Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển con người toàndiện. Giá trị của quan điểm nêu trên đối với việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45469857
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn
diện. Giá trị của quan điểm nêu trên đối với việc xây dựng nguồn nhân lực chất
lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước ta hiện nay.
lOMoARcPSD| 45469857
.
HÀ NỘI, NĂM 2020
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương 1: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh
1. Khái quát quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện
2. Nội dung phát triển con người toàn diện
2.1. Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng
“mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
2.1.1. Ý thức làm chủ
2.1.2. Tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi
người vì mình”
2.2. Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc 2.3.
lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
2.3.1. Có lòng yêu nước nồng nàn
2.3.2. Tinh thần quốc tế trong sáng
2.4. Phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu
gương.
2.2.1. Phương pháp làm việc khoa học
2.2.2. Phong cách quần chúng
2.2.3. Phong cách dân chủ
2.2.4. Phong cách nêu gương
3. Phương pháp xây dựng và phát triển con người
Chương 2: Giá trị của quan điểm đối với việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao
nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay
1. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Kế thừa và phát huy giá trị quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
3. Một số thành tựu đạt được
Kết luận
lOMoARcPSD| 45469857
Tài liệu tham khảo
LỜI NÓI ĐẦU
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm và chăm lo đến sự nghiệp giáo
dục và đào tạo của nước nhà. Người coi: “Giáo dục là cốt sách hàng đầu” trong quá trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân ta phải chăm lo
đến sự nghiệp giáo dục. Từ chỗ ý thức được vị trí, vai trò quyết định của con người đến sự
nghiệp cách mạng ở nước ta, Người đã có tư duy rất sớm về chiến lược phát triển con
người toàn diện.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi trình độ phát triển xã hội đòi hỏi một nguồn nhân
lực phù hợp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, để phát huy những thành tựu
to lớn đã đạt được trong thời gian qua, trước quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xu thế hội nhập và nền kinh tế tri thức, nước ta cần có các nguồn lực. Đó là nguồn
tài nguyên thiên nhiên, nguồn tài chính, nguồn lực khoa học - công nghệ và nguồn lực con
người…Trong đó, nguồn lực con người được coi là nguồn lực quan trọng nhất, có tính chất
quyết định sự tăng trưởng và phát triển xã hội. Một quốc gia cho dù có tài nguyên thiên
nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ,
có đủ khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó thì khó đạt được sự phát
triển như mong muốn.
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
con người toàn diện, em xin nêu lên giá trị của quan điểm nêu trên đối với việc xây dựng
nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước ta hiện nay.
CHƯƠNG 1: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH
1. Khái quát quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển con người
toàn diện
Tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc năm 1958, Người nói:
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Trồng
người theo tư tưởng Hồ Chí Minh là bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, chăm lo
lOMoARcPSD| 45469857
giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan
tâm sâu sắc tới thế hệ cùng thời với mình, mà người còn quan tâm tới thế hệ tiếp sau.
Người chú ý tới công tác thanh, thiếu niên và nhi đồng với một thái độ yêu thương, độ
lượng, nghiêm túc và thận trọng. Người căn dặn phải uốn cây từ lúc cây non, đừng để tâm
hồn các cháu bị vẩn đục vì chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm thấy những
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân phát sinh từ lớp người còn trẻ, đó là nguyên nhân xuất
hiện những thanh, thiếu niên hư hỏng. Cho đến lúc sắp từ giã cõi đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh vẫn không quên việc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Điều đó cho thấy Người coi
vấn đề đạo đức cách mạng và việc chống chủ nghĩa cá nhân có tầm rất quan trọng trong
việc “trồng người”.
“Trồng người” là công việc lâu dài, gian khổ, vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu
dài, là công việc của văn hóa giáo dục. “Trồng người” phải được tiến hành thường xuyên
trong suốt tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt được những kết qủa cụ thể trong
từng giai đoạn cách mạng. Nhiệm vụ “trồng người” phải được tiến hành song song với
nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. “Trồng
người”phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong cuộc đời mỗi người, với ý nghĩa
vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng đất nước.
Công việc “trồng người” là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã
hội kết hợp với tính tích cực, chủ động của từng người.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã hội chủ
nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con người xã hội chủ
nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không phải. chờ cho kinh tế, văn hóa phát
triển cao rồi mới xây dựng; cũng không phải xây dựng xong những con người xã hội chủ
nghĩa rồi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa được
đặt ra từ đầu và phải được quan tâm xuyên suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
“Trước hết phải cần những con người xã hội chủ nghĩa” cần được hiểu là trước hết cần có
những con người với những nét tiêu biểu của xã hội chủ nghĩa như lý tưởng, lối sống, đạo
đức, tác phong xã hội chủ nghĩa. Đó sẽ là những con người tiên phong, làm gương lôi cuốn
những người khác theo con đường xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trong bất
cứa phong trào cách mạng nào, tiên tiến là số ít và số đông là trung gian, muốn củng cố và
mở rộng phong trào, cần phải nâng cao hơn nữa trình độ giác ngộ của trung gian để kéo
chậm tiến”.
lOMoARcPSD| 45469857
2. Nội dung phát triển con người toàn diện
Nội dung xây dựng và phát triển con người, Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con
người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó là những con người có mục đích và lối sống cao đẹp,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác
phong và đạo đức xã hội chủ nghĩa và năng lực làm chủ. Xây dựng và phát triển con người
toàn diện với những khía cạnh chủ yếu sau:
2.1.Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì
mọi người, mọi người vì mình”.
2.1.1. Ý thức làm chủ
Khái niệm làm chủ gợi ra và khuyến khích một tư duy chuyên nghiệp. Làm chủ là nắm
vững và quán xuyến công việc hay nghề nghiệp. Cụ thể, chẳng hạn khi người ta nhắc đến ý
niệm làm chủ thiết bị hay công nghệ là muốn có các chuyên gia cho một đơn vị hay một
ngành kinh tế. Tinh thần làm chủ ở đây là động lực vươn tới hoàn thiện, giúp từng cá nhân
tiến bộ, tổ chức hiển đạt, xã hội phát triển. Khái niệm làm chủ này đòi hỏi mỗi người trong
tổ chức phải luôn rèn luyện, tự trau dồi, tìm tòi, nghiên cứu... để đáp ứng yêu cầu công
việc hay vị trí hành sự, nhất là để không lạc hậu hay bị đào thải. Nhưng khái niệm làm ch
này không chỉ dừng lại ở việc nắm vững hay quán xuyến, mà xa hơn còn hàm ý làm tròn,
là sự sắm vai tốt hay chu toàn. Khi đạt được khả năng làm chủ như vậy ta đồng thời có thể
kiểm soát được hành vi. Các cá nhân sẽ hành động tự tin hơn, uy tín tổ chức nhờ đó được
nâng cao. Dù cho luôn được khuyến khích, khái niệm làm chủ này cũng thường có từ ý
thức chứ không phải do sự o ép ngoại lai. Đã là ý thức thì cũng cần phải gieo và dưỡng,
cần được tạo điều kiện thực tế hơn và có thể phải chăm sóc nhiều. Sự tương tác trong nỗ
lực vươn lên và quá trình làm chủ công việc hay nghề nghiệp trong một tổ chức, có thể sẽ
tạo ra sự cạnh tranh hay sàng lọc. Nhưng điều này không có gì xấu và đáng lo ngại cả, vì
nó giúp các đơn vị, một cộng đồng hay xã hội mạnh hơn, lành mạnh hơn.
2.1.2. Tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi
người vì mình”
“Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa phải có tinh thần xã hội chủ nghĩa, muốn có tinh
thần xã hội chủ nghĩa phải đánh bại chủ nghĩa cá nhân”. Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong bài nói chuyện với sinh viên đại học, ngày 26-6-1959. Đây là thời điểm miền
Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), bước đầu đạt những thành tựu
lOMoARcPSD| 45469857
quan trọng; miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Lời dạy của
Bác có ý nghĩa to lớn, chỉ rõ cho nhân dân ta nói chung, sinh viên Việt Nam nói riêng nhận
thức đúng đắn, đầy đủ bản chất của CNXH - con đường mà Đảng, Bác và nhân dân ta đã
lựa chọn; khơi dậy tinh thần của toàn dân tộc, trong đó có sinh viên, phải nêu cao ý thức và
có tinh thần XHCN, phấn đấu hết mình cho sự nghiệp vĩ đại đó của dân tộc; đồng thời,
kiên quyết đấu tranh bài trừ chủ nghĩa cá nhân ra khỏi đời sống xã hội. Chủ nghĩa cá nhân
là một trong những cản trở lớn trên con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán những thói hư, tật xấu mà chế độ cũ để lại như lười
biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Người nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cá nhân
là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”. Đó là bệnh
tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc
lãnh tụ và những bệnh khác. Trong tác phẩm "Đạo đức cách mạng", Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng, tiến lên chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ và có nhng kẻ địch
chống lại cuộc cách mạng đó. “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó
ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo
nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài”. Một loại kẻ địch khác là chủ nghĩa cá
nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, sinh trưởng trong xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang
trong mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, về thói quen. “Vết
tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân trái
ngược với đạo đức cách mạng, nếu nó còn lại trong mình, dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để
phát triển, để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự
nghiệp cách mạng”. “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ
dành người ta đi xuống dốc. Mà ai cũng biết rằng xuống dốc thì dễ hơn lên dốc. Vì thế mà
càng nguy hiểm”. Chủ nghĩa cá nhân là sản phẩm của chế độ xã hội cũ mà ở Việt Nam đó
là chế độ phong kiến và chế độ thc dân. Các chế độ đó dựa trên nền tảng kinh tế là sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất, là kinh tế cá thể, tư nhân và một phần kinh tế tư bản. Chế độ
kinh tế đó hướng tới lợi ích vật chất của cá nhân, gia đình hoặc một nhóm, tập đoàn nào đó
vì vậy nó nuôi dưỡng và phát triển lợi ích kinh tế của mỗi cá nhân và phát triển chủ nghĩa
cá nhân. Về tư tưởng chính trị, các chế độ xã hội đó đề cao cái tôi, vai trò cá nhân dẫn đến
chuyên chế, không có dân chủ thật sự. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ điều đó. Với hệ tư tưởng và chế độ chính trị như thế tất yếu dẫn đến những
người cầm quyền chỉ lo cho lợi ích cá nhân, gia đình, dòng họ và thực thi chính sách bóc
lột tàn bạo về kinh tế, không có dân chủ, thậm chí độc đoán, chuyên quyền về chính trị.
