Phân tích quan điểm của Đảng tại Đại hội lần thứ 6 trên các lĩnhvực kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội và đối ngoạị - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

Thông tin:
20 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích quan điểm của Đảng tại Đại hội lần thứ 6 trên các lĩnhvực kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội và đối ngoạị - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

28 14 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA MARKETING
---------
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: Phân tích quan điểm của Đảng tại Đại hội lần thứ 6 trên các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội và đối ngoại
Nhóm 02: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
Lớp: Marketing 62B
Hà Nội, 10/2021
STT THÀNH VIÊN MÃ SINH VIÊN
1 Nguyễn Thị Ngọc Hương 11201733
2 Ngô Thanh Huyền 11201846
3 Chu Minh Anh 11204247
4 Nguyễn Thị An Giang 11201099
5 Đinh Thanh Hằng 11201294
6 Nguyễn Thị Trúc 11208218
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................2
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠI HỘI VI......................................................3
1.1. Thời gian tổ chức đại biểu.............................................................................3
1.2. Bộ máy lãnh đạo mới ....................................................................................3
1.3. Đường lối đổi mới..........................................................................................3
2. CÁC QUAN ĐIỂM CỦA ĐẠI HỘI VI TRÊN CÁC LĨNH VỰC..............5
2.1. Lĩnh vực kinh tế.............................................................................................5
2.2. Lĩnh vực chính trị.........................................................................................10
2.3. Lĩnh vực văn hóa- xã hội.............................................................................13
2.4. Lĩnh vực đối ngoại.......................................................................................14
3. ĐÁNH GIÁ VỀ ĐẠI HỘI VI.......................................................................18
1
LỜI MỞ ĐẦU
Con đường tiến tới chủ nghĩa hội Việt Nam gặp phải không ít khó
khăn, sai lầm. Nhìn lại những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình Đảng lãnh
đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 1975-1985, Đảng ta nhận ra đổi mới
yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, vấn đề ý nghĩa sống còn.
GS-TSKH Phan Xuân Sơn trong cuộc phỏng vấn với Báo Pháp Luật đã khẳng
định: “Đảng ta từng vấp khuyết điểm, thậm chí sai lầm gặp không ít khó
khăn, thách thức. Nhưng Đảng ta thực sự gắn bó với vận mệnh của dân tộc, thực
tâm đặt lợi ích của nhân dân, của quốc gia lên trên hết. Đảng luôn quyết tâm
đứng về phía tiến bộ, hòa vào dòng chảy văn minh của nhân loại như chống
thực dân, đế quốc, phát xít, xây dựng nhà nước pháp quyền, tích cực chủ
động hội nhập quốc tế…”. Nhận thấy đổi mới để đi lên chủ nghĩa hội ý
Đảng, lòng dân, tại Đại hội VI năm 1986, Đảng đã chủ trương đổi mới toàn diện
và triệt để đời sống hội, đặc biệt ở các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, đối ngoại
văn hoá - hội. Với quyết tâm “Đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo
tinh thần cách mạng khoa học”, Đảng ta đã nghiên cứu tổng kết từ thực tiễn
cách mạng nước ta trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin đồng thời
học hỏi, tiếp thu phê phán, chọn lọc kinh nghiệm của cách mạng thế giới,
tham khảo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, đặc biệt các nước trong
khu vực. Đường lối đổi mới đó đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và thực tiễn đã
cho thấy quyết định đổi mới đất nước của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam.
2
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠI HỘI VI
1.1. Thời gian tổ chức đại hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp
tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986. Dự đại hội có 1129 đại biểu
thay mặt cho gần 1,9 triệu Đảng viên trong toàn Đảng. Đến dự Đại hội 32
đoàn đại biểu quốc tế. Công tác chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI kéo dài 19 ngày. Sau hội nghị lần thứ 10, các tổ chức đảng cấp tỉnh địa
phương bắt đầu bầu đại biểu dự đại hội cũng như chuẩn bị các văn kiện Đại hội.
Đại hội đã đưa ra các cải cách kinh tế, được gọi đ , bầu ra ban lãnhổi mới
đạo mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Bộ máy lãnh đạo mới
Ban Chấp hành Trung ương khóa VI, gồm có 124 ủy viên chính thức, 49
ủy viên dự khuyết. Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính
thức, 1 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng
thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn
Đồng Đức Thọ được giao trách nhiệm làm Cố vấn cho Ban Chấp hành
Trung ương Đảng.
1.3. Đường lối đổi mới
Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo
tinh thần cách mạng và khoa học. Đại hội nhận định: Năm năm qua là một đoạn
đường đầy thử thách đối với Đảng nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra
trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có
nhiều khó khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội thứ V
đề ra, nhân dân ta đã anh dũng phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội, giành những thắng lợi to lớn trong
cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Đại hội cũng nhận rõ:
3
Tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm;
hiệu quả sản xuất đầu thấp; phân phối lưu thông nhiều rối ren; những
mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất hội
chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó
khăn… Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại
hội lần thứ V đề ra về bản ổn định tình hình kinh tế - hội, ổn định đời
sống nhân dân.
Khẳng định đổi mới yêu cầu bức thiết, ý nghĩa sống còn đối với
nước ta, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế;
thực hiện ba chương trình kinh tế về lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng;
hàng xuất khẩu. Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải theo quy luật về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chấttrình độ của lực lượng sản xuất
để xác định bước đi hình thức thích hợp; phải xuất phát từ thực tế của nước
ta và vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần
một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong cải tạo hội chủ nghĩa phải xây
dựng quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt xây dựng chế độ công hữu về liệu
sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Đại hội xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - hội,
tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Để biến mục tiêu đó thành hiện
thực, điều quan trọng hàng đầu là đổi mới chính sách kinh tế, chính sách xã hội,
nhằm khai thác nhanh hiệu quả mọi khả năng hiện tiềm tàng của
nền kinh tế. Cụ thể là, bố trí lại cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cấu đầu tư;
xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng
đắn các thành phần kinh tế. Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới
chế quảnkinh tế. Phát huy mạnh mẽđồng bộ khoa học - kỹ thuật. Mở
rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại,...
4
2. CÁC QUAN ĐIỂM CỦA ĐẠI HỘI VI TRÊN CÁC LĨNH VỰC
2.1. Lĩnh vực kinh tế
2.1.1. Nhìn lại tình hình kinh tế những năm 1981-1985
Năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V (1981-1985) những
năm đầy thử thách đối với Đảng nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra
trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có
nhiều khó khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội thứ V
đề ra, nhân dân ta đã anh dũng phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội, giành những thắng lợi to lớn trong
cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong thời kỳ 1981-
1985. Nông nghiệp bình quân hàng năm tăng gần 5%, tổng sản lượng lương
thực năm 1986 tăng hơn 3 triệu tấn so với năm 1981, sản xuất công nghiệp tăng
bình quân hàng năm 9.5%, thu nhập quốc dân bình quân hàng năm tăng 6.4%.
