lOMoARcPSD| 45474828
TRƯ
NG Đ
I H
C THƯƠNG M
I
L
CH S
Đ
NG C
NG S
N
TÌM HI
U N
I DUNG PHÁ RÀO TRONG LĨNH V
C NÔNG
NGHI
P TRONG TÁC PH
M: “PHÁ RÀO TRONG KINH T
VÀO
ĐÊM TRƯ
C Đ
I M
I”
C
A TÁC GI
Đ
NG PHONG.
Gi
ng viên hư
ng d
n:
Hoàng
Th
Th
m
Nhóm
:
5
L
p :
2336
HCMI
0131
lOMoARcPSD| 45474828
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 .................... 4
1.1. Những mục tiêu và kỳ vọng sau ngày giải phóng ................................................................ 4
1.2. Thực trạng nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1975-1985 .................................................... 5
CHƯƠNG 2: CÁC ỚC PHÁ RÀO TRONG LINH VỰC NÔNG NGHIỆP TRƯỚC ĐỔI
MỚI ................................................................................................................................................... 11
2.1. Khái niệm “phá rào”............................................................................................................ 11
2.2 Tính cấp thiết của phá rào trong nông nghiệp ................................................................... 12
2.3. Quá trình phá rào ................................................................................................................ 20
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA CỦAPHÁ RÀO” TRONG LĨNH VỰC NÔNG ..... 31
NGHIỆP ............................................................................................................................................ 31
3.1. Kết quả và ý nghĩa của phá rào Vĩnh Phúc ............................................................................ 31
3.2. Kết quả và ý nghĩa của phá rào Hải Phòng ....................................................................... 33
3.3. Kết quả và ý nghĩa của phá rào tại Nông trường Sông Hậu ............................................ 35
3.4. Kết quả và ý nghĩa của việc giải thể các tập đoàn máy kéo ở An Giang ......................... 36
3.5. Kết quả và ý nghĩa của chính sách Tam nông ở An Giang ............................................... 37
3.6. Ý nghĩa chung của các cuộc phá rào .................................................................................. 38
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VỀ PHÁ RÀO ..................................................................................... 40
4.1. Kết luận về điều kiện làm nên thành công của phá rào ................................................... 40
4.2. Kết luận về hạn chế của quá trình phá rào ....................................................................... 43
4.3. Đề xuất giải pháp.................................................................................................................. 44
4.4. Đặc điểm của phá rào và giai đoạn dẫn đến đổi mới ........................................................ 46
KẾT LUẬN ....................................................................................................................................... 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................... 49
lOMoARcPSD| 45474828
3
LỜI MỞ ĐẦU
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng nhất tại Việt Nam từ xưa đến nay.
Bên cạnh việc sản xuất để phục vụ nhu cầu ngày càng tăng ở trong nước, Việt Nam còn là nước xuất
khẩu lượng nông sản lớn mỗi năm. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, ngày
114-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thư kêu gọi điền chủ, nông gia Việt Nam tham gia hợp tác xã
nông nghiệp. Trong thư Bác Hồ đã viết: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế lấy
canh nông làm gốc... nông dân giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”; “nông
dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh thì cần phải có hợp tác xã”; “... hợp tác xã là hợp vốn, hợp
sức với nhau. Vốn nhiều, sức mạnh, thì khó nhọc ít lợi ích nhiều”. Trong thư Bác đề cao vai trò
của hợp tác xã, việc tham gia hợp tác xã là cách tranh đấu kinh tế có hiệu quả nhất, để giúp vào việc
xây dựng nước nhà. Trải qua c thời kỳ cách mạng Việt Nam, khu vực kinh tế hợp tác, HTX luôn
luôn có những đóng góp quan trọng vào công cuộc giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước. Trong giai
đoạn chống Mỹ cứu nước, miền Bắc, khi hầu hết lực lượng thanh niên ra mặt trận, HTX nông nghiệp
đã có vai trò vô cùng quan trọng duy trì và phát triển sản xuất, đảm bảo hậu phương ổn định và cung
cấp lương thực, thực phẩm cho nhân dân miền Bắc và tiền tuyến lớn miền Nam.
Bên cạnh những mặt tích cực của hình thức hợp tác thì sau năm 1975 đất nước ta hoàn toàn
thống nhất đi lên xây dựng hội chủ nghĩa thì hình thức này lại một số nhược điểm như: tính
hình thức trong chuyển đổi HTX theo Luật HTX chưa được khắc phục căn bản; nhiều HTX quy mô
nhỏ, thiếu vốn, tài sản ít, khả năng cạnh tranh thấp, chậm đổi mới, năng lực nội tại của các HTX còn
yếu; đội ngũ cán bộ quản lý HTX còn hạn chế về trình độ, lại không ổn định làm việc lâu dài trong
HTX… Điều nãy dẫn đến đời sống nhân dân lúc bấy giờ vô cùng khó khăn.
Với những khó khăn đó ở Việt Nam lúc bấy giờ đã tích cực tìm ra những biện pháp nhằm thay
đổi nền kinh tế theo hướng tích cực. Tại nhiều địa phương lúc bấy giờ do quá khó khăn họ đã tự tìm
cách thoát khỏi tình trạng ách tắc, khủng hoảng đó bằng công cuộc “phá rào”. Vậy vì sao cần phải
“phá rào”? Việc “phá rào mang lại thay đổi gì cho nền kinh tế”?...
Để làm sáng tỏ điều đó, nhóm đã chọn đề tài thảo luận: “Tìm hiểu nội dung phá rào trong
lĩnh vực nông nghiệp trong tác phẩm : “Phá rào vào đêm trước đổi mới” của tác giả Đặng
Phong.” để chứng minh được sự đúng đắn trong công cuộc “phá rào” của nhân dân ta.
NỘI DUNG
lOMoARcPSD| 45474828
4
CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985
1.1. Những mục tiêu và kỳ vọng sau ngày giải phóng
Đại thắng mùa xuân m 1975 đánh dấu kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ, đồng
thời kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt vĩnh viễn
ách thống trị của đế quốc Pháp - Mỹ chế độ phong kiến, mở ra một trang sử mới: kỷ nguyên
độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc xây dựng chủ nghĩa hội trên phạm vi cả nước. Từ
đây, Việt Nam đã là một đất nước hòa bình, thống nhất, Nam - Bắc đã có khả năng hỗ trợ cho
nhau để phục hồi, đi lên tiến kịp sánh vai với thế giới. Mọi hoạt động của hội không
những đã trở lại bình thường còn tốt hơn nhờ sự trần an về tinh thần: Từ nay không còn
chiến tranh, từ nay không còn bom đạn, từ nay có thể yên ổn sống trong hòa bình.
Đó thời để toàn Đảng, toàn dân y dựng một sự đồng thuận, thống nhất trên
phạm vi cả nước trong phấn khởi, trong yên vui, khép lại quá khứ, nhìn về tương lai, hàn gắn
những vết thương về kinh tế, hội tinh thần. Trước sự chuyển mình của lịch sử cùng
những cơ hội mở ra trước mắt, các lãnh đạo và nhân dân cả nước không khỏi kỳ vọng về một
tương lai tươi sáng mở ra trước mặt, ớc vào công cuộc xây dựng hội chủ nghĩa trong
không khí khẩn trương và một khí thế sôi nổi của niềm vui chiến thắng.
Những mong mỏi, hy vọng đó được Đảng cụ thể hóa bằng những chính sách mục tiêu,
kế hoạch như:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 BCHTW Đảng khóa III ngày 29/9/1975 về nhiệm vụ
của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới nhấn mạnh đến đấu tranh giai cấp, cải tạo, dẹp
bỏ những thành phần kinh tế cũ, khẩn trương xây dựng nền sản xuất lớn hội chủ nghĩa:
“…Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là: Hoàn thành thống
nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Miền
Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội và hoàn thiện quan hệ sản
xuất hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo hội chủ nghĩa xây
dựng chủ nghĩa xã hội”
Đại hội Đảng lần thứ IV xác định để đưa cách mạng hội chủ nghĩa đến toàn thắng,
“điều kiện quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng ờng chuyên chính vô
sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Tn
sở ởng đó, Đại hội IV đã hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 19761980. Bản
kế hoạch này vị trí hết sức quan trọng, bởi vừa phải giải quyết những hậu quả nặng
nề của 30 năm chiến tranh của chủ nghĩa thực dân mới, vừa phải tổ chức lại nền kinh tế
lOMoARcPSD| 45474828
5
vốn nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng một bước nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong cả nước,
đặt cơ sở cho sự nghiệp công nghiệp hóa nước nhà. Vì vậy, Đảng đã lập ra một kế hoạch với
nhiều hy vọng:
- “Tương lai tươi sáng đó mở đầu từ kế hoạch 5 năm này. Những viên đá nền tảng được
đặt đúng chỗ xây dựng vững vàng, thì trên sđó cả sự nghiệp lớn lên.” - Dự kiến
bình quân hằng năm sản phẩm hội tăng từ 14-15%, thu nhập quốc dân tăng 13-14%,
giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8- 10%. Năng 5 suất lao động hội tăng 7,5-8%.
- "Năm 1980 đạt ít nhất 21 triệu tấn lương thực quy thóc, 1 triệu tấn thịt hơi các loại.”
1.2. Thực trạng nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1975-1985
1.2.1. Thực trạng kinh tế Việt Nam nói chung giai đoạn 1975-1985 Bối
cảnh kinh tế Việt Nam 1975 - 1985:
- Cấm vận thương mại của Mỹ
Giai đoạn 1975 - 1985 giai đoạn khó khăn đối với nền kinh tế Việt Nam. Sau khi
Việt Nam giành được độc lập giải phóng hoàn toàn miền Nam, Tổng thống Gerald R.Ford
tháng 5/ 1975 đã áp đặt cấm vận thương mại với Việt Nam, cùng với đó bối cảnh quốc tế xuất
hiện nhiều diễn biến không thuận lợi với nước ta. Điều này khiến cho tình hình kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn đầu sau khi kết thúc chiến tranh vô cùng khó khăn. Lúc bấy giờ, ở Liên
các quốc gia Đông u xuất hiện phong trào cải cách quản kinh tế, rất nhiều ý kiến
phê phán mô hình quản lý kinh tế của Liên Xô là không còn phù hợp.
- Thiên tai - địch họa
Từ năm 1977-1978, bóng quân thù lại xuất hiện phía Tây Nam: Toàn bộ tuyến biên
giới Tây Nam bị quân Pol Pot đánh phá. Lính Khơ me đỏ đã tấn công vào hầu khắp các
biên giới. Đạn pháo đã bắn hằng ngày vào lãnh thổ Việt Nam. Hàng ngàn đồng bào (trong đó
cả trẻ em) đã bị tàn sát. Cuối năm 1978, Việt Nam đưa quân sang để cứu nhân dân
Campuchia thoát khỏi ách thống trị của chính quyền sát nhân Pol Pot. Việc duy trì một quân
số rất lớn trong nước cả Campuchia một gánh quá nặng đè lên một ngân sách quá
yếu một dân tộc đã quá mệt mỏi sau nhiều thập kỷ chiến tranh. Đầu năm 1979 thì bóng
quân thù lại tràn ngập khắp biên giới phía Bắc gây những tổn thất rất nặng nề. Cũng vào
cuối năm 1978 liên tiếp cả năm 1979, 2 trận lớn đồng bằng Nam Bộ cuốn mất lương
thực, tài sản, nhà cửa. Hàng trăm ngàn người rơi vào cảnh màn trời chiếu đất. Phần rất lớn
diện tích canh tác bị ngập úng 5-6 tháng. Gia súc, gia cầm phải bán chạy lụt với giá hạ, sản
lượng gia súc, gia cầm giảm nghiêm trọng. Kinh tế, đời sống nhiều địa phương bị đảo lộn lớn.
lOMoARcPSD| 45474828
6
- Viện trợ giảm sút
Trong bối cảnh quốc tế như vậy, Việt Nam vẫn nhận được nguồn viện trợ nhưng giảm
sút về số lượng. Trước hết khoản viện trợ của Trung Quốc, trước đây thường vào khoảng
300 - 400 triệu USD/năm. Từ sau ngày giải phóng, do nhiều diễn biến phức tạp trong quan hệ
quốc tế, nguồn này giảm mạnh và đến năm 1977 thì chấm dứt hoàn toàn. Nguồn viện trợ của
các nước hội chủ nghĩa khác cũng giảm sút về mặt hiện vật, mặc dù tính bằng tiền thì có
tăng lên. Từ m 1978, Việt Nam tham gia Hội đồng Tương trợ Kinh tế (khối SEV), phải chấp
nhận mọi thiết chế kinh tế của khối đó, trong đó thiết chế về giá. Theo quy định của khối
SEV thì việc mua bán, nhập khẩu giữa các nước trong khối SEV được áp dụng theo giá trượt".
Giá trượt được tính theo mức giá bình quân trên thị trường thế giới trong 5 năm trước đó đ
hình thành giá cho m sau. Mức giá này cao khoảng 2,5-3 lần so với mức giá viện trợ hữu
nghị của các nước hội chủ nghĩa dành cho Việt Nam. Do đó, nếu tính khối ợng giá trị
nhập khẩu bằng tiền rúp, thì viện trợ đã tăng lên từ 1,1 tỷ lên trên 1,5 tỷ. Nhưng phải áp
dụng mức giá trượt, cho nên số lượng 1,5 tđó chỉ mua được một khối ợng hàng bằng
khoảng một nửa trước đây, tức là khoảng 600-700 triệu rúp.
Thời kỳ 1976 - 1985: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp
Thực hiện hai kế hoạch phát triển kinh tế hội Kế hoạch 5 năm lần thứ hai
(19761980) Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985), nhân dân Việt Nam đã đạt được những
thành tựu quan trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả nặng ncủa chiến tranh; Khôi
phục phần lớn những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại
các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá.
Thời knày, Nhà nước quản nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên
sở các quyết định của quan nhà ớc thẩm quyền các chỉ tiêu pháp lệnh được
giao. Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1977-1985 tăng 4,65%,
trong đó: nông, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng
2,18%/năm. Theo loại hình sở hữu, shữu quốc doanh tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng
10,26% và sở hữu tư nhân, cá thể tăng 0,71%. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ
này thấp và kém hiệu quả. Nông, lâm nghiệp ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP
trong giai đoạn này), nhưng chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước. Công nghiệp được dồn
lực đầu tư nên mức tăng khá hơn nông nghiệp, nhưng tỷ trọng trong toàn nền kinh tế còn
thấp (chiếm 39,74% GDP), chưa là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.
lOMoARcPSD| 45474828
7
Thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng, hợp tác xã tuy ở thời kỳ đầu xây
dựng, nhưng đã có những bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường, nhờ đó hạn chế được nạn
đầu cơ, tích trữ và tình trạng hỗn loạn về giá cả. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội bình quân
thời kỳ này tăng 61,6%/năm.
Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung cầu (thiếu hụt nguồn cung), đồng
thời do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, là những nguyên nhân dẫn đến
chỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân giai đoạn 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ tăng
39,53%/năm.
Chính phủ chủ trương nhanh chóng xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa, xem
đó nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đầu năm 1978, tất cả các tỉnh thành phmiền Nam đã
căn bản xoá nạn chữ. Trong tổng số 1.405,9 nghìn người được xác định không biết chữ,
có 1.323,7 nghìn người thoát nạn mù chữ. Công tác dạy nghề phát triển cũng mạnh mẽ. Năm
1977, trên cả nước chỉ 260 trường trung học chuyên nghiệp, n 117 nghìn sinh viên
7,8 nghìn giáo viên. Đến năm 1985, số trường trung học chuyên nghiệp 314 trường, với
quy mô 128,5 nghìn sinh viên và 11,4 nghìn giáo viên (tăng 9% về số sinh viên44,9% về
số giáo viên so với năm 1977)
Hệ thống y tế được mở rộng, xây mới và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Số giường
bệnh thuộc các sở y tế tăng từ 89,4 nghìn giường năm 1976 lên 114,7 nghìn giường m
1985. Số nhân viên y tế tăng từ 110,9 nghìn người năm 1976 lên 160,2 nghìn người năm 1985,
trong đó số bác sĩ tăng từ 9.104 người lên 19.029 người.
Ở miền Bắc, mặc dù thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình công nhân
viên chức tăng từ 27,9 đồng năm 1976 lên đến 270 đồng năm 1984; thu nhập bình quân đầu
người một tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng từ 18,7 đồng lên đến
505,7 đồng, nhưng do lạm phát cao, nên đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn.
1.2.2. Tình hình nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1975-1980
Trong giai đoạn 1976 – 1986, cả nước bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, một dấu
mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển đó là về chính sách đất đai xoay quanh việc quốc hữu
hóa các đồn điền ruộng đất của sản nước ngoài; việc thu hồi đất để giành quyền sử
dụng đất về cho nông dân tiến hành ổn định về tình hình nông nghiệp trên cả nước nói chung
Miền Nam nói riêng. Chính ch đó được thể hiện thông qua Quyết định số 188-CP ngày
25/09/1976 của Chính phủ: “ Nhà ớc tiến hành quốc hữu hóa các đồn điền ruộng đất của
sản nước ngoài. Đối với từng trường hợp cụ thể, Nhà nước sẽ xem xét bồi thường hay
lOMoARcPSD| 45474828
8
không bồi thường. Nhà nước trực tiếp quản lý, sử dụng tất cả các loại ruộng đất cho đến ngày
công bố các chính sách này còn bỏ hoang ruộng đất không do chính đáng. Thu hồi
toàn bộ ruộng đất thuộc sở hữu quốc gia, ruộng đất của sản mại bản, của địa chphản
quốc’’. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng khuyến khích việc hiến ruộng trong các bộ phận những
người trong xã hôi, với từng bộ phận giai cấp trong xã hội Nhà nước sẽ có những chính sách
riêng. Các địa chủ kháng chiến địa chủ thường cho phép hiến ruộng. Với chính sách đất
đai trên, nền kinh tế nông nghiệp được tạo điều kiện hơn trong phát triển, đã kích thích hoạt
động sản xuất. thể nói chúng ta đang bước đầu đổi mới chế quản kinh tế đặc biệt
trong sản xuất nông nghiệp. Từ chính sách đất đai trên đã tạo sở cho đại hội IV (20/12/1976)
đề ra đường lối chung cho cách mạng hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới Từ ngày 14 -
20/12/1976, Đại hội IV được diễn ra nội dung chủ yếu thể hiện về nhận thức duy phát
triển kinh tế - hội nước ta trong điều kiện mới như xây dựng kinh tế theo hình kinh
tế kế hoạch hóa tập trung. Một vấn đề đặt ra từ cuối năm 1975 tổ quốc thống nhất về mặt nhà
nước song về mặt kinh tế, hội kết cấu giai cấp hai miền do lịch sử để lại chưa thể sớm
đồng nhất. Tình hình đó đòi hỏi Đảng phải tiếp tục giải phóng giai cấp công nhân và nông dân
về mặt kinh tế, tạo ra sthống nhất về quyền lợi và nghĩa vụ của hai giai cấp lao động, bảo
đảm cho liên minh công nông thực sự trở thành nền tảng của chuyên chính sản. Trên cơ sở
nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 24 (khóa III, tháng 9 năm 1975) nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ IV (tháng 12 năm 1976) đã đưa đến những kết quả nhất định trong kế hoạch
5 năm lần thứ hai (1976 – 1980) nhằm góp phần củng cố liên minh công nông tập trung phát
triển kinh tế nông nghiệp. Đến 1980, cả nước đã khai hoang phục hóa được 120 vạn ha. Diện
tích thủy lợi hóa tăng thêm 85,5 vạn ha. Diện tích gieo trồng hằng năm tăng từ 5,9 triệu ha
năm 1975 lên 7,7 triệu ha năm 1980. Việc đấu tranh xóa bỏ tàn dư của chế độ thực dân, phong
kiến ruộng đất các tỉnh phía Nam được thực hiện. Đảng đã quốc hữu hóa các cơ sở sản xuất
của đế quốc sản mại bản, trao cho công nhân làm chủ hơn 12.680 nghiệp lớn nhỏ,
những thành quả ấy đã tạo tiền đề cho sự đồng nhất một bước về mặt giai cấp của giai cấp
công nhân cũng như giai cấp nông 30 dân cả nước. Từ đó, giai cấp công nhân có thêm sở
để thiết lập liên minh kinh tế với nông dân. Trong cùng những thắng lợi đạt được còn chứa
đựng nhiều sai lầm và khuyết điểm cả trong sự nghiệp hợp tác hóa nông nghiệp, thu nhập
viên thấp hơn thu nhập của nông dân tự do. Nếu năm 1976 giá trình ngày công bình quân
của người nông dân viên 0,58 kg thóc thì đến năm 1989 0,86 kg trong khi cùng thời
gian ấy người nông dân tự do thu nhập bình quân 0,97 1,75. Đời sống giai cấp công nhân
lOMoARcPSD| 45474828
9
không kém phần khó khăn, họ sản xuất ra 34,2% thu nhập quốc dân nhưng chỉ nhận sự phân
phối được 9%. So với năm 1970 lương thực tế của công nhân viên chức chỉ còn dưới 31%
những hiện tượng tiêu cực trong xã hội chẳng những không giảm mà còn tăng.
Công nhân và nôngn hợp tác sống 31 làm ăn theo lối “chân ngoài dài hơn chân trong”
nhất khi giới cầm quyền Trung Quốc cắt giảm viện trợ đột ngột gây ra chiến tranh biên
giới thì tình hình đất nước lại càng khó khăn hơn. Khối liên minh công nông chưa được củng
cố trước hết là do những chủ trương và hoạt động của Đảng về mặt cộng tác này trong những
năm 1975 1980, về bản là vận dụng cách nghĩ và cách làm miền Bắc trước năm 1975
vì vậy mà Đảng đã có chủ trương và việc làm không đúng với nội dung liên minh công nông
ở chặng đường đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những chủ trương và việc làm nóng
vội đã làm cho nông dân bị nghèo hóa, công nhân viên chức gặp nhiều khó khăn trong đời
sống. Từ những năm 1977 1978, Trung Quốc cắt đứt mọi viện trcho Việt Nam, bắt đầu
xảy ra xung đột biên giới Tây Nam, nguồn viện trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
bị giảm sút nghiêm trọng nền kinh tế lâm vào tình trạng thiếu hụt, sản xuất sa sút, lưu thông
bị ách tắc, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trong giai đoạn 1976 1980, sản xuất nông
nghiệp bị ngưng trệ, sản lượng lúa năm 1980 chỉ đạt 11,647 triệu tấn (chỉ tiêu là 21 triệu tấn)
thấp hơn năm 1976 và phải nhập 1,57 triệu tấn lương thực. Những khó khăn yếu kém về kinh
tế nông nghiệp thời kì này được giải thích bằng nhiều nguyên nhân khác nhau: Nguyên nhân
khách quan là tình hình quốc tế phức tạp, sự phá hoại của những thế lực thù địch ngoài nước
cấu kết với những lực lượng chống đối trong nước do chủ nghĩa thực dân mới để lại. Nguyên
nhân chủ quan được cho tinh thần giác ngộ của người lao động chưa tương xứng với
hình kinh tế mới, ý thức tự do, tản mạn đầu óc tư hữu nông dân.
1.2.3. Tình hình nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1981-1985
Những đột phá trong đời sống kinh tế những biện pháp cởi trói cho sản xuất trong
những năm 1979 1980, nên từ năm 1981 trở đi đời sống kinh tế nhiều khởi sắc: Những
bước chuyển biến về duy kinh tế mới từ sau năm 1979 thể hiện đầy đủ trong các chủ trương
đường lối của Đảng. Hội nghị đã xác định nguyên nhân sai lầm do “chưa quán triệt quan
điểm về sự tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế ở miền Nam nên đã có phần nóng
vội trong việc đề ra chtrương hoàn thành về bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với công thương nghiệp. Về hình thức công hợp doanh, áp dụng kinh nghiệm của miền Bắc
một cách máy móc… khuyết điểm lớn nhất là chưa nắm vững phương châm kết hợp chặt chẽ
cải tạo với xây dựng, chưa quán triệt mục đích cuối cùng của cải tạo phát triển sản xuất,
lOMoARcPSD| 45474828
10
quản thị trường, bảo đảm đời sống…dẫn tới tình trạng nóng vội, chủ trương cải tạo vượt
qua điều kiện khả năng quản lý. Trong điều kiện khi đó thể thấy đây bước đột phá
quan trọng về duy nhận thức hình con đường đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam.
Chỉ thị số 100- CT/TW ngày 13/1/1981 cho phép áp dụng chế độ khoán trong nông nghiệp.
Nông dân được hưởng phần mình sản xuất ra sau khi đã nộp thuế nông nghiệp, nộp thóc nghĩa
vụ, nộp thóc điều hòa trong nội bộ hợp tác . Chỉ thị số 100- CT/TW đã mở ra một phong
trào khoán mới, khắc phục sự trì trệ trong sản xuất nông nghiệp, bước đầu nhằm tạo ra một
động lực mới trong sản xuất nông nghiệp, đã bước đầu giải phóng lao động nông dân, gắn
nông dân với trách nhiệm, lợi ích của họ đến sản phẩm cuối cùng trên ruộng khoán. Từ đó,
khuyến khích nhân dân đầu tư thêm lao động, phân bón,... để thu thêm nhiều sản phẩm vượt
khoán. Kết 41 quả đem lại “67 vụ được mùa liên tiếp, sản phẩm lương thực tăng gấp 1 triệu
tấn/ năm. Động lực khoán sản phẩm đến nhóm và người dân lao động vào cuối năm 1983
đầu năm 1984 bắt đầu chững lại giảm xuống. Trong những năm 1982 1984, chủ trương
“bung ra” “cởi trói” tuy bước đầu tháo gỡ được một số khó khăn nhưng đã bắt đầu xuất
hiện tình trạng vi phạm kỷ cương, trong nền kinh tế lại xuất hiện yếu tố tiêu cực mới tình trạng
vô tổ chức trong các quan hệ kinh tế vì vậy trong những năm 1983 – 1984 một số chính sách
mới được ban hành để lập lại trật tự như xem xét lại Quyết định số 25 – CP, phê phán phá rào,
buông ra làm i lỏng quản lý, siết chặt tiếp tục “cải tạo”, phê phán buông lỏng chuyên
chính sản. Đến năm 1985, những quan điểm mới được thể hiện nghị quyết Trung ương 8
là những bước đi đầu tiên, tính đột phá, tạo nền tảng cho công cuộc đổi mới toàn diện 42
những năm tiếp theo. “ Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6 -1985) đánh dấu bước đột phá
thứ hai bằng chủ trương dứt khoát xóa bchế tập trung quan liêu, bao cấp, điểm quan trọng
của Hội nghị này là thừa nhận sản xuất hàng hóa những quy luật của sản xuất hàng hóa”.
Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 8-1986) Hội nghị Trung
ương lần thứ 11 (tháng 11 năm 1986) đã bắt đầu hình thành những quan điểm kinh tế mới, rất
bản Bộ Chính trị đã nhất trí kết luận ba kinh tế cơ bản trong đó bố trí cấu kinh tế phải
lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu được đặt lên hàng đầu. Sản lượng của nhiều ngành
kinh tế tăng lên với nhịp độ hơn hẳn các giai đoạn trước. Trong nông nghiệp nnhận xét của
ủy viên Bộ Chính trị, phó thủ tướng Chí Công, tình hình sản xuất đời sống trong các
hợp tác đã được cải thiện một ớc đáng kể: Riêng vụ đông xuân miền Bắc năm 1981,
sản lượng lương thực tăng bình quân 15%, có nơi tăng 25-30%, một số hợp tác xã tăng 40%,
phát huy được tiềm năng đất đai, lao động, tiết kiệm chi phí sản xuất, sức lao động tăng n
lOMoARcPSD| 45474828
11
rệt, số người tham gia lao động sản xuất tăng lên trên 10%, ngày công, giờ lao động tăng
lên 25 30%, thời gian lao động chung ng lên 50%. Đồng thời, sản lượng lúa năm 1978
9.789,9 nghìn tần đến 1985 đạt 15.874,8 nghìn tấn. Nói chung, kết quả đạt được trong những
năm 1981 1985 nông nghiệp Việt Nam tiến bộ rệt, sản lượng lương thực ớc phát
triển quan trọng, “mức bình quân hàng năm t13,4 triệu tấn trong thời kỳ 1976 1980 đã
tăng lên 17 triệu tấn trong thời kỳ 1981 – 1985.
CHƯƠNG 2: CÁC BƯỚC PHÁ RÀO TRONG LINH VỰC NÔNG NGHIỆP
TRƯỚC ĐỔI MỚI
2.1. Khái niệm “phá rào”
2.1.1. Hàng rào là những gì ?
lOMoARcPSD| 45474828
12
Hàng rào đó chính những thể chế, những nguyên tắc của mô hình kinh tế kế hoạch
hóa tập trung được hình thành ở Liên Xô và sau đó được áp dụng hầu hết tại các nước xã hội
chủ nghĩa( XHCN).
