
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận
có ý nghĩa phương pháp luận với ngành học: * Về mặt nhận thức lOMoAR cPSD| 23022540
Thứ nhất, nhận thức rõ học tập là quá trình tích luỹ kiến thức dài hạn và
bền bỉ, yêu cầu sự tích luỹ đầy đủ của cả lượng và sự nhảy vọt lâu dài của
chất. Quy luật chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất thể hiện ở việc: Mỗi học sinh thực hiện tích luỹ về lượng thông qua việc
đi học đủ số buổi học yêu cầu, thông qua các bài giảng trên lớp của thầy cô,
qua việc tìm tòi tự học hoặc từ nhiều nguồn khác nhau để tích luỹ vốn kiến
thức cho mình (nhiều hay ít phụ thuộc vào nhu cầu của mỗi học sinh). Như
vậy, các khoảng thời gian, năm học hoặc quá trình học tập cụ thể được coi là
độ, trong đó các bài kiểm tra kết thúc giai đoạn, các kì thi quan trọng … đặt
ra để đánh giá sự tích luỹ về mặt lượng của học sinh, sẽ được coi là điểm nút.
Nếu học sinh tích luỹ đủ lượng nhất định để vượt qua các điểm nút này, sẽ
tiến hành các bước nhảy vọt. Bước nhảy vọt này có thể là bước nhảy từ năm
nhất qua năm hai, từ trung học lên đại học…Trong mười hai năm học phổ
thông, học sinh bắt buộc phải vượt qua nhiều điểm nút tương ứng với từng
cấp học và chương trình học, tích luỹ đủ về mặt lượng theo yêu cầu và thực
hiện nhiều bước nhảy. Trong đó, điểm nút quan trọng nhất trước khi bước
chân vào giảng đường đại học có thể kể đến kì thi tốt nghiệp thptqg, việc
vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng,
tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của lượng và chất,
từ học sinh chuyển thành sinh viên. Sau khi thực hiện được bước nhảy trên,
chất mới trong mỗi người được hình thành và tác động trở lại lượng. Sự tác
động đó thể hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành động của mỗi sinh
viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học sinh trung học…
Thứ hai, nhận thức sự khác biệt giữa chương trình học đại học với
chương trình học phổ thông.
So với chương trình học phổ thông, bậc đại học có sự khác biệt đáng kể,
những sự khác biệt đó được thể hiện thông qua chất. Nếu một môn học ở cấp
trung học được học bền bỉ trong nhiều năm với lượng kiến thức hàn lâm cơ
bản, nặng về mặt lý thuyết nhưng được chia nhỏ thành nhiều đơn vị để dễ
tiếp cận; thì môn học ở đại học mang tính chuyên sâu và thực tiễn hơn, đồng
thời lượng kiến thức chỉ phân bố trong một số tín chỉ, trong một số lượng tiết
học có hạn. Ví dụ đối với ngành Công nghệ tài chính, kiến thức không còn
cơ bản như các môn toán, lý, hoá... ở cấp phổ thông, mà đi sâu nghiên cứu
về lĩnh vực tài chính như các môn: Thống kê ứng dụng trong tài chính, quản
trị tài chính, phân tích tài chính, đầu tư tài chính.... (Các môn học về tài chính
và tin học). Sự tích luỹ về lượng ở trung học thể hiện ở việc tham gia đủ số
buổi học, còn ở bậc đại học thể hiện ở việc tích luỹ đủ số tín chỉ, môn học.
Sự đa dạng trong phạm vi học tập và quy mô kiến thức yêu cầu sinh viên
phải đặt ra nhiều mục tiêu bài bản và cụ thể hơn là việc chỉ học lý thuyết ở
cấp phổ thông như tham gia làm việc nhóm, xây dựng các dự án, nghiên cứu, lOMoAR cPSD| 23022540
thực tập hoặc làm đồ án tốt nghiệp…. Sự khác biệt về chất này vừa là cơ hội,
vừa là thách thức đối với sinh viên, đòi hỏi sinh viên không chỉ học tập trên
giảng đường mà còn phải rèn luyện kĩ năng mềm, học hỏi từ nhiều nguồn
khác nhau, tự tìm tòi nghiên cứu chứ không còn tiếp thu kiến thức thụ động
như ở trung học. Ở đây là sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ là sự thay
đổi về hình thức, chúng ta có thể thấy sự thay đổi từ trường phổ thông lên
Đại học cũng tương tự như sự chuyển hoá từ lượng thành chất.
