Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Vận dụng quan điểm này trong việc lập dự án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay | Bài tập lớn môn triết học mác - lênin

Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Vận dụng quan điểm này trong việc lập dự án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN
BÀI TẬP LỚN
Môn: Triết học Mác – Lênin
Đề 2:
Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ
hiện nay.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Lê Thư
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
Mã SV: 11214320
Lớp: THMLN_13
lOMoARcPSD| 23022540
2
Hà Nội – 2022
Mục lục
A. Mở đầu B. Nội dung
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.1. Vật chất
1.2. Ý thức
1.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận
2. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc lập dự
án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay
2.1. Sự cần thiết nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt
Nam hiện nay
2.2. Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để lập kế
hoạch cho dự án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện
nay
C. Kết luận D. Tài liệu tham khảo
Mở đầu
Sự xuất hiện của triết học Mác Lênin chính một cuộc cách mạng đại trong
lịch sử triết học. Đây kết quả tất yếu để đáp ứng yêu cầu lịch sử phát triển của tưởng
triết học khoa học nhân loại. Trong thời đại ngày nay, Triết học Mác – Lênin được coi
một trong những thành tựu đại nất của tưởng triết học nhân loại, là hình thức phát triển
lOMoARcPSD| 23022540
cao nhất trong của các hình thức triết học trong lịch sử. Triết học Mác Lê nin là hệ thống
quan điểm duy vật biện chứng về cả tự nhiên, hội duy, sự thống nhất hữu giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong triết học Mác nin đề cập đến quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về vật chất, ý thức mối quan hệ giữa vật chất ý thức. Đây “Vấn đề bản
của mọi triết học, đặc biệt của triết hoc hiện đại” (C.Mác Ph. Ăngghen, 1995, Toàn
tập, t.21, Sđd, tr.403). Trong Triết học Mác Lê nin, ta thấy rằng vật chất và ý thức tồn tại
trong mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn,
trong mối quan hệ đó thì vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức. Từ những bài học
có tính chất phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, em thấy nó rất
quan trọng và có mối liên hệ đến thực tiễn đời sống. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, giới
trẻ ít nhiều đã không còn tha thiết đến những trang lịch sử vẻ vang hào hùng của dân tộc.
Qua đây cũng sở để em lựa chọn đề tài: “Phân tích quan điểm của triết học Mác -
Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất ý thức. Vận dụng quan điểm này trong
việc lập dự án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay.’
Nội dung
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.1. Vật chất
1.1.1. Định nghĩa
Vất chất là một phạm trù nền tảng của chủ nghĩa duy vật triết học. Đây là một phạm
trù triết học phức tạp và có nhiều khái niệm khác nhau.
Theo Ph.Ăngghen: Để có một quan niệm đúng đắn về vật chất, cần phải có sự phân
biệt ràng giữa vật chất với tính cách một phạm trù triết học, một sáng tạo, một công
trình trí óc của tư duy con người trong quá trình phản ánh hiện thực chứ không phải là sản
phẩm chủ quan của tư duy. Các sự vật, hiện tượng của thế giới dù rất phong phú, muôn vẻ
nhưng chúng vẫn một đặc tính chung, thống nhất đó tính vật chất - tính tồn tại, độc
lập không lệ thuộc vào ý thức
lOMoARcPSD| 23022540
4
Kế thừa tưởng của Ph.Ăngghen, Lênin đã tiến hành tổng kết toàn diện những
thành tựu mới nhất của khoa học, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi,
duy tâm. Ông đã tìm kiếm phương pháp định nghĩa mới cho phạm tvật chất thông qua
đối lập với phạm trù ý thức.
Theo V.I.Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Đây một định nghĩa hoàn chỉnh về
vật chất cho đến bay vẫn được các nhà khoa học hiện đại coi một định nghĩa kinh
điển. Định nghĩa vật chất của Lê nin bao hàm các nội dung cơ bản sau:
1 Thứ nhất, vật chất thực tại tồn tại khách quan, cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý
thức và không phụ thuộc vào ý thức.
2 Thứ hai, vật chất cái khi tác động vào giác quan con người khi bằng cách
nào đó thì sẽ đem lại cho con người cảm giác.
3 Thứ ba, ý thức của con người sự phản ảnh đối với vật chất, còn vật chất cái
được ý thức phản ảnh.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã góp phần đưa chủ nghĩa duy vật lên tầm cao mới,
làm cơ sở khoa học xây dựng quan điểm duy vật biện chứng trong lĩnh vực xã hội. Đồng
thời, góp phần khắc phục sự khủng hoảng về mặt thế giới quan trong đội ngũ các nhà triết
học và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ. Qua đó, tạo tiền đề để họ tiếp tục đi sâu nghiên cứu
vật chất, khám phá ra ngày càng nhiều thuộc tính, kết cấu mới của vật chất, không ngừng
làm phong phú thêm tri thức nhân loại.
1.1.2. Phương thức, hình thức vận động của vật chất
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất
bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị
trí đơn giản cho đến tư duy. Vất chất và vận động không tách rời nhau, vật chất chỉ có thể
tồn tại bằng vận động và thông qua vận động để biểu hiện.
Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Không có vật chất nào tồn
tại ngoài không gian và thời gian cũng như không không gian, thời gian nào tồn tại ngoài
vật chất (không gian 3 chiều và thời gian 1 chiều)
lOMoARcPSD| 23022540
1.2. Ý thức
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên: theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là
một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính
của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người. Ý thức không tự sinh ra
trong bộ óc mà là kết quả phản ánh sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não con
người.
Nguồn gốc hội: Hoạt động thực tiễn hay lao động của con người chính nguồn
gốc trực tiếp quyết định sự ra đời của ý thức. Trong khi đó, ngôn ngữ - tín hiệu vật chất
mang nội dung ý thức yếu tố quyết định sự hình thành của ý thức. Từ đó, ta thấy ý thức
là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
1.2.2. Bản chất của ý thức
Theo Mác “Ý thức là cái vật chất được di chuyển vào trong đầu óc của con người và
được cải biến đi trong đó” còn theo nin “Ý thức hình ảnh chủ quan về thế giới khách
quan”
Từ đó, ta thấy bản chất của ý thứcsự phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc
con người một cách năng động, sáng tạo. Đặc tính tích cực, sáng tạo của ý thức gắn bó chặt
chẽ với thực tiễn hội. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện trước hết khả năng phản ánh
chọn lọc của nó. Xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn, của đời sống xã hội nói chung, sự phản
ánh của ý thức bao giờ cũng tập trung vào những cái cơ bản chính yếu tùy theo nhu cầu của
chủ thể phản ánh. Ý thức có thể dự đoán, đoán trước được tương lai, có thể tạo ra những ảo
tưởng, hoang đường, những thuyết khoa học thuyết rất trừu ợng tính khái
quát cao
1.2.3. Kết cấu
Có hai cách tìm hiểu kết cấu của ý thức. Trước hết, chia theo cấp độ ta có ba cấp độ:
tự ý thức, tiềm thức, thức. Cách thứ hai phân theo các lớp tạo thành ý thức: tri thức,tình
cảm, ý chí. Trong đó, tri thức là phương thức tồn tại quyết định của ý thức.
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ vật chất ý thức “Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt của
triết học hiện đại” (C. Mác và Ph. Ăngghen, 1995, Toàn tập, t.21, Sđd, tr.403).
lOMoARcPSD| 23022540
6
Dựa theo những kiến thức của phép duy vật biện chứng luôn quan sát, theo kịp
những thành tựu khoa học mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lê nin đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của chủ nghĩa duy tâm, siêu hình.
Theo quan điểm của triết học Mác – Lê nin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
1.3.1. Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
Vật chất thì “sinh ra” ý thức, vì ý thức xuất hiện đã gắn liền với sự xuất hiện của
con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người thì chính là kết quả của một quá
trình phát triển, tiến hóa lâu dài và phức tạp của, của thế giới vật chất, thế giới tự nhiên.