2.1.2. Phá rào là gì?
Phá rào tức vượt qua những hàng rào vquy chế đã lỗi thời để chủ động tháo gỡ
nhiều ách tắc trong cuộc sống, đồng thời cũng góp phần từng bước dẹp bỏ hàng rào cản kỹ
để mở đường cho công cuộc đổi mới.
Một số cuộc phá rào điển hình trong nông nghiệp có thể kể đến:
- Khoán ở Vĩnh Phúc
- Khoán ở Hải Phòng
- Khoán ở Nông trường Sông Hậu
- Chính sách Tam nông ở An Giang
2.2 Tính cấp thiết của phá rào trong nông nghiệp
2.2.1 Mô hình hợp tác xã bộc lộ nhiều bất cập và nhược điểm, không phù hợp với thời
đại mới
Nhận thấy rằng, mô hình hợp tác xã ở Liên Xô, Trung Quốc và cả miền Bắc Việt Nam
trong khoảng từ 1958-1960 đã làm minh chứng để Đảng ta áp dụng hình này cho cả ớc.
Lúc này không còn phân phối theo lối kinh doanh tiểu nông vì sự phân phối đó tất yếu dẫn tới
phân hóa giàu nghèo, mà sự phân hóa này lại tất yếu dẫn tới bóc lột.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 24, Báo cáo chính trị tại Hội nghị đã nhấn mạnh đến
đấu tranh giai cấp, cải tạo, dẹp bỏ những thành phần kinh tế cũ, khẩn trương xây dựng nền
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa…
Đưa nông nghiệp từng bước tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bằng ba hình thức:
Tổ hợp nông công nghiệp quốc doanh, kết hợp Nhà nước với hợp tác xã, kết hợp Nhà ớc
với cá thể trên một quy hoạch thống nhất về trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng cơ sở vật chất và
kỹ thuật. Lấy đơn vị huyện làm địa bàn kết hợp trên sở quy hoạch chung của cả tỉnh
từng vùng. Xây dựng nông trường quốc doanh trên quy mô lớn,...
Trước mắt cần xây dựng một số hợp tác xã thí điểm để rút kinh nghiệm. những nơi
chưa điều kiện xây dựng hợp tác xã thì ra sức phát triển các tổ đổi công cần công.
Trên lý thuyết cách phân phối đó là rất công bằng, rất xã hội chủ nghĩa… nhưng trong
thực tế mô hình này đem đến rất nhiều bất cập.
Tiêu cực trong cách thức quản lý, ăn chia công điểm
lOMoARcPSD| 45474828
13
Tình trạng khai man ngày càng diễn ra nghiêm trọng. Chủ nhiệm hay cán bộ hợp tác
chỉ lên xã, lên huyện” đánh chén cũng tính một công đi họp”. Bởi vậy, tại phần lớn các hợp
tác xã, người nhiều công điểm nhất lại là các vị trong ban quản trị và các đội trưởng. Còn với
các chỉ tiêu từ trên áp xuống, những cán bộ hợp tác sợ bị phê bình, khiển trách dẫn đến
hiện tượng làm thì láo báo cáo thì hay”, khiến cho ekets quả của nhiều năm làm ăn trong
hợp tác xã không ảnh ánh đúng sự thật.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, hoạt động không năng nổ, kịp thời trong xử lý các vấn đề,
thậm chí dẫn tới nhiều tiêu cực ảnh hưởng tới quyền lợi của người lao động, người dân. Tình
trạng quan liêu, thoát ly sản xuất, xa rời quần chúng, tham ô, tư lợi của một số cán bộ ở cơ
sở càng trở thành phổ biến.
Người nông dân làm ăn theo lối vô tổ chức, bị động, hời hợt, thiếu tính sáng tạo
Nền kinh tế tập thể của nông dân chỉ tồn tại trên giấy tờ trên hình thức, do cấp ủy
địa phương sợ Trung ương nên phải làm. ng dân lại sợ cấp ủy nên phải vào tập đoàn sản
xuất hoặc hợp tác xã. Máy móc đưa vào tập đoàn để hoen gỉ. Ruộng đất được canh tác cẩu
thả.
Việc chuyển quá nhiều hợp tác xã lên quy mô lớn, việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
không tính toán đến hiệu quả kinh tế, áp dụng quan hệ phân phối mang tính chất bình quân…
làm cho hợp tác xã suy yếu dần dẫn đến phá sản: tài sản mất mát, hư hỏng, chi phí sản xuất
tăng, giá trị ngày công lao động thấp, thu nhập của xã viên giảm sút,..
Vô số tổ chức trong việc thực hiện giờ giấc lao động trong lao động tập thể. Việc nông
dân đi muộn về sớm, đi làm như đi chơi một tình trạng thể dễ bắt gặp nhiều hợp tác
xã.
Người lao động không gắn với đồng ruộng, không gắn với sức lao động của nh
mà chỉ biết chạy theo công điểm: Đi làm theo lệnh của đội, theo hiệu lệnh, theo kẻng, không
chủ động chăm lo sản xuất. Ông Nguyễn Thành Tô, nguyên Thư của Bí thư Tỉnh ủy Kim
Ngọc đã từng chứng kiến nông dân làm cỏ và kể rằng: “ Họ chỉ làm xung quanh bờ, sạch b
thì đủ để ông đội trưởng ghi công, ghi điểm, còn ở giữa ruộng cỏ mọc vượt lúa!”.
Ngay cả khi đến vụ gặt, cấy, có khi lãnh đạo các cấp cơ sở phải huy động hàng trăm, thậm chí
hàng nghìn cán bộ xuống hợp tác xã để đôn đốc, tuyên truyền giáo dục tư tưởng và động viên
nông dân như một “ chiến dịch”.
lOMoARcPSD| 45474828
14
=> Lối làm ăn theo kiểu theo hình hợp tác không hiệu quả, đem đến năng suất
thấp, bào mòn những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân làm thoái hóa đạo đức của
một bộ phận các cán bộ.
2.2.2 Bất đồng trong quan điểm, đường lối mới
Vào khoảng cuối năm 1977 đầu năm 1978, xu hướng khá phổ biến trong việc giải thích
nguyên nhân của những khó khăn ách tắc là: Do sự lũng đoạn của thị trường tự do, do sự
tồn tại của kinh tế nhân. Giải thích nào thì giải pháp ấy. Giải pháp được lựa chọn là: Cải
tạo khẩn trương triệt để. Thực ra, trong luận của đa số quần chúng nhân dân của cũng
như của không ít cán bộ lãnh đạo các địa phương vẫn còn rất nhiều phân vân, rất nhiều
người chưa hoàn toàn thông với những biện pháp cải tạo, vội vàng, thiếu điều tra cân nhắc
tình hình thực tế.
Khoán Vĩnh Phúc- một phong trào khoán được coi là tiền đề cho khoán 10 này, trong
nếp nghĩ chung thời ấy, đã bị lên án nặng nề. Từ đó, khoán hộ trở thành điều cấm kỵ, không
ai còn dám công khai nhắc đến chuyện này nữa.
Những năm đầu thập kỷ 80, tuy cả nước đã đứng trước tình hình rất khó khăn về sản
xuất nông nghiệp, nhưng quan điểm thì vẫn còn rất lúng túng trong tình trạng giằng co giữa
cơ chế cũ và cơ chế mới. Đối với khoán, các ý kiến của các ngành ban, giới cũng ở trong tình
trạng” năm bảy mối”. Ban Nông nghiệp trung ương thì phản đối khoán, coi như thế
chệch hướng, là mất lập trường, mất chủ nghĩa xã hội. Bộ Nông nghiệp thì ủng hộ khoán.
Trong các quan nghiên cứu cũng vậy. Nơi như Viện Kinh tế học thì không những đồng tình
mà còn biệt phái một chuyên gia xuống nằm vùng tại các cơ sở để nghiên cứu và chứng minh
khoán là đúng.
Tuy Đảng ta rất coi trọng bầy không khí a hợp đoàn kết nội bộ Đảng, nhưng
những tranh cãi gay gắt- nhất trong vấn đề ởng, quan điểm, vẫn sẽ tiềm tàng mối
nguy cơ rạn nứt đoàn kết, bằng mặt không bằng lòng, chia o phái giữa một số nhân/
nhóm người không đi đến thống nhất về quan điểm cũng khiến thời gian họp hành, thảo
luận, kiểm tra, khảo sát bị kéo dài.
Người chịu thiệt thòi lớn nhất đây những người dân đang phải chạy ăn từng bữa.
Lúc này, những mũi đột phá cực kỳ cần thiết để những cán bộ ủng hộ khoán được các
kết quả trên thực tiễn.
lOMoARcPSD| 45474828
15
2.2.3 Ảnh hưởng của nông nghiệp đem đến nhiều hệ quả tiêu cực trong xã hội
Do không thu mua được lương thực, người dân thành phố phải ăn độn. Tại thủ đô Hà
Nội, trong khẩu phần định lượng lương thực được mua theo giá cung cấp (0,4 đồng/kg) vốn
đã ít ỏi ( 13kg/người/tháng), đến tháng 3 năm 1978 trong thực tế chỉ còn mua được 4kg gạo
thôi, còn lại là khoai lang và sắn khô. Điều đó là điều mà ngay trong suốt những năm chiến
tranh cũng chưa bao giờ có. Ngay cả Thành phố Hồ Chí Minh cũng phải ăn độn hạt bo bo
Lúc đó, Nông nghiệp tạotao ra gần 50% tổng sản phẩm xã hội và trên 80% dân số vẫn
sống nông thôn, cho nên sự suy thoái trong nông nghiệp đã tác động tiêu cực đến sự phát
triển kinh tế- hội chung của cả nước. Vì những tiêu cực trong cơ chế quản i đói, cái
khổ mà biểu hiện của sự tha hóa đạo đức xuất hiện khắp nơi. Trật tự xã hội rối ren, lũng đoạn,
tệ nạn tràn lan: nạn ăn cắp, ăn mày diễn ra nhan nhản.
Bí thư huyện ủy Đồ Sơn( Hải Phòng) Nguyễn Đình Nhiên kể lại: “ Từ đói mà tệ nạn
ăn cắp trong nông thôn phát triển: mất cả gà, cả chó, cả lợn, rồi cả trâu của hợp tác xã người
ta cũng giết trộm ngay ngoài cánh đồng để ăn…”. Nếu không đảm bảo chuyện “ có thực mới
vực được đạo”, e là tần suất và mức độ nghiêm trọng của những tệ nạn xã hội này sẽ có
chiều hướng gia tăng. Vì vậy, tìm ra một phương án, một lối thoát là vô cùng cấp thiết ngay
lúc đó. Các cán bộ cơ sở là người thường xuyên chứng kiến những chuyện đáng buồn này
nhất, điều đó lý giải cho việc tại sao hiện tượng “ phá rào” thường được thực hiện theo trình
tự từ dưới lên trên: từ cấp hợp tác xã cho đến xã, xã cho đến huyện, từ huyện đến tỉnh và từ
đó tác động ngược đến cách nghĩ- cách làm của các đồng chí lãnh đạo cấp Trung ương.
2.2.4. Nhiều biện pháp khác nhau đã được áp dụng, song tình hình nông nghiệp vẫn bì
bạch, bế tắc.
Mặc dù Đảng đã nhận ra những điều không đúng trong mô hình đang khiến thực tế đi
chệch so với “Đường ray” lý luận. Tuy nhiên, nguyên nhân của những sai cố đó được quy v
phương thức quản lý hợp tác xã, quy cho cơ sở vật chất lạc hậu, quy cho việc giáo dục ý thức
làm chủ tập thể chưa được hiệu quả. Rất nhiều các phong trào, các cuộc vận động đã được
truyền đi nhằm điều hướng tập thể hóa.
Ông Bùi Mai, nguyên Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Kiến An những năm đó kể:
Tôi nhớ, hồi đó đi suốt từ Hải Phòng đến Kiến An thấy la liệt những máy móc, thiết bị vứt
ngổn ngang bên đường, hoen gỉ hết, trông mà xót xa..”
Việc loay hoay chọn những hướng như cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng văn
hóa tưởng, giáo dục ý thức làm chủ tập thể, quên không cý đến mô hình kinh tế
lOMoARcPSD| 45474828
16
điều rất sai lầm. Một hình kinh tế không tốt, đưa vào bao nhiêu khoa học kỹ thuật cũng
chỉ sổ xuống sông xuống biển. Một hình không tốt thì giáo dục ý thức làm chủ tập
thể đến bao nhiêu cũng chỉ vô. Do vậy, các mũi đột phá cần thiết để khai thông sự
quẩn quanh này.
2.2.5 Khả năng bao cấp của nhà nước dần cạn kiệt
Trước hết khoản viện trợ của Trung Quốc, trước đây thường vào khoảng 300 - 400
triệu đô la/năm. Từ sau ngày giải phóng, do nhiều diễn biến phức tạp trong quan hệ quốc tế,
nguồn này giảm mạnh và đến năm 1977 thì chấm dứt hoàn toàn.
Nguồn viện trợ của các nước hội chủ nghĩa khác cũng giảm sút vmặt hiện vật, mặc
dù tính bằng tiền thì có tăng lên. Từ năm 1978, Việt Nam tham gia Hội đồng Tương trợ Kinh
tế (khối SEV), phải chấp nhận mọi thiết chế kinh tế của khối đó, trong đó có thiết chế về giá.
Theo quy định của khối SEV thì việc mua bán, nhập khẩu giữa các nước trong khối SEV được
áp dụng theo gtrượt". Giá trượt được tính theo mức giá bình quân trên thị trường thế giới
trong 5 năm trước đó để hình thành giá cho năm sau. Mức giá này cao khoảng 2,5-3 lần so
với mức giá viện trợ hữu nghị của các nước xã hội chủ nghĩa dành cho Việt Nam. Do đó, nếu
tính khối lượng giá trị nhập khẩu bằng tiền p, thì viện trợ đã tăng lên từ 1,1 tỷ lên trên 1,5
tỷ. Nhưng vì phải áp dụng mức giá trượt, cho nên số lượng 1,5 tỷ đó chỉ mua được một khối
lượng hàng bằng khoảng một nửa trước đây, tức là khoảng 600-700 triệu rúp.
Liên Xô- người anh em XHCN thân thiết, hòn đá tảng của chính sách đối ngoại của
Đảng Nhà nước, bắt đầu xuất hiện sự gia tăng tình trạng bất ổn trong các quốc gia cộng
hòa thành viên trong những năm đầu của thập niên 1980. Đây dấu hiệu buộc ta phải tính
toán những bước đi độc lập hơn nguồn viện tợ thể bị cắt bớt hoặc thậm chí giảm sút
giảm mạnh trong tương lai.