Ảnh hưởng đó của chế độ cũ là rất nặng nề và khắc phục nó là rất khó khăn. Thực tế đó
lOMoARcPSD| 45469857
cũng cắt nghĩa vì sao bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội nghĩa là xây dựng xã hội mới,
việc đấu tranh để thoát khỏi những ảnh hưởng xấu, nhất là chủ nghĩa cá nhân lại vô cùng
khó khăn và lâu dài. Chủ nghĩa xã hội là chế độ triệt để giải phóng con người khỏi áp bức,
bóc lột, bất công, khỏi mọi sự tha hóa và xây dựng nền dân chủ thật sự của số đông, sự
công bằng, văn minh vì lợi ích chân chính của mọi người, của cộng đồng. Vì thế, chủ
nghĩa cá nhân là xa lạ đối với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Ch
nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên, thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá
nhân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về tư tưởng xã hội chủ nghĩa: “Tư tưởng xã hội chủ nghĩa
là phải tất cả mọi người trong xã hội làm việc phục vụ, bởi xã hội đã nuôi dạy
mình. Thế là mình vì mọi người, mọi người vì mình. Toàn tâm, toàn ý phục vụ chủ nghĩa xã
hội”.
“Mình vì mọi người” ý chỉ cá nhân cần đề cao trách nhiệm của mình đối với cộng
đồng, phải biết đề cao lợi ích cộng đồng, đặt lợi ích tập thể nên trên lợi ích cá nhân. Còn
“mọi người vì mình” được hiểu vai trò của cá nhân trong việc hình thành nên tập thể, mọi
người trân trọng đóng góp của cá nhân trong tập thể, quan tâm đến đời sống của cá nhân ,
không bỏ mặc cá nhân khi cá nhân đó thực sự cần sự giúp đỡ của tập thể. Do đó, nghĩa của
cả câu có thể hiểu là đề cao mối quan hệ hai chiều giữa cá nhân và tập thể. Cá nhân cống
hiến cho tập thể thì tập thể cũng cần có trách nhiệm với mỗi cá nhân. Đó chính là biểu hiện
của tinh thần yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Con người không thể tồn tại một
mình trong xã hội được, cần phải hòa nhập vào trong cộng đồng và cùng phát triển với sự
phát triển của cộng đồng. Đoàn kết chính là cách tốt nhất để con người tạo nên sức mạnh
tập thể. Nhờ có sự đoàn kết, chung sức đồng lòng mà con người biết cống hiến nhiều hơn,
biết quan tâm và giúp đỡ nhau hơn trong cuộc sống. Tinh thần, ý thức trách nhiệm cá nhân
cũng vì thế mà được nâng cao, con người không sống ích kỉ, vì mình mà biết sống vì
những người xung quanh.
Nhưng trong trường hợp này, câu nói “mình vì mọi người, mọi người vì mình” không
mang hàm ý đổi chác, có qua, có lại mà là để nói rằng xã hội, đất nước đã nuôi dạy từng cá
nhân nên mỗi cá nhân phải có trách nhiệm đóng góp cho xã hội, đát nước. Hãy thử nghĩ
mà xem, khi bạn sinh ra: mọi người chẳng phải đã vì bạn trước tiên. Cha mẹ sinh ra bạn từ
bào thai, rồi bác sĩ theo dõi sức khỏe cho bạn, nhà nước tạo ra hệ thống giáo dục, chăm sóc
y tế, luật pháp bảo vệ trẻ em...chăm sóc bạn. Mọi người lớn trong xã hội lao động tạo ra
miếng ăn, vật chất, nhà cửa...cung cấp cho bạn, thậm trí vũ trụ đã quy định trái đất có một
lOMoARcPSD| 45469857
nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, oxy...thích hợp cho bạn sống. Cho nên mọi người đã vì bạn, trái
đất đã vì bạn trước tiên...cho suốt cuộc đời bạn. Vì bạn đã nợ moị người nhiều như vậy,
cho nên chỉ khi nào sống “mình vì mọi người” bạn mới tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống,
mình vì mọi người sẽ thành lẽ tự nhiên, thành chân lý, thành sứ mệnh , thành nhu cầu của
bạn.
2.2. Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, đó là
phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. Vì vậy, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đề cập đến những phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, phản ánh
ngay từ cuốn sách Đường kách mệnh đến bản Di chúc cuối đời. Bác đã chỉ rõ: “Bọn phong
kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân
phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần , kiệm, liêm, chính
cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”.
“Cần” tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai. Muốn cho chữ Cần có nhiều kết
quả hơn, thì phải có kế hoạch rõ rang cho mọi công việc. Cần tức là lao động cần cù, siêng
năng; lao động cho có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực
cánh sinh, không lười biếng. Phải thấy rõ lao động là nghĩa vũ thiêng liêng, là nguồn sống,
nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
“Kiệm” là thế nào? Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Kiệm
tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của cảu dân, của nước, của
bản than mình; không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù. Tiết kiệm
không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi
có việc đáng làm, lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu
của, cũng vui long, Như thế mới đúng là Kiệm. Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau, như hai
chân của con người. Chỉ như thế mới có thể đóng góp xây dựng nước nhà.
Bên cạnh đó chúng ta cần tiếp bước truyền thống quê hương anh hùng, thực hiện lời
dạy của Bác Hồ “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
nước”. Thanh niên hôm nay phải ý thức được trọng trách và nghĩa vụ thiêng liêng, sẵn
sàng lên đường bảo vệ Tổ quốc. “Khi cần thanh niên có, khi khó có thanh niên”.
2.3.Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
lOMoARcPSD| 45469857
2.3.1. Có lòng yêu nước nồng nàn
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi đất nước đang đắm chìm trong đêm dài nô
lệ. Bởi vì tấm long yêu nước, thương dân, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ
quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Sức mạnh truyền thống yêu nước đã hun đúc
quyết tâm cứu nước, cứu dân và thôi thúc người bôn ba tìm đường giải phóng đất nước;
cũng chính là cơ sở dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu
nước trong thời đại mới: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào
khác là con đường cách mạng vô sản”. Sau này, trong bài viết Con đường dẫn tôi đến chủ
nghĩa Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước,
chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba". Từ
khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi từ biệt chúng ta trở về với thế giới người hiền,
Người luôn khát khao và phấn đấu cho mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và
giải phóng con người; xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân chủ và giàu
mạnh, nhân dân Việt Nam được ấm no, tự do và hạnh phúc. Cuộc đời cách mạng đầy gian
truân song rất đỗi vinh quang của người xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân và cũng vì
nước vì dân mà tận tâm, tận lực phấn đấu. Thấm nhuần sâu sắc rằng, lòng yêu nước là một
giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, được sinh dưỡng bởi những cư dân một nước
nông nghiệp luôn gắn bó, cố kết, đùm bọc, che chở và giúp đỡ lẫn nhau để chống lại thiên
tai, địch họa và cả dịch bệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: “Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi
Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ
cướp nước” và "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước". Trong tất cả những con
dân đất Việt đó, chỉ “trừ một bọn rất ít đại Việt gian, đồng bào ta ai cũng có lòng yêu
nước”.
Lòng yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người dân Việt Nam chính là nền tảng, cơ
sở cho sự thống nhất trong khác biệt để Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập hợp lực lượng,
tạo thành sức mạnh tổng hợp của một dân tộc, đất không rộng, người không đông, tiềm lực
kinh tế, quân sự không lớn, song đã đoàn kết, đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu
tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ thực dân, đế quốc, giành độc lập, tự do; tiếp
tục tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì thế, khi nước nhà đã giành được
độc lập, song hiểm nguy từ nạn "giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm" vẫn đe dọa nền độc
lOMoARcPSD| 45469857
lập, tự do mà nhân dân ta đã giành được sau hơn 80 năm trời nô lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhấn mạnh rằng: “Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng
cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”; đồng
thời khơi dậy tinh thần yêu nước của mọi người dân, mọi giai tầng trong xã hội trong các
bức thư gửi cho các cụ phụ lão: “Xưa nay, những người yêu nước không vì tuổi già mà
chịu ngồi không” (Thư gửi các cụ phụ lão); cho các em nhỏ: “Các em phải thương yêu
nước ta” (Thư gửi thiếu nhi Việt Nam đêm Trung thu đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa); cho một Việt kiều: “Tôi vẫn nghe ông là người yêu nước thương nòi, vậy dịp
này rất thuận tiện cho ông tỏ lòng trung thành với Tổ quốc” (tháng 9/1945); cho các giám
mục và đồng bào công giáo Vinh, Hà Tĩnh, Quảng Bình: “Các vị là những người chân
chính yêu nước, đồng thời cũng là những chân chính tín đồ của đức Giêsu” và bao dung, vị
tha với những người trót lầm đường, lạc lối: “Ai cũng có lòng yêu nước, chẳng qua có lúc
vì lợi nhỏ mà quên nghĩa lớn. Nói lẽ phải họ tự nghe”... để quy tụ, tập hợp và phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở của lòng yêu nước chân chính, tiến
hành sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
2.3.2. Tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất quan trọng nhất của
đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Điều này được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân,
nhằm vào mối quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi giới hạn quốc gia dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí
Minh là tượng trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần nhuyễn với
chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng
lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết , thương yêu và đoàn kết giai cấp vô sanrtoanf
thế giới, với các dân tộc bị áp bức, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những
người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt
chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng
bá quyền. Bác Hồ nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, nhưng luôn luôn kêu
gọi tăng cường đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp đỡ đối
với các cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
2.4.Phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương.
lOMoARcPSD| 45469857
2.4.1. Phương pháp làm việc khoa học
Một trong những phẩm chất quan trọng của người cán bộ, đảng viên là phải có phương
pháp, tác phong làm việc khoa học, trung thực, khách quan để hoàn thành tốt các nhiệm vụ
được giao, được quần chúng nhân dân tín nhiệm. Bởi vì, khi người cán bộ, đảng viên có tri
thức khoa học và kỹ thuật, có trình độ lý luận cách mạng, có năng lực công tác và luôn tâm
huyết với nghề nghiệp, nhưng nếu không có phương pháp, tác phong làm việc khoa học, xa
rời thực tiễn, ít chịu cập nhật những biến đổi của tình hình, thậm chí chuyên quyền, quan
liêu, độc đoán... thì khi thực hiện các nhiệm vụ thường gặp khó khăn, vướng mắc, chất
lượng và hiệu quả công việc sẽ không đạt được như mong muốn. Để khắc phục những biểu
hiện của phương pháp, tác phong làm việc thiếu tính khoa học, thiếu tính thực tiễn tồn tại ở
không ít cán bộ, đảng viên, là cần phải có những biện pháp cụ thể, mà Hồ Chí Minh gọi là
“cách lãnh đạo”. Đó là nghệ thuật công tác lãnh đạo, quản lý của người cán bộ, đảng viên,
được biểu hiện bằng phương pháp, tác phong làm việc khoa học, thiết thực, hiệu quả.