Con người do giới tự nhiên vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc
tính của bộ phận con người - cũng do giới tự nhiên vật chất sinh ra. Những thành tựu
của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người;
vật chất là cái có trước, còn ý thức là cái có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý
thức và vật chất nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người chính là một dạng vật chất có t
chức cao nhất, đồng thời quan phản ánh để hình thành ý thức. Sự tồn tại của ý thức
phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách
quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cải vật chất có tư
duy là bộ óc người.
Thứ hai, vật chất quyết định đến nội dung của ý thức.
Cho dù “ý thức” dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực
khách quan. Ý thức trong nội dung của chẳng qua kết qucủa sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong đầu óc của con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện thực
vận động phát triển theo các quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức thì
mới nội dung của ý thức. Thế giới khách quan, trước hết chủ yếu chính hoạt
động thực tiễn mang tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý
thức phản ánh. Ý thức được coi chỉ hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của
hoạt động thực tiễn cả bề rộng lẫn chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định đến tính
phong phú, độ sâu sắc của nội dung của tư duy và ý thức con người qua các thời đại.
lOMoARcPSD| 23022540
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Ta thấy phản ánh ng tạo hai thuộc nh không tách rời nhau trong bản chất
của ý thức. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là ”chụp ảnh”, “soi gương” hoặc
“phản ánh tâm lý” như con vật chính phản ánh, tự giác, sáng tạo, tích cực thông
qua thực tiễn khách quan. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chấtđây
thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất mang tính
cải biến thế giới của con người cũng là cơ sở để hình thành và phát triển ý thức, trong đó
ý thức của con người vừa sáng tạo, vừa phản ánh, sáng tạo trong phản ánh phản ánh để
sáng tạo.
Thứ tư, vật chất quyết định đến sự vận động và phát triển của ý thức.
Như chúng ta thấy mọi sự tồn tại phát triển của ý thức thì đều gắn liền với quá
trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn thì ý thức cũng phải thay
đổi theo.
Vật chất ý thức hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất nhưng về mặt nhận
thức luận trong tưởng triết học của V.I.Lê nin ta thấy rằng Sự đối lập giữa vật chất
ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế; trong trường hợp này
chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận bản thừa nhận cái trước cái
sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ nữa rằng sự đối lập đó ơng đối”
(V.I.Lênin,1980, Toàn tập, t.18, Sđd, tr.173). Do vậy, trong triết học Mác – Lênin ý thức có
tính độc lập và tác động trở lại vật chất.
1.3.1. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, ý thức tác động trở lại thế giới vật chất, thường thay đổi chậm so với sự
biến đổi của thế giới vật chất. Tính độc lập ơng đối của ý thức thể hiện chỗ, ý thức
sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã
ra đời thì ý thức quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc
vào vật chất. “Ý thức” một khi ra đời thì nó có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế
giới vật chất. “Ý thức” thì có thể thay đổi nhanh, chậm, hoặc đi song hành so với hiện thực,
nhưng nhìn chung thì chúng ta thấy ý thức thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế
giới vật chất.
lOMoARcPSD| 23022540
8
Thứ hai, Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Nhờ vào hoạt động thực tiễn ý thức thể làm biến đổi các điều kiện,
hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra thiên nhiên thứ hai phục vụ cho cuộc sống của
chính con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện thực. Con người
dựa trên nền tảng những tri thức về thế giới khách quan, có sự hiểu biết về những quy luật
khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp ý chí quyết tâm để góp phần
thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt ý thức tiến bộ, cách mạng một khi
thâm nhập vào quần chúng nhân dân – đây là lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to
lớn. khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của khí,
lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở
thành lực lượng vật chất, một khi thâm nhập vào quần chúng[Trích từ “C.Mác
Ph.Ăngghen(1995), Toàn tập, t.1, Sđd, tr.580”].
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện chỗ chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người. Ý thức có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công
hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực thì ý thức có thể dự báo hay tiên đoán một cách
chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên các luận định hướng đúng đắn các
luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng
sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động
tiêu cực khi nó phản ánh sai lệch, xuyên tạc hiện thực.
Thứ , hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất trong
thời đại ngày nay. Cụ thể là thời đại thông tin, kinh tế tri thức; thời đại của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại, khi tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học, của tư tưởng chính trị,
tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận
Trước hết, từ vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, cần rút ra quan điểm
khách quan. Quan điểm khách quan hay nguyên tắc khách quan nguyên tắc quan trọng
hàng đầu trong nhận thức và hoạt động của con người. Quan điểm khách quan yêu cầu: Thứ
nhất, khi xem xét, nhận thức sự vật phải xuất phát từ chính sự vật, phải phản ánh sự vật
lOMoARcPSD| 23022540
trung thành như nó vốn có, phải tôn trọng sự thật, không được lấy ý chỉ chủ quan áp đặt
cho sự vật. Những yêu cầu này không phức tạp, không khó thực hiện nhưng trong thực tế
nó lại rất hay bị con người vi phạmnhững mức độ khác nhau, do đó mà không đạt được
những nhận thức đúng dẫn về sự vật hoặc không có được những chủ trương hoạt động thực
tiễn phù hợp.
Thứ hai, trong nhận thức hoạt động thực tiễn phải phát từ thực tế, tôn trọng
hành động theo quy luật khách quan. Mọi mục đích hành động, kế hoạch, chủ trương, biện
pháp hành động của con người phải dựa trên việc phân tích cặn kẽ, thấu đáo hoàn cảnh thực
tế khách quan, các chủ trương chính sách của con người phải phản ánh được những nhu cầu
đã chín muồi của điều kiện thực tế, như vậy những chủ trương, chính sách mới thể
thực hiện thành công. Mặt khác, các quy luật tự nhiên, hội, duy tồn tại khách quan,
không phụ thuộc vào ý thức, thực tế chứng tỏ rằng nếu làm trái quy luật, con người sẽ phải
hứng chịu những hậu quả. Do đó, phải nhận thức các quy luật, hành động phù hợp với quy
luật. Kế đến phát huy tinh năng động chủ quan của ý thức: Ý thức, tưởng, với tính
năng động sáng tạo của nó có vai trò to lớn do đó cần phát huy yếu tố tích cực của ý thức,
cũng có nghĩa là phát huy vai trò của nhân tố con người trong hoạt động cải tạo hiện thực.
Cần nâng cao không ngừng khả năng nhận thức và vận dụng quy luật của con người. Muốn
vậy đòi hỏi con người phải tích cực học tập làm chủ các tri thức khoa học, vận dụng các tri
thức trong hoạt động thực tiễn của mình. Cần tự giác rèn luyện nhân sinh quan cách mạng,
tiến bộ để góp phần thúc đẩy sự phát triển theo hướng tích cực, tiến bộ của xã hội.
Cuối ng khắc phục bệnh trì trệ, thụ động, chủ quan duy ý chí: Trong sự vận
động đa dạng của hội, xuất hiện những xu ớng cần khắc phục và loại trừ. Xu ớng
thứ nhất là xu hướng bảo thủ, trì trệ, thụ động, lại, trông cho sự biến đổi của hiện
thực, không tích cực và tự giác biến đổi hiện thực ấy. Xu hướng thứ hai xu hướng chủ
quan duy ý chí, không căn cứ vào thực tế khách quan để hành động mà lại lấy ý muốn chủ
quan, lấy tình cảm, nguyện vọng nhân làm điểm xuất phát cho chủ trương, chính sách.