Công trình thủy điện Hòa Bình, Trị An bắt đầu được xây dựng, dầu mỏ bắt đầu
được khai thác. Đặc biệt, chủ trương “khoán sản phẩm” đã mở lối ra cho quan
hệ sản xuất ở nông thôn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, đại hội cũng nhận rõ: Tình hình kinh tế - xã hội
đang những khó khăn gay gắt. Báo cáo chính trị đã nghiêm khắc chỉ ra tính
chất nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế hội. Đó là: sản xuất tăng
trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được, tài
nguyên lãng phí, phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc
làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà và điều kiện vệ sinh còn thiếu thốn. Thiếu
sót lớn nhất chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế, hội.
Sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế
của đất nước ta đến những khó khăn mới. Nền kinh tế - hội nước ta đã lâm
5
vào khủng hoảng trầm trọng. Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục
tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế -
hội, ổn định đời sống nhân dân. Báo cáo chính trị tại Đại hội đã vạch
những hạn chế sai lầm trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cả về chế
độ sở hữu, chế độ phân phối chế quản lý. Về chế độ sở hữu, chúng ta đã
có những biểu hiện nóng vội, muốn xoá bỏ ngay khu vực kinh tế ''phi xã hội chủ
nghĩa”, muốn nhanh chóng thiết lập, khu vực kinh tế ''xã hội chủ nghĩa” (gồm
quốc doanh tập thể). Về phân phối, chúng ta đã thực hiện một chế độ phân
phối về thực chất bình quân. Về quản lý, chúng ta đã thực hiện một chế
quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp.
Về nguyên nhân dẫn đến tình hình trên, Đại hội nhấn mạnh trong những
năm qua việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của
đất nước đã nhiều thiếu sót. Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên
những sai lầm về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược tổ chức
thực hiện của Đảng của Nhà nước. Sai lầm thể hiện trên các mặt: Xác định
mục tiêu bước đi không sát thực tế nước ta; không coi trọng khôi phục kinh
tế là cấp bách, nông nghiệp vẫn chưa thực sự là mặt trận hàng đầu; muốn xóa bỏ
ngay các thành phần kinh tế phi hội chủ nghĩa trong vòng 5 năm; chưa biết
kết hợp kế hoạch hóa với quan hệ hàng hóa tiền tệ; mắc sai lầm nghiêm trọng
trong lĩnh vực phân phối, lưu thông.
Đại hội thẳng thắn cho rằng: “Những sai lầm nói trên những sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến
lược tổ chức thực hiện”, đặc biệt những sai lầm về chính sách kinh tế,
bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ hành động giản đơn, nóng vội,
khuynh hướng buông lỏng trong quản kinh tế, hội, không chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối nguyên tắc của Đảng. Đó những biểu hiện của
tưởng tiểu sản vừa "tả" khuynh, vừa hữu khuynh. Những sai lầm khuyết
điểm trong lĩnh vực kinh tế, hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong công
tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.
6
Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội nhấn mạnh, trong
những năm qua việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt của đất
nước có nhiều thiếu sót, dẫn đến nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu
bước đi. Quá trình chuẩn bị Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng dịp để
toàn Đảng, toàn dân nhìn lại suy nghĩ về đoạn đường vừa qua, rút ra những
bài học bổ ích, thấy sáng hơn đoạn đường đi tới. Đó sự trưởng thành của
chúng ta, đó cũng là nhân tố mới để chúng ta tin tưởng: chúng ta đã lớn lên một
bước sau những năm 1981 - 1985.
2.1.2. Những chủ trương đổi mới kinh tế được đề ra trong đại hội VI
Khẳng định đổi mới yêu cầu bức thiết, ý nghĩa sống còn đối với
nước ta, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế.
Những chủ trương đổi mới kinh tế được nêu ra bao gồm:
(1) Đổi mới chế quản kinh tế, tập trung thực hiện ba chương trình
kinh tế lớn về lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
(2) Giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông. Thực hiện
bốn giảm: giảm tỷ lệ bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm
phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân, mở rộng giao lưu hàng hoá, giải
thể các trạm kiểm soát hàng hóa trên các trục đường giao thông.
(3) Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần kinh tế
vừa nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, vừa phát huy khả năng
tích cực của các thành phần kinh tế khác. Các thành phần kinh tế bình đẳng về
quyền lợi, nghĩa vụ trước pháp luật.
Đại hội xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên ổn định mọi mặt tình hình kinh tế. Xây
dựng những tiền đề cần thiết cho việc công nghiệp hóa trong chặng đường tiếp
theo. Mục tiêu cụ thể về kinh tế trong chặng đường đầu tiên là: Sản xuất đủ tiêu
dùng và tích lũy. Bước đầu tạo ra một cấu kinh tế hợp lý, hướng vào việc
đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chủ yếu lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
7
dùng và xuất khẩu, làm cho thành phần kinh tế hội chủ nghĩa giữ vai trò chi
phối, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết
chặt chẽ dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tiến hành cải
tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh
tế tăng thu nhập cho người lao động. Để biến mục tiêu đó thành hiện thực,
điều quan trọng hàng đầu là đổi mới chính sách kinh tế, chính sách xã hội, nhằm
khai thác nhanh và hiệu quả mọi khả năng hiện có và tiềm tàng của nền kinh
tế. Cụ thể là, bố trí lại cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cấu đầu tư; xây dựng
và củng cố quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa, sử dụngcải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế. Việc bố trí lạicấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới chế
quản lý kinh tế. Phát huy mạnh mẽ và đồng bộ khoa học - kỹ thuật. Mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại,...
Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo hội chủ nghĩa dựa trên
3 nguyên tắc: Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi hình
thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta sự vận dụng quan
điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của
thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ
sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ
quản lý chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, Đại hội cũng đề ra
phương hướng nhiệm vụ xây dựng củng cố quan hệ sản xuất hội chủ
nghĩa, sử dụng cải tạo các thành phần kinh tế hội chủ nghĩa; thành phần
kinh tế phi hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự
túc. Đổi mới chế quảnkinh tế, chính sáchhội, kế hoạch hoá dân số
giải quyết việc làm cho người lao động.
2.1.3. Phương hướng thực hiện những chủ trương Đảng đề ra
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là một yêu cầu bức thiết, một bộ phận cấu
thành quan trọng nhất trong toàn bộ hoạt động trên lĩnh vực kinh tế của Đảng.
8
Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương, tháng 8-1987, đã quyết
nghị: "Chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang kinh doanh xã
hội chủ nghĩa, đổi mới quảnnhà nước về kinh tế". Hội nghị nhấn mạnh mục
đích của đổi mới chế quản kinh tế phải tạo ra động lực mạnh mẽ giải
phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật, phát triển
kinh tế hàng hoá theo hướng đi lên chủ nghĩahội với năng suất, chất lượng,
hiệu quả ngày càng cao, trước mắt nhằm phục vụ ba chương trình kinh tế lớn,
từng bước thực hiện "bốn giảm", thiết lập trật tự kỷ cương trong mọi hoạt động
kinh tế - xã hội, tạo tiền đề để tiến lên.