Người cán bộ, đảng viên không những vừa phải có đức, có tài, vừa “hồng” vừa “chuyên”,
nhưng đồng thời cũng phải có “cách lãnh đạo”. Phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện
trong mọi điều kiện, hoàn cảnh công tác để không ngừng hoàn thiện phương pháp, tác
phong làm việc khoa học, trung thực, khách quan, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, mỗi cán bộ, đảng viên cần ý thức đầy đủ về viêc học tậ p phong cách làm việ
c Hồ  Chí Minh; xác định đây không chỉ là trách nhiêm của người đảng viên, mà còn là mộ
t giải  pháp để hoàn thiên phong cách làm việ c, nâng cao chất lượng công tác. Trước
hết, mỗi  đảng viên cần tự nhìn nhân, đánh giá các phương pháp, tác phong làm việ c chưa
khoa học,  chưa hiêu quả của bản thân. Trên cơ sở đó xác định phương hướng và các biệ n
pháp cụ thể  để dần hình thành phong cách làm viêc mới.Cụ thể, mỗi đảng viên cần rèn
luyệ n phong  cách làm viêc khoa học. Đối với các công việ c chuyên môn của phòng và
các nhiệ m vụ  được cơ quan, ng đoàn giao, cần có sự bố trí, sắp xếp khoa học về
trình tự ưu tiên, thời gian tiến hành, tránh để chồng chéo, bị đông. Trong công tác chuyên
môn, cần có sự đầu tự chuyên sâu với sự chính xác tối đa về kiến thức và đảm bảo thường
xuyên câp nhậ t văn  bản mới, kiến thức thực tiễn mới. Viêc giải quyết các công việ
c, nhất là đối với công tác  phối hợp và giải quyết các vấn đề phát sinh cần nắm rõ tình
hình, phân tích, đánh giá để lựa chọn phương án giải quyết tối ưu, làm được đến đâu báo
cáo đến đấy, không vì thành tích của cá nhân mình, gia đình mình, đơn vị mình mà báo cáo
sai sự thật, có nhược điểm, khuyết điểm phải nghiêm khắc tự phê bình và phê bình, có
phương hướng và biện pháp cụ thể, quyết tâm khắc phục, sửa chữa, không tìm mọi cách để
lOMoARcPSD| 45469857
ngụy biện, bao che, đổ lỗi cho khách quan, đổ lỗi cho người khác. Trong tình hình hiện
nay, việc đổi mới phong cách làm việc theo tư tưởng và tấm gương về phong cách làm việc
của Hồ Chí Minh đang là một vấn đề quan trọng và cấp thiết. Trước tiên, mỗi cán bộ, đảng
viên phải thấy rõ ý nghĩa tầm quan trọng và nội dung yêu cầu của học tập và làm theo
phong cách làm việc của Hồ Chi Minh. Từ đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tự mình
tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nắm vững
tri thức về con người, biết trao đổi, làm việc với từng đối tượng con người cụ thể một cách
thật sự dân chủ, văn hóa. Đồng thời, để hình thành phong cách làm việc khoa học yêu cầu
mỗi cán bộ đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, kiên
quyết chống chủ nghĩa cá nhân.
2.4.2. Phong cách quần chúng
Phong cách quần chúng trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện bằng phong cách sâu sát
quần chúng, vì lợi ích của quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng, lắng nghe ý kiến của
quần chúng, của những người chiến sĩ cộng sản suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên gần dân, thấu hiếu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và
bản thân Người luôn là tấm gương sáng về phong cách gần dân. Sự gần gũi đó được thể
hiện ngay từ phút đầu tiên người ra mắt quốc dân. Khi vừa đọc một đoạn Tuyên ngôn Độc
lập, Người đã dừng lại hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Chỉ là một câu hỏi thôi,
một câu hỏi bình dị, tự nhiên mà thực sự đã làm xúc động trái tim hàng chục triệu đồng
bào toàn quốc. Đó là một điển hình mẫu mực về mối quan hệ gần gũi, thân thiết hiếm có
giữa lãnh tụ với quần chúng, ngay ở những giây phút lịch sử trang trọng nhất. Hai là, Hồ
Chí Minh yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải đi đúng đường lối quần chúng, đồng thời
bản thân người nêu cao tấm gương về lòng yêu mến và tin tưởng rất mực vào khả năng và
sức mạnh của nhân dân. Bác nói: “Nước lấy dân làm gốc”, “Gốc có vững cây mới bền,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Bác thường xuyên căn dặn các tổ chức đảng,n bộ,
đảng viên phải coi trọng mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, và phải thể hiện tinh thần
phụ trách trước nhân dân.
2.4.3. Phong cách dân chủ
Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tập thể, lắng nghe ý
kiến của tập thể, phát huy sức mạnh của tập thể, nhận trách nhiệm cá nhân và hoàn thành
tốt nhiệm vụ được tập thể giao phó và tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
lOMoARcPSD| 45469857
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Trước hết, theo Hồ Chí Minh, mọi cán bộ, đảng viên phải
gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, đặt mình trong tập thể, lắng nghe ý kiến của tập thể.
Thứ hai, là phải mở rộng dân chủ để phát huy sức mạnh của tập thể. Người thường nói: Đề
ra công việc, đẻ ra nghị quyết, không khó, vấn đề là thực hiện nó. Ai thực hiện? - Tập thể,
quần chúng. Vì vậy, có dân chủ, bàn bạc tập thể mới cùng thông suốt, nhất trí, mới cùng
quyết tâm thực hiện, tránh được "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". Sở dĩ xảy ra mất đoàn
kết vì người đứng đầu ở nơi đó còn chuyên quyền, độc đoán, áp đặt chủ quan, trong hội
nghị thì mọi người miễn cưỡng đồng tình, sau hội nghị, nếu đã không thông thì sẽ không
quyết tâm thực hiện. Vì vậy, Người yêu cầu: "Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng
viên bày tỏ hết ý kiến của mình". "Có dân chủ thì mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra
sáng kiến"; "thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn".
Thứ ba, là nhận trách nhiệm cá nhân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được tập thể giao phó và
tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Là
người đứng đầu Đảng cầm quyền, đứng đầu Nhà nước, nhưng Hồ Chí Minh thường xuyên
có phong cách làm việc tập thể và dân chủ. Người giải thích: "Tập thể lãnh đạo là dân chủ.
Cá nhân phụ trách, tức là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập
trung".
2.4.4. Phong cách nêu gương
Theo Hồ Chí Minh, nêu gương thì trước hết phải làm gương trong mọi công việc từ nhỏ
đến lớn, thể hiện thường xuyên, về mọi mặt, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư,
nói phải đi đôi với làm. Trước hết, cần nêu gương trên ba mối quan hệ đối với mình, đối
với người, đối với công việc. Đối với mình phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo mà
luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản
thân, phải tự phê bình mình như rửa mặt hàng ngày; đối với người, luôn giữ thái độ chân
thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng; đối với
việc, dù trong hoàn cảnh nào phải giữ nguyên tắc "dĩ công vi thượng" (để việc công lên
trên, lên trước việc tư). Để giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả cao, người chủ trương:
"Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt
nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc
sống mới". Trong gia đình, cha mẹ có thể là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương
đối với các em; trong nhà trường, thầy giáo, cô giáo là tấm gương cho học trò; trong cơ
quan, tổ chức thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương
lOMoARcPSD| 45469857
cho người khác. Trong cuộc sống hàng ngày, người cán bộ, đảng viên chẳng những phải có
trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành con người có đời tư trong sáng, mà còn phải là
tấm gương giúp nhân dân nhìn vào đó làm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư,
tật xấu.
3. Phương pháp xây dựng và phát triển con người
Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ chế, tính
khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu,
có ý nghĩa rất quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói đến “tu thân, chính tâm” thì
mới có thể “trị quốc, bình thiên hạ”. Văn hóa phương Đông cho thấy một tấm gương sống
có giá trị hơn một trăm bài diễn văn và “tiên trách kỷ. hậu trách nhân”. Bác thường nhắc
lại những điều ấy trong khi bàn biện pháp xây dựng con người. Người nói rằng “lấy gương
tốt, việc tốt hàng ngày để giáo dục lẫn nhau” là rất cần thiết và bổ ích.
Biện pháp giáo dục có một vị trí quan trọng. Hồ Chí Minh nhắc nhở rằng “hiền, giữ của
con người không phải tính sẵn. Phần nhiều là do giáo dục mà nên”. Theo người, các cháu
mẫu giáo, tiểu học như tờ giấy trắng. Chúng ta vẽ xanh thì xanh, vẽ đỏ thì đỏ”. Nói như
vậy để thấy giáo dục rất quan trọng trong việc xây dựng con người.
Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng. Thông qua các
phong trào cách mạng như “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt”. Đặc biệt phải dựa
vào quần chúng theo quan điểm “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ
chức của ta”.