Cả hai xu hướng này xét về bản chất, đều chủ nghĩa duy tâm trong nhận thức hành
động, đều cản trở sự vận động của hiện thực và đều cần khắc phục trong hoạt động của con
người
lOMoARcPSD| 23022540
10
2. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc lập dự án nâng cao nhận
thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay
Theo quan điểm triết học của Mác – Lê nin ta thấy được “vật chất và ý thức có mối
quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở
lại vật chất”. Trong đó vật chất quyết định tới hầu hết các khía cạnh của ý thức, từ nguồn
gốc, nội dung, bản chất và cả sự vận động phát triển của ý thức. Có vật chất mới hình thành
nên được ý thức nhưng ý thức lại không phụ thuộc hoàn toàn vào vật chất. có tính độc
lập tương đối tác động trở lại vật chất. Trong một số phạm vi giới hạn nhất định, ý
thức còn quyết định vật chất nhưng xét đến cùng vật chất vẫn quyết định ý thức.
Vì những điều đó, để lập dự án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam
hiện nay ta cần phải quan tâm tới thế giới khách quan trước. Vì thế giới khách quan sẽ
vai trò quyết định đối với thế giới chủ quan hay chính nhận thức của giới trẻ về lịch sử
hiện nay
2.1. Sự cần thiết nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay
Xã hội không ngừng phát triển, đi liền với nó là sự bùng nổ của các nguồn thông tin,
cơn bão của các trào lưu, các trend mà mạng xã hội đem lại đã làm cho giới trẻ bị cuốn vào
cơn xoáy khó thoát ra được. Chính điều này đã làm cho giới trẻ chú tâm vào thực tại
quên đi lịch sử nước nhà. Trong khi đó, lịch sử của một dân tộc nguồn gốc của sự phát
triển qua nhiều thế hệ từ sơ khai đến hiện đại, tạo nên cho con người lòng tự tôn, ý thức bảo
vệ dân tộc, tiếp nối những truyền thống xây dựng đất nước. Do vậy, trong những năm gần
đây công tác giáo dục lịch sử luôn được nước ta quan tâm chú trọng nhưng đáp lại đó
đôi lúc lại là sự thờ ơ chán ghét của giới trẻ. Với tâm lý chạy theo số đông, bộ môn lịch sử
đã không còn sự lựa chọn của nhiều bạn trliền kề với đó sự thiếu kiến thức lịch
sử nghiêm trọng của một bộ phận giới trẻ đặc biệt là thế hệ học sinh, sinh viên những người
chủ đất nước sau này.
Ta thấy xót xa khi nghe câu trả lời Quan Trung, Nguyễn Huệ hai anh chị em hay
Nguyễn Huệ với Nguyễn Trãi một người. Nhiều bạn trẻ còn không thể trả lời được những
câu hỏi khá dễ về lịch sửớc ndụ như “nhà nước đầu tiên của Việt Nam tên gọi
gì?” mà lại hiểu biết rất rõ về những ngôi sao, idol giới trẻ hiện đại. Điểm trung bình môn
lOMoARcPSD| 23022540
lịch sử trong cuộc thi THPT cũng phản ánh phần nào những lỗ hổng lớn về kiến thức lịch
sử dân tộc của các bạn trẻ. Các bạn ấy cho rằng “ Tôi không quan tâm vì lịch sử không liên
quan đến nganhf học, khi nào việc cần tôi sẽ tìm hiểu”. Hiện nay, ngoài kiến thức nền
tảng được trang bị trường phổ thông, lên đại học đối với những sinh viên không thuộc
chuyên ngành hội và nhân văn việc tiếp nhận lịch sử cũng được truyền đạt qua những
bộ môn bắt buộc như Lịch sử Đảng, tường Hồ Chí Minh,…Với nội dung khá phong
phú, những môn này n cung cấp những kiến thức bản, nền tảng khoa học cho sinh viên
khi ngồi trên giảng đường. Thế nhưng một thực trạng đáng báo động là sinh viên rất ngại
học những môn này và kì thi nào cũng có không ít người vi phạm quy chế thi.
Sự thờ ơ đối với lịch sử nước nhà không chỉ đến từ giới trẻ mà còn do cách giáo dục
và nhận thức của phụ huynh các em. Họ chỉ chăm chăm bắt con em mình đi học thêm các
môn hot, các ngành đang có sức cạnh tranh cao như Toán, Tin, Tiếng Anh . Nhiều bậc phụ
huynh còn bảo học Lịch sử làm gì? Và cho rằng Lịch sử không giúp ích được gì cho tương
lai sau này của con trẻ. Họ cho rằng Lịch sử chỉ là bộ môn phụ và nếu học ra trường sẽ thất
nghiệp hoặc thu nhập thấp. ởng này đã ăn sâu vào tưởng của nhiều bậc phụ
huynh và làm cho giới trẻ ngày càng thiếu nhận thức về lịch sử nước nhà.
Việc không coi trọng học môn Lịch sử không chỉ từ phía phụ huynh, học sinh mà kể
cả giáo viên dạy môn Sử như biết các em học rất kém môn Sử, không đủ kiến thức, điều
kiện để thi tốt nghiệp nhưng vẫn châm chước, bỏ qua cho các em. Bên cạnh đó, giáo viên
dạy môn Lịch sử thu nhập không cao, nên một số trường học hiện nay đang thiếu giáo viên
giảng dạy môn này.
Trước thực trạng đáng báo động này, chúng ta cần phải có những hành động để khắc
phục cũng như phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trong
việc dạy và học môn Sử để giới trẻ không còn có những nhận thức lệch lạc về lịch sử nước
nhà. Từ những kiến thức của bộ môn Triết học Mác nin, tôi đã suy nghĩ vận dụng
phương pháp luận Duy vật biện chứng để thể đưa ra những phương án để giúp khắc phục
phần nào sự thiếu kiến thức lịch sử nghiêm trọng của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
lOMoARcPSD| 23022540
12
2.2. Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để lập kế hoạch cho dự
án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay
Trước hết, ta cần xác định những vấn đề chung: khách quan chủ quan. Ta tìm hiểu
về cái khách quan trước trong Triết học c nin khách quan chính thực tại bên
ngoài, là cái quyết định nhận thức chủ quan của con người. Yếu tố khách quan ở đây chính
là xã hội Việt Nam, là môi trường gia đình, trường học, là những tác động từ n ngoài. Do
những điều đó đã làm ảnh hưởng tới nhận thức chủ quan của giới trẻ đối với lịch sử ớc
nhà. Thử hỏi nếu xã hội không thờ ơ, phụ huynh coi trọng môn lịch sử, nhà trường giáo dục
một cách phong phú, cuốn hút thì liệu học sinh, sinh viên có lãng quên môn lịch sử không?
Yếu tố thứ hai cần c định chính nhận thức của giới trẻ, được hình thành từ những
yếu tố bên ngoài, do những yếu tố khách quan tác động mà thành.
Yếu tố khách quan chính môi trường vật chất bên ngoài, những thứ như môi
trường gia đình, nhà trường và xã hội. Có thể nói, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên
con người được tiếp cận. Vì thế, mỗi chúng ta đều chịu ảnh hưởng rất lớn từ gia đình.
Lớn thêm chút nữa thì mỗi chúng ta đều được ba mẹ cho tới trường lớp được giáo dục
bài bản từ các giáo viên. Và một phần không thể thiếu đó là môi trường xã hội bao gồm
bạn bè, những người xung quanh hay là từ chính quyền địa phương,…Đó là môi trường vô
cùng rộng lớn ảnh hưởng mang tính quyết định tới nhận thức, tính cách, cách suy nghĩ
của mỗi người.
Nhưng không chỉ nhìn nhận yếu tố khách quan xét đoán một con người, ta cần
biết rằng nhận thức của một cá nhân cũng có cách vận hành riêng. Nó phát sinh từ thế giới
khách quan nhưng cũng tồn tại độc lập tương đối phần nào đó tác động trở lại khách
quan.