Vấn đề nóng bỏng cấp bách nhất lưu thông phân phối. vậy, Hội
nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương, họp trong tháng 4-1987, đã
quyết định phương hướng giải quyết vấn đề đó là phải nắm vững mục tiêu giảm
tỷ lệ bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm phát, giảm khó
khăn về đời sống của nhân dân trên cơ sở xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu bao
cấp, chuyển các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanhhội chủ nghĩa,
nâng cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh, phát huy khả năng tích
cực của các thành phần kinh tế khác, mở rộng giao lưu hàng hoá, giải phóng sức
sản xuất.
Đại hội VI đã quyết định chuyển nền kinh tế từ hình dựa trên chế độ
công hữu về liệu sản xuất sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đại
hội khẳng định trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
chế thị trường ấy, nền kinh tế phải được quảnbằng các phương pháp kinh tế
chủ yếu với động lực thúc đẩy sự kết hợp hài hoà lợi ích của toàn hội,
lợi ích của tập thể lợi ích riêng của từng người lao động, phù hợp với đường
lối đổi mới ấy. Để khắc phục tính chất bình quân, Đại hội VI cho rằng cần khắc
phục tình trạng ''tách rời việc trả công lao động với số lượng chất lượng lao
động'' trong phân phối thời kỳ trước đổi mới; phải quay trở lại thực hiện đúng
nguyên tắc phân phối theo lao động. Văn kiện Đại hội viết: ''Việc thực hiện
đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi một cách căn bản chế
9
độ tiền lương theo hướng đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục
tính chất bình quân, xóa bỏ từng bước phần cung cấp còn lại trong chế độ tiền
lương, áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết quả lao động hiệu
quả kinh tế'', “Bảo đảm cho người lao động thu nhập thoả đáng phụ thuộc
trực tiếp vào kết quả lao động, tác dụng khuyến khích nhiệt tình lao động''.
Mặt khác, Đại hội đã không tuyệt đối hoá nguyên tắc phân phối theo lao động,
Văn kiện Đại hội VI ghi rõ: ''Giải quyết một phần quan trọng việc làm cho
người lao động bản đảm về bản phân phối theo lao động. Thực hiện công
bằng hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta''. “Về bản thực hiện
phân phối theo lao động, điều đó có nghĩa rằng không hoàn toàn phân phối theo
lao động. Liên quan đến phần phân phối không theo lao động này, Văn kiện Đại
hội khẳng định: ''Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch trong sự đánh giá đối
xử với người lao động thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Nhà nước
chính sách ưu đãi về kinh tế (như chính sách đầu tư, thuế, tín dụng...) đối với
thành phần kinh tế hội chủ nghĩa; song về pháp luật phải thực hiện nguyên
tắc bình đẳng. Những người làm ra của cải những việc ích cho hội,
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và chính sách đều
được tôn trọng, được quyền hưởng thu nhập tương xứng với kết quả lao động,
kinh doanh hợp pháp của họ. Đối với những kẻ lười biếng, ăn bám, phải phê
phán cưỡng bức lao động. Những kẻ phạm pháp đều bị trừng trị theo pháp
luật. Ai vi phạm hợp đồng kinh tế, đều bị xử phạt phải bồi thường. Đó
chính sách nhất quán với mọi công dân, không phân biệt họ thuộc thành phần
kinh tế nào'', ''Tôn trọng lợi ích chính đáng của những hoạt động kinh doanh
hợp pháp, ích cho hội. Ngăn chặn xử nghiêm khắc các nguồn thu
nhập bất chính'', ''Nghiêm trị những kẻ phạm pháp bất kỳ ở cương vị nào'', ''Bảo
đảm sự công bằng về quyền lợi nghĩa vụ đối với mọi công dân, chống đặc
quyền, đặc lợi''.
10
2.2. Lĩnh vực chính trị
2.2.1. Bối cảnh
Sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật mở ra xu thế quốc tế hóa.
Các nước trên thế giới chạy đua phát triển về kinh tế lấy đó làm trọng tậm.
Chính từ điều đó mà các nước thực hiện đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện các
chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, mở rộng và tăng cường
liên kết, hợp tác với các nước phát triển. Đặc việt, xu thế hợp tác trong cạnh
tranh đã thay thế dần xu thế đối đầu trong quan hệ quốc tế, buộc các quốc gia,
đặc biệt những nước có nền kinh tế khép kín như Việt Nam lúc bấy giờ phải có
sự điều chỉnh.
Cuộc khủng hoảngcác nướchội Chủ nghĩa Đông ÂuLiên
đã dẫn đến hoài nghi về chủ nghĩa xã hội, giảm lòng tin đối với Đảng, Nhà nước
hội chủ nghĩa. Những phần tửhội, bất mãn nhân dịp đó đẩy mạnh chống
phá, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng. Các thế lực thù địch trong, ngoài nước
ráo riết hoạt động hòng xoá bỏ Đảng Cộng sản chế độ hội chủ nghĩa
Việt Nam.
2.2.2. Phương hướng
Một là, xác định sáu nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới
Chủ nghĩa Mác- Leenin nền tưởng của Đảng, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta. Đổi mới không phải xa rời vận dụng sáng
tạo và phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lenin.
Đổi mới nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh hiệu lực
của các tổ chức trong hệ thống chính trị. đây, sự lãnh đạo của Đảng điều
kiện quyết định thắng lợi nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hội chủ nghĩa
của nhân dân ta.
Bên cạnh đó, Đảng ta còn xác định xây dựng nền dân chủ hội chủ nghĩa
mục tiêu, động lực của sự nghiệp xây dựng hội chủ nghĩa. Kết hợp chủ
11
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.
Hai là, xác định yêu cầu công tác tư tưởng trong tình hình mới
Công tác tưởng phải nâng cao chất lượng tính hiệu quả, bảo đảm tính chủ
động kịp thời, tính chiến đấu sắc bén, phục vụ tích cực việc thực hiện chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước, củng cố sự thống nhất về tưởng
hành động trong toàn Đảng, toàn dân, thúc đẩy công cuộc đổi mới.
Ba là, đánh giá tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa
đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng
Trung ương xác định phải đổi mới, nâng cao trình độ lãnh đạo và sức chiến đấu,
phải xác định rõ hơn hình con đường đi lên chủ nghĩa hội ở nước ta;
giữ vững các nguyên tắc trong quá trình đổi mới; không chấp nhận đa nguyên
chính trị, đa đảng; cảnh giác và kiên quyết chống âm mưu “diễn biến hoà bình...
Bốn là, chủ trương giải quyết một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
Đảng phải đổi mới duy, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới
phong cách lãnh đạo, nâng cao giác ngộ, bồi dưỡng lý tưởng, kiến thức và năng
lực lãnh đạo, mở rộng dân chủ gắn với tăng cường kỷ luật trong Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng với các tầng lớp nhân dân lao động. Đổi mới
công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân, thực hiện và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
2.2.3 Nhận xét
Tình hình chính trị ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường. Các
lực lượng trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc
phòng toàn dân an ninh nhân dân, nhất trên các địa bàn chiến lược, biên
giới, biển, đảo được phát huy. Tổ chức quân đội công an được điều chỉnh
theo yêu cầu mới. Việc kết hợp quốc phòng và an ninh với phát triển kinh tế
công tác đối ngoại có tiến bộ.