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ CỦA QUAN ĐIỂM ĐỐI VỚI VIỆC
XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC TA HIỆN NAY
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả của sự kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại; là sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; không chỉ giải quyết
vấn đề thuộc về tư duy lý luận mà cao hơn, đó là tư duy hành động. Trong khi tập trung
giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã góp phần pt
lOMoARcPSD| 45469857
triển chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với xu thế khách quan của thời đại, đặc biệt là lý luận
về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng lý luận và định hướng để Đảng Cộng sản Việt
Nam xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn, tổ chức lực lượng và lãnh đạo nhân dân
Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sáng lập nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc và những thành tựu quan trọng về mọi mặt trong hơn 30 năm đổi mới và hội nhập
quốc tế. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn, quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trên hành trình kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Việt Nam có những thuận lợi khi hội nhập quốc tế một cách sâu rộng, đó là có nền
chính trị ổn định, con người Việt Nam đang khát khao cống hiến phát triển đất nước,
nhưng cũng đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức, như ở một số nơi, môi trường sinh
thái bị ô nhiễm, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, an sinh xã hội và sức khỏe cộng
đồng chưa được cải thiện như mong muốn, khoảng cách và sự phân hóa giàu nghèo gia
tăng, tệ nạn xã hội, tội phạm xã hội phức tạp hơn.
Bối cảnh thế giới có những bất ổn và sự cạnh tranh giữa các quốc gia, dân tộc để phát
triển ngày càng trở nên gay gắt. Trong khi đó, đạo đức xã hội ở nhiều nơi đang có xu
hướng suy giảm, thể hiện qua hành vi ứng xử thường ngày. Điều này càng cho thấy để đưa
đất nước phát triển nhanh và bền vững trên con đường xã hội chủ nghĩa thì không có gì
hơn là xây dựng đất nước dựa trên phát triển con người. Những con người có đủ phẩm chất
và năng lực, phải là những người bằng bàn tay khối óc của chính mình xây dựng đất nước,
đưa dân tộc ta phát triển trong xu thế hội nhập toàn cầu.
Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất vận hội, thời cơ
đang đến với đất nước. Nếu không nhanh chóng khắc phục được yếu kém này, chúng ta sẽ
phải đối diện với những nguy cơ, những thách thức mới, sẽ kéo theo sự tụt hậu của đất
nước. Nếu không giải quyết được bài toán nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời
gian tới, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng chất lượng nguồn nhân lực,
lOMoARcPSD| 45469857
mà hệ quả của nó là sụt giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế; khó thoát khỏi “bẫy thu nhập
trung bình”; đánh mất cơ hội tham gia thị trường lao động quốc tế.
2. Kế thừa và phát huy giá trị quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh
Ông cha ta thường căn dặn: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. C. Mác cho rằng,
con người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất. Nhà tương lai học người Mỹ, Alvin
Toffler nhấn mạnh vai trò của lao động trí thức: “Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi
sẽ mất; chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn
lên”. Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật,
khoa học - công nghệ,... có mối quan hệ nhân - quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân
lực được xem là năng lực nội sinh chi phối các nguồn lực khác và quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng
đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật là không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác
và sử dụng hợp lý; còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố hữu hạn và
chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Nguồn
nhân lực là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực
khác; trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao quyết định quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Thực tế chứng minh rằng, một quốc gia có thể
không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không mấy thuận lợi, nhưng kinh tế có thể
tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng
đắn, biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó; với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý,
đội ngũ trí thức xứng tầm; lực lượng công nhân kỹ thuật tay nghề cao, đông đảo và có các
doanh nhân tài ba.
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới, quan
điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng ta là đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát
triển, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Quan điểm
này của Đảng và Nhà nước ta là sự vận dụng tổng hợp các quan điểm của chủ nghĩa Mác -
-nin, sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”. Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn dặn: “Đầu tiên là công
việc đối với con người”; “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan
trọng và rất cần thiết.
lOMoARcPSD| 45469857
Đại hội XI (năm 2011), Đảng nhấn mạnh quan điểm: “Phát triển, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết
định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”, “là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết
định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững”. Những quan điểm này đánh dấu sự chuyển hướng từ nhận
thức có tính chất lý luận về vị trí, vai trò của nhân tố con người và nguồn nhân lực đến coi
phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong 3 khâu đột phá
của chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ 2011 - 2020. Đại hội XII của Đảng tiếp tục
khẳng định vai trò quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao, thông qua quan điểm:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công
nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu...”Đại hội XII của
Đảng cũng đưa ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực trong thời gian tới,
đòi hỏi cần phải: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng
ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào
tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất, kinh
doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành”.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp nhân dân ta đang thực hiện, diễn ra trên
mọi mặt của đời sống và sản xuất. Sự nghiệp này được thực hiện bằng chính nguồn lực con
người. Đó là những con người có tri thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ, về quản lý và
dịch vụ. Để phát triển, con người phải được trang bị vững chắc về học vấn nền tảng, đào
tạo con người có trình độ tay nghề, nắm vững công nghệ, khoa học, kĩ thuật trong sản xuất,
hình thành phong cách lao động công nghiệp, lao động sáng tạo. Sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi người lao động phát triển cả đạo đức và nhân cách. Đó
là đạo đức trung thực, đạo đức trong hành động, tự giác trong lao động. Biểu hiện của đạo
đức cách mạng là sự thống nhất giữa lời nói với việc làm, giữa nhận thức và hành động,
giữa động cơ và hiệu quả. Đạo đức đó đáp ứng được chuẩn mực đạo đức của xã hội mới, là
điều kiện cơ bản để thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước hướng tới mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
lOMoARcPSD| 45469857
3. Một số thành tựu đạt được
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Đảng ta luôn coi con người là vốn quý nhất, là mục tiêu, là động lực của cuộc
cách mạng. Sau hơn 30 năm đổi mới, nước ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao hơn trước, thể hiện rõ nét nhất ở năng
suất lao động của toàn xã hội được nâng cao, tạo tốc độ tăng trưởng khá và nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế, tiềm lực quốc gia.
Từ khi Nghị quyết 33 ra đời, Đảng ta đã ban hành một số văn bản góp phần cụ thể hóa
chủ trương xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững. Hệ thống chính trị và các tầng lớp xã hội đã chủ động hơn trong việc giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan khoa học,
cách mạng, nhân văn, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Các
cơ quan Trung ương và địa phương đã khẩn trương triển khai tuyên truyền, ban hành các
văn bản chỉ đạo, quản lý theo chức năng, nhiệm vụ được giao, tạo cơ sở pháp lý và điều
kiện để các tổ chức trong xã hội tập trung trí tuệ, công sức xây dựng con người. Nhận thức
về quan điểm, nhiệm vụ xây dựng con người phát triển toàn diện trong Đảng và các tầng
lớp nhân dân ngày một rõ ràng, cụ thể hơn. Vai trò của con người ngày càng thể hiện và tác
động lớn trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Bước đầu tạo được sự gắn kết phát triển
văn hóa với xây dựng con người, lấy việc chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối
sống tốt đẹp làm trọng tâm.
Tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính tích cực xã hội của nhân dân được phát
huy. Dân chủ xã hội được mở rộng cùng với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng và tiếp
cận với các phương tiện truyền thông mới đã làm cho con người Việt Nam luôn đổi mới tư
duy, năng động, sáng tạo hơn, có nhiều cơ hội tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Các giá
trị đạo đức truyền thống được giữ gìn, phát huy và thay đổi theo hướng phù hợp với nền
kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Hình thành nếp sống văn minh, tác phong công
nghiệp, tính chuyên nghiệp, thiết thực, hiệu quả, đề cao, tôn trọng con người; quan tâm
nâng cao trí tuệ, cải thiện chất lượng sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam. Theo Tổng
điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019, tuổi thọ trung bình con người Việt Nam năm 2019 là
73,6 tuổi. Từ 1990 đến 2018, tổng thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên 354,5%. Năm
2019, tổng thu nhập bình quân đầu người gần 2.800 USD. Việt Nam nằm trong nhóm các
nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số phát triển con người (HDI) cao nhất trên thế giới, với
tăng trưởng trung bình HDI ở mức 1,36% trong suốt giai đoạn 1990 - 2018. Đây là thành
lOMoARcPSD| 45469857
tựu rất đáng để Việt Nam tự hào về xây dựng con người. HDI của Việt Nam năm 2019 là
0,63, xếp thứ 118/189 quốc gia và vùng lãnh thổ về chỉ số này và chỉ cần thêm 0,007 điểm
để vào được nhóm các nước có HDI ở mức cao.
Phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” được triển khai
thực hiện rộng khắp trên các địa bàn từ thành thị đến nông thôn. Năm 2018, số người tập
luyện thể dục thể thao thường xuyên trên toàn quốc đạt 32,35%; số gia đình tập luyện thể
thao thường xuyên đạt 23,41% tổng số hộ. Thể lực, tầm vóc con người Việt Nam được cải
thiện, ý thức bảo vệ môi trường sống được nâng lên.
Công tác phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, suy thoái tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong nội bộ cán bộ, đảng viên, nhân dân có chuyển biến, góp phần xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo môi trường văn hóa, xã hội lành mạnh,
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn của cán bộ, đảng
viên, nhân dân; tạo niềm tin của nhân dân đối với chế độ.
KẾT LUẬN
Phát triển con người toàn diện là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng
Hồ Chí Minh. Sinh thời, Bác luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng, đào tạo,
bồi dưỡng con người mới, con người xã hội chủ nghĩa hay con người phát triển toàn diện.
Mục đích cao cả trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người toàn diện là sự kế thừa, phát triển sáng tạo những giá trị trong tư tưởng về con người
và phát triển con người từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin. Xuất phát từ yêu
cầu của lịch sử, dựa trên những tiền đề tư tưởng lý luận, Hồ Chí Minh đã phát triển, vận
dụng linh hoạt vào điều kiện cụ thể đất nước, xây dựng nên hệ thống tư tưởng riêng của
mình.