Tuy nhiên, xét đến cùng thì nhận thức chủ quan của giới trẻ cũng xuất phát từ môi
trường khách quan bên ngoài, môi trường họ được sinh ra lớn lên. Để m ra được
cốt lõi vấn đề ta phải bắt đầu từ môi trường khách quan bên ngoài này. Bởi lẽ đó, để xác
định được trọng tâm của kế hoạch cho việc nâng cao nhận thức về lịch sử cho giới trẻ Việt
Nam hiện nay ta cần phải đi từ nguồn gốc của vấn đề. theo quan niệm của Triết học Mác
Lê nin ta thấy mọi thứ xét đến cùng đều bắt nguồn từ thế giới khách quan. Trong kế hoạch
nâng cao nhận thức của giới trẻ về lịch sử Việt Nam thì ta phải đi từ gốc rễ của vấn đề, đó
lOMoARcPSD| 23022540
chính bắt nguồn từ thế giới khách quan, vật chất xung quanh các bạn trẻ. Đó chính
những điều tác động trực tiếp vào tâm lí của giới trẻ Việt Nam, nó có ảnh hưởng mang tính
trực tiếp tới nhận thức về lịch sử của họ.
điều đó, với tâm thế của một người trẻ, tôi đã nghiền ngẫm đưa ra một vài
phương án cho kế hoạch nâng cao nhận thức của giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay.
Đưa ra các phương án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam
Phương án thứ nhất, đẩy mạnh truyền thông, tạo các áp phích, quảng cáo ngắn hay
các bộ phim lịch sử về lịch sử Việt Nam với nội dung thu hút, tạo ấn tượng sâu đậm cho
các bạn trẻ. Để từ đó, tạo được sự yêu thích cho các bạn trẻ với lịch sử Việt Nam. Điều này
cũng khơi gợi họ lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Đặc biệt, trong thời đại 4.0, mạng hội
phát triển mạnh mẽ, đi ra đường ta thấy các bạn trẻ ai cũng trong tay một chiếc
smartphone tviệc đánh mạnh vào truyền thông lại càng cần thiết thứ tiếp cận
nhanh nhất tới các bạn trẻ.
Phương án thứ hai, tạo các buổi tọa đàm, mời các diễn giả về lịch sử về để truyền
đạt được đúng tinh thần lịch sử cho các bạn trẻ. Các buổi diễn thuyết này sẽ hội để
người trẻ được trực tiếp cảm nhận những suy nghĩ của một thế hệ đã vào sinh ra tử để bảo
vệ non sông nước nhà. Qua đó, họ sẽ phần nào thấy có trách nhiệm hiểu thêm về lịch sử về
những truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam nghìn năm văn hiến.
Phương án thứ ba, ng cao chất lượng giáo dục môn lịch sử trường học. Đẩy
mạnh đầu tư cho các chương trình giáo dục môn lịch sử như là các chuyến đi thực tế về lại
những địa danh lịch sử Nhà Hỏa Lò, Côn Đảo,…Biến bộ môn lịch sử từ một môn học
khô khan với những trang sách dày đặc thành những kiến thức thú vị thông qua những thước
phim, những chuyến đi thực tế. Chúng ta cũng nên cải cách cả cách dạy, cách truyền đạt
kiến thức đến các bạn học sinh để họ không còn cảm thấy nhàm chán trong những tiết học
lịch sử.
Qua việc m hiểu, đánh giá nhận xét cả ba phương án, tôi thấy cả ba phương án
đêu khả thi và có tính thực tế cao nhưng để lựa chọn ra một phương án phù hợp tới các bạn
trẻ cũng như với chính bản thân mình thì tôi đề xuất ưu tiên phương án thứ ba nâng
cao chất lượng giáo dục môn lịch sử ở trường học. Bởi vì, trường học chính là môi trường
giáo dục chất lượng mà hầu hết các bạn trẻ đều được trải nghiệm, được hưởng sự giáo dục
lOMoARcPSD| 23022540
14
ảnh hưởng lớn tới nhận thức của họ. Việc tạo hứng thú, nâng cao nhận thức ngay từ
đây sẽ là tiền đề để họ có thể nhận thức rõ nhất về lịch sử nước nhà.
Việc thực hiện phương án này là cả một quá trình trong cải cách giáo dục đối với bộ
môn lịch sử nhưng lại điều cùng cần thiết để nâng cao nhận thức cho giới trẻ về bộ
môn lịch sử. Đối với phương án này, hướng đi sẽ làm cho lịch sử không còn bộ môn
nhàm chán với những trang sách dày đặc. Chúng ta sẽ đưa nhiều nh ảnh minh họa trực
tiếp vào đó để cho những bạn học sinh cảm thấy hứng thú. Tiếp đến là cách truyền đạt kiến
thức của giáo viên tới các bạn học sinh, sinh viên. Cần truyền được lửa, được tinh thần lịch
sử cho các bạn trẻ, từ đó khơi gợi được lòng tự hào dân tộc tới các bạn trẻ ấy. Hơn thế, nhà
trường phụ huynh cũng nên đầu tư cho con em của mình có những buổi trải nghiệm thực
tế tới những địa danh lịch sử nổi tiếng, nơi lưa danh những vị anh hùng dân tộc đã hi sinh
cả xương máu vì độc lập tự do cho đất nước tương lai con cháu sau này. Nhà trường cũng
nên mời những nhà lịch sử học, những chứng nhân lịch sử về để truyền đạt được tinh thần
yêu nước Cách mạng một thời đã qua, nghe để nhớ, để biết ơn, để hiểu từ đó gợi được
tinh thần yêu thích lịch sử cho các bạn trẻ. Trong các tiết dạy của giáo viên, giảng viên ng
nên đưa o những thước phim tư liệu lịch sử để các bạn học sinh, sinh viên có những hình
dung trực tiếp và rõ hơn về những điều họ đã được học để hiểu, để biết rõ hơn về những vị
anh hùng dân tộc những người đã hi sinh cả thanh xuân nơi sa trường vì màu cờ sắc áo dân
tộc.
C. Kết luận
Qua tìm hiểu, nghiên cứu đề tài trên, chúng ta thấy được mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức. Chúng luôn tồn tại và tác động qua lại lẫn nhau, Vật chất luôn mang tính
thứ nhất, tính quyết định. Ý thức có tính năng động, sáng tạo nên trong hoạt động thực
tiễn của con người có thể tác động lại vật chất bằng cách thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một
mức độ nào đó các điều kiện vật chất, góp phần cải biến thến giới khách quan nhưng sự
tác động trở lại cảu ý thức đối với vật chất dù lớn đến đâ đi chăng nữa vẫn phụ thuộc vào
các điều kiện vật chất. cho nên, xét cho cùng, vật chất luôn quyết định ý thức. Việc vận
lOMoARcPSD| 23022540
dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới đất nước
hiện nay mang nhiều ý nghĩa và có vai trò thiết yếu.
Để có thể lập kế hoạch nâng cao nhận thức của giới trẻ về lịch sử Việt Nam trước tiên ta
cần đi từ cốt lõi của vấn đề chính là thế giới vật chất khách quan bên ngoài. Bởi đây chính
là những yếu tố chính quyết định trực tiếp tới nhận thức hay chính là thế giới chủ quan ý
thức của con người. Nhận thức của giới trẻ là một thứ có thể thay đổi và phụ thuộc chủ
yếu từ những yếu tố vật chất xung quanh. Ta cũng thấy được thực trạng giới trẻ thờ ơ
trước lịch sử dân tộc là rất nhiều và điều này để lại rất nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho
tương lai dất nước sau này. Điều này đã đặt ra cho xã hội một vấn đề cấp thiết và phải có
những kế hoạch để thay đổi thực trạng này. Nếu biết áp dụng mối quan hệ biện chứng vào
vấn đề này, ta thấy có thể tìm thấy được nguồn gốc của vấn đề và phải làm gì để thay đổi
điều này. Đây là vấn đề của toàn xã hội và mỗi cá nhân cần cảm thấy có trách nhiệm để
hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin (NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội) 2. Triết học Mác - Lênin (NXB giáo dục)
3. Báo Lao Động (https://laodong.vn/dien-dan/the-he-tre-se-thieu-kien-thuc-lich-
suthuc-trang-dang-lo-ngai-524456.ldo)
4. Báo Bạc Liêu (https://www.baobaclieu.vn/giao-duc-hoc-duong/vi-sao-hoc-
sinhngay-cang-tho-o-voi-mon-lich-su-34701.html)
| 1/15

Preview text:

lOMoAR cPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN BÀI TẬP LỚN
Môn: Triết học Mác – Lênin
Đề 2: Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức. Vận dụng quan điểm này trong
việc lập dự án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Lê Thư
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Mã SV: 11214320 Lớp: THMLN_13 lOMoAR cPSD| 23022540 Hà Nội – 2022 Mục lục
A. Mở đầu B. Nội dung
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 1.1. Vật chất 1.2. Ý thức 1.3.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 1.4.