Trước sự bức xúc của nạn đói, sự thiếu hụt lương thực của cả nước, Nhà nước phải
quyết định tung ra hàng chục tấn vàng dự trữ mang đi bán lấy đô la để nhập gạo về cứu đói.
Việc hỗ trợ, chu cấp của Nhà nước mọi mặt: nông nghiệp, thương nghiệp, công nghiệp
đã khiến cho khả năng bao cấp của Nhà nước ngày dần cạn kiệt.
2.2.6. Nguy cơ nhân dân mất niềm tin vào chính quyền nếu hiện trạng kéo dài
Thời kỳ 1976-1980 thời kỳ triển khai những tưởng của Đại hội Đảng lần thứ IV
và phấn đấu thực hiện những chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Có thể nói, thời kỳ này
được dự kiến thời hòa bình phát triển với tốc độ cao nhất, khi đất nước đã "sạch bóng
quân thù."
lOMoARcPSD| 45474828
17
Nhưng trong thực tế đã có hàng loạt diễn biến trái ngược với dự kiến chủ quan ban đầu.
Như chính Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nhìn nhận vào năm 1979: "Trong bốn năm qua, nhiều sự
kiện đã diễn ra trái với điều mong muốn".
Trước thời kỳ đổi mới, ngành nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách
thức khó khăn. Các nông dân thường xuyên phải đối mặt với thiếu hụt nguồn cung cấp, giá
cả không ổn định, chất ợng sản phẩm không đảm bảo hạn chế trong việc tiếp cận với
công nghệ mới.Một số hiện trạng có thể kể ra trong thời điểm đó như là:
Viện trợ Mỹ được thay bằng cấm vận của Mỹ điều này đã khiến cho nông nghiệp,
miền Nam đã quen sử dụng phân bón, máy móc để canh tác, chuyên chở, chế biến. Sau giải
phóng, máy móc thì n, nhưng xăng dầu ngày càng khan hiếm. Do thiếu xăng, máy cày,máy
bơm không hoạt động được, ghe thuyền không vận chuyển được, xe cộ cả loại hai bánh lẫn
bốn bánh ng gặp khó khăn. Nhiều xe vận tải đã chuyển sang chạy bằng than củi (gasozene).
Xe Honda phải pha thêm dầu hôi (dầu hỏa) vào xăng. Xe xích máy thì chạy hoàn toàn bằng
dầu hôi.
Tiếp đến là việc phải hứng chịu thiên tai địch họa khiến nhân dân bị tổn thất nặng nề.
Vào cuối năm 1978 liên tiếp cả năm 1979, hai trận lớn đồng bằng Nam Bộ cuốn
mất lương thực, tài sản, nhà cửa. Hàng trăm ngàn người rơi vào cảnh màn trời chiếu đất. Phần
rất lớn diện tích canh tác bị ngập úng 5-6 tháng. Gia súc, gia cầm phải bán chạy lụt với giá
hạ, sản lượng gia súc,gia cầm giảm nghiêm trọng. Kinh tế, đời sống nhiều địa phương bị đảo
lộn lớn.
Viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cũng giảm sút khiến cho Nhà ớc cũng không
đủ hàng để trao đổi với nông dân để thu mua nông sản theo giá kế hoạch. Khi nông dân
phải sống với thị trường, mua vật trên thị trường tự do thì họ cũng yêu cầu phải bán thóc
theo giá thị trường tự do. Mức huy động lương thực do đó giảm sút nghiêm trọng… Trên thị
trường hàng tiêu dùng, mậu dịch quốc doanh không hàng bán ra. Nhiều thành phố lớn thiếu
gạo, thiếu chất đốt, thiếu điện, thiếu nước... Các nguồn hàng trong kế hoạch vốn đã eo hẹp lại
bị thất thoát bằng nhiều cách khác nhau. Chính thời kỳ này đã xuất hiện tình trạng bán không
bán được, mua không mua được. Sự ách tắc không phải chỗ không để bán cũng
không phải không có tiền để mua. Ách tắc chính là ở cơ chế mua và bán, ở cái gạch nối giữa
cung và cầu. Trong sự ách tắc đó, đã xuất hiện một khoảng trống. Trong khoảng trống đó, thị
trường tự do lớn lên. Người nông dân không bán nông sản cho Nhà nước thì họ bán ra thị
trường tự do. Người tiêu dùng tiền nhưng không mua được hàng theo hệ thống cung cấp
lOMoARcPSD| 45474828
18
cũng phải ra thị trường tự do. Những thiết chế của nền kinh tế kế hoạch là nhằm loại trừ kinh
tế tư nhân và thị trường tự do, thì trong tình huống này lại nhường địa bàn cho những thứ đó.
Đã xuất hiện những mối quan hệ "cộng sinh" (symbiosis) giữa thị trường tổ chức thị
trường tự do, giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh như sản phẩm tất yếu của
tình trạng thiếu hụt.
Liệu pháp cải tạo: Đến năm 1977, nhiều người vẫn thiên về cách giải thích rằng nguyên
nhân của khó khăn, thiếu thốn chính kinh tế nhân, thị trường tự do. Ý kiến này dần
dần trở thành một xu hướng sức thuyết phục đối với nhiều quan chủ chốt. Kết quả
kinh tế tư nhân bị phủ định, mà không thực hiện được mục đích phát triển sản xuất. Nhà nước
đã tiến nh cải tạo trong nông nghiệp. Hàng loạt nông trường đã được xây dựng khắp miền
Nam. Nông dân bị ép vào các tập đoàn sản xuất và một số hợp tác xã. Tình trạng ách tắc cũng
diễn ra như trong công và thương nghiệp. Các nông trường quốc doanh được đầu nhiều tiền
vốn, máy móc nhân lực nhưng hiệu quả rất kém. Nhiều nông trường trở thành những đơn
vị ăn bám vào ngân sách, chiếm đoạt nhiều đất đai, sử dụng nhiều lao động, nhiều máy c
tối tân nhưng không tạo ra được sản phẩm như mong muốn.Nền kinh tế tập thể của nông dân
chỉ tồn tại trên giấy tờ trên hình thức, do cấp ủy địa phương sợ Trung ương nên phải làm.
Nông dân lại sợ cấp ủy nên phải vào tập đoàn sản xuất hoặc hợp tác xã.Máy móc đưa vào tập
đoàn để hoen gỉ. Ruộng đất được canh tác cẩu thả. Từ 1976 đến 1980, sản lượng lương thực
của cả nước, nhất của miền Nam giảm sút một cách nghiêm trọng. Sản lượng lương thực
do Nhà nước huy động thì còn giảm mạnh hơn. Nhà nước phải tung nốt 40 tấn vàng ra bán,lấy
đô la để nhập gạo về cứu đói cho dân. Rốt cuộc, hai chiến dịch cải tạo ồ ạt ở miền Nam được
dự định như một liều thuốc chữa trị bệnh thiếu hụt của nền kinh tế, lại trở thành một yếu tố
nữa góp phần làm tăng thêm sự thiếu hụt trong nền kinh tế.
Kế hoạch 5 m 1976-1980: Đến hết năm 1980, kế hoạch 5 năm 1976-1980 chỉ đạt
được 50%, thứ chỉ 20%. Mức tăng trưởng bình quân năm về GDP dự định 13- 14%,
trong thực tế chỉ đạt 0,4%. Sản lượng nông nghiệp 2%/năm thay 6%/năm. Trong ng
nghiệp, với cơ chế quản lý kém hiệu quả của mô hình sản xuất nông nghiệp hợp tác hóa thiếu
phân bón thuốc sâu, thiếu nhiên liệu cho hoạt động tưới tiêu làm cho sản lượng sa sút. Năm
1976, sản lượng lúa cả năm là 11.827,2 nghìn tấn. Kế hoạch 5 năm định là năm 1980 sẽ nâng
lên gần gấp đôi, tức là 21 triệu tấn, thì trong thực tế, đến năm 1980 chỉ đạt 11.647,4 nghìn tấn,
tức là còn chưa bằng điểm xuất phát năm 1976. Sản lượng lương thực do Nhà nước thu mua
năm 1976 hơn 2 triệu tấn, năm 1979 chỉ n 1,45 triệu tấn. Đến lúc này thì điều mà Tổng
lOMoARcPSD| 45474828
19
thư Duẩn nói hồi đầu tháng 8 năm 1975, đã được thực tế xác nhận: "Nông dân miền
Nam đã buôn bán rồi, nếu chúng ta không chịu buôn bán với họ thì họ sẽ chọi lại chúng ta,
nguy hiểm lắm...". Do không thu mua được ơng thực, người dân các thành phố phải ăn độn.
Tại thủ đô Hà Nội, trong khẩu phần định lượng lương thực được mua theo giá cung cấp
(0,40 đồng/kg) vốn đã ít ỏi (13kg/người/tháng), đến tháng 3 năm 1978 trong thực tế chỉ còn
được mua 4 kg gạo thôi, còn lại khoai lang và sắn khô. Đó điều ngay trong suốt những
năm chiến tranh cũng chưa bao giờ có. Đến nỗi thường trực Ban Bí thư c đó là Nguyễn Duy
Trinh phải điện khẩn cho mấy tỉnh nông nghiệp quanh Nội là Hải Hưng Hà Bắc, Thái
Bình, Hà Nam Ninh phải bằng mọi cách cung cấp choNội, từ tháng 4 năm đó, số gạo đủ
để bán cho mỗi nhân khẩu bàng 40% tiêu chuẩn định lượng. Bức điện còn nhấn mạnh đó
"trách nhiệm chính trị" của các tỉnh đó đối với Trung ương với Thủ đô. Ngay cả Thành phố
Hồ Chí Minh cũng phải ăn độn hạt bo bo, là điều chưa từng có trong lịch sử. Nhưng cho đến
lúc đó, chưa ai dám nhìn nhận rằng, nguyên nhân chính là do đã vội vàng đưa vào miền Nam
mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa.
=> Tình trạng này đã gây ra sự bất mãn và mất niềm tin vào chính quyền ở một số vùng nông
thôn. Nhiều nông dân đã cảm thấy rằng chính quyền không đủ quan tâm đến nhu cầu của họ
và không thể giải quyết các vấn đề mà họ đang đối mặt. Điều này gây ra sự phản đối và tăng
cao sự bất mãn của người dân đối với chính phủ. 2.2.7. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của
người dân
Tính cấp thiết của việc phá rào trong nông nghiệp trước đổi mới xuất phát từ nhu cầu
thực tiễn của người dân Việt Nam. Tớc đổi mới, chính sách kinh tế tập trung đã khiến cho
nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn và hạn chế, đặc biệt là trong việc cung
cấp thực phẩm cho dân cư.
Những rào cản, quy định kiểm soát quá chặt chẽ của chính phđối với sản xuất
nông nghiệp đã gây ra sự thiếu hụt lương thực thực phẩm trong nước. Nhiều nông dân b
ép buộc phải sản xuất các loại y trồng, chăn nuôi với mức giá quy định không cao, không
phù hợp với điều kiện và thị hiếu của thị trường, khiến cho năng suất và hiệu quả kinh tế của
ngành nông nghiệp Việt Nam rất thấp.
vậy, phá o trong nông nghiệp đã trở thành một giải pháp cấp thiết để nâng cao
năng suất và hiệu quả sản xuất, giúp các nông dân tự do lựa chọn loại cây trồng, vật nuôi phù
hợp với điều kiện và thị hiếu của thị trường, từ đó tăng cường cạnh tranh tăng thu nhập cho
nông dân. Bên cạnh đó, việc phá rào còn giúp cho các doanh nghiệp nhân ngoại quốc
lOMoARcPSD| 45474828
20
tham gia vào sản xuất nông nghiệp, từ đó mở rộng thị trường và ng cao năng suất của ngành
nông nghiệp.
Do đó, tính cấp thiết của phá rào trong nông nghiệp trước đổi mới là rất lớn, đó là
một bước đi quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Việt Nam từ mô hình kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển và nâng cao năng suất của nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam.
2.3. Quá trình phá rào
2.3.1. Phá rào trong vấn đề về cơ chế quản lý mô hình làm ăn tập thể - ví dụ của Vĩnh
Phúc, Hải Phòng, Nông trường Sông Hậu
2.3.1.1. “Khoán Kim Ngọc” ở Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc lúc đó có một tập thể lãnh đạo mà đứng đầu là Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc.
Nếu như hợp tác hóa con đường thực sự mang đến ấm no hạnh phúc cho người nông
dân thì đời sống nhân dân phải được nâng cao. Nhưng sản lượng thóc, ngô, khoai, sắn đều
ngày một giảm. Trong khi chi phí sản xuất lại tăng. Từ những bức xúc đó, trong đầu ông Kim
Ngọc lóe lên những lối thoát.
Sau hàng loạt chuyến đi thực tế và trò chuyện trực tiếp với dân cày đã hình thành trong
ông Kim Ngọc một sự phản tỉnh và từ phản tỉnh đến quyết tâm: “phải khoán thôi” - “Kết luận
đó nghĩa đã đánh giá lại chế hợp tác xã. mở đầu cho mọi duy mới, thừa nhận
vai trò của hộ trong quá trình sản xuất”.-Theo ông Bùi, Thường vụ Tỉnh ủy lúc đó nhận
xét.
Khoảng đầu m 1966, ông Kim Ngọc triệu tập một cuộc họp cán blãnh đạo trong
tỉnh để thảo luận về những vấn đề nông nghiệp và cách tháo gỡ. Sau khi thảo luận, đã thấy rõ
cái lợi nhưng n nhiều ý kiến trái chiều, để thận trọng một tổ công tác của tỉnh được thành
lập, tổ này đã xuống nghiên cứu rất kỹ thực tế hợp tác thôn Thượng, Tn Chính,
huyện Vĩnh Tường. Kết quả của những đợt khảo sát thực tế đã cho thấy khuyết điểm phổ biến
trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo nông nghiệp, về quản lý sản xuất.