12
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị
được củng cố. Nhiều nghị quyết Trung ương đã đề ra những chủ trương, giải
pháp củng cố Đảng về chính trị, tưởng, tổ chức, cán bộ, tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng. Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, thực hiện tự phê bình phê bình. Nhà nước tiếp tục được xây dựng
hoàn thiện, nền hành chính được cải cách một bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung phương thức hoạt động. Quyền làm
chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy; một số chính sách và quy chế
bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, trước hết sở, bước đầu được thực
hiện.
2.3. Lĩnh vực văn hóa- xã hội
2.3.1 Bối cảnh
Trước đó với tình hình nền kinh tế tập trung, nước ta gặp nhiều khó khăn
về đời sống xã hội, như việc sinh đẻ chưa có kế hoạch, an ninh, trật tự phức tạp.
việc làm khan hiếm. các nhu cầu bản về văn hóa thể chất khó được đáp
ứng với phần đa dân số,...
2.3.2 Phương hướng
Tại đại hội đảng lần VI, Đảng đã đưa ra các chính sách hội lâu dài với
các nhiệm vụ phù hợp với tình hình chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ và
đổi mới. Chú trọng phát huy yếu tố con người lẩy việc phục vụ con người
mục đích cao cả nhất. Đảng cũng tập trung vào giải quyết những vấn đề xã hội
cấp bách, thực hiện công bằng hội phù hợp điều kiện kinh tế, đảm bảo an
toàn xã hội đồng thời thực hiện sống và làm việc theo pháp luật.
Đại hội đã đề ra bốn nhóm chính sách xã hội:
- Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người lao động.
- Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật
tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực xã hội.
13
- Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ tăng
cường sức khỏe của nhân dân.
- Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.
Kể từ năm 1986, với nhiều sự thay đổi đáng kể về đường lối chính sách
liên quan đến văn hóa - hội, đời sống của nhân dân nhờ vậy được nâng cao,
cải thiện đáng kể.
2.3.3 Nhận xét
Mục tiêu đem lại những điều kiện văn hóa - xã hội tốt đẹp cho người dân,
nhà nước ta không ngừng cải thiện các chính sách. Tính từ đại hội đảng VI tới
nay, nhà nước đã những chính sách hỗ trợ kịp thời cho người thất nghiệp, đề
ra những phương hướng giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động phù
hợp, song song với đẩy mạnh tích cực công tác xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc
sức khỏe, bảo hiểm xã hội, cải thiện chính sách cho người có công, hộ nghèo,...
Các chính sách bảo trợ xã hội cũng được triển khai minh bạch, rõ ràng.
Như vậy, chúng ta không thể phủ nhận được những điều đại hội VI vạch
ra thực hiện song hành cùng với các chính sách sau này đã đang giúp
chúng ta tiến tới xã hội dân chủ - công bằng - văn minh.
2.4. Lĩnh vực đối ngoại
2.4.1. Bối cảnh
Bối cảnh thế giới lúc bấy giờ những diễn biến nhanh mạnh, tuy
những thuận lợi căn bản nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện nhiều khó khăn
thách thức, trở ngại phức tạp. Nhân dân Việt Nam ta tiếp tục nhận được sự giúp
đỡ to lớn hợp tác nhiều mặt từ Liên và các nước hội chủ nghĩa khác,
cũng như sự cổ ủng hộ từ nhiều nướcnhân dân yêu chuộng tự do trên
thế giới. Đối với quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam, Lào Campuchia
đã tạo ra nhiều thuận lợi, tuy nhiên ba nước Đông Dương vẫn phải thường
xuyên đối mặt với những hành động xâm lược, phá hoại bao vây kinh tế của
14
các thế lực thù địch. Mỹ phương Tây cũng đã cấu kết hình thành trận tuyến
chống lại chúng ta, gây cho nhà nước nhân dân ta lúc bấy giờ vàn khó
khăn.
2.4.2. Phương hướng
Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá VI chỉ đạo thực hiện
thành công những nhiệm vụ đề ra trong Báo cáo chính trị, một trong những
nhiệm vụ đó là tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại.
Chính sách đối ngoại xác định mục tiêu của Đại hội kết hợp sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy phấn đấu giữ gìn hòa bình
Đông Dương, góp phần vào giữ hòa bình ở Đông nam Á và trên thế giới. Ngoài
ra cần tăng cường hợp tác hữu nghị với Liên các nước hội chủ nghĩa,
“tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội
và bảo vệ Tổ quốc”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng những điểm đổi mới
về duy đối ngoại. Đầu tiên, đại hội rút ra những bài học kinh nghiệm về sự
cần thiết phải đổi mới phương cách tập hợp lực lượng“phải biết kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”. Ngoài ra, nhận thức
được xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, bao gồm cả các nước có
chế độ kinh tế,hội khác nhau cũngnhững điều kiện rất quan trọng đối với
công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội. Lấy đó làm sở nền tảng, Đảng ta
chủ trương “sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác
kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội”.
Sau gần hai năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 20/5/1988, Bộ Chính
trị ra Nghị quyết số 13/NQ-TW “Về nhiệm vụ chính sách đối ngoại trong
tình hình mới”. Điều này đã làm rõ nét hơn tư duy đối ngoại theo định hướng đa
phương của Việt Nam - lần đầu tiên đưa cụm từ “đa dạng hoá quan hệ” trên
15
sở “thêm bạn bớt thù” vào Nghị quyết 13. Đây văn kiện đầu tiên của Đảng
mang ý nghĩa nền tảng cho chủ trương “đa dạng hoá, đa phương hoá”; đồng thời
duy mục tiêu đối ngoại của Việt Nam cũng đã chuyển mình mạnh mẽ.
Mục tiêu đối ngoại được Nghị quyết khẳng định “lợi ích cao nhất của Đảng
nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng
phát triển kinh tế”. Theo cố Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, “Nghị
quyết 13 về đối ngoại của Bộ Chính trị một cuộc đổi mới mạnh mẽ duy
trong việc đánh giá tình hình thế giới, trong việc đề ra mục tiêu chuyển
hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của ta”. Một trong những nhiệm vụ cấp
bách đó mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”;
đồng thời, Nghị quyết cũng đã xác định rằng để đóng góp được vào cách mạng
thế giới một cách thiết thực nhất, trước tiên ta cần đi từ trong chính đất nước
mình. Đó là thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, đất nước Việt Nam
trở thành một đất nước ngày càng được ổn định về mặt chính trị, kinh tế, xã hội
phát triển và nền quốc phòng, an ninh ngày càng mạnh mẽ và vững vàng.
2.4.3. Nhận xét
Triển khai thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, từ năm 1986 - 1990,
Việt Nam đã đẩy mạnh nhiều hoạt động đối ngoại kinh tế cũng như đối ngoại
chính trị. Nhiều hoạt động ngoại giao đa phương tại một số diễn đàn đa phương
trên thế giới được triển khai, trong đó Liên hợp quốc với việc tham gia sâu
hơn vào cácquan của tổ chức này. Bên cạnh đó, nước ta cũng đã từng bước
cải thiện mối quan hệ, tranh thủ sự ủng hộ viện trợ của các nước bằng việc
tham gia phong trào Không liên kết. Kết quả hoạt động đối ngoại đạt được trong
những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX tuy mới bước đầu, nhưng ý
nghĩa quan trọng, mở cửa giao lưu hợp tác với bên ngoài, tạo được vị thế mới
cho đất nước trong quan hệ quốc tế. Nhìn chung, tại Đại hội VI (12/1986),
chúng ta đã nhận thức mới về xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các
nước, kể cả các nước chế độ kinh tế, hội khác nhau.duy của Đảng ta
16
bước chuyển quan trọng tại Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (tháng
5/1988).