Ý nghĩa phương pháp luận
2. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc lập dự
án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay 2.1.
Sự cần thiết nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay 2.2.
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để lập kế
hoạch cho dự án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay
C. Kết luận D. Tài liệu tham khảo Mở đầu
Sự xuất hiện của triết học Mác – Lênin chính là một cuộc cách mạng vĩ đại trong
lịch sử triết học. Đây là kết quả tất yếu để đáp ứng yêu cầu lịch sử phát triển của tư tưởng
triết học và khoa học nhân loại. Trong thời đại ngày nay, Triết học Mác – Lênin được coi là
một trong những thành tựu vĩ đại nất của tư tưởng triết học nhân loại, là hình thức phát triển 2 lOMoAR cPSD| 23022540
cao nhất trong của các hình thức triết học trong lịch sử. Triết học Mác – Lê nin là hệ thống
quan điểm duy vật biện chứng về cả tự nhiên, xã hội và tư duy, là sự thống nhất hữu cơ giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong triết học Mác – Lê nin có đề cập đến quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Đây là “Vấn đề cơ bản
của mọi triết học, đặc biệt là của triết hoc hiện đại” (C.Mác và Ph. Ăngghen, 1995, Toàn
tập, t.21, Sđd, tr.403). Trong Triết học Mác – Lê nin, ta thấy rằng vật chất và ý thức tồn tại
trong mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn,
trong mối quan hệ đó thì vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức. Từ những bài học
có tính chất phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, em thấy nó rất
quan trọng và có mối liên hệ đến thực tiễn đời sống. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, giới
trẻ ít nhiều đã không còn tha thiết đến những trang lịch sử vẻ vang hào hùng của dân tộc.
Qua đây cũng là cơ sở để em lựa chọn đề tài: “Phân tích quan điểm của triết học Mác -
Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Vận dụng quan điểm này trong
việc lập dự án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay.’’ Nội dung
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 1.1. Vật chất 1.1.1. Định nghĩa
Vất chất là một phạm trù nền tảng của chủ nghĩa duy vật triết học. Đây là một phạm
trù triết học phức tạp và có nhiều khái niệm khác nhau.
Theo Ph.Ăngghen: Để có một quan niệm đúng đắn về vật chất, cần phải có sự phân
biệt rõ ràng giữa vật chất với tính cách là một phạm trù triết học, một sáng tạo, một công
trình trí óc của tư duy con người trong quá trình phản ánh hiện thực chứ không phải là sản
phẩm chủ quan của tư duy. Các sự vật, hiện tượng của thế giới dù rất phong phú, muôn vẻ
nhưng chúng vẫn có một đặc tính chung, thống nhất đó là tính vật chất - tính tồn tại, độc
lập không lệ thuộc vào ý thức lOMoAR cPSD| 23022540
Kế thừa tư tưởng của Ph.Ăngghen, Lênin đã tiến hành tổng kết toàn diện những
thành tựu mới nhất của khoa học, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi,
duy tâm. Ông đã tìm kiếm phương pháp định nghĩa mới cho phạm trù vật chất thông qua
đối lập với phạm trù ý thức.
Theo V.I.Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Đây là một định nghĩa hoàn chỉnh về
vật chất mà cho đến bay vẫn được các nhà khoa học hiện đại coi là một định nghĩa kinh
điển. Định nghĩa vật chất của Lê nin bao hàm các nội dung cơ bản sau:
1 Thứ nhất, vật chất là thực tại tồn tại khách quan, cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý
thức và không phụ thuộc vào ý thức.
2 Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào giác quan ở con người khi bằng cách
nào đó thì sẽ đem lại cho con người cảm giác.
3 Thứ ba, ý thức của con người là sự phản ảnh đối với vật chất, còn vật chất là cái
được ý thức phản ảnh.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã góp phần đưa chủ nghĩa duy vật lên tầm cao mới,
làm cơ sở khoa học xây dựng quan điểm duy vật biện chứng trong lĩnh vực xã hội. Đồng
thời, góp phần khắc phục sự khủng hoảng về mặt thế giới quan trong đội ngũ các nhà triết
học và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ. Qua đó, tạo tiền đề để họ tiếp tục đi sâu nghiên cứu
vật chất, khám phá ra ngày càng nhiều thuộc tính, kết cấu mới của vật chất, không ngừng
làm phong phú thêm tri thức nhân loại.
1.1.2. Phương thức, hình thức vận động của vật chất
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất
bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị
trí đơn giản cho đến tư duy. Vất chất và vận động không tách rời nhau, vật chất chỉ có thể
tồn tại bằng vận động và thông qua vận động để biểu hiện.
Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Không có vật chất nào tồn
tại ngoài không gian và thời gian cũng như không có không gian, thời gian nào tồn tại ngoài
vật chất (không gian 3 chiều và thời gian 1 chiều) 4 lOMoAR cPSD| 23022540 1.2. Ý thức
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên: theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là
một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính
của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người. Ý thức không tự sinh ra
trong bộ óc mà là kết quả phản ánh sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não con người.
Nguồn gốc xã hội: Hoạt động thực tiễn hay lao động của con người chính là nguồn
gốc trực tiếp quyết định sự ra đời của ý thức. Trong khi đó, ngôn ngữ - tín hiệu vật chất
mang nội dung ý thức là yếu tố quyết định sự hình thành của ý thức. Từ đó, ta thấy ý thức
là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
1.2.2. Bản chất của ý thức
Theo Mác “Ý thức là cái vật chất được di chuyển vào trong đầu óc của con người và
được cải biến đi ở trong đó” còn theo Lê nin “Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan”
Từ đó, ta thấy bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc
con người một cách năng động, sáng tạo. Đặc tính tích cực, sáng tạo của ý thức gắn bó chặt
chẽ với thực tiễn xã hội. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện trước hết ở khả năng phản ánh
chọn lọc của nó. Xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn, của đời sống xã hội nói chung, sự phản
ánh của ý thức bao giờ cũng tập trung vào những cái cơ bản chính yếu tùy theo nhu cầu của
chủ thể phản ánh. Ý thức có thể dự đoán, đoán trước được tương lai, có thể tạo ra những ảo
tưởng, hoang đường, những lý thuyết khoa học và lý thuyết rất trừu tượng và có tính khái quát cao 1.2.3. Kết cấu
Có hai cách tìm hiểu kết cấu của ý thức. Trước hết, chia theo cấp độ ta có ba cấp độ:
tự ý thức, tiềm thức, vô thức. Cách thứ hai là phân theo các lớp tạo thành ý thức: tri thức,tình
cảm, ý chí. Trong đó, tri thức là phương thức tồn tại quyết định của ý thức.
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ vật chất và ý thức là “Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là của
triết học hiện đại” (C. Mác và Ph. Ăngghen, 1995, Toàn tập, t.21, Sđd, tr.403). lOMoAR cPSD| 23022540
Dựa theo những kiến thức của phép duy vật biện chứng và luôn quan sát, theo kịp
những thành tựu khoa học mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lê nin đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của chủ nghĩa duy tâm, siêu hình.
Theo quan điểm của triết học Mác – Lê nin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
1.3.1. Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
Vật chất thì “sinh ra” ý thức, vì ý thức xuất hiện đã gắn liền với sự xuất hiện của
con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người thì chính là kết quả của một quá
trình phát triển, tiến hóa lâu dài và phức tạp của, của thế giới vật chất, thế giới tự nhiên.