Sau đó, Thường vụ quyết định cho thực hiện thí điểm chế khoán hộ trên một số
điểm và phân công cán bộ trực tiếp chỉ đạo. Sau một vụ thử áp dụng mô hình khoán, trong cả
trồng trọt lẫn chăn nuôi đã đạt được những thành công bất ngờ: Năng suất cây con đều
được nâng cao, người nhận khoán rất ng hái trong lao động sản xuất, thu nhập tăng lên
rệt, việc quản lý lại đơn giản nhẹ nhàng hơn.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45474828
TRƯ NG Đ I H C THƯƠNG M I L
CH S Đ NG C NG S N
TÌM HI U N I DUNG PHÁ RÀO TRONG LĨNH V C NÔNG
NGHI P TRONG TÁC PH M: “PHÁ RÀO TRONG KINH T VÀO
ĐÊM TRƯ C Đ I M I” C A TÁC GI Đ NG PHONG. Gi
ng viên hư ng d n: Hoàng Th Th m
Nhóm : 5
L p : 2336 HCMI 0131 lOMoAR cPSD| 45474828 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 .................... 4
1.1. Những mục tiêu và kỳ vọng sau ngày giải phóng ................................................................ 4
1.2. Thực trạng nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1975-1985 .................................................... 5
CHƯƠNG 2: CÁC BƯỚC PHÁ RÀO TRONG LINH VỰC NÔNG NGHIỆP TRƯỚC ĐỔI
MỚI ................................................................................................................................................... 11
2.1. Khái niệm “phá rào”............................................................................................................ 11
2.2 Tính cấp thiết của phá rào trong nông nghiệp ................................................................... 12
2.3. Quá trình phá rào ................................................................................................................ 20
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA CỦA “PHÁ RÀO” TRONG LĨNH VỰC NÔNG ..... 31
NGHIỆP ............................................................................................................................................ 31
3.1. Kết quả và ý nghĩa của phá rào Vĩnh Phúc ............................................................................ 31
3.2. Kết quả và ý nghĩa của phá rào Hải Phòng ....................................................................... 33
3.3. Kết quả và ý nghĩa của phá rào tại Nông trường Sông Hậu ............................................ 35
3.4. Kết quả và ý nghĩa của việc giải thể các tập đoàn máy kéo ở An Giang ......................... 36
3.5. Kết quả và ý nghĩa của chính sách Tam nông ở An Giang ............................................... 37
3.6. Ý nghĩa chung của các cuộc phá rào .................................................................................. 38
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VỀ PHÁ RÀO ..................................................................................... 40
4.1. Kết luận về điều kiện làm nên thành công của phá rào ................................................... 40
4.2. Kết luận về hạn chế của quá trình phá rào ....................................................................... 43
4.3. Đề xuất giải pháp.................................................................................................................. 44
4.4. Đặc điểm của phá rào và giai đoạn dẫn đến đổi mới ........................................................ 46
KẾT LUẬN ....................................................................................................................................... 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................... 49 2 lOMoAR cPSD| 45474828 LỜI MỞ ĐẦU
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng nhất tại Việt Nam từ xưa đến nay.
Bên cạnh việc sản xuất để phục vụ nhu cầu ngày càng tăng ở trong nước, Việt Nam còn là nước xuất
khẩu lượng nông sản lớn mỗi năm. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, ngày
114-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thư kêu gọi điền chủ, nông gia Việt Nam tham gia hợp tác xã
nông nghiệp. Trong thư Bác Hồ đã viết: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế lấy
canh nông làm gốc... nông dân giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”; “nông
dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh thì cần phải có hợp tác xã”; “... hợp tác xã là hợp vốn, hợp
sức với nhau. Vốn nhiều, sức mạnh, thì khó nhọc ít mà lợi ích nhiều”. Trong thư Bác đề cao vai trò
của hợp tác xã, việc tham gia hợp tác xã là cách tranh đấu kinh tế có hiệu quả nhất, để giúp vào việc
xây dựng nước nhà. Trải qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, khu vực kinh tế hợp tác, HTX luôn
luôn có những đóng góp quan trọng vào công cuộc giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước. Trong giai
đoạn chống Mỹ cứu nước, ở miền Bắc, khi hầu hết lực lượng thanh niên ra mặt trận, HTX nông nghiệp
đã có vai trò vô cùng quan trọng duy trì và phát triển sản xuất, đảm bảo hậu phương ổn định và cung
cấp lương thực, thực phẩm cho nhân dân miền Bắc và tiền tuyến lớn miền Nam.
Bên cạnh những mặt tích cực của hình thức hợp tác xã thì sau năm 1975 đất nước ta hoàn toàn
thống nhất đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa thì hình thức này lại có một số nhược điểm như: tính
hình thức trong chuyển đổi HTX theo Luật HTX chưa được khắc phục căn bản; nhiều HTX quy mô
nhỏ, thiếu vốn, tài sản ít, khả năng cạnh tranh thấp, chậm đổi mới, năng lực nội tại của các HTX còn
yếu; đội ngũ cán bộ quản lý HTX còn hạn chế về trình độ, lại không ổn định làm việc lâu dài trong
HTX… Điều nãy dẫn đến đời sống nhân dân lúc bấy giờ vô cùng khó khăn.
Với những khó khăn đó ở Việt Nam lúc bấy giờ đã tích cực tìm ra những biện pháp nhằm thay
đổi nền kinh tế theo hướng tích cực. Tại nhiều địa phương lúc bấy giờ do quá khó khăn họ đã tự tìm
cách thoát khỏi tình trạng ách tắc, khủng hoảng đó bằng công cuộc “phá rào”. Vậy vì sao cần phải
“phá rào”? Việc “phá rào mang lại thay đổi gì cho nền kinh tế”?...
Để làm sáng tỏ điều đó, nhóm đã chọn đề tài thảo luận: “Tìm hiểu nội dung phá rào trong
lĩnh vực nông nghiệp trong tác phẩm : “Phá rào vào đêm trước đổi mới” của tác giả Đặng
Phong.” để chứng minh được sự đúng đắn trong công cuộc “phá rào” của nhân dân ta. NỘI DUNG 3 lOMoAR cPSD| 45474828
CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985
1.1. Những mục tiêu và kỳ vọng sau ngày giải phóng
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đánh dấu kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ, đồng
thời kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt vĩnh viễn
ách thống trị của đế quốc Pháp - Mỹ và chế độ phong kiến, mở ra một trang sử mới: kỷ nguyên
độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Từ
đây, Việt Nam đã là một đất nước hòa bình, thống nhất, Nam - Bắc đã có khả năng hỗ trợ cho
nhau để phục hồi, đi lên tiến kịp và sánh vai với thế giới. Mọi hoạt động của xã hội không
những đã trở lại bình thường mà còn tốt hơn nhờ sự trần an về tinh thần: Từ nay không còn
chiến tranh, từ nay không còn bom đạn, từ nay có thể yên ổn sống trong hòa bình.
Đó là thời cơ để toàn Đảng, toàn dân gây dựng một sự đồng thuận, thống nhất trên
phạm vi cả nước trong phấn khởi, trong yên vui, khép lại quá khứ, nhìn về tương lai, hàn gắn
những vết thương về kinh tế, xã hội và tinh thần. Trước sự chuyển mình của lịch sử cùng
những cơ hội mở ra trước mắt, các lãnh đạo và nhân dân cả nước không khỏi kỳ vọng về một
tương lai tươi sáng mở ra trước mặt, bước vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa trong
không khí khẩn trương và một khí thế sôi nổi của niềm vui chiến thắng.
Những mong mỏi, hy vọng đó được Đảng cụ thể hóa bằng những chính sách mục tiêu, kế hoạch như:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 BCHTW Đảng khóa III ngày 29/9/1975 về nhiệm vụ
của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới nhấn mạnh đến đấu tranh giai cấp, cải tạo, dẹp
bỏ những thành phần kinh tế cũ, khẩn trương xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa:
“…Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là: Hoàn thành thống
nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Miền
Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội”
Đại hội Đảng lần thứ IV xác định để đưa cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng,
“điều kiện quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô
sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Trên
cơ sở tư tưởng đó, Đại hội IV đã hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 19761980. Bản
kế hoạch này có vị trí hết sức quan trọng, bởi vì nó vừa phải giải quyết những hậu quả nặng
nề của 30 năm chiến tranh và của chủ nghĩa thực dân mới, vừa phải tổ chức lại nền kinh tế 4 lOMoAR cPSD| 45474828
vốn nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng một bước nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong cả nước,
đặt cơ sở cho sự nghiệp công nghiệp hóa nước nhà. Vì vậy, Đảng đã lập ra một kế hoạch với nhiều hy vọng:
- “Tương lai tươi sáng đó mở đầu từ kế hoạch 5 năm này. Những viên đá nền tảng được
đặt đúng chỗ và xây dựng vững vàng, thì trên cơ sở đó cả sự nghiệp lớn lên.” - Dự kiến
bình quân hằng năm sản phẩm xã hội tăng từ 14-15%, thu nhập quốc dân tăng 13-14%,
giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8- 10%. Năng 5 suất lao động xã hội tăng 7,5-8%.
- "Năm 1980 đạt ít nhất 21 triệu tấn lương thực quy thóc, 1 triệu tấn thịt hơi các loại.”
1.2. Thực trạng nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1975-1985
1.2.1. Thực trạng kinh tế Việt Nam nói chung giai đoạn 1975-1985 Bối
cảnh kinh tế Việt Nam 1975 - 1985:
- Cấm vận thương mại của Mỹ
Giai đoạn 1975 - 1985 là giai đoạn khó khăn đối với nền kinh tế Việt Nam. Sau khi
Việt Nam giành được độc lập giải phóng hoàn toàn miền Nam, Tổng thống Gerald R.Ford
tháng 5/ 1975 đã áp đặt cấm vận thương mại với Việt Nam, cùng với đó bối cảnh quốc tế xuất
hiện nhiều diễn biến không thuận lợi với nước ta. Điều này khiến cho tình hình kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn đầu sau khi kết thúc chiến tranh vô cùng khó khăn. Lúc bấy giờ, ở Liên
Xô và các quốc gia Đông u xuất hiện phong trào cải cách quản lý kinh tế, rất nhiều ý kiến
phê phán mô hình quản lý kinh tế của Liên Xô là không còn phù hợp. - Thiên tai - địch họa
Từ năm 1977-1978, bóng quân thù lại xuất hiện ở phía Tây Nam: Toàn bộ tuyến biên
giới Tây Nam bị quân Pol Pot đánh phá. Lính Khơ me đỏ đã tấn công vào hầu khắp các xã
biên giới. Đạn pháo đã bắn hằng ngày vào lãnh thổ Việt Nam. Hàng ngàn đồng bào (trong đó
có cả trẻ em) đã bị tàn sát. Cuối năm 1978, Việt Nam đưa quân sang để cứu nhân dân
Campuchia thoát khỏi ách thống trị của chính quyền sát nhân Pol Pot. Việc duy trì một quân
số rất lớn ở trong nước và ở cả Campuchia là một gánh quá nặng đè lên một ngân sách quá
yếu và một dân tộc đã quá mệt mỏi sau nhiều thập kỷ chiến tranh. Đầu năm 1979 thì bóng
quân thù lại tràn ngập khắp biên giới phía Bắc và gây những tổn thất rất nặng nề. Cũng vào
cuối năm 1978 và liên tiếp cả năm 1979, có 2 trận lũ lớn ở đồng bằng Nam Bộ cuốn mất lương
thực, tài sản, nhà cửa. Hàng trăm ngàn người rơi vào cảnh màn trời chiếu đất. Phần rất lớn
diện tích canh tác bị ngập úng 5-6 tháng. Gia súc, gia cầm phải bán chạy lụt với giá hạ, sản
lượng gia súc, gia cầm giảm nghiêm trọng. Kinh tế, đời sống nhiều địa phương bị đảo lộn lớn. 5 lOMoAR cPSD| 45474828 - Viện trợ giảm sút
Trong bối cảnh quốc tế như vậy, Việt Nam vẫn nhận được nguồn viện trợ nhưng giảm
sút về số lượng. Trước hết là khoản viện trợ của Trung Quốc, trước đây thường vào khoảng
300 - 400 triệu USD/năm. Từ sau ngày giải phóng, do nhiều diễn biến phức tạp trong quan hệ
quốc tế, nguồn này giảm mạnh và đến năm 1977 thì chấm dứt hoàn toàn. Nguồn viện trợ của
các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng giảm sút về mặt hiện vật, mặc dù tính bằng tiền thì có
tăng lên. Từ năm 1978, Việt Nam tham gia Hội đồng Tương trợ Kinh tế (khối SEV), phải chấp
nhận mọi thiết chế kinh tế của khối đó, trong đó có thiết chế về giá. Theo quy định của khối
SEV thì việc mua bán, nhập khẩu giữa các nước trong khối SEV được áp dụng theo giá trượt".
Giá trượt được tính theo mức giá bình quân trên thị trường thế giới trong 5 năm trước đó để
hình thành giá cho năm sau. Mức giá này cao khoảng 2,5-3 lần so với mức giá viện trợ hữu
nghị của các nước xã hội chủ nghĩa dành cho Việt Nam. Do đó, nếu tính khối lượng giá trị
nhập khẩu bằng tiền rúp, thì viện trợ đã tăng lên từ 1,1 tỷ lên trên 1,5 tỷ. Nhưng vì phải áp
dụng mức giá trượt, cho nên số lượng 1,5 tỷ đó chỉ mua được một khối lượng hàng bằng
khoảng một nửa trước đây, tức là khoảng 600-700 triệu rúp.
Thời kỳ 1976 - 1985: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp
Thực hiện hai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội là Kế hoạch 5 năm lần thứ hai
(19761980) và Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985), nhân dân Việt Nam đã đạt được những
thành tựu quan trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh; Khôi
phục phần lớn những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại
các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá.
Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên
cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được
giao. Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1977-1985 tăng 4,65%,
trong đó: nông, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng
2,18%/năm. Theo loại hình sở hữu, sở hữu quốc doanh tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng
10,26% và sở hữu tư nhân, cá thể tăng 0,71%. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ
này thấp và kém hiệu quả. Nông, lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP
trong giai đoạn này), nhưng chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước. Công nghiệp được dồn
lực đầu tư nên có mức tăng khá hơn nông nghiệp, nhưng tỷ trọng trong toàn nền kinh tế còn
thấp (chiếm 39,74% GDP), chưa là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. 6 lOMoAR cPSD| 45474828
Thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng, hợp tác xã tuy ở thời kỳ đầu xây
dựng, nhưng đã có những bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường, nhờ đó hạn chế được nạn
đầu cơ, tích trữ và tình trạng hỗn loạn về giá cả. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội bình quân
thời kỳ này tăng 61,6%/năm.
Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung – cầu (thiếu hụt nguồn cung), đồng
thời do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, là những nguyên nhân dẫn đến
chỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân giai đoạn 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ tăng 39,53%/năm.