17
3. ĐÁNH GIÁ VỀ ĐẠI HỘI VI
Tại Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986), với tinh thần "nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói sự thật", Đảng ta đã đề ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trên con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hộiViệt Nam. Đường lối đổi mới đó kết quả của sự khảo
nghiệm thực tiễn đổi mới duy luận; bước phát triển ý nghĩa cách
mạng trong nhận thức và hành động của Đảng với những chủ trương, đường lối
mang tính đột phá. Bài viết nghiên cứu tinh thần chủ động, sáng tạo của Đảng
trong lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (giai đoạn 1986-1996) với
những nội dung cốt lõi: đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng; giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ thời chiến chuyển sang thời bình, đòi hỏi Đảng phải đổi mới duy,
thay đổi nội dung và phương thức lãnh đạo cho phù hợp với tình hình mới. Tuy
còn nhiều khó khăn và thử thách, nhưng Việt Nam đã có những phát triển đáng
kể.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đại hội kế thừa
quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ta. Thành công của Đại hội đã
mở ra một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam, đưa đất nước
bước sang một giai đoạn phát triển mới.
18
| 1/20

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA MARKETING --------- BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: Phân tích quan điểm của Đảng tại Đại hội lần thứ 6 trên các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội và đối ngoại
Nhóm 02: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Lớp: Marketing 62B Hà Nội, 10/2021 STT THÀNH VIÊN MÃ SINH VIÊN 1 Nguyễn Thị Ngọc Hương 11201733 2 Ngô Thanh Huyền 11201846 3 Chu Minh Anh 11204247 4 Nguyễn Thị An Giang 11201099 5 Đinh Thanh Hằng 11201294 6 Nguyễn Thị Trúc 11208218 1 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................2
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠI HỘI VI......................................................3
1.1. Thời gian tổ chức đại biểu.............................................................................3
1.2. Bộ máy lãnh đạo mới ....................................................................................3
1.3. Đường lối đổi mới..........................................................................................3
2. CÁC QUAN ĐIỂM CỦA ĐẠI HỘI VI TRÊN CÁC LĨNH VỰC..............5
2.1. Lĩnh vực kinh tế.............................................................................................5
2.2. Lĩnh vực chính trị.........................................................................................10
2.3. Lĩnh vực văn hóa- xã hội.............................................................................13
2.4. Lĩnh vực đối ngoại.......................................................................................14
3. ĐÁNH GIÁ VỀ ĐẠI HỘI VI.......................................................................18 1 LỜI MỞ ĐẦU
Con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gặp phải không ít khó
khăn, sai lầm. Nhìn lại những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình Đảng lãnh
đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 1975-1985, Đảng ta nhận ra đổi mới
là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn.
GS-TSKH Phan Xuân Sơn trong cuộc phỏng vấn với Báo Pháp Luật đã khẳng
định: “Đảng ta từng vấp khuyết điểm, thậm chí sai lầm và gặp không ít khó
khăn, thách thức. Nhưng Đảng ta thực sự gắn bó với vận mệnh của dân tộc, thực
tâm đặt lợi ích của nhân dân, của quốc gia lên trên hết. Đảng luôn quyết tâm
đứng về phía tiến bộ, hòa vào dòng chảy văn minh của nhân loại như chống
thực dân, đế quốc, phát xít, xây dựng nhà nước pháp quyền, tích cực và chủ
động hội nhập quốc tế…”. Nhận thấy đổi mới để đi lên chủ nghĩa xã hội là ý
Đảng, lòng dân, tại Đại hội VI năm 1986, Đảng đã chủ trương đổi mới toàn diện
và triệt để đời sống xã hội, đặc biệt ở các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, đối ngoại
và văn hoá - xã hội. Với quyết tâm “Đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo
tinh thần cách mạng và khoa học”, Đảng ta đã nghiên cứu tổng kết từ thực tiễn
cách mạng nước ta trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin đồng thời
học hỏi, tiếp thu có phê phán, chọn lọc kinh nghiệm của cách mạng thế giới,
tham khảo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, đặc biệt là các nước trong
khu vực. Đường lối đổi mới đó đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và thực tiễn đã
cho thấy quyết định đổi mới đất nước của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là
một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. 2
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠI HỘI VI
1.1. Thời gian tổ chức đại hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp
tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986. Dự đại hội có 1129 đại biểu
thay mặt cho gần 1,9 triệu Đảng viên trong toàn Đảng. Đến dự Đại hội có 32
đoàn đại biểu quốc tế. Công tác chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI kéo dài 19 ngày. Sau hội nghị lần thứ 10, các tổ chức đảng cấp tỉnh và địa
phương bắt đầu bầu đại biểu dự đại hội cũng như chuẩn bị các văn kiện Đại hội.
Đại hội đã đưa ra các cải cách kinh tế, được gọi là đổi mới, và bầu ra ban lãnh
đạo mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Bộ máy lãnh đạo mới
Ban Chấp hành Trung ương khóa VI, gồm có 124 ủy viên chính thức, 49
ủy viên dự khuyết. Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm có 13 ủy viên chính
thức, 1 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí
thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn
Đồng và Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm làm Cố vấn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
1.3. Đường lối đổi mới
Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo
tinh thần cách mạng và khoa học. Đại hội nhận định: Năm năm qua là một đoạn
đường đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra
trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có
nhiều khó khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội thứ V
đề ra, nhân dân ta đã anh dũng phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, giành những thắng lợi to lớn trong
cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Đại hội cũng nhận rõ: 3
Tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm;
hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những
mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó
khăn… Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại
hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Khẳng định đổi mới là yêu cầu bức thiết, có ý nghĩa sống còn đối với
nước ta, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế;
thực hiện ba chương trình kinh tế về lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng;
hàng xuất khẩu. Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải theo quy luật về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
để xác định bước đi và hình thức thích hợp; phải xuất phát từ thực tế của nước
ta và vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần
là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây
dựng quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Đại hội xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội,
tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Để biến mục tiêu đó thành hiện
thực, điều quan trọng hàng đầu là đổi mới chính sách kinh tế, chính sách xã hội,
nhằm khai thác nhanh và có hiệu quả mọi khả năng hiện có và tiềm tàng của
nền kinh tế. Cụ thể là, bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư;
xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng
đắn các thành phần kinh tế. Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế. Phát huy mạnh mẽ và đồng bộ khoa học - kỹ thuật. Mở
rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại,... 4
2. CÁC QUAN ĐIỂM CỦA ĐẠI HỘI VI TRÊN CÁC LĨNH VỰC
2.1. Lĩnh vực kinh tế
2.1.1. Nhìn lại tình hình kinh tế những năm 1981-1985
Năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V (1981-1985) là những
năm đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra
trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có
nhiều khó khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội thứ V
đề ra, nhân dân ta đã anh dũng phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, giành những thắng lợi to lớn trong
cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong thời kỳ 1981-
1985. Nông nghiệp bình quân hàng năm tăng gần 5%, tổng sản lượng lương
thực năm 1986 tăng hơn 3 triệu tấn so với năm 1981, sản xuất công nghiệp tăng
bình quân hàng năm 9.5%, thu nhập quốc dân bình quân hàng năm tăng 6.4%.
