Phân tích quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ và đánh giá việc giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn đời sống sinh viên hiện nay | Bài tập lớn môn triết học mác - lênin
Phân tích quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ và đánh giá việc giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn đời sống sinh viên hiện nay | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ---------- ---------- BÀI TẬP LỚN
Môn: Triết học Mác – Lênin
Đề tài: Phân tích quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ và đánh giá việc giải quyết mối quan
hệ này trong thực tiễn đời sống sinh viên hiện nay.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Lê Thư
Họ Tên: Trần Thị Huyền Trang Mã SV: 11218709
Lớp: LLNL1105 (221)_13 HÀ NỘI - 2022 lOMoAR cPSD| 23022540 MỤC LỤC
Lời mở đầu…………………………………………………………………………4
A, Vật chất và ý thức I, Vật chất
1.1, Khái niệm…………………………………………………………………….… 5
1.2, Phương thức tồn tại của vật chất…………………………………………….
….5 1.3, Hình thức tồn tại của vật
chất…………………………………………………..5 Hình thức vận động của vật
chất……………………………………………..5
Vận động và đứng im của vật chất…………………………………………… 6
Vật chất vận động trong không gian và thời gian……………………………6
1.4, Ví dụ về vật chất………………………………………………………………..7 II, Ý thức
2.1, Nguồn gốc của ý thức…………………………………………………………..7 2.2, Bản chất của ý
thức……………………………………………………………..7
2.3, Kết cấu của ý thức……………………………………………………………… 8 2.4, Ví dụ về ý
thức………………………………………………………………….8
B, Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Liên hệ
I, Phân tích quan điểm của Triết học Mac – Lênin về mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức
1.1, Vật chất quyết định ý thức……………………………………………………… 9 2 lOMoAR cPSD| 23022540
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức………………………… 9
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý
thức…………………………….9 Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của
ý thức…………………………….10 Ví dụ cho khía cạnh thứ hai và
thứ ba……………………………………….10
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức…………….10 Ví dụ
chung………………………………………………………………….11
1.2, Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất………………… 11
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức………………………………… 11
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người……………………………………………………..11
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người……………………………………………………………………12
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn……..13
II, Ý nghĩa phương pháp luận…………………………………………………… 13
III, Liên hệ và đánh giá
3.1, Sự cần thiết của áp dụng phương pháp luận biện chứng trong đời sống……….14 lOMoAR cPSD| 23022540
3.2, Vận dụng phương pháp luận biện chứng…..………………………………….14 Trong lựa chọn ngành học, định hướng
nghề nghiệp……………………….14 Trong tình bạn, tình
yêu……………………………………………………..15
3.3, Ví dụ cụ thể về bản thân………………………………………………………16
Tài liệu tham khảo……….………………………………………………………… 17 Lời mở đầu
Từ khi con người bắt đầu xuất hiện trên trái đất, tiếp đó ý thức cùng tư duy con
người xuất hiện và dần phát triển, cho đến hiện nay khi xã hội – nền văn minh loài
người đã đạt đến bước đỉnh cao, trải qua cả trăm nghìn năm lịch sử. Cùng với đó triết
học đã dần được hình thành từ rất sớm và phát triển cùng biến đổi gắn liền với quá
trình phát triển và thay đổi của con người. Trong mỗi một giai đoạn lịch sử, lại có 4 lOMoAR cPSD| 23022540
những tư tưởng, đảng phái triết học khác nhau ra đời rồi lụi tàn, những lý luận, tư
tưởng triết học đó có đúng cũng có sai, nhưng nhìn chung chính là xoay quanh những
quy luật, bản chất chung nhất của thế giới và sự vận động thế giới, cho đến những
năm 40 của thế kỷ XIX, Triết học Mac – Lênin ra đời và đưa đến những quan điểm,
lý luận khái quát và đầy đủ nhất về các vấn đề của triết học. Cho dù là các vấn đề
cùng bản chất, quy luật phát triển từ thời kì đầu của loài người đến thế giới hiện đại
bây giờ đều không thế tránh ra khỏi những tư tưởng cùng quy luật của Triết học Mac
– Lênin. Thế giới xung quanh có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng.
Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất và ý
thức cùng mối quan hệ giữa chúng. Đây cũng là vấn đề cơ bản nhất của mọi triết học,
cho dù là các đảng phái trước Mac – Lênin cho đến Triết học của Mac – Lênin. Với
mong muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, tôi đã chọn đề tài: “Phân tích mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức liên hệ vào đời sống sinh viên hiện nay.” Mà trước hết, ta sẽ
tìm hiểu về vật chất và ý thức để có thể hiểu hơn về mối quan hệ giữa chúng.
A, Vật chất và ý thức I, Vật chất 1.1, Khái niệm
V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù
triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.(1)
Trong định nghĩa trên bao gồm các nội dung cơ bản: lOMoAR cPSD| 23022540
• Vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức
và không lệ thuộc vào ý thức.
• Vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người cảm giác.
• Vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
1.2, Phương thức tồn tại của vật chất
Phương thức tồn tại của vật chất là vận động, trong đó:
• Vận động là mọi sự biến đổi nói chung.
• Vận động là một thuộc tính cố hữu của vật chất, không thể có vật chất
không vận động và cũng không thể có vận động tồn tại bên ngoài vật
chất. Nguồn gốc của vận động là ở chính bên trong sự vật (là mâu thuẫn
nội tại của chính sự vật).
1.3, Hình thức tồn tại của vật chất
Hình thức vận động của vật chất rất đa dạng, được biểu hiện ra với các quy
mô, trình độ và tính chất hết sức khác nhau, việc khám phá và phân chia chúng gắn
liền với sự phát triển nhận thức của con người, được chia thành 5 hình thức cơ bản:
(1) V .I. Lênin (1980), Toàn tập, t. 18, Sđd. Tr. 151.
• Cơ học: Sự dịch chuyển vị trí trong không gian
• Vật lý: Sự vận động của các phân tử và các hạt cơ bản
• Hóa học: Sự tương tác, hòa hợp và phân giải các chất
• Sinh học: Quá trình liên quan đến sự sống (đồng hóa, dị hóa, trao đổi chất,…)
• Xã hội: Sự tương tác, quá trình vận động, phát triển của lịch sử nhân
loại. Vận động xã hội là hình thức vận động đặc trưng cho con người
Vận động và đứng im của vật chất 6 lOMoAR cPSD| 23022540
+) Sự vận động không ngừng của vật chất không những không loại trừ mà trái
lại còn bao hàm trong đó sự im lặng tương đối.
+) Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im chỉ có tính tạm
thời, chỉ xảy ra trong một mối quan hệ, trong một hình thức vận động nào đó. Hơn
nữa đứng im chỉ là sự biểu hiện của một trạng thái vận động – vận động trong thăng
bằng, trong sự ổn định tương đối. Nói tóm lại, đứng im chỉ là tương đối, vận động mới là tuyệt đối.
Vật chất vận động trong không gian và thời gian
V .I. Lênin viết “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và
vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”.(2)
hay Duy vật biện chứng xem không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động, trong đó:
• Không gian là xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu và
sự tác động lẫn nhau. Gồm có không gian trong tự nhiên (mối liên hệ
về vị trí) và không gian trong xa hội (mối liên hệ giữa người với người, người với vật).
• Thời gian là xét về độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình, giai
đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng.
(2) V .I. Lênin (1980), Toàn tập, t. 18, Sđd. Tr. 209.
1.4, Ví dụ về vật chất
Con người, con vật, cây cối, tài nguyên thiên nhiên, hay vật chất nhân tạo như
phương tiện giao thông, vật dụng gia đình, nhà cửa,… đều là ví dụ về vật chất. II, Ý thức
2.1, Nguồn gốc của ý thức
Quan điểm của duy vật biện chứng về ý thức: “Ý niệm chẳng qua chỉ là vật
chất được đem truyền vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”.(3) lOMoAR cPSD| 23022540
Ý thức gồm có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
• Tự nhiên: ý thức xuất phát từ sự hình thành bộ não con người, hình
thành dưới sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau như hoàn cảnh, giáo
dục,… Nói chung nguồn gốc là bộ não người với thuộc tính phản ánh
và tất cả sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
• Xã hội: là hành vi lao động, hành vi ứng xử cùng ngôn ngữ của con
người. Lao động tác động đến ý thức con người cần phải làm gì và làm
như thế nào, có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành suy nghĩ con người.