Chính phủ chủ trương nhanh chóng xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa, xem
đó là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đầu năm 1978, tất cả các tỉnh và thành phố miền Nam đã
căn bản xoá nạn mù chữ. Trong tổng số 1.405,9 nghìn người được xác định không biết chữ,
có 1.323,7 nghìn người thoát nạn mù chữ. Công tác dạy nghề phát triển cũng mạnh mẽ. Năm
1977, trên cả nước chỉ có 260 trường trung học chuyên nghiệp, hơn 117 nghìn sinh viên và
7,8 nghìn giáo viên. Đến năm 1985, số trường trung học chuyên nghiệp là 314 trường, với
quy mô 128,5 nghìn sinh viên và 11,4 nghìn giáo viên (tăng 9% về số sinh viên và 44,9% về
số giáo viên so với năm 1977)
Hệ thống y tế được mở rộng, xây mới và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Số giường
bệnh thuộc các cơ sở y tế tăng từ 89,4 nghìn giường năm 1976 lên 114,7 nghìn giường năm
1985. Số nhân viên y tế tăng từ 110,9 nghìn người năm 1976 lên 160,2 nghìn người năm 1985,
trong đó số bác sĩ tăng từ 9.104 người lên 19.029 người.
Ở miền Bắc, mặc dù thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình công nhân
viên chức tăng từ 27,9 đồng năm 1976 lên đến 270 đồng năm 1984; thu nhập bình quân đầu
người một tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng từ 18,7 đồng lên đến
505,7 đồng, nhưng do lạm phát cao, nên đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn.
1.2.2. Tình hình nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1975-1980
Trong giai đoạn 1976 – 1986, cả nước bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, một dấu
mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển đó là về chính sách đất đai xoay quanh việc quốc hữu
hóa các đồn điền và ruộng đất của tư sản nước ngoài; việc thu hồi đất là để giành quyền sử
dụng đất về cho nông dân tiến hành ổn định về tình hình nông nghiệp trên cả nước nói chung
và ở Miền Nam nói riêng. Chính sách đó được thể hiện thông qua Quyết định số 188-CP ngày
25/09/1976 của Chính phủ: “ Nhà nước tiến hành quốc hữu hóa các đồn điền và ruộng đất của
tư sản nước ngoài. Đối với từng trường hợp cụ thể, Nhà nước sẽ xem xét có bồi thường hay 7 lOMoAR cPSD| 45474828
không bồi thường. Nhà nước trực tiếp quản lý, sử dụng tất cả các loại ruộng đất cho đến ngày
công bố các chính sách này mà còn bỏ hoang ruộng đất không có lý do chính đáng. Thu hồi
toàn bộ ruộng đất thuộc sở hữu quốc gia, ruộng đất của tư sản mại bản, của địa chủ phản
quốc’’. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng khuyến khích việc hiến ruộng trong các bộ phận những
người trong xã hôi, với từng bộ phận giai cấp trong xã hội Nhà nước sẽ có những chính sách
riêng. Các địa chủ kháng chiến và địa chủ thường cho phép hiến ruộng. Với chính sách đất
đai trên, nền kinh tế nông nghiệp được tạo điều kiện hơn trong phát triển, đã kích thích hoạt
động sản xuất. Có thể nói chúng ta đang bước đầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đặc biệt
trong sản xuất nông nghiệp. Từ chính sách đất đai trên đã tạo cơ sở cho đại hội IV (20/12/1976)
đề ra đường lối chung cho cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới Từ ngày 14 -
20/12/1976, Đại hội IV được diễn ra nội dung chủ yếu thể hiện về nhận thức và tư duy phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong điều kiện mới như xây dựng kinh tế theo mô hình kinh
tế kế hoạch hóa tập trung. Một vấn đề đặt ra từ cuối năm 1975 tổ quốc thống nhất về mặt nhà
nước song về mặt kinh tế, xã hội và kết cấu giai cấp hai miền do lịch sử để lại chưa thể sớm
đồng nhất. Tình hình đó đòi hỏi Đảng phải tiếp tục giải phóng giai cấp công nhân và nông dân
về mặt kinh tế, tạo ra sự thống nhất về quyền lợi và nghĩa vụ của hai giai cấp lao động, bảo
đảm cho liên minh công nông thực sự trở thành nền tảng của chuyên chính vô sản. Trên cơ sở
nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 24 (khóa III, tháng 9 năm 1975) và nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ IV (tháng 12 năm 1976) đã đưa đến những kết quả nhất định trong kế hoạch
5 năm lần thứ hai (1976 – 1980) nhằm góp phần củng cố liên minh công nông tập trung phát
triển kinh tế nông nghiệp. Đến 1980, cả nước đã khai hoang phục hóa được 120 vạn ha. Diện
tích thủy lợi hóa tăng thêm 85,5 vạn ha. Diện tích gieo trồng hằng năm tăng từ 5,9 triệu ha
năm 1975 lên 7,7 triệu ha năm 1980. Việc đấu tranh xóa bỏ tàn dư của chế độ thực dân, phong
kiến ruộng đất ở các tỉnh phía Nam được thực hiện. Đảng đã quốc hữu hóa các cơ sở sản xuất
của đế quốc và tư sản mại bản, trao cho công nhân làm chủ hơn 12.680 xí nghiệp lớn nhỏ,
những thành quả ấy đã tạo tiền đề cho sự đồng nhất một bước về mặt giai cấp của giai cấp
công nhân cũng như giai cấp nông 30 dân cả nước. Từ đó, giai cấp công nhân có thêm cơ sở
để thiết lập liên minh kinh tế với nông dân. Trong cùng những thắng lợi đạt được còn chứa
đựng nhiều sai lầm và khuyết điểm cả trong sự nghiệp hợp tác hóa nông nghiệp, thu nhập xã
viên thấp hơn thu nhập của nông dân tự do. Nếu ở năm 1976 giá trình ngày công bình quân
của người nông dân xã viên là 0,58 kg thóc thì đến năm 1989 là 0,86 kg trong khi cùng thời
gian ấy người nông dân tự do thu nhập bình quân là 0,97 và 1,75. Đời sống giai cấp công nhân 8 lOMoAR cPSD| 45474828
không kém phần khó khăn, họ sản xuất ra 34,2% thu nhập quốc dân nhưng chỉ nhận sự phân
phối được 9%. So với năm 1970 lương thực tế của công nhân viên chức chỉ còn dưới 31%
những hiện tượng tiêu cực trong xã hội chẳng những không giảm mà còn tăng.
Công nhân và nông dân hợp tác sống và 31 làm ăn theo lối “chân ngoài dài hơn chân trong”
nhất là khi giới cầm quyền ở Trung Quốc cắt giảm viện trợ đột ngột và gây ra chiến tranh biên
giới thì tình hình đất nước lại càng khó khăn hơn. Khối liên minh công nông chưa được củng
cố trước hết là do những chủ trương và hoạt động của Đảng về mặt cộng tác này trong những
năm 1975 – 1980, về cơ bản là vận dụng cách nghĩ và cách làm ở miền Bắc trước năm 1975
vì vậy mà Đảng đã có chủ trương và việc làm không đúng với nội dung liên minh công nông
ở chặng đường đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những chủ trương và việc làm nóng
vội đã làm cho nông dân bị nghèo hóa, công nhân viên chức gặp nhiều khó khăn trong đời
sống. Từ những năm 1977 – 1978, Trung Quốc cắt đứt mọi viện trợ cho Việt Nam, bắt đầu
xảy ra xung đột biên giới Tây Nam, nguồn viện trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
bị giảm sút nghiêm trọng nền kinh tế lâm vào tình trạng thiếu hụt, sản xuất sa sút, lưu thông
bị ách tắc, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trong giai đoạn 1976 – 1980, sản xuất nông
nghiệp bị ngưng trệ, sản lượng lúa năm 1980 chỉ đạt 11,647 triệu tấn (chỉ tiêu là 21 triệu tấn)
thấp hơn năm 1976 và phải nhập 1,57 triệu tấn lương thực. Những khó khăn yếu kém về kinh
tế nông nghiệp thời kì này được giải thích bằng nhiều nguyên nhân khác nhau: Nguyên nhân
khách quan là tình hình quốc tế phức tạp, sự phá hoại của những thế lực thù địch ngoài nước
cấu kết với những lực lượng chống đối trong nước do chủ nghĩa thực dân mới để lại. Nguyên
nhân chủ quan được cho là tinh thần giác ngộ của người lao động chưa tương xứng với mô
hình kinh tế mới, ý thức tự do, tản mạn đầu óc tư hữu nông dân.
1.2.3. Tình hình nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1981-1985
Những đột phá trong đời sống kinh tế và những biện pháp cởi trói cho sản xuất trong
những năm 1979 – 1980, nên từ năm 1981 trở đi đời sống kinh tế có nhiều khởi sắc: Những
bước chuyển biến về tư duy kinh tế mới từ sau năm 1979 thể hiện đầy đủ trong các chủ trương
đường lối của Đảng. Hội nghị đã xác định nguyên nhân sai lầm là do “chưa quán triệt quan
điểm về sự tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế ở miền Nam nên đã có phần nóng
vội trong việc đề ra chủ trương hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với công thương nghiệp. Về hình thức công tư hợp doanh, áp dụng kinh nghiệm của miền Bắc
một cách máy móc… khuyết điểm lớn nhất là chưa nắm vững phương châm kết hợp chặt chẽ
cải tạo với xây dựng, chưa quán triệt mục đích cuối cùng của cải tạo là phát triển sản xuất, 9 lOMoAR cPSD| 45474828
quản lý thị trường, bảo đảm đời sống…dẫn tới tình trạng nóng vội, chủ trương cải tạo vượt
qua điều kiện và khả năng quản lý. Trong điều kiện khi đó có thể thấy đây là bước đột phá
quan trọng về tư duy nhận thức mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chỉ thị số 100- CT/TW ngày 13/1/1981 cho phép áp dụng chế độ khoán trong nông nghiệp.
Nông dân được hưởng phần mình sản xuất ra sau khi đã nộp thuế nông nghiệp, nộp thóc nghĩa
vụ, nộp thóc điều hòa trong nội bộ hợp tác xã. Chỉ thị số 100- CT/TW đã mở ra một phong
trào khoán mới, khắc phục sự trì trệ trong sản xuất nông nghiệp, bước đầu nhằm tạo ra một
động lực mới trong sản xuất nông nghiệp, đã bước đầu giải phóng lao động nông dân, gắn
nông dân với trách nhiệm, lợi ích của họ đến sản phẩm cuối cùng trên ruộng khoán. Từ đó,
khuyến khích nhân dân đầu tư thêm lao động, phân bón,... để thu thêm nhiều sản phẩm vượt
khoán. Kết 41 quả đem lại “6 – 7 vụ được mùa liên tiếp, sản phẩm lương thực tăng gấp 1 triệu
tấn/ năm. Động lực khoán sản phẩm đến nhóm và người dân lao động vào cuối năm 1983 và
đầu năm 1984 bắt đầu chững lại và giảm xuống. Trong những năm 1982 – 1984, chủ trương
“bung ra” và “cởi trói” tuy bước đầu tháo gỡ được một số khó khăn nhưng đã bắt đầu xuất
hiện tình trạng vi phạm kỷ cương, trong nền kinh tế lại xuất hiện yếu tố tiêu cực mới tình trạng
vô tổ chức trong các quan hệ kinh tế vì vậy trong những năm 1983 – 1984 một số chính sách
mới được ban hành để lập lại trật tự như xem xét lại Quyết định số 25 – CP, phê phán phá rào,
buông ra làm lơi lỏng quản lý, siết chặt và tiếp tục “cải tạo”, phê phán buông lỏng chuyên
chính vô sản. Đến năm 1985, những quan điểm mới được thể hiện nghị quyết Trung ương 8
là những bước đi đầu tiên, có tính đột phá, tạo nền tảng cho công cuộc đổi mới toàn diện 42
những năm tiếp theo. “ Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6 -1985) đánh dấu bước đột phá
thứ hai bằng chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, điểm quan trọng
của Hội nghị này là thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa”.
Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 8-1986) và Hội nghị Trung
ương lần thứ 11 (tháng 11 năm 1986) đã bắt đầu hình thành những quan điểm kinh tế mới, rất
cơ bản Bộ Chính trị đã nhất trí kết luận ba kinh tế cơ bản trong đó bố trí cơ cấu kinh tế phải
lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu được đặt lên hàng đầu. Sản lượng của nhiều ngành
kinh tế tăng lên với nhịp độ hơn hẳn các giai đoạn trước. Trong nông nghiệp như nhận xét của
ủy viên Bộ Chính trị, phó thủ tướng Võ Chí Công, tình hình sản xuất và đời sống trong các
hợp tác xã đã được cải thiện một bước đáng kể: Riêng vụ đông xuân ở miền Bắc năm 1981,
sản lượng lương thực tăng bình quân 15%, có nơi tăng 25-30%, một số hợp tác xã tăng 40%,
phát huy được tiềm năng đất đai, lao động, tiết kiệm chi phí sản xuất, sức lao động tăng lên 10 lOMoAR cPSD| 45474828
rõ rệt, số người tham gia lao động sản xuất tăng lên trên 10%, ngày công, giờ lao động tăng
lên 25 – 30%, thời gian lao động chung tăng lên 50%. Đồng thời, sản lượng lúa năm 1978
9.789,9 nghìn tần đến 1985 đạt 15.874,8 nghìn tấn. Nói chung, kết quả đạt được trong những
năm 1981 – 1985 nông nghiệp Việt Nam tiến bộ rõ rệt, sản lượng lương thực có bước phát
triển quan trọng, “mức bình quân hàng năm từ 13,4 triệu tấn trong thời kỳ 1976 – 1980 đã
tăng lên 17 triệu tấn trong thời kỳ 1981 – 1985.
CHƯƠNG 2: CÁC BƯỚC PHÁ RÀO TRONG LINH VỰC NÔNG NGHIỆP TRƯỚC ĐỔI MỚI
2.1. Khái niệm “phá rào”
2.1.1. Hàng rào là những gì ? 11 lOMoAR cPSD| 45474828
Hàng rào đó chính là những thể chế, những nguyên tắc của mô hình kinh tế kế hoạch
hóa tập trung được hình thành ở Liên Xô và sau đó được áp dụng hầu hết tại các nước xã hội chủ nghĩa( XHCN).
2.1.2. Phá rào là gì?
Phá rào tức là vượt qua những hàng rào về quy chế đã lỗi thời để chủ động tháo gỡ
nhiều ách tắc trong cuộc sống, đồng thời cũng góp phần từng bước dẹp bỏ hàng rào cản cũ kỹ
để mở đường cho công cuộc đổi mới.