Công trình thủy điện Hòa Bình, Trị An bắt đầu được xây dựng, dầu mỏ bắt đầu
được khai thác. Đặc biệt, chủ trương “khoán sản phẩm” đã mở lối ra cho quan
hệ sản xuất ở nông thôn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, đại hội cũng nhận rõ: Tình hình kinh tế - xã hội
đang có những khó khăn gay gắt. Báo cáo chính trị đã nghiêm khắc chỉ ra tính
chất nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Đó là: sản xuất tăng
trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được, tài
nguyên lãng phí, phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc
làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh còn thiếu thốn. Thiếu
sót lớn nhất là chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế, xã hội.
Sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế
của đất nước ta đến những khó khăn mới. Nền kinh tế - xã hội nước ta đã lâm 5
vào khủng hoảng trầm trọng. Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục
tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế -
xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Báo cáo chính trị tại Đại hội đã vạch rõ
những hạn chế và sai lầm trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cả về chế
độ sở hữu, chế độ phân phối và cơ chế quản lý. Về chế độ sở hữu, chúng ta đã
có những biểu hiện nóng vội, muốn xoá bỏ ngay khu vực kinh tế ''phi xã hội chủ
nghĩa”, muốn nhanh chóng thiết lập, khu vực kinh tế ''xã hội chủ nghĩa” (gồm
quốc doanh và tập thể). Về phân phối, chúng ta đã thực hiện một chế độ phân
phối về thực chất là bình quân. Về quản lý, chúng ta đã thực hiện một cơ chế
quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp.
Về nguyên nhân dẫn đến tình hình trên, Đại hội nhấn mạnh trong những
năm qua việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của
đất nước đã có nhiều thiếu sót. Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là
những sai lầm về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức
thực hiện của Đảng và của Nhà nước. Sai lầm thể hiện trên các mặt: Xác định
mục tiêu và bước đi không sát thực tế nước ta; không coi trọng khôi phục kinh
tế là cấp bách, nông nghiệp vẫn chưa thực sự là mặt trận hàng đầu; muốn xóa bỏ
ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong vòng 5 năm; chưa biết
kết hợp kế hoạch hóa với quan hệ hàng hóa tiền tệ; mắc sai lầm nghiêm trọng
trong lĩnh vực phân phối, lưu thông.
Đại hội thẳng thắn cho rằng: “Những sai lầm nói trên là những sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến
lược và tổ chức thực hiện”, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là
bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, là
khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng. Đó là những biểu hiện của tư
tưởng tiểu tư sản vừa "tả" khuynh, vừa hữu khuynh. Những sai lầm và khuyết
điểm trong lĩnh vực kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong công
tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. 6
Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội nhấn mạnh, trong
những năm qua việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt của đất
nước có nhiều thiếu sót, dẫn đến nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và
bước đi. Quá trình chuẩn bị Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng là dịp để
toàn Đảng, toàn dân nhìn lại và suy nghĩ về đoạn đường vừa qua, rút ra những
bài học bổ ích, thấy sáng hơn đoạn đường đi tới. Đó là sự trưởng thành của
chúng ta, đó cũng là nhân tố mới để chúng ta tin tưởng: chúng ta đã lớn lên một
bước sau những năm 1981 - 1985.
2.1.2. Những chủ trương đổi mới kinh tế được đề ra trong đại hội VI
Khẳng định đổi mới là yêu cầu bức thiết, có ý nghĩa sống còn đối với
nước ta, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế.
Những chủ trương đổi mới kinh tế được nêu ra bao gồm:
(1) Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tập trung thực hiện ba chương trình
kinh tế lớn về lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
(2) Giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông. Thực hiện
bốn giảm: giảm tỷ lệ bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm
phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân, mở rộng giao lưu hàng hoá, giải
thể các trạm kiểm soát hàng hóa trên các trục đường giao thông.
(3) Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần kinh tế
vừa nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, vừa phát huy khả năng
tích cực của các thành phần kinh tế khác. Các thành phần kinh tế bình đẳng về
quyền lợi, nghĩa vụ trước pháp luật.
Đại hội xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế. Xây
dựng những tiền đề cần thiết cho việc công nghiệp hóa trong chặng đường tiếp
theo. Mục tiêu cụ thể về kinh tế trong chặng đường đầu tiên là: Sản xuất đủ tiêu
dùng và có tích lũy. Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, hướng vào việc
đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu 7
dùng và xuất khẩu, làm cho thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi
phối, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết
chặt chẽ dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tiến hành cải
tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh
tế và tăng thu nhập cho người lao động. Để biến mục tiêu đó thành hiện thực,
điều quan trọng hàng đầu là đổi mới chính sách kinh tế, chính sách xã hội, nhằm
khai thác nhanh và có hiệu quả mọi khả năng hiện có và tiềm tàng của nền kinh
tế. Cụ thể là, bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư; xây dựng
và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế. Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế. Phát huy mạnh mẽ và đồng bộ khoa học - kỹ thuật. Mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại,...
Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên
3 nguyên tắc: Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình
thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan
điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của
thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ
sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ
quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, Đại hội cũng đề ra
phương hướng nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; thành phần
kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự
túc. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội, kế hoạch hoá dân số và
giải quyết việc làm cho người lao động.
2.1.3. Phương hướng thực hiện những chủ trương Đảng đề ra
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là một yêu cầu bức thiết, một bộ phận cấu
thành quan trọng nhất trong toàn bộ hoạt động trên lĩnh vực kinh tế của Đảng. 8
Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương, tháng 8-1987, đã quyết
nghị: "Chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang kinh doanh xã
hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế". Hội nghị nhấn mạnh mục
đích của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là phải tạo ra động lực mạnh mẽ giải
phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật, phát triển
kinh tế hàng hoá theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội với năng suất, chất lượng,
hiệu quả ngày càng cao, trước mắt nhằm phục vụ ba chương trình kinh tế lớn,
từng bước thực hiện "bốn giảm", thiết lập trật tự kỷ cương trong mọi hoạt động
kinh tế - xã hội, tạo tiền đề để tiến lên.
Vấn đề nóng bỏng và cấp bách nhất là lưu thông phân phối. Vì vậy, Hội
nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương, họp trong tháng 4-1987, đã
quyết định phương hướng giải quyết vấn đề đó là phải nắm vững mục tiêu giảm
tỷ lệ bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm phát, giảm khó
khăn về đời sống của nhân dân trên cơ sở xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu bao
cấp, chuyển các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa,
nâng cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh, phát huy khả năng tích
cực của các thành phần kinh tế khác, mở rộng giao lưu hàng hoá, giải phóng sức sản xuất.