Con người là do giới tự nhiên và vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc
tính của bộ phận con người - cũng do giới tự nhiên và vật chất sinh ra. Những thành tựu
của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người;
vật chất là cái có trước, còn ý thức là cái có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý
thức và vật chất là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người chính là một dạng vật chất có tổ
chức cao nhất, đồng thời là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Sự tồn tại của ý thức
phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách
quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cải vật chất có tư duy là bộ óc người.
Thứ hai, vật chất quyết định đến nội dung của ý thức.
Cho dù “ý thức” dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực
khách quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong đầu óc của con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện thực
vận động và phát triển theo các quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức thì
mới có nội dung của ý thức. Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu chính là hoạt
động thực tiễn mang tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý
thức phản ánh. Ý thức được coi chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của
hoạt động thực tiễn cả bề rộng lẫn chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định đến tính
phong phú, độ sâu sắc của nội dung của tư duy và ý thức con người qua các thời đại. 6 lOMoAR cPSD| 23022540
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Ta thấy phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời nhau trong bản chất
của ý thức. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là ”chụp ảnh”, “soi gương” hoặc
là “phản ánh tâm lý” như con vật mà chính là phản ánh, tự giác, sáng tạo, tích cực thông
qua thực tiễn khách quan. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chấtđây là
thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất mang tính
cải biến thế giới của con người – cũng là cơ sở để hình thành và phát triển ý thức, trong đó
ý thức của con người vừa sáng tạo, vừa phản ánh, sáng tạo trong phản ánh và phản ánh để sáng tạo.
Thứ tư, vật chất quyết định đến sự vận động và phát triển của ý thức.
Như chúng ta thấy mọi sự tồn tại và phát triển của ý thức thì đều gắn liền với quá
trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất nhưng về mặt nhận
thức luận trong tư tưởng triết học của V.I.Lê nin ta thấy rằng “ Sự đối lập giữa vật chất và
ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế; trong trường hợp này
chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì có
sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối”
(V.I.Lênin,1980, Toàn tập, t.18, Sđd, tr.173). Do vậy, trong triết học Mác – Lênin ý thức có
tính độc lập và tác động trở lại vật chất.
1.3.1. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, ý thức tác động trở lại thế giới vật chất, thường thay đổi chậm so với sự
biến đổi của thế giới vật chất. Tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là
sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã
ra đời thì ý thức có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc
vào vật chất. “Ý thức” một khi ra đời thì nó có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế
giới vật chất. “Ý thức” thì có thể thay đổi nhanh, chậm, hoặc đi song hành so với hiện thực,
nhưng nhìn chung thì chúng ta thấy ý thức thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất. lOMoAR cPSD| 23022540
Thứ hai, Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Nhờ vào hoạt động thực tiễn mà ý thức có thể làm biến đổi các điều kiện,
hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “ thiên nhiên thứ hai ” phục vụ cho cuộc sống của
chính con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện thực. Con người
dựa trên nền tảng những tri thức về thế giới khách quan, có sự hiểu biết về những quy luật
khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để góp phần
thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi
thâm nhập vào quần chúng nhân dân – đây là lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to
lớn. “ Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí,
lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở
thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [Trích từ “C.Mác và
Ph.Ăngghen(1995), Toàn tập, t.1, Sđd, tr.580”].
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người. Ý thức có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công
hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực thì ý thức có thể dự báo hay tiên đoán một cách
chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên các lý luận định hướng đúng đắn và các lý
luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng
sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động
tiêu cực khi nó phản ánh sai lệch, xuyên tạc hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại ngày nay. Cụ thể là thời đại thông tin, kinh tế tri thức; thời đại của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học, của tư tưởng chính trị,
tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận
Trước hết, từ vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, cần rút ra quan điểm
khách quan. Quan điểm khách quan hay nguyên tắc khách quan là nguyên tắc quan trọng
hàng đầu trong nhận thức và hoạt động của con người. Quan điểm khách quan yêu cầu: Thứ
nhất, khi xem xét, nhận thức sự vật phải xuất phát từ chính sự vật, phải phản ánh sự vật 8 lOMoAR cPSD| 23022540
trung thành như nó vốn có, phải tôn trọng sự thật, không được lấy ý chỉ chủ quan áp đặt
cho sự vật. Những yêu cầu này không phức tạp, không khó thực hiện nhưng trong thực tế
nó lại rất hay bị con người vi phạm ở những mức độ khác nhau, do đó mà không đạt được
những nhận thức đúng dẫn về sự vật hoặc không có được những chủ trương hoạt động thực tiễn phù hợp.
Thứ hai, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải phát từ thực tế, tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan. Mọi mục đích hành động, kế hoạch, chủ trương, biện
pháp hành động của con người phải dựa trên việc phân tích cặn kẽ, thấu đáo hoàn cảnh thực
tế khách quan, các chủ trương chính sách của con người phải phản ánh được những nhu cầu
đã chín muồi của điều kiện thực tế, có như vậy những chủ trương, chính sách mới có thể
thực hiện thành công. Mặt khác, các quy luật tự nhiên, xã hội, tư duy tồn tại khách quan,
không phụ thuộc vào ý thức, thực tế chứng tỏ rằng nếu làm trái quy luật, con người sẽ phải
hứng chịu những hậu quả. Do đó, phải nhận thức các quy luật, hành động phù hợp với quy
luật. Kế đến là phát huy tinh năng động chủ quan của ý thức: Ý thức, tư tưởng, với tính
năng động sáng tạo của nó có vai trò to lớn do đó cần phát huy yếu tố tích cực của ý thức,
cũng có nghĩa là phát huy vai trò của nhân tố con người trong hoạt động cải tạo hiện thực.
Cần nâng cao không ngừng khả năng nhận thức và vận dụng quy luật của con người. Muốn
vậy đòi hỏi con người phải tích cực học tập làm chủ các tri thức khoa học, vận dụng các tri
thức trong hoạt động thực tiễn của mình. Cần tự giác rèn luyện nhân sinh quan cách mạng,
tiến bộ để góp phần thúc đẩy sự phát triển theo hướng tích cực, tiến bộ của xã hội.
Cuối cùng là khắc phục bệnh trì trệ, thụ động, chủ quan duy ý chí: Trong sự vận
động đa dạng của xã hội, xuất hiện những xu hướng cần khắc phục và loại trừ. Xu hướng
thứ nhất là xu hướng bảo thủ, trì trệ, thụ động, ỷ lại, trông chờ vào sự biến đổi của hiện
thực, không tích cực và tự giác biến đổi hiện thực ấy. Xu hướng thứ hai là xu hướng chủ
quan duy ý chí, không căn cứ vào thực tế khách quan để hành động mà lại lấy ý muốn chủ
quan, lấy tình cảm, nguyện vọng cá nhân làm điểm xuất phát cho chủ trương, chính sách.
Cả hai xu hướng này xét về bản chất, đều là chủ nghĩa duy tâm trong nhận thức và hành
động, đều cản trở sự vận động của hiện thực và đều cần khắc phục trong hoạt động của con người lOMoAR cPSD| 23022540
2. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc lập dự án nâng cao nhận
thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay
Theo quan điểm triết học của Mác – Lê nin ta thấy được “vật chất và ý thức có mối
quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở
lại vật chất”. Trong đó vật chất quyết định tới hầu hết các khía cạnh của ý thức, từ nguồn
gốc, nội dung, bản chất và cả sự vận động phát triển của ý thức. Có vật chất mới hình thành
nên được ý thức nhưng ý thức lại không phụ thuộc hoàn toàn vào vật chất. Nó có tính độc
lập tương đối và tác động trở lại vật chất. Trong một số phạm vi và giới hạn nhất định, ý
thức còn quyết định vật chất nhưng xét đến cùng vật chất vẫn quyết định ý thức.