Một số cuộc phá rào điển hình trong nông nghiệp có thể kể đến: - Khoán ở Vĩnh Phúc - Khoán ở Hải Phòng
- Khoán ở Nông trường Sông Hậu
- Chính sách Tam nông ở An Giang
2.2 Tính cấp thiết của phá rào trong nông nghiệp
2.2.1 Mô hình hợp tác xã bộc lộ nhiều bất cập và nhược điểm, không phù hợp với thời đại mới
Nhận thấy rằng, mô hình hợp tác xã ở Liên Xô, Trung Quốc và cả miền Bắc Việt Nam
trong khoảng từ 1958-1960 đã làm minh chứng để Đảng ta áp dụng mô hình này cho cả nước.
Lúc này không còn phân phối theo lối kinh doanh tiểu nông vì sự phân phối đó tất yếu dẫn tới
phân hóa giàu nghèo, mà sự phân hóa này lại tất yếu dẫn tới bóc lột.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 24, Báo cáo chính trị tại Hội nghị đã nhấn mạnh đến
đấu tranh giai cấp, cải tạo, dẹp bỏ những thành phần kinh tế cũ, khẩn trương xây dựng nền
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa…
Đưa nông nghiệp từng bước tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bằng ba hình thức:
Tổ hợp nông công nghiệp quốc doanh, kết hợp Nhà nước với hợp tác xã, kết hợp Nhà nước
với cá thể trên một quy hoạch thống nhất về trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng cơ sở vật chất và
kỹ thuật. Lấy đơn vị huyện làm địa bàn kết hợp trên cơ sở quy hoạch chung của cả tỉnh và
từng vùng. Xây dựng nông trường quốc doanh trên quy mô lớn,...
Trước mắt cần xây dựng một số hợp tác xã thí điểm để rút kinh nghiệm. Ở những nơi
chưa điều kiện xây dựng hợp tác xã thì ra sức phát triển các tổ đổi công cần công.
Trên lý thuyết cách phân phối đó là rất công bằng, rất xã hội chủ nghĩa… nhưng trong
thực tế mô hình này đem đến rất nhiều bất cập.
Tiêu cực trong cách thức quản lý, ăn chia công điểm 12 lOMoAR cPSD| 45474828
Tình trạng khai man ngày càng diễn ra nghiêm trọng. Chủ nhiệm hay cán bộ hợp tác
xã chỉ lên xã, lên huyện” đánh chén cũng tính một công đi họp”. Bởi vậy, tại phần lớn các hợp
tác xã, người nhiều công điểm nhất lại là các vị trong ban quản trị và các đội trưởng. Còn với
các chỉ tiêu từ trên áp xuống, những cán bộ hợp tác xã sợ bị phê bình, khiển trách dẫn đến
hiện tượng “ làm thì láo báo cáo thì hay”, khiến cho ekets quả của nhiều năm làm ăn trong
hợp tác xã không ảnh ánh đúng sự thật.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, hoạt động không năng nổ, kịp thời trong xử lý các vấn đề,
thậm chí dẫn tới nhiều tiêu cực ảnh hưởng tới quyền lợi của người lao động, người dân. Tình
trạng quan liêu, thoát ly sản xuất, xa rời quần chúng, tham ô, tư lợi của một số cán bộ ở cơ
sở càng trở thành phổ biến.
Người nông dân làm ăn theo lối vô tổ chức, bị động, hời hợt, thiếu tính sáng tạo
Nền kinh tế tập thể của nông dân chỉ tồn tại trên giấy tờ và trên hình thức, do cấp ủy
địa phương sợ Trung ương nên phải làm. Nông dân lại sợ cấp ủy nên phải vào tập đoàn sản
xuất hoặc hợp tác xã. Máy móc đưa vào tập đoàn để hoen gỉ. Ruộng đất được canh tác cẩu thả.
Việc chuyển quá nhiều hợp tác xã lên quy mô lớn, việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
không tính toán đến hiệu quả kinh tế, áp dụng quan hệ phân phối mang tính chất bình quân…
làm cho hợp tác xã suy yếu dần dẫn đến phá sản: tài sản mất mát, hư hỏng, chi phí sản xuất
tăng, giá trị ngày công lao động thấp, thu nhập của xã viên giảm sút,..
Vô số tổ chức trong việc thực hiện giờ giấc lao động trong lao động tập thể. Việc nông
dân đi muộn về sớm, đi làm như đi chơi là một tình trạng có thể dễ bắt gặp ở nhiều hợp tác xã.
Người lao động không gắn bó với đồng ruộng, không gắn bó với sức lao động của mình
mà chỉ biết chạy theo công điểm: Đi làm theo lệnh của đội, theo hiệu lệnh, theo kẻng, không
chủ động chăm lo sản xuất. Ông Nguyễn Thành Tô, nguyên Thư ký của Bí thư Tỉnh ủy Kim
Ngọc đã từng chứng kiến nông dân làm cỏ và kể rằng: “ Họ chỉ làm xung quanh bờ, sạch bờ
thì đủ để ông đội trưởng ghi công, ghi điểm, còn ở giữa ruộng cỏ mọc vượt lúa!”.
Ngay cả khi đến vụ gặt, cấy, có khi lãnh đạo các cấp cơ sở phải huy động hàng trăm, thậm chí
hàng nghìn cán bộ xuống hợp tác xã để đôn đốc, tuyên truyền giáo dục tư tưởng và động viên
nông dân như một “ chiến dịch”. 13 lOMoAR cPSD| 45474828
=> Lối làm ăn theo kiểu cũ theo mô hình hợp tác xã là không hiệu quả, đem đến năng suất
thấp, bào mòn những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân và làm thoái hóa đạo đức của
một bộ phận các cán bộ.
2.2.2 Bất đồng trong quan điểm, đường lối mới
Vào khoảng cuối năm 1977 đầu năm 1978, xu hướng khá phổ biến trong việc giải thích
nguyên nhân của những khó khăn và ách tắc là: Do sự lũng đoạn của thị trường tự do, do sự
tồn tại của kinh tế tư nhân. Giải thích nào thì giải pháp ấy. Giải pháp được lựa chọn là: Cải
tạo khẩn trương và triệt để. Thực ra, trong dư luận của đa số quần chúng nhân dân của cũng
như của không ít cán bộ lãnh đạo ở các địa phương vẫn còn rất nhiều phân vân, rất nhiều
người chưa hoàn toàn thông với những biện pháp cải tạo, vội vàng, thiếu điều tra cân nhắc tình hình thực tế.
Khoán Vĩnh Phúc- một phong trào khoán được coi là tiền đề cho khoán 10 này, trong
nếp nghĩ chung thời ấy, đã bị lên án nặng nề. Từ đó, khoán hộ trở thành điều cấm kỵ, không
ai còn dám công khai nhắc đến chuyện này nữa.
Những năm đầu thập kỷ 80, tuy cả nước đã đứng trước tình hình rất khó khăn về sản
xuất nông nghiệp, nhưng quan điểm thì vẫn còn rất lúng túng trong tình trạng giằng co giữa
cơ chế cũ và cơ chế mới. Đối với khoán, các ý kiến của các ngành ban, giới cũng ở trong tình
trạng” năm bè bảy mối”. Ban Nông nghiệp trung ương thì phản đối khoán, coi như thế là
chệch hướng, là mất lập trường, mất chủ nghĩa xã hội. Bộ Nông nghiệp thì ủng hộ khoán.
Trong các cơ quan nghiên cứu cũng vậy. Nơi như Viện Kinh tế học thì không những đồng tình
mà còn biệt phái một chuyên gia xuống nằm vùng tại các cơ sở để nghiên cứu và chứng minh khoán là đúng.
Tuy Đảng ta rất coi trọng bầy không khí hòa hợp và đoàn kết nội bộ Đảng, nhưng
những tranh cãi gay gắt- nhất là ở trong vấn đề tư tưởng, quan điểm, vẫn sẽ tiềm tàng mối
nguy cơ rạn nứt đoàn kết, bằng mặt không bằng lòng, chia bè kéo phái giữa một số cá nhân/
nhóm người và không đi đến thống nhất về quan điểm cũng khiến thời gian họp hành, thảo
luận, kiểm tra, khảo sát bị kéo dài.
Người chịu thiệt thòi lớn nhất ở đây là những người dân đang phải chạy ăn từng bữa.
Lúc này, những mũi đột phá là cực kỳ cần thiết để những cán bộ ủng hộ khoán có được các
kết quả trên thực tiễn. 14 lOMoAR cPSD| 45474828
2.2.3 Ảnh hưởng của nông nghiệp đem đến nhiều hệ quả tiêu cực trong xã hội
Do không thu mua được lương thực, người dân thành phố phải ăn độn. Tại thủ đô Hà
Nội, trong khẩu phần định lượng lương thực được mua theo giá cung cấp (0,4 đồng/kg) vốn
đã ít ỏi ( 13kg/người/tháng), đến tháng 3 năm 1978 trong thực tế chỉ còn mua được 4kg gạo
thôi, còn lại là khoai lang và sắn khô. Điều đó là điều mà ngay trong suốt những năm chiến
tranh cũng chưa bao giờ có. Ngay cả Thành phố Hồ Chí Minh cũng phải ăn độn hạt bo bo
Lúc đó, Nông nghiệp tạotao ra gần 50% tổng sản phẩm xã hội và trên 80% dân số vẫn
sống ở nông thôn, cho nên sự suy thoái trong nông nghiệp đã tác động tiêu cực đến sự phát
triển kinh tế- xã hội chung của cả nước. Vì những tiêu cực trong cơ chế quản lý cái đói, cái
khổ mà biểu hiện của sự tha hóa đạo đức xuất hiện khắp nơi. Trật tự xã hội rối ren, lũng đoạn,
tệ nạn tràn lan: nạn ăn cắp, ăn mày diễn ra nhan nhản.
Bí thư huyện ủy Đồ Sơn( Hải Phòng) Nguyễn Đình Nhiên kể lại: “ Từ đói mà tệ nạn
ăn cắp trong nông thôn phát triển: mất cả gà, cả chó, cả lợn, rồi cả trâu của hợp tác xã người
ta cũng giết trộm ngay ngoài cánh đồng để ăn…”. Nếu không đảm bảo chuyện “ có thực mới
vực được đạo”, e là tần suất và mức độ nghiêm trọng của những tệ nạn xã hội này sẽ có
chiều hướng gia tăng. Vì vậy, tìm ra một phương án, một lối thoát là vô cùng cấp thiết ngay
lúc đó. Các cán bộ cơ sở là người thường xuyên chứng kiến những chuyện đáng buồn này
nhất, điều đó lý giải cho việc tại sao hiện tượng “ phá rào” thường được thực hiện theo trình
tự từ dưới lên trên: từ cấp hợp tác xã cho đến xã, xã cho đến huyện, từ huyện đến tỉnh và từ
đó tác động ngược đến cách nghĩ- cách làm của các đồng chí lãnh đạo cấp Trung ương.
2.2.4. Nhiều biện pháp khác nhau đã được áp dụng, song tình hình nông nghiệp vẫn bì
bạch, bế tắc.
Mặc dù Đảng đã nhận ra những điều không đúng trong mô hình đang khiến thực tế đi
chệch so với “Đường ray” lý luận. Tuy nhiên, nguyên nhân của những sai cố đó được quy về
phương thức quản lý hợp tác xã, quy cho cơ sở vật chất lạc hậu, quy cho việc giáo dục ý thức
làm chủ tập thể chưa được hiệu quả. Rất nhiều các phong trào, các cuộc vận động đã được
truyền đi nhằm điều hướng tập thể hóa.
Ông Bùi Mai, nguyên Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Kiến An những năm đó kể: “
Tôi nhớ, hồi đó đi suốt từ Hải Phòng đến Kiến An thấy la liệt những máy móc, thiết bị vứt
ngổn ngang bên đường, hoen gỉ hết, trông mà xót xa..”
Việc loay hoay chọn những hướng như cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng văn
hóa tư tưởng, giáo dục ý thức làm chủ tập thể, mà quên không chú ý đến mô hình kinh tế là 15 lOMoAR cPSD| 45474828
điều rất sai lầm. Một mô hình kinh tế không tốt, đưa vào bao nhiêu khoa học kỹ thuật cũng
chỉ là sổ xuống sông xuống biển. Một mô hình không tốt thì có giáo dục ý thức làm chủ tập
thể đến bao nhiêu cũng chỉ là hư vô. Do vậy, các mũi đột phá là cần thiết để khai thông sự quẩn quanh này.
2.2.5 Khả năng bao cấp của nhà nước dần cạn kiệt
Trước hết là khoản viện trợ của Trung Quốc, trước đây thường vào khoảng 300 - 400
triệu đô la/năm. Từ sau ngày giải phóng, do nhiều diễn biến phức tạp trong quan hệ quốc tế,
nguồn này giảm mạnh và đến năm 1977 thì chấm dứt hoàn toàn.
Nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng giảm sút về mặt hiện vật, mặc
dù tính bằng tiền thì có tăng lên. Từ năm 1978, Việt Nam tham gia Hội đồng Tương trợ Kinh
tế (khối SEV), phải chấp nhận mọi thiết chế kinh tế của khối đó, trong đó có thiết chế về giá.
Theo quy định của khối SEV thì việc mua bán, nhập khẩu giữa các nước trong khối SEV được
áp dụng theo giá trượt". Giá trượt được tính theo mức giá bình quân trên thị trường thế giới
trong 5 năm trước đó để hình thành giá cho năm sau. Mức giá này cao khoảng 2,5-3 lần so
với mức giá viện trợ hữu nghị của các nước xã hội chủ nghĩa dành cho Việt Nam. Do đó, nếu
tính khối lượng giá trị nhập khẩu bằng tiền rúp, thì viện trợ đã tăng lên từ 1,1 tỷ lên trên 1,5
tỷ. Nhưng vì phải áp dụng mức giá trượt, cho nên số lượng 1,5 tỷ đó chỉ mua được một khối
lượng hàng bằng khoảng một nửa trước đây, tức là khoảng 600-700 triệu rúp.
Liên Xô- người anh em XHCN thân thiết, hòn đá tảng của chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước, bắt đầu xuất hiện sự gia tăng tình trạng bất ổn trong các quốc gia cộng
hòa thành viên trong những năm đầu của thập niên 1980. Đây là dấu hiệu buộc ta phải tính
toán những bước đi độc lập hơn vì nguồn viện tợ có thể bị cắt bớt hoặc thậm chí giảm sút
giảm mạnh trong tương lai.
Trước sự bức xúc của nạn đói, sự thiếu hụt lương thực của cả nước, Nhà nước phải
quyết định tung ra hàng chục tấn vàng dự trữ mang đi bán lấy đô la để nhập gạo về cứu đói.