* Về mặt hành động thực tiễn
Thứ nhất, thực hiện tích luỹ đầy đủ, tuần tự lượng kiến thức cần thiết, bổ
sung rộng rãi vốn hiểu biết và rèn luyện thêm nhiều kĩ năng.
Như đã nói trên, bước nhảy làm cho chất mới ra đời, thay thế chất cũ là
hình thức tất yếu của sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng;
nhưng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích lũy về
lượng để có biến đổi về chất. Tương tự đối với quá trình học tập của sinh
viên, cần phải tích luỹ đủ số tín chỉ yêu cầu, ví dụ đối với sinh viên ngành
công nghệ tài chính cần tích luỹ đủ 130 tín chỉ để đủ điều kiện tốt nghiệp;
tích luỹ đủ số buổi học yêu cầu, ví dụ: Không vắng thiếu quá 2025% số buổi
học quy định để đủ điều kiện dự thi… Do đó, trong hoạt động nhận thức, học
tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng (tri thức) làm biến đổi
về chất (kết quả học tập) theo quy luật. Trong quá trình ấy, cần bồi đắp kiến
thực một cách tuần tự, hợp lý, tránh tư tưởng nóng vội, gấp rút trong học tập
và rèn luyện như việc nhồi nhét khối lượng kiến thức quá lớn, học quá nhiều
các môn học mang tính tuần tự cùng một thời điểm gây ra sự dồn nén về mặt
lý thuyết nhưng thiếu tính thực tiễn. Đồng thời, cũng không nên bảo thủ, trì
trệ trong quá trình học tập bởi nếu không thúc đẩy tiến trình học tập hợp lý
thì kết quả học tập của sinh viên dễ bị tụt hậu, không theo kịp tốc độ học
trung bình của bạn bè đồng trang lứa. Một sinh viên chỉ đăng ký số tín chỉ
tối thiểu của một kì chắc chắn sẽ không theo kịp tiến độ học tập của một học
sinh đăng ký tối đa số tín chỉ (đối với trường kinh tế quốc dân là 12 và 25 tín
chỉ). Bởi vậy, cần phải thiết kế và xây dựng một lộ trình học tập đúng đắn,
hợp lý, phù hợp với năng lực bản thân, xác định rõ các mục tiêu học tập để
từng bước theo đuổi. Trong bốn năm học đại học, dù sinh viên đang thực
hiện quá trình tích luỹ về lượng thông qua việc học tập từ thầy cô và tự học
ở nhà thì lượng kiến thức có khả năng đạt được vẫn chưa thể nào hoàn chỉnh
để tiến hành làm việc theo đúng chuyên ngành, cho nên thường sau ba đến
bốn năm rèn luyện - học tập, tích luỹ đủ kiến thức, kĩ năng, vượt qua được
các kì thi (điểm nút) thì mới đủ điều kiện nhảy vọt về chất, tức là đủ tiêu
chuẩn ra trường làm việc.