Đại hội VI đã quyết định chuyển nền kinh tế từ mô hình dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đại
hội khẳng định trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường ấy, nền kinh tế phải được quản lý bằng các phương pháp kinh tế
là chủ yếu với động lực thúc đẩy là sự kết hợp hài hoà lợi ích của toàn xã hội,
lợi ích của tập thể và lợi ích riêng của từng người lao động, phù hợp với đường
lối đổi mới ấy. Để khắc phục tính chất bình quân, Đại hội VI cho rằng cần khắc
phục tình trạng ''tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao
động'' trong phân phối thời kỳ trước đổi mới; phải quay trở lại thực hiện đúng
nguyên tắc phân phối theo lao động. Văn kiện Đại hội viết: ''Việc thực hiện
đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi một cách căn bản chế 9
độ tiền lương theo hướng đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục
tính chất bình quân, xóa bỏ từng bước phần cung cấp còn lại trong chế độ tiền
lương, áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế'', “Bảo đảm cho người lao động có thu nhập thoả đáng phụ thuộc
trực tiếp vào kết quả lao động, có tác dụng khuyến khích nhiệt tình lao động''.
Mặt khác, Đại hội đã không tuyệt đối hoá nguyên tắc phân phối theo lao động,
Văn kiện Đại hội VI ghi rõ: ''Giải quyết một phần quan trọng việc làm cho
người lao động và bản đảm về cơ bản phân phối theo lao động. Thực hiện công
bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta''. “Về cơ bản thực hiện
phân phối theo lao động, điều đó có nghĩa rằng không hoàn toàn phân phối theo
lao động. Liên quan đến phần phân phối không theo lao động này, Văn kiện Đại
hội khẳng định: ''Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch trong sự đánh giá và đối
xử với người lao động thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Nhà nước có
chính sách ưu đãi về kinh tế (như chính sách đầu tư, thuế, tín dụng...) đối với
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; song về pháp luật phải thực hiện nguyên
tắc bình đẳng. Những người làm ra của cải và những việc có ích cho xã hội,
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và chính sách đều
được tôn trọng, được quyền hưởng thu nhập tương xứng với kết quả lao động,
kinh doanh hợp pháp của họ. Đối với những kẻ lười biếng, ăn bám, phải phê
phán và cưỡng bức lao động. Những kẻ phạm pháp đều bị trừng trị theo pháp
luật. Ai vi phạm hợp đồng kinh tế, đều bị xử phạt và phải bồi thường. Đó là
chính sách nhất quán với mọi công dân, không phân biệt họ thuộc thành phần
kinh tế nào'', ''Tôn trọng lợi ích chính đáng của những hoạt động kinh doanh
hợp pháp, có ích cho xã hội. Ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc các nguồn thu
nhập bất chính'', ''Nghiêm trị những kẻ phạm pháp bất kỳ ở cương vị nào'', ''Bảo
đảm sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, chống đặc quyền, đặc lợi''. 10
2.2. Lĩnh vực chính trị 2.2.1. Bối cảnh
Sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật mở ra xu thế quốc tế hóa.
Các nước trên thế giới chạy đua phát triển về kinh tế và lấy đó làm trọng tậm.
Chính từ điều đó mà các nước thực hiện đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện các
chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, mở rộng và tăng cường
liên kết, hợp tác với các nước phát triển. Đặc việt, xu thế hợp tác trong cạnh
tranh đã thay thế dần xu thế đối đầu trong quan hệ quốc tế, buộc các quốc gia,
đặc biệt những nước có nền kinh tế khép kín như Việt Nam lúc bấy giờ phải có sự điều chỉnh.
Cuộc khủng hoảng ở các nước Xã hội Chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô
đã dẫn đến hoài nghi về chủ nghĩa xã hội, giảm lòng tin đối với Đảng, Nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Những phần tử cơ hội, bất mãn nhân dịp đó đẩy mạnh chống
phá, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng. Các thế lực thù địch trong, ngoài nước
ráo riết hoạt động hòng xoá bỏ Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 2.2.2. Phương hướng
Một là, xác định sáu nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới
Chủ nghĩa Mác- Leenin là nền tư tưởng của Đảng, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta. Đổi mới không phải là xa rời mà là vận dụng sáng
tạo và phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lenin.
Đổi mới nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh và hiệu lực
của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Ở đây, sự lãnh đạo của Đảng là điều
kiện quyết định thắng lợi nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta.
Bên cạnh đó, Đảng ta còn xác định xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là
mục tiêu, là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Kết hợp chủ 11
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.
Hai là, xác định yêu cầu công tác tư tưởng trong tình hình mới
Công tác tư tưởng phải nâng cao chất lượng và tính hiệu quả, bảo đảm tính chủ
động kịp thời, tính chiến đấu sắc bén, phục vụ tích cực việc thực hiện chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước, củng cố sự thống nhất về tư tưởng và
hành động trong toàn Đảng, toàn dân, thúc đẩy công cuộc đổi mới.
Ba là, đánh giá tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa
đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng
Trung ương xác định phải đổi mới, nâng cao trình độ lãnh đạo và sức chiến đấu,
phải xác định rõ hơn mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta;
giữ vững các nguyên tắc trong quá trình đổi mới; không chấp nhận đa nguyên
chính trị, đa đảng; cảnh giác và kiên quyết chống âm mưu “diễn biến hoà bình...
Bốn là, chủ trương giải quyết một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
Đảng phải đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới
phong cách lãnh đạo, nâng cao giác ngộ, bồi dưỡng lý tưởng, kiến thức và năng
lực lãnh đạo, mở rộng dân chủ gắn với tăng cường kỷ luật trong Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng với các tầng lớp nhân dân lao động. Đổi mới
công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân, thực hiện và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. 2.2.3 Nhận xét
Tình hình chính trị ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường. Các
lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, biên
giới, biển, đảo được phát huy. Tổ chức quân đội và công an được điều chỉnh
theo yêu cầu mới. Việc kết hợp quốc phòng và an ninh với phát triển kinh tế và
công tác đối ngoại có tiến bộ. 12
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị
được củng cố. Nhiều nghị quyết Trung ương đã đề ra những chủ trương, giải
pháp củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng. Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình. Nhà nước tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện, nền hành chính được cải cách một bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Quyền làm
chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy; một số chính sách và quy chế
bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện.
2.3. Lĩnh vực văn hóa- xã hội 2.3.1 Bối cảnh
Trước đó với tình hình nền kinh tế tập trung, nước ta gặp nhiều khó khăn
về đời sống xã hội, như việc sinh đẻ chưa có kế hoạch, an ninh, trật tự phức tạp.
việc làm khan hiếm. các nhu cầu cơ bản về văn hóa và thể chất khó được đáp
ứng với phần đa dân số,... 2.3.2 Phương hướng
Tại đại hội đảng lần VI, Đảng đã đưa ra các chính sách xã hội lâu dài với
các nhiệm vụ phù hợp với tình hình chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ và
đổi mới. Chú trọng phát huy yếu tố con người và lẩy việc phục vụ con người là
mục đích cao cả nhất. Đảng cũng tập trung vào giải quyết những vấn đề xã hội
cấp bách, thực hiện công bằng xã hội phù hợp điều kiện kinh tế, đảm bảo an
toàn xã hội đồng thời thực hiện sống và làm việc theo pháp luật.