Vì những điều đó, để lập dự án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam
hiện nay ta cần phải quan tâm tới thế giới khách quan trước. Vì thế giới khách quan sẽ có
vai trò quyết định đối với thế giới chủ quan hay chính là nhận thức của giới trẻ về lịch sử hiện nay
2.1. Sự cần thiết nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay
Xã hội không ngừng phát triển, đi liền với nó là sự bùng nổ của các nguồn thông tin,
cơn bão của các trào lưu, các trend mà mạng xã hội đem lại đã làm cho giới trẻ bị cuốn vào
cơn xoáy khó thoát ra được. Chính điều này đã làm cho giới trẻ chú tâm vào thực tại mà
quên đi lịch sử nước nhà. Trong khi đó, lịch sử của một dân tộc là nguồn gốc của sự phát
triển qua nhiều thế hệ từ sơ khai đến hiện đại, tạo nên cho con người lòng tự tôn, ý thức bảo
vệ dân tộc, tiếp nối những truyền thống xây dựng đất nước. Do vậy, trong những năm gần
đây công tác giáo dục lịch sử luôn được nước ta quan tâm và chú trọng nhưng đáp lại đó
đôi lúc lại là sự thờ ơ chán ghét của giới trẻ. Với tâm lý chạy theo số đông, bộ môn lịch sử
đã không còn là sự lựa chọn của nhiều bạn trẻ và liền kề với đó là sự thiếu kiến thức lịch
sử nghiêm trọng của một bộ phận giới trẻ đặc biệt là thế hệ học sinh, sinh viên những người
chủ đất nước sau này.
Ta thấy xót xa khi nghe câu trả lời Quan Trung, Nguyễn Huệ là hai anh chị em hay
Nguyễn Huệ với Nguyễn Trãi là một người. Nhiều bạn trẻ còn không thể trả lời được những
câu hỏi khá dễ về lịch sử nước nhà ví dụ như “nhà nước đầu tiên của Việt Nam có tên gọi
là gì?” mà lại hiểu biết rất rõ về những ngôi sao, idol giới trẻ hiện đại. Điểm trung bình môn 10 lOMoAR cPSD| 23022540
lịch sử trong cuộc thi THPT cũng phản ánh phần nào những lỗ hổng lớn về kiến thức lịch
sử dân tộc của các bạn trẻ. Các bạn ấy cho rằng “ Tôi không quan tâm vì lịch sử không liên
quan đến nganhf học, khi nào có việc cần tôi sẽ tìm hiểu”. Hiện nay, ngoài kiến thức nền
tảng được trang bị ở trường phổ thông, lên đại học đối với những sinh viên không thuộc
chuyên ngành xã hội và nhân văn việc tiếp nhận lịch sử cũng được truyền đạt qua những
bộ môn bắt buộc như Lịch sử Đảng, Tư tường Hồ Chí Minh,…Với nội dung khá phong
phú, những môn này còn cung cấp những kiến thức cơ bản, nền tảng khoa học cho sinh viên
khi ngồi trên giảng đường. Thế nhưng có một thực trạng đáng báo động là sinh viên rất ngại
học những môn này và kì thi nào cũng có không ít người vi phạm quy chế thi.
Sự thờ ơ đối với lịch sử nước nhà không chỉ đến từ giới trẻ mà còn do cách giáo dục
và nhận thức của phụ huynh các em. Họ chỉ chăm chăm bắt con em mình đi học thêm các
môn hot, các ngành đang có sức cạnh tranh cao như Toán, Tin, Tiếng Anh . Nhiều bậc phụ
huynh còn bảo học Lịch sử làm gì? Và cho rằng Lịch sử không giúp ích được gì cho tương
lai sau này của con trẻ. Họ cho rằng Lịch sử chỉ là bộ môn phụ và nếu học ra trường sẽ thất
nghiệp hoặc có thu nhập thấp. Tư tưởng này đã ăn sâu vào tư tưởng của nhiều bậc phụ
huynh và làm cho giới trẻ ngày càng thiếu nhận thức về lịch sử nước nhà.
Việc không coi trọng học môn Lịch sử không chỉ từ phía phụ huynh, học sinh mà kể
cả giáo viên dạy môn Sử như biết các em học rất kém môn Sử, không đủ kiến thức, điều
kiện để thi tốt nghiệp nhưng vẫn châm chước, bỏ qua cho các em. Bên cạnh đó, giáo viên
dạy môn Lịch sử thu nhập không cao, nên một số trường học hiện nay đang thiếu giáo viên giảng dạy môn này.
Trước thực trạng đáng báo động này, chúng ta cần phải có những hành động để khắc
phục cũng như phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trong
việc dạy và học môn Sử để giới trẻ không còn có những nhận thức lệch lạc về lịch sử nước
nhà. Từ những kiến thức của bộ môn Triết học Mác – Lê nin, tôi đã suy nghĩ và vận dụng
phương pháp luận Duy vật biện chứng để có thể đưa ra những phương án để giúp khắc phục
phần nào sự thiếu kiến thức lịch sử nghiêm trọng của giới trẻ Việt Nam hiện nay. lOMoAR cPSD| 23022540
2.2. Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để lập kế hoạch cho dự
án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay
Trước hết, ta cần xác định những vấn đề chung: khách quan và chủ quan. Ta tìm hiểu
về cái khách quan trước – trong Triết học Mác – Lê nin khách quan chính là thực tại bên
ngoài, là cái quyết định nhận thức chủ quan của con người. Yếu tố khách quan ở đây chính
là xã hội Việt Nam, là môi trường gia đình, trường học, là những tác động từ bên ngoài. Do
những điều đó đã làm ảnh hưởng tới nhận thức chủ quan của giới trẻ đối với lịch sử nước
nhà. Thử hỏi nếu xã hội không thờ ơ, phụ huynh coi trọng môn lịch sử, nhà trường giáo dục
một cách phong phú, cuốn hút thì liệu học sinh, sinh viên có lãng quên môn lịch sử không?
Yếu tố thứ hai cần xác định chính là nhận thức của giới trẻ, nó được hình thành từ những
yếu tố bên ngoài, do những yếu tố khách quan tác động mà thành.
Yếu tố khách quan chính là môi trường vật chất bên ngoài, những thứ như là môi
trường gia đình, nhà trường và xã hội. Có thể nói, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên
mà con người được tiếp cận. Vì thế, mỗi chúng ta đều chịu ảnh hưởng rất lớn từ gia đình.
Lớn thêm chút nữa thì mỗi chúng ta đều được ba mẹ cho tới trường lớp và được giáo dục
bài bản từ các giáo viên. Và một phần không thể thiếu đó là môi trường xã hội bao gồm là
bạn bè, những người xung quanh hay là từ chính quyền địa phương,…Đó là môi trường vô
cùng rộng lớn và ảnh hưởng mang tính quyết định tới nhận thức, tính cách, cách suy nghĩ của mỗi người.
Nhưng không chỉ nhìn nhận yếu tố khách quan mà xét đoán một con người, ta cần
biết rằng nhận thức của một cá nhân cũng có cách vận hành riêng. Nó phát sinh từ thế giới
khách quan nhưng cũng tồn tại độc lập tương đối và phần nào đó tác động trở lại khách quan.
Tuy nhiên, xét đến cùng thì nhận thức chủ quan của giới trẻ cũng xuất phát từ môi
trường khách quan bên ngoài, môi trường mà họ được sinh ra và lớn lên. Để tìm ra được
cốt lõi vấn đề ta phải bắt đầu từ môi trường khách quan bên ngoài này. Bởi lẽ đó, để xác
định được trọng tâm của kế hoạch cho việc nâng cao nhận thức về lịch sử cho giới trẻ Việt
Nam hiện nay ta cần phải đi từ nguồn gốc của vấn đề. Và theo quan niệm của Triết học Mác
– Lê nin ta thấy mọi thứ xét đến cùng đều bắt nguồn từ thế giới khách quan. Trong kế hoạch
nâng cao nhận thức của giới trẻ về lịch sử Việt Nam thì ta phải đi từ gốc rễ của vấn đề, đó 12 lOMoAR cPSD| 23022540
chính là bắt nguồn từ thế giới khách quan, vật chất xung quanh các bạn trẻ. Đó chính là
những điều tác động trực tiếp vào tâm lí của giới trẻ Việt Nam, nó có ảnh hưởng mang tính
trực tiếp tới nhận thức về lịch sử của họ.