Hành vi ứng xử giữa người với người là yếu tố tác động sâu sắc đến
việc hình thành, thay đổi ý thức. Ngôn ngữ là tín hiệu vật chất mang
nội dung ý thức, không có ngôn ngữ sinh ra, ý thức cũng sẽ không tồn tại.
Nguồn gốc xã hội quyết định sự hình thành của ý thức, thông qua lao động cải
tạo thế giới khách quan, con người ngày càng nhận thức sâu sắc về thế giới.
2.2, Bản chất của ý thức
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào đầu óc con người một cách năng động, sáng tạo.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, t. 23, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. tr. 35.
Vật chất là hiện thực khách quan, còn ý thức là hiện thực chủ quan phản ánh
của thế giới khách quan. Sự phản ánh đó là năng động và sáng tạo vì nó phải thay
đổi để đáp ứng nhu cầu thực tiễn ngày càng nâng cao của con người và là sản phẩm
của thực tiễn xã hội, mang tính xã hội.
Từ nguồn gốc và bản chất cho thấy: ý thức là hình thức phản ánh cao nhất
riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội – lịch sử. 8 lOMoAR cPSD| 23022540
2.3, Kết cấu của ý thức
Ý thức có hai cách phân chia, khi xem xét về ý thức với các yếu tố hợp thành,
xét theo các lớp cấu trúc của ý thức, thì ý thức gồm có
• Tri thức (hiểu biết nhất định của ta về sự vật, hiện tượng) là nhân tố cơ
bản, cốt lõi nhất, mang tính quyết định và là phương thức tồn tại của ý thức.
• Tình cảm (là những rung động biểu thị thái độ với sự vật, hiện tượng)
là một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người.
• Ý chí (khả năng phát huy những năng lực của bản thân).
Khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức được
phân chia theo các cấp độ: Tự ý thức, tiềm thức và vô thức. 2.4, Ví dụ về ý thức
Khi con người tham gia lao động sản xuất, đã ngày càng ý thức được việc tăng
năng suất lao động mà lại giảm bớt khó khăn cho người lao động, và từ đó phát minh,
cải tạo cùng thay đổi ngày càng nhiều trong công cuộc lao động, sản xuất.
Sự ý thức của con người về bản thể bên ngoài và tâm hồn bên trong cùng việc
đi vào sâu hơn những khía cạnh về tâm hồn, tâm lý con người.
Sự phản ánh hiện thực khách quan, sự vật, con vật cùng hiện tượng trong thế
giới vật chất sau đó cải biến sáng tạo thành những câu chuyện tưởng tượng, thần
thoại hay cổ tích và lưu truyền qua nhiều đời.
B, Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Liên hệ
I, Phân tích quan điểm của Triết học Mac – Lênin về mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức.
Mối quan hệ vật chất và ý thức là “Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt
là của triết học hiện đại”.(4) Theo quan điểm Triết học Mac – Lênin, vật chất và ý thức lOMoAR cPSD| 23022540
có mối quan hệ biện chứng, trong đó xét đến cùng vật chất quyết định ý thức, còn ý
thức tác động tích cực trở lại vật chất.
1.1, Vật chất quyết định ý thức
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
Vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người, mà con người là
kết quả của cả một quá trình tiến hóa cùng phát triển của tự nhiên, của thế giới vật
chất, hay con người là do thế giới vật chất sinh ra.
Vật chất là tính thứ nhất, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức; ý thức là tính
thứ hai, tồn tại phụ thuộc vào sự phản ánh hiện thực khách quan của bộ não con người
– dạng vật chất có tổ chức cao nhất.
Do đó, phải có sự vận động của thế giới vật chất trong tự nhiên cũng như trong
xã hội thì mới có sự ra đời của ý thức.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức
Ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người,
hay nói cách khác, có thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật
khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức thì mới có nội dung của ý thức. Khi
thế giới khách quan thay đổi, nội dung ý thức cũng biến đổi theo.
Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực
mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người.