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và
trong xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực,
đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định. Kế thừa
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, coi đó là nền tảng lý luận và định hướng, Đảng đã đặt
con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển, coi con người vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển đất nước. Nhờ đó, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu
nhất định trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
lOMoARcPSD| 45469857
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
2. Hồ Chí Minh toàn tập
3. Tạp chí của ban Tuyên giáo trung ương
4. Tạp chí cộng sản
5. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng – 11/02/1951
6. Cổng Thông tin điện tử Bộ Thông tin và Truyền thông
| 1/20

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45469857
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn
diện. Giá trị của quan điểm nêu trên đối với việc xây dựng nguồn nhân lực chất
lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước ta hiện nay. lOMoAR cPSD| 45469857 . HÀ NỘI, NĂM 2020 MỤC LỤC Lời nói đầu
Chương 1: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh
1. Khái quát quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện
2. Nội dung phát triển con người toàn diện
2.1. Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng
“mình vì mọi người, mọi người vì mình”. 2.1.1. Ý thức làm chủ
2.1.2. Tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”
2.2. Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc 2.3. Có
lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
2.3.1. Có lòng yêu nước nồng nàn
2.3.2. Tinh thần quốc tế trong sáng
2.4. Phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương.
2.2.1. Phương pháp làm việc khoa học
2.2.2. Phong cách quần chúng 2.2.3. Phong cách dân chủ
2.2.4. Phong cách nêu gương
3. Phương pháp xây dựng và phát triển con người
Chương 2: Giá trị của quan điểm đối với việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao
nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay
1. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Kế thừa và phát huy giá trị quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
3. Một số thành tựu đạt được Kết luận lOMoAR cPSD| 45469857 Tài liệu tham khảo LỜI NÓI ĐẦU
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm và chăm lo đến sự nghiệp giáo
dục và đào tạo của nước nhà. Người coi: “Giáo dục là cốt sách hàng đầu” trong quá trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân ta phải chăm lo
đến sự nghiệp giáo dục. Từ chỗ ý thức được vị trí, vai trò quyết định của con người đến sự
nghiệp cách mạng ở nước ta, Người đã có tư duy rất sớm về chiến lược phát triển con người toàn diện.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi trình độ phát triển xã hội đòi hỏi một nguồn nhân
lực phù hợp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, để phát huy những thành tựu
to lớn đã đạt được trong thời gian qua, trước quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xu thế hội nhập và nền kinh tế tri thức, nước ta cần có các nguồn lực. Đó là nguồn
tài nguyên thiên nhiên, nguồn tài chính, nguồn lực khoa học - công nghệ và nguồn lực con
người…Trong đó, nguồn lực con người được coi là nguồn lực quan trọng nhất, có tính chất
quyết định sự tăng trưởng và phát triển xã hội. Một quốc gia cho dù có tài nguyên thiên
nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ,
có đủ khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó thì khó đạt được sự phát triển như mong muốn.
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
con người toàn diện, em xin nêu lên giá trị của quan điểm nêu trên đối với việc xây dựng
nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước ta hiện nay.
CHƯƠNG 1: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH
1. Khái quát quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện
Tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc năm 1958, Người nói:
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Trồng
người theo tư tưởng Hồ Chí Minh là bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, chăm lo lOMoAR cPSD| 45469857
giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan
tâm sâu sắc tới thế hệ cùng thời với mình, mà người còn quan tâm tới thế hệ tiếp sau.
Người chú ý tới công tác thanh, thiếu niên và nhi đồng với một thái độ yêu thương, độ
lượng, nghiêm túc và thận trọng. Người căn dặn phải uốn cây từ lúc cây non, đừng để tâm
hồn các cháu bị vẩn đục vì chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm thấy những
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân phát sinh từ lớp người còn trẻ, đó là nguyên nhân xuất
hiện những thanh, thiếu niên hư hỏng. Cho đến lúc sắp từ giã cõi đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh vẫn không quên việc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Điều đó cho thấy Người coi
vấn đề đạo đức cách mạng và việc chống chủ nghĩa cá nhân có tầm rất quan trọng trong
việc “trồng người”.
“Trồng người” là công việc lâu dài, gian khổ, vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu
dài, là công việc của văn hóa giáo dục. “Trồng người” phải được tiến hành thường xuyên
trong suốt tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt được những kết qủa cụ thể trong
từng giai đoạn cách mạng. Nhiệm vụ “trồng người” phải được tiến hành song song với
nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. “Trồng
người”phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong cuộc đời mỗi người, với ý nghĩa
vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng đất nước.
Công việc “trồng người” là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã
hội kết hợp với tính tích cực, chủ động của từng người.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã hội chủ
nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con người xã hội chủ
nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không phải. chờ cho kinh tế, văn hóa phát
triển cao rồi mới xây dựng; cũng không phải xây dựng xong những con người xã hội chủ
nghĩa rồi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa được
đặt ra từ đầu và phải được quan tâm xuyên suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
“Trước hết phải cần những con người xã hội chủ nghĩa” cần được hiểu là trước hết cần có
những con người với những nét tiêu biểu của xã hội chủ nghĩa như lý tưởng, lối sống, đạo
đức, tác phong xã hội chủ nghĩa. Đó sẽ là những con người tiên phong, làm gương lôi cuốn
những người khác theo con đường xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trong bất
cứa phong trào cách mạng nào, tiên tiến là số ít và số đông là trung gian, muốn củng cố và
mở rộng phong trào, cần phải nâng cao hơn nữa trình độ giác ngộ của trung gian để kéo chậm tiến”. lOMoAR cPSD| 45469857
2. Nội dung phát triển con người toàn diện
Nội dung xây dựng và phát triển con người, Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con
người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó là những con người có mục đích và lối sống cao đẹp,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác
phong và đạo đức xã hội chủ nghĩa và năng lực làm chủ. Xây dựng và phát triển con người
toàn diện với những khía cạnh chủ yếu sau:
2.1.Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì
mọi người, mọi người vì mình”.
2.1.1. Ý thức làm chủ
Khái niệm làm chủ gợi ra và khuyến khích một tư duy chuyên nghiệp. Làm chủ là nắm
vững và quán xuyến công việc hay nghề nghiệp. Cụ thể, chẳng hạn khi người ta nhắc đến ý
niệm làm chủ thiết bị hay công nghệ là muốn có các chuyên gia cho một đơn vị hay một
ngành kinh tế. Tinh thần làm chủ ở đây là động lực vươn tới hoàn thiện, giúp từng cá nhân
tiến bộ, tổ chức hiển đạt, xã hội phát triển. Khái niệm làm chủ này đòi hỏi mỗi người trong
tổ chức phải luôn rèn luyện, tự trau dồi, tìm tòi, nghiên cứu... để đáp ứng yêu cầu công
việc hay vị trí hành sự, nhất là để không lạc hậu hay bị đào thải. Nhưng khái niệm làm chủ
này không chỉ dừng lại ở việc nắm vững hay quán xuyến, mà xa hơn còn hàm ý làm tròn,
là sự sắm vai tốt hay chu toàn. Khi đạt được khả năng làm chủ như vậy ta đồng thời có thể
kiểm soát được hành vi. Các cá nhân sẽ hành động tự tin hơn, uy tín tổ chức nhờ đó được
nâng cao. Dù cho luôn được khuyến khích, khái niệm làm chủ này cũng thường có từ ý
thức chứ không phải do sự o ép ngoại lai. Đã là ý thức thì cũng cần phải gieo và dưỡng,
cần được tạo điều kiện thực tế hơn và có thể phải chăm sóc nhiều. Sự tương tác trong nỗ
lực vươn lên và quá trình làm chủ công việc hay nghề nghiệp trong một tổ chức, có thể sẽ
tạo ra sự cạnh tranh hay sàng lọc. Nhưng điều này không có gì xấu và đáng lo ngại cả, vì
nó giúp các đơn vị, một cộng đồng hay xã hội mạnh hơn, lành mạnh hơn.
2.1.2. Tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”
“Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa phải có tinh thần xã hội chủ nghĩa, muốn có tinh
thần xã hội chủ nghĩa phải đánh bại chủ nghĩa cá nhân”. Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong bài nói chuyện với sinh viên đại học, ngày 26-6-1959. Đây là thời điểm miền
Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), bước đầu đạt những thành tựu lOMoAR cPSD| 45469857
quan trọng; miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Lời dạy của
Bác có ý nghĩa to lớn, chỉ rõ cho nhân dân ta nói chung, sinh viên Việt Nam nói riêng nhận
thức đúng đắn, đầy đủ bản chất của CNXH - con đường mà Đảng, Bác và nhân dân ta đã
lựa chọn; khơi dậy tinh thần của toàn dân tộc, trong đó có sinh viên, phải nêu cao ý thức và
có tinh thần XHCN, phấn đấu hết mình cho sự nghiệp vĩ đại đó của dân tộc; đồng thời,
kiên quyết đấu tranh bài trừ chủ nghĩa cá nhân ra khỏi đời sống xã hội. Chủ nghĩa cá nhân
là một trong những cản trở lớn trên con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán những thói hư, tật xấu mà chế độ cũ để lại như lười
biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Người nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cá nhân
là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”. Đó là bệnh
tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc
lãnh tụ và những bệnh khác. Trong tác phẩm "Đạo đức cách mạng", Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng, tiến lên chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ và có những kẻ địch
chống lại cuộc cách mạng đó. “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó
ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo
nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài”. Một loại kẻ địch khác là chủ nghĩa cá
nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, sinh trưởng trong xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang
trong mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, về thói quen. “Vết
tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân trái
ngược với đạo đức cách mạng, nếu nó còn lại trong mình, dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để
phát triển, để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự
nghiệp cách mạng”. “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ
dành người ta đi xuống dốc. Mà ai cũng biết rằng xuống dốc thì dễ hơn lên dốc. Vì thế mà
càng nguy hiểm”. Chủ nghĩa cá nhân là sản phẩm của chế độ xã hội cũ mà ở Việt Nam đó
là chế độ phong kiến và chế độ thực dân. Các chế độ đó dựa trên nền tảng kinh tế là sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất, là kinh tế cá thể, tư nhân và một phần kinh tế tư bản. Chế độ
kinh tế đó hướng tới lợi ích vật chất của cá nhân, gia đình hoặc một nhóm, tập đoàn nào đó
vì vậy nó nuôi dưỡng và phát triển lợi ích kinh tế của mỗi cá nhân và phát triển chủ nghĩa
cá nhân. Về tư tưởng chính trị, các chế độ xã hội đó đề cao cái tôi, vai trò cá nhân dẫn đến
chuyên chế, không có dân chủ thật sự. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ điều đó. Với hệ tư tưởng và chế độ chính trị như thế tất yếu dẫn đến những
người cầm quyền chỉ lo cho lợi ích cá nhân, gia đình, dòng họ và thực thi chính sách bóc
lột tàn bạo về kinh tế, không có dân chủ, thậm chí độc đoán, chuyên quyền về chính trị.