Vì điều đó, với tâm thế của một người trẻ, tôi đã nghiền ngẫm và đưa ra một vài
phương án cho kế hoạch nâng cao nhận thức của giới trẻ về lịch sử Việt Nam hiện nay.
Đưa ra các phương án nâng cao nhận thức cho giới trẻ về lịch sử Việt Nam
Phương án thứ nhất, đẩy mạnh truyền thông, tạo các áp phích, quảng cáo ngắn hay
các bộ phim lịch sử về lịch sử Việt Nam với nội dung thu hút, tạo ấn tượng sâu đậm cho
các bạn trẻ. Để từ đó, tạo được sự yêu thích cho các bạn trẻ với lịch sử Việt Nam. Điều này
cũng khơi gợi ở họ lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Đặc biệt, trong thời đại 4.0, mạng xã hội
phát triển mạnh mẽ, đi ra đường ta thấy các bạn trẻ ai cũng có trong tay một chiếc
smartphone thì việc đánh mạnh vào truyền thông lại càng cần thiết vì nó là thứ tiếp cận
nhanh nhất tới các bạn trẻ.
Phương án thứ hai, tạo các buổi tọa đàm, mời các diễn giả về lịch sử về để truyền
đạt được đúng tinh thần lịch sử cho các bạn trẻ. Các buổi diễn thuyết này sẽ là cơ hội để
người trẻ được trực tiếp cảm nhận những suy nghĩ của một thế hệ đã vào sinh ra tử để bảo
vệ non sông nước nhà. Qua đó, họ sẽ phần nào thấy có trách nhiệm hiểu thêm về lịch sử về
những truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam nghìn năm văn hiến.
Phương án thứ ba, nâng cao chất lượng giáo dục môn lịch sử ở trường học. Đẩy
mạnh đầu tư cho các chương trình giáo dục môn lịch sử như là các chuyến đi thực tế về lại
những địa danh lịch sử Nhà tù Hỏa Lò, Côn Đảo,…Biến bộ môn lịch sử từ một môn học
khô khan với những trang sách dày đặc thành những kiến thức thú vị thông qua những thước
phim, những chuyến đi thực tế. Chúng ta cũng nên cải cách cả cách dạy, cách truyền đạt
kiến thức đến các bạn học sinh để họ không còn cảm thấy nhàm chán trong những tiết học lịch sử.
Qua việc tìm hiểu, đánh giá và nhận xét cả ba phương án, tôi thấy cả ba phương án
đêu khả thi và có tính thực tế cao nhưng để lựa chọn ra một phương án phù hợp tới các bạn
trẻ và cũng như với chính bản thân mình thì tôi đề xuất ưu tiên phương án thứ ba – nâng
cao chất lượng giáo dục môn lịch sử ở trường học. Bởi vì, trường học chính là môi trường
giáo dục chất lượng mà hầu hết các bạn trẻ đều được trải nghiệm, được hưởng sự giáo dục lOMoAR cPSD| 23022540
và ảnh hưởng lớn tới nhận thức của họ. Việc tạo hứng thú, nâng cao nhận thức ngay từ ở
đây sẽ là tiền đề để họ có thể nhận thức rõ nhất về lịch sử nước nhà.
Việc thực hiện phương án này là cả một quá trình trong cải cách giáo dục đối với bộ
môn lịch sử nhưng lại là điều vô cùng cần thiết để nâng cao nhận thức cho giới trẻ về bộ
môn lịch sử. Đối với phương án này, hướng đi sẽ là làm cho lịch sử không còn là bộ môn
nhàm chán với những trang sách dày đặc. Chúng ta sẽ đưa nhiều hình ảnh minh họa trực
tiếp vào đó để cho những bạn học sinh cảm thấy hứng thú. Tiếp đến là cách truyền đạt kiến
thức của giáo viên tới các bạn học sinh, sinh viên. Cần truyền được lửa, được tinh thần lịch
sử cho các bạn trẻ, từ đó khơi gợi được lòng tự hào dân tộc tới các bạn trẻ ấy. Hơn thế, nhà
trường và phụ huynh cũng nên đầu tư cho con em của mình có những buổi trải nghiệm thực
tế tới những địa danh lịch sử nổi tiếng, nơi lưa danh những vị anh hùng dân tộc đã hi sinh
cả xương máu vì độc lập tự do cho đất nước vì tương lai con cháu sau này. Nhà trường cũng
nên mời những nhà lịch sử học, những chứng nhân lịch sử về để truyền đạt được tinh thần
yêu nước Cách mạng một thời đã qua, nghe để nhớ, để biết ơn, để hiểu và từ đó gợi được
tinh thần yêu thích lịch sử cho các bạn trẻ. Trong các tiết dạy của giáo viên, giảng viên cũng
nên đưa vào những thước phim tư liệu lịch sử để các bạn học sinh, sinh viên có những hình
dung trực tiếp và rõ hơn về những điều họ đã được học để hiểu, để biết rõ hơn về những vị
anh hùng dân tộc những người đã hi sinh cả thanh xuân nơi sa trường vì màu cờ sắc áo dân tộc. C. Kết luận
Qua tìm hiểu, nghiên cứu đề tài trên, chúng ta thấy được mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức. Chúng luôn tồn tại và tác động qua lại lẫn nhau, Vật chất luôn mang tính
thứ nhất, tính quyết định. Ý thức có tính năng động, sáng tạo nên trong hoạt động thực
tiễn của con người có thể tác động lại vật chất bằng cách thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một
mức độ nào đó các điều kiện vật chất, góp phần cải biến thến giới khách quan nhưng sự
tác động trở lại cảu ý thức đối với vật chất dù lớn đến đâ đi chăng nữa vẫn phụ thuộc vào
các điều kiện vật chất. cho nên, xét cho cùng, vật chất luôn quyết định ý thức. Việc vận 14 lOMoAR cPSD| 23022540
dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới đất nước
hiện nay mang nhiều ý nghĩa và có vai trò thiết yếu.
Để có thể lập kế hoạch nâng cao nhận thức của giới trẻ về lịch sử Việt Nam trước tiên ta
cần đi từ cốt lõi của vấn đề chính là thế giới vật chất khách quan bên ngoài. Bởi đây chính
là những yếu tố chính quyết định trực tiếp tới nhận thức hay chính là thế giới chủ quan ý
thức của con người. Nhận thức của giới trẻ là một thứ có thể thay đổi và phụ thuộc chủ
yếu từ những yếu tố vật chất xung quanh. Ta cũng thấy được thực trạng giới trẻ thờ ơ
trước lịch sử dân tộc là rất nhiều và điều này để lại rất nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho
tương lai dất nước sau này. Điều này đã đặt ra cho xã hội một vấn đề cấp thiết và phải có
những kế hoạch để thay đổi thực trạng này. Nếu biết áp dụng mối quan hệ biện chứng vào
vấn đề này, ta thấy có thể tìm thấy được nguồn gốc của vấn đề và phải làm gì để thay đổi
điều này. Đây là vấn đề của toàn xã hội và mỗi cá nhân cần cảm thấy có trách nhiệm để
hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin (NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội) 2. Triết học Mác - Lênin (NXB giáo dục)
3. Báo Lao Động (https://laodong.vn/dien-dan/the-he-tre-se-thieu-kien-thuc-lich-
suthuc-trang-dang-lo-ngai-524456.ldo)
4. Báo Bạc Liêu (https://www.baobaclieu.vn/giao-duc-hoc-duong/vi-sao-hoc-
sinhngay-cang-tho-o-voi-mon-lich-su-34701.html)