(4) C.Mac và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 21, Nxb. CTQG, Hà Nội. tr. 403.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không thể tách rời trong bản chất của ý
thức, thế giới vật chất được phản ánh vào bộ não người và được sáng tạo, cải biến 10 lOMoAR cPSD| 23022540
trong đó. Vì vậy chính thực tiễn, thế giới vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
* Ví dụ cho khía cạnh thứ hai và thứ ba:
VD1)Khi ta gặp một người nào đó lần đầu tiên, ta sẽ ghi nhớ những đặc điểm
về ngoại hình cũng như tính cách của người đó, đây là sự phản ánh thế giới khách
quan vào bộ não người; rất lâu sau gặp lại người đó có những thay đổi về cả vẻ ngoài
và bên trong, khi đó những “nội dung của ý thức” mà trước đó ta nhận thấy về người
đó cũng sẽ thay đổi theo.
VD2)Những tưởng tượng hay câu truyện thần thoại của con người xuất phát
từ việc những đặc điểm về con vật, sự vật hay những hiện tượng tự nhiên được phản
ánh vào bộ não người rồi từ đó con người cải biến và sáng tạo thành những điều
không có thật trong thế giới vật chất.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật
chất. Vật chất thay đổi thì sớm hay muộn ý thức cũng phải thay đổi theo. Thế giới
vật chất luôn vận động do đó con người cũng phát triển từ đó ý thức, tư duy con
người cũng phát triển theo cả về nội dung lẫn hình thức phản ánh của nó.
Điển hình: trong xã hội nguyên thủy, con người sống theo bầy đàn và phụ thuộc
vào tự nhiên thì ý thức và tư duy cũng đơn sơ; xã hội và sản xuất ngày càng phát
triển, ý thức con người cũng ngày càng mở rộng, con người không chỉ ý thức được
hiện tại mà còn cả quá khứ và dự kiến được cả tương lai, cùng với đó là biết xây
dựng, sản xuất dần không phụ thuộc quá nhiều vào tự nhiên và dự đoán được cả tự
nhiên như thời tiết, thiên tai; khi xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, ý thức chính trị,
pháp luật cũng dần thay thế cho ý thức quần cư, cộng đồng thời nguyên thủy.
Ngoài ra, vật chất còn là điều kiện, chất liệu hiện thực hóa ý thức, không có
vật chất, ý thức sẽ không thể được hiện thực hóa hay thể hiện ra ngoài, ví dụ: các họa
sĩ, nhà văn hay kiến trúc sư cần giấy bút, công cụ,… để thể hiện ý tưởng của mình. lOMoAR cPSD| 23022540
Trong đời sống xã hội, vật chất quyết định ý thức được thể hiện ở vai trò của
kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội
đối với ý thức xã hội.
Ví dụ chung cho “vật chất quyết định ý thức”
VD1) Bộ não con người là vật chất, khi bộ não bị tổn thương thì ý thức con
người cũng bị ảnh hưởng.
VD2) Trong tháp nhu cầu Maslow, những nhu cầu về ăn uống, thỏa mãn về
thế giới vật chất phải được đáp ứng trước con người mới hướng đến những nhu cầu
về mặt tinh thần, và điều kiện để thực hiện phần lớn những nhu cầu đó cũng là vật chất.
VD3) Hay như đã trình bày ở trên, cùng sự phát triển của xã hội, ý thức con
người về sự phân chia giai cấp trong xã hội từ thời sản xuất mới xuất hiện cho đến
thời hiện đại đều phụ thuộc rất nhiều vào kinh tế, vật chất thực tế.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt
nhận thức luận, sự đối lập đó chỉ là tương đối, điều này được thể hiện qua mối quan
hệ giữa vật chất đặc biệt – bộ óc người và thuộc tính của chính nó.