Ảnh hưởng đó của chế độ cũ là rất nặng nề và khắc phục nó là rất khó khăn. Thực tế đó lOMoAR cPSD| 45469857
cũng cắt nghĩa vì sao bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội nghĩa là xây dựng xã hội mới,
việc đấu tranh để thoát khỏi những ảnh hưởng xấu, nhất là chủ nghĩa cá nhân lại vô cùng
khó khăn và lâu dài. Chủ nghĩa xã hội là chế độ triệt để giải phóng con người khỏi áp bức,
bóc lột, bất công, khỏi mọi sự tha hóa và xây dựng nền dân chủ thật sự của số đông, sự
công bằng, văn minh vì lợi ích chân chính của mọi người, của cộng đồng. Vì thế, chủ
nghĩa cá nhân là xa lạ đối với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chủ
nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên, thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về tư tưởng xã hội chủ nghĩa: “Tư tưởng xã hội chủ nghĩa
là phải vì tất cả mọi người trong xã hội mà làm việc mà phục vụ, bởi vì xã hội đã nuôi dạy
mình. Thế là mình vì mọi người, mọi người vì mình. Toàn tâm, toàn ý phục vụ chủ nghĩa xã hội”.
“Mình vì mọi người” ý chỉ cá nhân cần đề cao trách nhiệm của mình đối với cộng
đồng, phải biết đề cao lợi ích cộng đồng, đặt lợi ích tập thể nên trên lợi ích cá nhân. Còn
“mọi người vì mình” được hiểu vai trò của cá nhân trong việc hình thành nên tập thể, mọi
người trân trọng đóng góp của cá nhân trong tập thể, quan tâm đến đời sống của cá nhân ,
không bỏ mặc cá nhân khi cá nhân đó thực sự cần sự giúp đỡ của tập thể. Do đó, nghĩa của
cả câu có thể hiểu là đề cao mối quan hệ hai chiều giữa cá nhân và tập thể. Cá nhân cống
hiến cho tập thể thì tập thể cũng cần có trách nhiệm với mỗi cá nhân. Đó chính là biểu hiện
của tinh thần yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Con người không thể tồn tại một
mình trong xã hội được, cần phải hòa nhập vào trong cộng đồng và cùng phát triển với sự
phát triển của cộng đồng. Đoàn kết chính là cách tốt nhất để con người tạo nên sức mạnh
tập thể. Nhờ có sự đoàn kết, chung sức đồng lòng mà con người biết cống hiến nhiều hơn,
biết quan tâm và giúp đỡ nhau hơn trong cuộc sống. Tinh thần, ý thức trách nhiệm cá nhân
cũng vì thế mà được nâng cao, con người không sống ích kỉ, vì mình mà biết sống vì những người xung quanh.
Nhưng trong trường hợp này, câu nói “mình vì mọi người, mọi người vì mình” không
mang hàm ý đổi chác, có qua, có lại mà là để nói rằng xã hội, đất nước đã nuôi dạy từng cá
nhân nên mỗi cá nhân phải có trách nhiệm đóng góp cho xã hội, đát nước. Hãy thử nghĩ
mà xem, khi bạn sinh ra: mọi người chẳng phải đã vì bạn trước tiên. Cha mẹ sinh ra bạn từ
bào thai, rồi bác sĩ theo dõi sức khỏe cho bạn, nhà nước tạo ra hệ thống giáo dục, chăm sóc
y tế, luật pháp bảo vệ trẻ em...chăm sóc bạn. Mọi người lớn trong xã hội lao động tạo ra
miếng ăn, vật chất, nhà cửa...cung cấp cho bạn, thậm trí vũ trụ đã quy định trái đất có một lOMoAR cPSD| 45469857
nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, oxy...thích hợp cho bạn sống. Cho nên mọi người đã vì bạn, trái
đất đã vì bạn trước tiên...cho suốt cuộc đời bạn. Vì bạn đã nợ moị người nhiều như vậy,
cho nên chỉ khi nào sống “mình vì mọi người” bạn mới tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống,
mình vì mọi người sẽ thành lẽ tự nhiên, thành chân lý, thành sứ mệnh , thành nhu cầu của bạn.
2.2. Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, đó là
phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. Vì vậy, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đề cập đến những phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, phản ánh
ngay từ cuốn sách Đường kách mệnh đến bản Di chúc cuối đời. Bác đã chỉ rõ: “Bọn phong
kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân
phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần , kiệm, liêm, chính
cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”.
“Cần” tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai. Muốn cho chữ Cần có nhiều kết
quả hơn, thì phải có kế hoạch rõ rang cho mọi công việc. Cần tức là lao động cần cù, siêng
năng; lao động cho có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực
cánh sinh, không lười biếng. Phải thấy rõ lao động là nghĩa vũ thiêng liêng, là nguồn sống,
nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
“Kiệm” là thế nào? Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Kiệm
tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của cảu dân, của nước, của
bản than mình; không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù. Tiết kiệm
không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi
có việc đáng làm, lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu
của, cũng vui long, Như thế mới đúng là Kiệm. Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau, như hai
chân của con người. Chỉ như thế mới có thể đóng góp xây dựng nước nhà.
Bên cạnh đó chúng ta cần tiếp bước truyền thống quê hương anh hùng, thực hiện lời
dạy của Bác Hồ “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
nước”. Thanh niên hôm nay phải ý thức được trọng trách và nghĩa vụ thiêng liêng, sẵn
sàng lên đường bảo vệ Tổ quốc. “Khi cần thanh niên có, khi khó có thanh niên”.
2.3.Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng. lOMoAR cPSD| 45469857
2.3.1. Có lòng yêu nước nồng nàn
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi đất nước đang đắm chìm trong đêm dài nô
lệ. Bởi vì tấm long yêu nước, thương dân, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ
quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Sức mạnh truyền thống yêu nước đã hun đúc
quyết tâm cứu nước, cứu dân và thôi thúc người bôn ba tìm đường giải phóng đất nước;
cũng chính là cơ sở dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu
nước trong thời đại mới: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào
khác là con đường cách mạng vô sản”. Sau này, trong bài viết Con đường dẫn tôi đến chủ
nghĩa Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước,
chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba". Từ
khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi từ biệt chúng ta trở về với thế giới người hiền,
Người luôn khát khao và phấn đấu cho mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và
giải phóng con người; xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân chủ và giàu
mạnh, nhân dân Việt Nam được ấm no, tự do và hạnh phúc. Cuộc đời cách mạng đầy gian
truân song rất đỗi vinh quang của người xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân và cũng vì
nước vì dân mà tận tâm, tận lực phấn đấu. Thấm nhuần sâu sắc rằng, lòng yêu nước là một
giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, được sinh dưỡng bởi những cư dân một nước
nông nghiệp luôn gắn bó, cố kết, đùm bọc, che chở và giúp đỡ lẫn nhau để chống lại thiên
tai, địch họa và cả dịch bệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: “Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi
Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ
cướp nước” và "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước". Trong tất cả những con
dân đất Việt đó, chỉ “trừ một bọn rất ít đại Việt gian, đồng bào ta ai cũng có lòng yêu nước”.
Lòng yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người dân Việt Nam chính là nền tảng, cơ
sở cho sự thống nhất trong khác biệt để Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập hợp lực lượng,
tạo thành sức mạnh tổng hợp của một dân tộc, đất không rộng, người không đông, tiềm lực
kinh tế, quân sự không lớn, song đã đoàn kết, đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu
tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ thực dân, đế quốc, giành độc lập, tự do; tiếp
tục tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì thế, khi nước nhà đã giành được
độc lập, song hiểm nguy từ nạn "giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm" vẫn đe dọa nền độc lOMoAR cPSD| 45469857
lập, tự do mà nhân dân ta đã giành được sau hơn 80 năm trời nô lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhấn mạnh rằng: “Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng
cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”; đồng
thời khơi dậy tinh thần yêu nước của mọi người dân, mọi giai tầng trong xã hội trong các
bức thư gửi cho các cụ phụ lão: “Xưa nay, những người yêu nước không vì tuổi già mà
chịu ngồi không” (Thư gửi các cụ phụ lão); cho các em nhỏ: “Các em phải thương yêu
nước ta” (Thư gửi thiếu nhi Việt Nam đêm Trung thu đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa); cho một Việt kiều: “Tôi vẫn nghe ông là người yêu nước thương nòi, vậy dịp
này rất thuận tiện cho ông tỏ lòng trung thành với Tổ quốc” (tháng 9/1945); cho các giám
mục và đồng bào công giáo Vinh, Hà Tĩnh, Quảng Bình: “Các vị là những người chân
chính yêu nước, đồng thời cũng là những chân chính tín đồ của đức Giêsu” và bao dung, vị
tha với những người trót lầm đường, lạc lối: “Ai cũng có lòng yêu nước, chẳng qua có lúc
vì lợi nhỏ mà quên nghĩa lớn. Nói lẽ phải họ tự nghe”... để quy tụ, tập hợp và phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở của lòng yêu nước chân chính, tiến
hành sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
2.3.2. Tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất quan trọng nhất của
đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Điều này được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân,
nhằm vào mối quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi giới hạn quốc gia dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí
Minh là tượng trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần nhuyễn với
chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng
lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết , thương yêu và đoàn kết giai cấp vô sanrtoanf
thế giới, với các dân tộc bị áp bức, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những
người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt
chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng
bá quyền. Bác Hồ nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, nhưng luôn luôn kêu
gọi tăng cường đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp đỡ đối
với các cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2.4.Phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương. lOMoAR cPSD| 45469857
2.4.1. Phương pháp làm việc khoa học
Một trong những phẩm chất quan trọng của người cán bộ, đảng viên là phải có phương
pháp, tác phong làm việc khoa học, trung thực, khách quan để hoàn thành tốt các nhiệm vụ
được giao, được quần chúng nhân dân tín nhiệm. Bởi vì, khi người cán bộ, đảng viên có tri
thức khoa học và kỹ thuật, có trình độ lý luận cách mạng, có năng lực công tác và luôn tâm
huyết với nghề nghiệp, nhưng nếu không có phương pháp, tác phong làm việc khoa học, xa
rời thực tiễn, ít chịu cập nhật những biến đổi của tình hình, thậm chí chuyên quyền, quan
liêu, độc đoán... thì khi thực hiện các nhiệm vụ thường gặp khó khăn, vướng mắc, chất
lượng và hiệu quả công việc sẽ không đạt được như mong muốn. Để khắc phục những biểu
hiện của phương pháp, tác phong làm việc thiếu tính khoa học, thiếu tính thực tiễn tồn tại ở
không ít cán bộ, đảng viên, là cần phải có những biện pháp cụ thể, mà Hồ Chí Minh gọi là
“cách lãnh đạo”. Đó là nghệ thuật công tác lãnh đạo, quản lý của người cán bộ, đảng viên,
được biểu hiện bằng phương pháp, tác phong làm việc khoa học, thiết thực, hiệu quả.