Đại hội đã đề ra bốn nhóm chính sách xã hội:
- Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người lao động.
- Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật
tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực xã hội. 13
- Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng
cường sức khỏe của nhân dân.
- Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.
Kể từ năm 1986, với nhiều sự thay đổi đáng kể về đường lối chính sách
liên quan đến văn hóa - xã hội, đời sống của nhân dân nhờ vậy được nâng cao, cải thiện đáng kể. 2.3.3 Nhận xét
Mục tiêu đem lại những điều kiện văn hóa - xã hội tốt đẹp cho người dân,
nhà nước ta không ngừng cải thiện các chính sách. Tính từ đại hội đảng VI tới
nay, nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ kịp thời cho người thất nghiệp, đề
ra những phương hướng giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động phù
hợp, song song với đẩy mạnh tích cực công tác xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc
sức khỏe, bảo hiểm xã hội, cải thiện chính sách cho người có công, hộ nghèo,...
Các chính sách bảo trợ xã hội cũng được triển khai minh bạch, rõ ràng.
Như vậy, chúng ta không thể phủ nhận được những điều đại hội VI vạch
ra và thực hiện song hành cùng với các chính sách sau này đã và đang giúp
chúng ta tiến tới xã hội dân chủ - công bằng - văn minh.
2.4. Lĩnh vực đối ngoại 2.4.1. Bối cảnh
Bối cảnh thế giới lúc bấy giờ có những diễn biến nhanh và mạnh, tuy có
những thuận lợi căn bản nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện nhiều khó khăn
thách thức, trở ngại phức tạp. Nhân dân Việt Nam ta tiếp tục nhận được sự giúp
đỡ to lớn và hợp tác nhiều mặt từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác,
cũng như sự cổ vũ và ủng hộ từ nhiều nước và nhân dân yêu chuộng tự do trên
thế giới. Đối với quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam, Lào và Campuchia
đã tạo ra nhiều thuận lợi, tuy nhiên ba nước Đông Dương vẫn phải thường
xuyên đối mặt với những hành động xâm lược, phá hoại và bao vây kinh tế của 14
các thế lực thù địch. Mỹ và phương Tây cũng đã cấu kết hình thành trận tuyến
chống lại chúng ta, gây cho nhà nước và nhân dân ta lúc bấy giờ vô vàn khó khăn. 2.4.2. Phương hướng
Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá VI chỉ đạo thực hiện
thành công những nhiệm vụ đề ra trong Báo cáo chính trị, mà một trong những
nhiệm vụ đó là tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại.
Chính sách đối ngoại xác định mục tiêu của Đại hội là kết hợp sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy và phấn đấu giữ gìn hòa bình ở
Đông Dương, góp phần vào giữ hòa bình ở Đông nam Á và trên thế giới. Ngoài
ra cần tăng cường hợp tác hữu nghị với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa,
“tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có những điểm đổi mới
về tư duy đối ngoại. Đầu tiên, đại hội rút ra những bài học kinh nghiệm về sự
cần thiết phải đổi mới phương cách tập hợp lực lượng là “phải biết kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”. Ngoài ra, nhận thức
được xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, bao gồm cả các nước có
chế độ kinh tế, xã hội khác nhau cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lấy đó làm cơ sở và nền tảng, Đảng ta
chủ trương “sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác
kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Sau gần hai năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 20/5/1988, Bộ Chính
trị ra Nghị quyết số 13/NQ-TW “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong
tình hình mới”. Điều này đã làm rõ nét hơn tư duy đối ngoại theo định hướng đa
phương của Việt Nam - lần đầu tiên đưa cụm từ “đa dạng hoá quan hệ” trên cơ 15
sở “thêm bạn bớt thù” vào Nghị quyết 13. Đây là văn kiện đầu tiên của Đảng
mang ý nghĩa nền tảng cho chủ trương “đa dạng hoá, đa phương hoá”; đồng thời
tư duy và mục tiêu đối ngoại của Việt Nam cũng đã chuyển mình mạnh mẽ.
Mục tiêu đối ngoại được Nghị quyết khẳng định “lợi ích cao nhất của Đảng và
nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và
phát triển kinh tế”. Theo cố Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, “Nghị
quyết 13 về đối ngoại của Bộ Chính trị là một cuộc đổi mới mạnh mẽ tư duy
trong việc đánh giá tình hình thế giới, trong việc đề ra mục tiêu và chuyển
hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của ta”. Một trong những nhiệm vụ cấp
bách đó là mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”;
đồng thời, Nghị quyết cũng đã xác định rằng để đóng góp được vào cách mạng
thế giới một cách thiết thực nhất, trước tiên ta cần đi từ trong chính đất nước
mình. Đó là thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, đất nước Việt Nam
trở thành một đất nước ngày càng được ổn định về mặt chính trị, kinh tế, xã hội
phát triển và nền quốc phòng, an ninh ngày càng mạnh mẽ và vững vàng. 2.4.3. Nhận xét
Triển khai thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, từ năm 1986 - 1990,
Việt Nam đã đẩy mạnh nhiều hoạt động đối ngoại kinh tế cũng như đối ngoại
chính trị. Nhiều hoạt động ngoại giao đa phương tại một số diễn đàn đa phương
trên thế giới được triển khai, trong đó có Liên hợp quốc với việc tham gia sâu
hơn vào các cơ quan của tổ chức này. Bên cạnh đó, nước ta cũng đã từng bước
cải thiện mối quan hệ, tranh thủ sự ủng hộ và viện trợ của các nước bằng việc
tham gia phong trào Không liên kết. Kết quả hoạt động đối ngoại đạt được trong
những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX tuy mới là bước đầu, nhưng có ý
nghĩa quan trọng, mở cửa giao lưu hợp tác với bên ngoài, tạo được vị thế mới
cho đất nước trong quan hệ quốc tế. Nhìn chung, tại Đại hội VI (12/1986),
chúng ta đã có nhận thức mới về xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các
nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế, xã hội khác nhau. Tư duy của Đảng ta 16
có bước chuyển quan trọng tại Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (tháng 5/1988). 17
3. ĐÁNH GIÁ VỀ ĐẠI HỘI VI
Tại Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986), với tinh thần "nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", Đảng ta đã đề ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trên con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường lối đổi mới đó là kết quả của sự khảo
nghiệm thực tiễn và đổi mới tư duy lý luận; là bước phát triển có ý nghĩa cách
mạng trong nhận thức và hành động của Đảng với những chủ trương, đường lối
mang tính đột phá. Bài viết nghiên cứu tinh thần chủ động, sáng tạo của Đảng
trong lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (giai đoạn 1986-1996) với
những nội dung cốt lõi: đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng; giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ thời chiến chuyển sang thời bình, đòi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy,
thay đổi nội dung và phương thức lãnh đạo cho phù hợp với tình hình mới. Tuy
còn nhiều khó khăn và thử thách, nhưng Việt Nam đã có những phát triển đáng kể.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là đại hội kế thừa và
quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ta. Thành công của Đại hội đã
mở ra một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam, đưa đất nước
bước sang một giai đoạn phát triển mới. 18