Thứ hai, cần đảm bảo việc học kĩ lưỡng chuyên sâu về kiến thức cũ (đủ
về lượng),và mạnh dạn học tập những lĩnh vực mới (nhảy vọt về chất). lOMoAR cPSD| 23022540
Khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách
quan của sự vận động của sự vật, hiện tượng, tuy nhiên sự phát triển của sự
vật hiện tượng không phải chỉ là những bước nhảy liên tục. Nếu như trong
quá trình học tập sinh viên chỉ tích lũy về mặt lượng trên bề nổi, tức là học
chồng chất lượng kiến thức lớn nhưng không chuyên sâu, không thực sự
thành thạo và tìm hiểu kĩ lưỡng thì lượng kiến thức không thể nào được vận
dụng vào thực tiễn một cách thành thạo, sinh viên không thực sự làm chủ
kiến thức. Để ghi nhớ kiến thức lâu dài, áp dụng vào thực tiễn một cách hiệu
quả thì sinh viên cần phải trải qua một quá trình ôn luyện kỹ lưỡng, đào sâu
tìm tòi những tài liệu mở rộng ngoài giáo trình, thay vì chỉ học để đối phó
với kỳ thi hoặc học tủ, học thuộc. Ví dụ, đối với sinh viên ngành công nghệ
tài chính, ngoài những kiến thức lập trình cơ bản, sinh viên còn có thể học
chuyên sâu hơn về ngôn ngữ lập trình, trí tuệ nhân tạo, đào sâu vào lĩnh vực
tin học để thuận tiện vận dụng vào lĩnh vực tài chính.
Bên cạnh đó sự phát triển không chỉ là những thay đổi về lượng bởi vậy
không nên ngần ngại thực hiện các bước nhảy khi đã tích lũy đủ các điều
kiện về lượng. Đối với sinh viên, nên liên tục khám phá, mạnh dạn tìm hiểu
các lĩnh vực mới, sáng tạo những điều mới mẻ, đặc biệt là các lĩnh vực có
thể giúp ích cho ngành học của mình. Chính việc mạnh dạn thực hiện các
bước nhảy để đột phá về chất giúp sinh viên ngày nay không chỉ áp dụng
những gì đã được dạy ở trường lớp, mà còn thông thạo nhiều lĩnh vực, ngành
nghề đa phương tiện, đa kỹ năng, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực năng
động, chất lượng cao của doanh nghiệp. Sinh viên ngành công nghệ tài chính
hoàn toàn có thể học thêm về lĩnh vực marketing để nghiên cứu chuyên sâu
về thị trường và thị hiếu của người sử dụng dịch vụ tài chính, từ đó định
hướng các phần mềm tài chính thông minh phù hợp với thị hiếu khách hàng,
tăng cao doanh số. Việc mạnh dạn khám phá các lĩnh vực mới giúp các bạn
sinh viên khai thác những tiềm năng của bản thân, những điểm mạnh để từ
đó thúc đẩy khả năng sáng tạo, khám phá chân trời mới về kiến thức, mở ra
nhiều cơ hội phát triển bản thân rực rỡ.
Thứ ba, rèn luyện thái độ quyết tâm, nghiêm túc, tích cực và thái độ
khách quan, khoa học trong học tập.
Như đã nói trên, khối lượng kiến thức ở trường đại học là một kho tàng
bao la vô tận, nếu sinh viên không lên kế hoạch học tập một cách khoa học,
không áp dụng lý thuyết vào thực tiễn, không đào sâu mở rộng tiếp thu những
ý kiến khách quan ngoài sách vở thì rất dễ rơi vào rập khuôn, giáo điều, kiến
thức sáo rỗng. Điều đó đồng nghĩa sự vận động của quá trình học tập chỉ
dừng lại ở việc mở rộng quy mô về lượng nhưng chưa thực sự đột phá về
chất (trong nhận thức, trong thành tựu thực tế). Cần tiếp thu kiến thức một
cách có chọn lọc, phân luồng kiến thức một cách khoa học, đứng trên lập lOMoAR cPSD| 23022540
trường khách quan để nhận thức tri thức, đồng thời học đi đôi với hành để
tránh khỏi giáo điều khuôn sáo.
Đồng thời, cần phải biết, muốn có sự thay đổi về chất, cần tích luỹ đủ về
lượng, mà sự tích luỹ ấy phải được tạo dựng trên nền tảng cố gắng phấn đấu,
nỗ lực của chính bản thân mình chứ không phải yếu tố khách quan nào khác.