Người cán bộ, đảng viên không những vừa phải có đức, có tài, vừa “hồng” vừa “chuyên”,
nhưng đồng thời cũng phải có “cách lãnh đạo”. Phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện
trong mọi điều kiện, hoàn cảnh công tác để không ngừng hoàn thiện phương pháp, tác
phong làm việc khoa học, trung thực, khách quan, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, mỗi cán bộ, đảng viên cần ý thức đầy đủ về viêc học tậ p phong cách làm việ
c Hồ ̣ Chí Minh; xác định đây không chỉ là trách nhiêm của người đảng viên, mà còn là mộ
t giải ̣ pháp để hoàn thiên phong cách làm việ
c, nâng cao chất lượng công tác. Trước
hết, mỗi ̣ đảng viên cần tự nhìn nhân, đánh giá các phương pháp, tác phong làm việ c chưa
khoa học, ̣ chưa hiêu quả của bản thân. Trên cơ sở đó xác định phương hướng và các biệ n
pháp cụ thể ̣ để dần hình thành phong cách làm viêc mới.Cụ thể, mỗi đảng viên cần rèn
luyệ n phong ̣ cách làm viêc khoa học. Đối với các công việ c chuyên môn của phòng và các nhiệ
m vụ ̣ được cơ quan, công đoàn giao, cần có sự bố trí, sắp xếp khoa học về
trình tự ưu tiên, thời gian tiến hành, tránh để chồng chéo, bị đông. Trong công tác chuyên
môn, cần có sự đầu tự chuyên sâu với sự chính xác tối đa về kiến thức và đảm bảo thường xuyên câp nhậ
t văn ̣ bản mới, kiến thức thực tiễn mới. Viêc giải quyết các công việ
c, nhất là đối với công tác ̣ phối hợp và giải quyết các vấn đề phát sinh cần nắm rõ tình
hình, phân tích, đánh giá để lựa chọn phương án giải quyết tối ưu, làm được đến đâu báo
cáo đến đấy, không vì thành tích của cá nhân mình, gia đình mình, đơn vị mình mà báo cáo
sai sự thật, có nhược điểm, khuyết điểm phải nghiêm khắc tự phê bình và phê bình, có
phương hướng và biện pháp cụ thể, quyết tâm khắc phục, sửa chữa, không tìm mọi cách để lOMoAR cPSD| 45469857
ngụy biện, bao che, đổ lỗi cho khách quan, đổ lỗi cho người khác. Trong tình hình hiện
nay, việc đổi mới phong cách làm việc theo tư tưởng và tấm gương về phong cách làm việc
của Hồ Chí Minh đang là một vấn đề quan trọng và cấp thiết. Trước tiên, mỗi cán bộ, đảng
viên phải thấy rõ ý nghĩa tầm quan trọng và nội dung yêu cầu của học tập và làm theo
phong cách làm việc của Hồ Chi Minh. Từ đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tự mình
tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nắm vững
tri thức về con người, biết trao đổi, làm việc với từng đối tượng con người cụ thể một cách
thật sự dân chủ, văn hóa. Đồng thời, để hình thành phong cách làm việc khoa học yêu cầu
mỗi cán bộ đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, kiên
quyết chống chủ nghĩa cá nhân.
2.4.2. Phong cách quần chúng
Phong cách quần chúng trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện bằng phong cách sâu sát
quần chúng, vì lợi ích của quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng, lắng nghe ý kiến của
quần chúng, của những người chiến sĩ cộng sản suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên gần dân, thấu hiếu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và
bản thân Người luôn là tấm gương sáng về phong cách gần dân. Sự gần gũi đó được thể
hiện ngay từ phút đầu tiên người ra mắt quốc dân. Khi vừa đọc một đoạn Tuyên ngôn Độc
lập, Người đã dừng lại hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Chỉ là một câu hỏi thôi,
một câu hỏi bình dị, tự nhiên mà thực sự đã làm xúc động trái tim hàng chục triệu đồng
bào toàn quốc. Đó là một điển hình mẫu mực về mối quan hệ gần gũi, thân thiết hiếm có
giữa lãnh tụ với quần chúng, ngay ở những giây phút lịch sử trang trọng nhất. Hai là, Hồ
Chí Minh yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải đi đúng đường lối quần chúng, đồng thời
bản thân người nêu cao tấm gương về lòng yêu mến và tin tưởng rất mực vào khả năng và
sức mạnh của nhân dân. Bác nói: “Nước lấy dân làm gốc”, “Gốc có vững cây mới bền,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Bác thường xuyên căn dặn các tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên phải coi trọng mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, và phải thể hiện tinh thần
phụ trách trước nhân dân.
2.4.3. Phong cách dân chủ
Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tập thể, lắng nghe ý
kiến của tập thể, phát huy sức mạnh của tập thể, nhận trách nhiệm cá nhân và hoàn thành
tốt nhiệm vụ được tập thể giao phó và tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập lOMoAR cPSD| 45469857
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Trước hết, theo Hồ Chí Minh, mọi cán bộ, đảng viên phải
gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, đặt mình trong tập thể, lắng nghe ý kiến của tập thể.
Thứ hai, là phải mở rộng dân chủ để phát huy sức mạnh của tập thể. Người thường nói: Đề
ra công việc, đẻ ra nghị quyết, không khó, vấn đề là thực hiện nó. Ai thực hiện? - Tập thể,
quần chúng. Vì vậy, có dân chủ, bàn bạc tập thể mới cùng thông suốt, nhất trí, mới cùng
quyết tâm thực hiện, tránh được "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". Sở dĩ xảy ra mất đoàn
kết vì người đứng đầu ở nơi đó còn chuyên quyền, độc đoán, áp đặt chủ quan, trong hội
nghị thì mọi người miễn cưỡng đồng tình, sau hội nghị, nếu đã không thông thì sẽ không
quyết tâm thực hiện. Vì vậy, Người yêu cầu: "Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng
viên bày tỏ hết ý kiến của mình". "Có dân chủ thì mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra
sáng kiến"; "thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn".
Thứ ba, là nhận trách nhiệm cá nhân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được tập thể giao phó và
tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Là
người đứng đầu Đảng cầm quyền, đứng đầu Nhà nước, nhưng Hồ Chí Minh thường xuyên
có phong cách làm việc tập thể và dân chủ. Người giải thích: "Tập thể lãnh đạo là dân chủ.
Cá nhân phụ trách, tức là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung".
2.4.4. Phong cách nêu gương
Theo Hồ Chí Minh, nêu gương thì trước hết phải làm gương trong mọi công việc từ nhỏ
đến lớn, thể hiện thường xuyên, về mọi mặt, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư,
nói phải đi đôi với làm. Trước hết, cần nêu gương trên ba mối quan hệ đối với mình, đối
với người, đối với công việc. Đối với mình phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo mà
luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản
thân, phải tự phê bình mình như rửa mặt hàng ngày; đối với người, luôn giữ thái độ chân
thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng; đối với
việc, dù trong hoàn cảnh nào phải giữ nguyên tắc "dĩ công vi thượng" (để việc công lên
trên, lên trước việc tư). Để giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả cao, người chủ trương:
"Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt
nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc
sống mới". Trong gia đình, cha mẹ có thể là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương
đối với các em; trong nhà trường, thầy giáo, cô giáo là tấm gương cho học trò; trong cơ
quan, tổ chức thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương lOMoAR cPSD| 45469857
cho người khác. Trong cuộc sống hàng ngày, người cán bộ, đảng viên chẳng những phải có
trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành con người có đời tư trong sáng, mà còn phải là
tấm gương giúp nhân dân nhìn vào đó làm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.
3. Phương pháp xây dựng và phát triển con người
Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ chế, tính
khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu,
có ý nghĩa rất quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói đến “tu thân, chính tâm” thì
mới có thể “trị quốc, bình thiên hạ”. Văn hóa phương Đông cho thấy một tấm gương sống
có giá trị hơn một trăm bài diễn văn và “tiên trách kỷ. hậu trách nhân”. Bác thường nhắc
lại những điều ấy trong khi bàn biện pháp xây dựng con người. Người nói rằng “lấy gương
tốt, việc tốt hàng ngày để giáo dục lẫn nhau” là rất cần thiết và bổ ích.
Biện pháp giáo dục có một vị trí quan trọng. Hồ Chí Minh nhắc nhở rằng “hiền, giữ của
con người không phải tính sẵn. Phần nhiều là do giáo dục mà nên”. Theo người, các cháu
mẫu giáo, tiểu học như tờ giấy trắng. Chúng ta vẽ xanh thì xanh, vẽ đỏ thì đỏ”. Nói như
vậy để thấy giáo dục rất quan trọng trong việc xây dựng con người.
Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng. Thông qua các
phong trào cách mạng như “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt”. Đặc biệt phải dựa
vào quần chúng theo quan điểm “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ CỦA QUAN ĐIỂM ĐỐI VỚI VIỆC
XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC TA HIỆN NAY
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả của sự kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại; là sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; không chỉ giải quyết
vấn đề thuộc về tư duy lý luận mà cao hơn, đó là tư duy hành động. Trong khi tập trung
giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã góp phần phát lOMoAR cPSD| 45469857
triển chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với xu thế khách quan của thời đại, đặc biệt là lý luận
về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng lý luận và định hướng để Đảng Cộng sản Việt
Nam xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn, tổ chức lực lượng và lãnh đạo nhân dân
Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sáng lập nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc và những thành tựu quan trọng về mọi mặt trong hơn 30 năm đổi mới và hội nhập
quốc tế. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn, quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trên hành trình kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Việt Nam có những thuận lợi khi hội nhập quốc tế một cách sâu rộng, đó là có nền
chính trị ổn định, con người Việt Nam đang khát khao cống hiến phát triển đất nước,
nhưng cũng đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức, như ở một số nơi, môi trường sinh
thái bị ô nhiễm, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, an sinh xã hội và sức khỏe cộng
đồng chưa được cải thiện như mong muốn, khoảng cách và sự phân hóa giàu nghèo gia
tăng, tệ nạn xã hội, tội phạm xã hội phức tạp hơn.
Bối cảnh thế giới có những bất ổn và sự cạnh tranh giữa các quốc gia, dân tộc để phát
triển ngày càng trở nên gay gắt. Trong khi đó, đạo đức xã hội ở nhiều nơi đang có xu
hướng suy giảm, thể hiện qua hành vi ứng xử thường ngày. Điều này càng cho thấy để đưa
đất nước phát triển nhanh và bền vững trên con đường xã hội chủ nghĩa thì không có gì
hơn là xây dựng đất nước dựa trên phát triển con người. Những con người có đủ phẩm chất
và năng lực, phải là những người bằng bàn tay khối óc của chính mình xây dựng đất nước,
đưa dân tộc ta phát triển trong xu thế hội nhập toàn cầu.
Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất vận hội, thời cơ
đang đến với đất nước. Nếu không nhanh chóng khắc phục được yếu kém này, chúng ta sẽ
phải đối diện với những nguy cơ, những thách thức mới, sẽ kéo theo sự tụt hậu của đất
nước. Nếu không giải quyết được bài toán nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời
gian tới, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng chất lượng nguồn nhân lực, lOMoAR cPSD| 45469857
mà hệ quả của nó là sụt giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế; khó thoát khỏi “bẫy thu nhập
trung bình”; đánh mất cơ hội tham gia thị trường lao động quốc tế.
2. Kế thừa và phát huy giá trị quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ông cha ta thường căn dặn: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. C. Mác cho rằng,
con người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất. Nhà tương lai học người Mỹ, Alvin
Toffler nhấn mạnh vai trò của lao động trí thức: “Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi
sẽ mất; chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn
lên”. Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật,
khoa học - công nghệ,... có mối quan hệ nhân - quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân
lực được xem là năng lực nội sinh chi phối các nguồn lực khác và quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng
đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật là không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác
và sử dụng hợp lý; còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố hữu hạn và
chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Nguồn
nhân lực là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực
khác; trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao quyết định quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Thực tế chứng minh rằng, một quốc gia có thể
không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không mấy thuận lợi, nhưng kinh tế có thể
tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng
đắn, biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó; với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý,
đội ngũ trí thức xứng tầm; lực lượng công nhân kỹ thuật tay nghề cao, đông đảo và có các doanh nhân tài ba.
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới, quan
điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng ta là đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát
triển, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Quan điểm
này của Đảng và Nhà nước ta là sự vận dụng tổng hợp các quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”. Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn dặn: “Đầu tiên là công
việc đối với con người”; “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan
trọng và rất cần thiết. lOMoAR cPSD| 45469857
Đại hội XI (năm 2011), Đảng nhấn mạnh quan điểm: “Phát triển, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết
định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”, “là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết
định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững”. Những quan điểm này đánh dấu sự chuyển hướng từ nhận
thức có tính chất lý luận về vị trí, vai trò của nhân tố con người và nguồn nhân lực đến coi
phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong 3 khâu đột phá
của chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ 2011 - 2020. Đại hội XII của Đảng tiếp tục
khẳng định vai trò quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao, thông qua quan điểm:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công
nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu...”Đại hội XII của
Đảng cũng đưa ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực trong thời gian tới,
đòi hỏi cần phải: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng
ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào
tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất, kinh
doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành”.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp nhân dân ta đang thực hiện, diễn ra trên
mọi mặt của đời sống và sản xuất. Sự nghiệp này được thực hiện bằng chính nguồn lực con
người. Đó là những con người có tri thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ, về quản lý và
dịch vụ. Để phát triển, con người phải được trang bị vững chắc về học vấn nền tảng, đào
tạo con người có trình độ tay nghề, nắm vững công nghệ, khoa học, kĩ thuật trong sản xuất,
hình thành phong cách lao động công nghiệp, lao động sáng tạo. Sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi người lao động phát triển cả đạo đức và nhân cách. Đó
là đạo đức trung thực, đạo đức trong hành động, tự giác trong lao động. Biểu hiện của đạo
đức cách mạng là sự thống nhất giữa lời nói với việc làm, giữa nhận thức và hành động,
giữa động cơ và hiệu quả. Đạo đức đó đáp ứng được chuẩn mực đạo đức của xã hội mới, là
điều kiện cơ bản để thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước hướng tới mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. lOMoAR cPSD| 45469857
3. Một số thành tựu đạt được
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Đảng ta luôn coi con người là vốn quý nhất, là mục tiêu, là động lực của cuộc
cách mạng. Sau hơn 30 năm đổi mới, nước ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao hơn trước, thể hiện rõ nét nhất ở năng
suất lao động của toàn xã hội được nâng cao, tạo tốc độ tăng trưởng khá và nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế, tiềm lực quốc gia.
Từ khi Nghị quyết 33 ra đời, Đảng ta đã ban hành một số văn bản góp phần cụ thể hóa
chủ trương xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững. Hệ thống chính trị và các tầng lớp xã hội đã chủ động hơn trong việc giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan khoa học,
cách mạng, nhân văn, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Các
cơ quan Trung ương và địa phương đã khẩn trương triển khai tuyên truyền, ban hành các
văn bản chỉ đạo, quản lý theo chức năng, nhiệm vụ được giao, tạo cơ sở pháp lý và điều
kiện để các tổ chức trong xã hội tập trung trí tuệ, công sức xây dựng con người. Nhận thức
về quan điểm, nhiệm vụ xây dựng con người phát triển toàn diện trong Đảng và các tầng
lớp nhân dân ngày một rõ ràng, cụ thể hơn. Vai trò của con người ngày càng thể hiện và tác
động lớn trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Bước đầu tạo được sự gắn kết phát triển
văn hóa với xây dựng con người, lấy việc chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối
sống tốt đẹp làm trọng tâm.
Tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính tích cực xã hội của nhân dân được phát
huy. Dân chủ xã hội được mở rộng cùng với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng và tiếp
cận với các phương tiện truyền thông mới đã làm cho con người Việt Nam luôn đổi mới tư
duy, năng động, sáng tạo hơn, có nhiều cơ hội tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Các giá
trị đạo đức truyền thống được giữ gìn, phát huy và thay đổi theo hướng phù hợp với nền
kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Hình thành nếp sống văn minh, tác phong công
nghiệp, tính chuyên nghiệp, thiết thực, hiệu quả, đề cao, tôn trọng con người; quan tâm
nâng cao trí tuệ, cải thiện chất lượng sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam. Theo Tổng
điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019, tuổi thọ trung bình con người Việt Nam năm 2019 là
73,6 tuổi. Từ 1990 đến 2018, tổng thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên 354,5%. Năm
2019, tổng thu nhập bình quân đầu người gần 2.800 USD. Việt Nam nằm trong nhóm các
nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số phát triển con người (HDI) cao nhất trên thế giới, với
tăng trưởng trung bình HDI ở mức 1,36% trong suốt giai đoạn 1990 - 2018. Đây là thành lOMoAR cPSD| 45469857
tựu rất đáng để Việt Nam tự hào về xây dựng con người. HDI của Việt Nam năm 2019 là
0,63, xếp thứ 118/189 quốc gia và vùng lãnh thổ về chỉ số này và chỉ cần thêm 0,007 điểm
để vào được nhóm các nước có HDI ở mức cao.
Phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” được triển khai
thực hiện rộng khắp trên các địa bàn từ thành thị đến nông thôn. Năm 2018, số người tập
luyện thể dục thể thao thường xuyên trên toàn quốc đạt 32,35%; số gia đình tập luyện thể
thao thường xuyên đạt 23,41% tổng số hộ. Thể lực, tầm vóc con người Việt Nam được cải
thiện, ý thức bảo vệ môi trường sống được nâng lên.
Công tác phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, suy thoái tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong nội bộ cán bộ, đảng viên, nhân dân có chuyển biến, góp phần xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo môi trường văn hóa, xã hội lành mạnh,
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn của cán bộ, đảng
viên, nhân dân; tạo niềm tin của nhân dân đối với chế độ. KẾT LUẬN
Phát triển con người toàn diện là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng
Hồ Chí Minh. Sinh thời, Bác luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng, đào tạo,
bồi dưỡng con người mới, con người xã hội chủ nghĩa hay con người phát triển toàn diện.
Mục đích cao cả trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người toàn diện là sự kế thừa, phát triển sáng tạo những giá trị trong tư tưởng về con người
và phát triển con người từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Xuất phát từ yêu
cầu của lịch sử, dựa trên những tiền đề tư tưởng lý luận, Hồ Chí Minh đã phát triển, vận
dụng linh hoạt vào điều kiện cụ thể đất nước, xây dựng nên hệ thống tư tưởng riêng của mình.
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và
trong xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực,
đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định. Kế thừa
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, coi đó là nền tảng lý luận và định hướng, Đảng đã đặt
con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển, coi con người vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển đất nước. Nhờ đó, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu
nhất định trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. lOMoAR cPSD| 45469857
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh 2. Hồ Chí Minh toàn tập
3. Tạp chí của ban Tuyên giáo trung ương 4. Tạp chí cộng sản
5. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng – 11/02/1951
6. Cổng Thông tin điện tử Bộ Thông tin và Truyền thông