Việc hỗ trợ, chu cấp của Nhà nước ở mọi mặt: nông nghiệp, thương nghiệp, công nghiệp…
đã khiến cho khả năng bao cấp của Nhà nước ngày dần cạn kiệt.
2.2.6. Nguy cơ nhân dân mất niềm tin vào chính quyền nếu hiện trạng kéo dài
Thời kỳ 1976-1980 là thời kỳ triển khai những tư tưởng của Đại hội Đảng lần thứ IV
và phấn đấu thực hiện những chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Có thể nói, thời kỳ này
được dự kiến là thời hòa bình và phát triển với tốc độ cao nhất, khi đất nước đã "sạch bóng quân thù." 16 lOMoAR cPSD| 45474828
Nhưng trong thực tế đã có hàng loạt diễn biến trái ngược với dự kiến chủ quan ban đầu.
Như chính Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nhìn nhận vào năm 1979: "Trong bốn năm qua, nhiều sự
kiện đã diễn ra trái với điều mong muốn".
Trước thời kỳ đổi mới, ngành nông nghiệp ở Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách
thức và khó khăn. Các nông dân thường xuyên phải đối mặt với thiếu hụt nguồn cung cấp, giá
cả không ổn định, chất lượng sản phẩm không đảm bảo và hạn chế trong việc tiếp cận với
công nghệ mới.Một số hiện trạng có thể kể ra trong thời điểm đó như là:
Viện trợ Mỹ được thay bằng cấm vận của Mỹ điều này đã khiến cho nông nghiệp,
miền Nam đã quen sử dụng phân bón, máy móc để canh tác, chuyên chở, chế biến. Sau giải
phóng, máy móc thì còn, nhưng xăng dầu ngày càng khan hiếm. Do thiếu xăng, máy cày,máy
bơm không hoạt động được, ghe thuyền không vận chuyển được, xe cộ cả loại hai bánh lẫn
bốn bánh cũng gặp khó khăn. Nhiều xe vận tải đã chuyển sang chạy bằng than củi (gasozene).
Xe Honda phải pha thêm dầu hôi (dầu hỏa) vào xăng. Xe xích lô máy thì chạy hoàn toàn bằng dầu hôi.
Tiếp đến là việc phải hứng chịu thiên tai địch họa khiến nhân dân bị tổn thất nặng nề.
Vào cuối năm 1978 và liên tiếp cả năm 1979, có hai trận lũ lớn ở đồng bằng Nam Bộ cuốn
mất lương thực, tài sản, nhà cửa. Hàng trăm ngàn người rơi vào cảnh màn trời chiếu đất. Phần
rất lớn diện tích canh tác bị ngập úng 5-6 tháng. Gia súc, gia cầm phải bán chạy lụt với giá
hạ, sản lượng gia súc,gia cầm giảm nghiêm trọng. Kinh tế, đời sống nhiều địa phương bị đảo lộn lớn.
Viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cũng giảm sút khiến cho Nhà nước cũng không
có đủ hàng để trao đổi với nông dân để thu mua nông sản theo giá kế hoạch. Khi nông dân
phải sống với thị trường, mua vật tư trên thị trường tự do thì họ cũng yêu cầu phải bán thóc
theo giá thị trường tự do. Mức huy động lương thực do đó giảm sút nghiêm trọng… Trên thị
trường hàng tiêu dùng, mậu dịch quốc doanh không có hàng bán ra. Nhiều thành phố lớn thiếu
gạo, thiếu chất đốt, thiếu điện, thiếu nước... Các nguồn hàng trong kế hoạch vốn đã eo hẹp lại
bị thất thoát bằng nhiều cách khác nhau. Chính thời kỳ này đã xuất hiện tình trạng bán không
bán được, mua không mua được. Sự ách tắc không phải ở chỗ không có gì để bán và cũng
không phải không có tiền để mua. Ách tắc chính là ở cơ chế mua và bán, ở cái gạch nối giữa
cung và cầu. Trong sự ách tắc đó, đã xuất hiện một khoảng trống. Trong khoảng trống đó, thị
trường tự do lớn lên. Người nông dân không bán nông sản cho Nhà nước thì họ bán ra thị
trường tự do. Người tiêu dùng có tiền nhưng không mua được hàng theo hệ thống cung cấp 17 lOMoAR cPSD| 45474828
cũng phải ra thị trường tự do. Những thiết chế của nền kinh tế kế hoạch là nhằm loại trừ kinh
tế tư nhân và thị trường tự do, thì trong tình huống này lại nhường địa bàn cho những thứ đó.
Đã xuất hiện những mối quan hệ "cộng sinh" (symbiosis) giữa thị trường có tổ chức và thị
trường tự do, giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh như sản phẩm tất yếu của tình trạng thiếu hụt.
Liệu pháp cải tạo: Đến năm 1977, nhiều người vẫn thiên về cách giải thích rằng nguyên
nhân của khó khăn, thiếu thốn chính là kinh tế tư nhân, là thị trường tự do. Ý kiến này dần
dần trở thành một xu hướng có sức thuyết phục đối với nhiều cơ quan chủ chốt. Kết quả là
kinh tế tư nhân bị phủ định, mà không thực hiện được mục đích phát triển sản xuất. Nhà nước
đã tiến hành cải tạo trong nông nghiệp. Hàng loạt nông trường đã được xây dựng ở khắp miền
Nam. Nông dân bị ép vào các tập đoàn sản xuất và một số hợp tác xã. Tình trạng ách tắc cũng
diễn ra như trong công và thương nghiệp. Các nông trường quốc doanh được đầu tư nhiều tiền
vốn, máy móc và nhân lực nhưng hiệu quả rất kém. Nhiều nông trường trở thành những đơn
vị ăn bám vào ngân sách, chiếm đoạt nhiều đất đai, sử dụng nhiều lao động, nhiều máy móc
tối tân nhưng không tạo ra được sản phẩm như mong muốn.Nền kinh tế tập thể của nông dân
chỉ tồn tại trên giấy tờ và trên hình thức, do cấp ủy địa phương sợ Trung ương nên phải làm.
Nông dân lại sợ cấp ủy nên phải vào tập đoàn sản xuất hoặc hợp tác xã.Máy móc đưa vào tập
đoàn để hoen gỉ. Ruộng đất được canh tác cẩu thả. Từ 1976 đến 1980, sản lượng lương thực
của cả nước, nhất là của miền Nam giảm sút một cách nghiêm trọng. Sản lượng lương thực
do Nhà nước huy động thì còn giảm mạnh hơn. Nhà nước phải tung nốt 40 tấn vàng ra bán,lấy
đô la để nhập gạo về cứu đói cho dân. Rốt cuộc, hai chiến dịch cải tạo ồ ạt ở miền Nam được
dự định như một liều thuốc chữa trị bệnh thiếu hụt của nền kinh tế, lại trở thành một yếu tố
nữa góp phần làm tăng thêm sự thiếu hụt trong nền kinh tế.
Kế hoạch 5 năm 1976-1980: Đến hết năm 1980, kế hoạch 5 năm 1976-1980 chỉ đạt
được 50%, có thứ chỉ 20%. Mức tăng trưởng bình quân năm về GDP dự định là 13- 14%,
trong thực tế chỉ đạt 0,4%. Sản lượng nông nghiệp là 2%/năm thay vì 6%/năm. Trong nông
nghiệp, với cơ chế quản lý kém hiệu quả của mô hình sản xuất nông nghiệp hợp tác hóa thiếu
phân bón thuốc sâu, thiếu nhiên liệu cho hoạt động tưới tiêu làm cho sản lượng sa sút. Năm
1976, sản lượng lúa cả năm là 11.827,2 nghìn tấn. Kế hoạch 5 năm định là năm 1980 sẽ nâng
lên gần gấp đôi, tức là 21 triệu tấn, thì trong thực tế, đến năm 1980 chỉ đạt 11.647,4 nghìn tấn,
tức là còn chưa bằng điểm xuất phát năm 1976. Sản lượng lương thực do Nhà nước thu mua
năm 1976 là hơn 2 triệu tấn, năm 1979 chỉ còn 1,45 triệu tấn. Đến lúc này thì điều mà Tổng 18 lOMoAR cPSD| 45474828
Bí thư Lê Duẩn nói hồi đầu tháng 8 năm 1975, đã được thực tế xác nhận: "Nông dân miền
Nam đã buôn bán rồi, nếu chúng ta không chịu buôn bán với họ thì họ sẽ chọi lại chúng ta,
nguy hiểm lắm...". Do không thu mua được lương thực, người dân các thành phố phải ăn độn.
Tại thủ đô Hà Nội, trong khẩu phần định lượng lương thực được mua theo giá cung cấp
(0,40 đồng/kg) vốn đã ít ỏi (13kg/người/tháng), đến tháng 3 năm 1978 trong thực tế chỉ còn
được mua 4 kg gạo thôi, còn lại là khoai lang và sắn khô. Đó là điều mà ngay trong suốt những
năm chiến tranh cũng chưa bao giờ có. Đến nỗi thường trực Ban Bí thư lúc đó là Nguyễn Duy
Trinh phải có điện khẩn cho mấy tỉnh nông nghiệp quanh Hà Nội là Hải Hưng Hà Bắc, Thái
Bình, Hà Nam Ninh phải bằng mọi cách cung cấp cho Hà Nội, từ tháng 4 năm đó, số gạo đủ
để bán cho mỗi nhân khẩu bàng 40% tiêu chuẩn định lượng. Bức điện còn nhấn mạnh đó là
"trách nhiệm chính trị" của các tỉnh đó đối với Trung ương và với Thủ đô. Ngay cả Thành phố
Hồ Chí Minh cũng phải ăn độn hạt bo bo, là điều chưa từng có trong lịch sử. Nhưng cho đến
lúc đó, chưa ai dám nhìn nhận rằng, nguyên nhân chính là do đã vội vàng đưa vào miền Nam
mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa.
=> Tình trạng này đã gây ra sự bất mãn và mất niềm tin vào chính quyền ở một số vùng nông
thôn. Nhiều nông dân đã cảm thấy rằng chính quyền không đủ quan tâm đến nhu cầu của họ
và không thể giải quyết các vấn đề mà họ đang đối mặt. Điều này gây ra sự phản đối và tăng
cao sự bất mãn của người dân đối với chính phủ. 2.2.7. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của người dân
Tính cấp thiết của việc phá rào trong nông nghiệp trước đổi mới xuất phát từ nhu cầu
thực tiễn của người dân Việt Nam. Trước đổi mới, chính sách kinh tế tập trung đã khiến cho
nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn và hạn chế, đặc biệt là trong việc cung
cấp thực phẩm cho dân cư.
Những rào cản, quy định và kiểm soát quá chặt chẽ của chính phủ đối với sản xuất
nông nghiệp đã gây ra sự thiếu hụt lương thực và thực phẩm trong nước. Nhiều nông dân bị
ép buộc phải sản xuất các loại cây trồng, chăn nuôi với mức giá quy định không cao, không
phù hợp với điều kiện và thị hiếu của thị trường, khiến cho năng suất và hiệu quả kinh tế của
ngành nông nghiệp Việt Nam rất thấp.
Vì vậy, phá rào trong nông nghiệp đã trở thành một giải pháp cấp thiết để nâng cao
năng suất và hiệu quả sản xuất, giúp các nông dân tự do lựa chọn loại cây trồng, vật nuôi phù
hợp với điều kiện và thị hiếu của thị trường, từ đó tăng cường cạnh tranh và tăng thu nhập cho
nông dân. Bên cạnh đó, việc phá rào còn giúp cho các doanh nghiệp tư nhân và ngoại quốc 19 lOMoAR cPSD| 45474828
tham gia vào sản xuất nông nghiệp, từ đó mở rộng thị trường và nâng cao năng suất của ngành nông nghiệp.
Do đó, tính cấp thiết của phá rào trong nông nghiệp trước đổi mới là rất lớn, đó là
một bước đi quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Việt Nam từ mô hình kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển và nâng cao năng suất của nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam.
2.3. Quá trình phá rào
2.3.1. Phá rào trong vấn đề về cơ chế quản lý mô hình làm ăn tập thể - ví dụ của Vĩnh
Phúc, Hải Phòng, Nông trường Sông Hậu
2.3.1.1. “Khoán Kim Ngọc” ở Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc lúc đó có một tập thể lãnh đạo mà đứng đầu là Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc.
Nếu như hợp tác hóa là con đường thực sự mang đến ấm no và hạnh phúc cho người nông
dân thì đời sống nhân dân phải được nâng cao. Nhưng sản lượng thóc, ngô, khoai, sắn đều
ngày một giảm. Trong khi chi phí sản xuất lại tăng. Từ những bức xúc đó, trong đầu ông Kim
Ngọc lóe lên những lối thoát.
Sau hàng loạt chuyến đi thực tế và trò chuyện trực tiếp với dân cày đã hình thành trong
ông Kim Ngọc một sự phản tỉnh và từ phản tỉnh đến quyết tâm: “phải khoán thôi” - “Kết luận
đó có nghĩa là đã đánh giá lại cơ chế hợp tác xã. Nó mở đầu cho mọi tư duy mới, thừa nhận
vai trò của hộ trong quá trình sản xuất”.-Theo ông Lê Bùi, Thường vụ Tỉnh ủy lúc đó nhận xét.
Khoảng đầu năm 1966, ông Kim Ngọc triệu tập một cuộc họp cán bộ lãnh đạo trong
tỉnh để thảo luận về những vấn đề nông nghiệp và cách tháo gỡ. Sau khi thảo luận, đã thấy rõ
cái lợi nhưng còn nhiều ý kiến trái chiều, để thận trọng một tổ công tác của tỉnh được thành
lập, tổ này đã xuống nghiên cứu rất kỹ thực tế ở hợp tác xã thôn Thượng, xã Tuân Chính,
huyện Vĩnh Tường. Kết quả của những đợt khảo sát thực tế đã cho thấy khuyết điểm phổ biến
trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo nông nghiệp, về quản lý sản xuất.
Sau đó, Thường vụ quyết định cho thực hiện thí điểm cơ chế khoán hộ trên một số
điểm và phân công cán bộ trực tiếp chỉ đạo. Sau một vụ thử áp dụng mô hình khoán, trong cả
trồng trọt lẫn chăn nuôi đã đạt được những thành công bất ngờ: Năng suất cây và con đều
được nâng cao, người nhận khoán rất hăng hái trong lao động sản xuất, thu nhập tăng lên rõ
rệt, việc quản lý lại đơn giản nhẹ nhàng hơn. 20