Kiến thức ở môi trường đại học đòi hỏi chuyên môn cao hơn, tư duy phức
tạp nhưng quá trình tiếp thu kiến thức lại chủ động hơn so với cấp phổ thông,
cho nên sinh viên bắt buộc phải tự chịu trách nhiệm hoàn toàn với việc học
của bản thân. Bởi vậy, xây dựng thái độ học nghiêm túc, tự lập, tự chủ, chăm
chỉ là điều rất cần thiết. Để đạt được những kết quả tốt trong học tập (chất),
cần tích luỹ những thói quen (lượng) tích cực. Trước hết là xây dựng mục
tiêu học tập có chủ đích, ôn luyện bài cũ đều đặn, vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, phân bổ thời gian hợp lý, tự giác... Tiếp theo đó là tích cực rèn
luyện các kĩ năng mềm, kĩ năng giao tiếp xã hội để giàu trải nghiệm hơn.
Thứ tư là tham gia hoạt động nhóm, hoạt động xã hội, để xây dựng các
mối quan hệ và đóng góp cho cộng đồng.
Một cộng đồng bao gồm nhiều cá nhân, bởi vậy phẩm chất, năng lực của
các cá nhân được tích luỹ (lượng) sẽ tạo nên đặc tính (chất) của cộng đồng.
Nếu các cá nhân trong tập thể có đức tính tốt, có năng lực giỏi giang thì tập
thể đó là môi trường học tập, lao động lành mạnh, nếu các thanh viên hoà
đồng đoàn kết thì đó cũng là một tập thể bền chặt vững mạnh. Khi tập thể trở
nên tích cực, nó cũng đồng thời đem lại cho các cá nhân sự phát triển như
phát triển các mối quan hệ, tạo cơ hội giao lưu học hỏi.... Chính vì vậy, sinh
viên cũng cần có ý thức đóng góp, tham gia hoạt động tập thể, ngoại khoá,
hoạt động xã hội để cống hiến đóng góp xây dựng xã hội theo chiều hướng ngày một tích cực. lOMoAR cPSD| 23022540 Lời kết
Như vậy, sau khi tìm hiểu rõ bản chất và ý nghĩa phương pháp luận của
quy luật Lượng-Chất, có thể khẳng định đây là một trong ba quy luật cơ
bản nhất của phạm trù triết học, tác động đến toàn bộ sự hình thành, biến
đổi, chuyển hoá của sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội, đồng thời
chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển. Thông qua phân
tích, không khó để thấy được quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên
đại học cũng là quá trình tích luỹ về lượng để làm thay đổi về chất, từ đó
em rút ra được những ý nghĩa phương pháp luận có ích cho ngành học của
bản thân. Trong việc phát triển học tập hay bất cứ phương diện nào của
cuộc sống, nếu biết vận dụng đúng đắn quy luật lượng-chất, sinh viên có
thể nâng cao đáng kể tính hiệu quả, khoa học và hợp lý. Khi lượng của
bản thân tích luỹ được càng lớn thì giá trị bản thân lại càng được nâng cao
hơn, bởi vậy, cần nỗ lực, cố gắng không ngừng để trau dồi thêm kiến thức,
kĩ năng; không chỉ đáp ứng yêu cầu nhà tuyển dụng mà còn khám phá
những lĩnh vực mới, sáng tạo những giá trị mới để nâng cao “chất” của
cộng đồng xã hội, xây dựng một thái độ khách quan, tích cực, nghiêm túc;
thực hiện mục tiêu một cách tuần tự, không bảo thủ trì trệ cũng không nôn
nóng, đốt cháy giai đoạn. Quy luật lượng-chất sẽ là chìa khoá quý giá để
mở ra phương hướng học tập và lao động hiệu quả cho các bạn sinh viên
nói riêng và người lao động nói chung.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin, nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, 2021
2. “ Quy luật lượng-chất”, Wikipedia, 2015
3. Tô Thị Phương Dung, “Sự biến đổi về lượng và sự biến đổi về
chấtkhác nhau như thế nào?”, luatminhkhue.vn, 2022
4. “Các trạng thái của nước, đặc điểm, loại và những thay đổi”,
www.meteorologiaenred.com , 2022
5. Công nghệ tài chính (BFT)_2022 pdf, daotao.neu.edu.vn, 2022