1.2, Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất vào đầu óc con người nhưng khi ra đời rồi ý thức lại có quy luật
vận động, phát triển riêng không phụ thuộc máy móc vào vật chất và có tác động trở
lại thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ các hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những
điều kiện, hoàn cảnh của vật chất. Con người dựa trên những tri thức về thế giới
khách quan mà đề ra những mục tiêu, phương hướng cùng biện pháp và cả ý chí
quyết tâm để hoàn thành mục tiêu, tri thức cùng ý chí đó quyết định chính đến sự
thành bại của hành động. 12 lOMoAR cPSD| 23022540
Ví dụ: nhà nghèo thì phải phấn đấu (khi không có tiền – vật chất thì cần phải
dùng những tri thức cùng hiểu biết của bản thân mà đặt ra những phương hướng cùng
cách thức để có thể kiếm thêm tiền, như xem xem mình giỏi ở lĩnh vực nào, có thể
thử làm hoặc đầu tư kinh doanh,… cùng với đó thì không thể thiếu được ý chí quyết
tâm cùng cố gắng nỗ lực không bỏ cuộc mới có thể ngày một tốt lên và cải thiện đời sống vật chất.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của
con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành
công hay thất bại, những nhận thức đúng sẽ tạo ra những hành động đúng đắn, khi
đưa vào quần chúng những nhận thức, lý luận đúng đó còn góp phần cổ vũ, khai thác
tiềm năng sáng tạo mà từ đó sức mạnh vật chất được nâng lên. Ngược lại ý thức có
thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lệch hiện thực.
Ví dụ: Trong thời kì nước ta còn chưa giành được độc lập, chiến tranh liên
miên, người dân đói khổ, đã có không ít những vị anh hùng cùng những lãnh tụ tài
giỏi họ nhận ra được và đưa ra những phương hướng cũng như quyết định đúng đắn
để thay đổi cục diện, giúp đất nước ta giành chiến thắng trong mỗi trận chiến, thay
đổi hiện thực khách quan của đất nước ta khi đó; sau khi có được độc lập, tự do lại
đưa ra những chính sách vực dậy kinh tế, xóa đói giảm nghèo giúp đời sống vật chất
của nhân dân được cải thiện.
Nhưng cũng có lúc, ý thức kìm hãm vật chất phát triển, điển hình như
khi có “Hội Thánh đức chúa trời” nổi lên, những người ý chí không vững hay có tư
tưởng không đúng đắn sẽ dễ bị dụ dỗ hay sa đọa theo, việc này ảnh hưởng đến cuộc
sống – hiện thực khách quan của chính bản thân người đó, mà lớn hơn nếu như không
kiểm soát được sẽ có thể ảnh hưởng lớn đến đất nước, chính là ảnh hưởng đến thế
giới vật chất của rất nhiều người.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực lOMoAR cPSD| 23022540
tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học, của tư tưởng chính
trị, của tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt
quá những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và
năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu không ta sẽ lại rơi vào chủ nghĩa
duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và không tránh khỏi thất bại trong thực tiễn.
Ví dụ dễ hiểu, giám đốc một công ty mong muốn công ty sản xuất được sản
lượng N để đạt được đến lợi nhuận là A thế nhưng nguồn lực về cả kinh tế cũng như
cơ sở vật chất hay tri thức chung lao động không đủ để đạt được tiêu chuẩn đó, sẽ
dẫn đến, chất lượng sản phẩm giảm, uy tín công ty giảm, còn có khả năng giảm lợi nhuận công ty.
II, Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên tắc của phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp phát
huy tính năng động chủ quan.
Trong thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất
phát từ điều kiện, khả năng trong thực tế khách quan, tiền đề vật chất hiện có, tuân
theo quy luật khách quan và nhận thức sự vật, hiện tượng phải chân thực, đúng đắn,
khách quan. Cần tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí, chủ nghĩa duy
vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng. (Cơ sở nguyên tắc của ý nghĩa phương pháp
luận là vật chất quyết định ý thức, vật chất có trước, ý thức có sau)
Cùng đó, phải phát huy tính năng động chủ quan, sáng tạo của ý thức, phát huy
vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, bảo thủ, thiếu sáng tạo,
phải coi trọng ý thức, coi trọng công tác tư tưởng cũng như tri thức và giáo dục, rèn
luyện phẩm chất đạo đức cùng ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
nói chung. (Cơ sở nguyên tắc của ý nghĩa phương pháp luận là ý thức có tính độc lập
tương đối và tác động trở lại vật chất) 14 lOMoAR cPSD| 23022540
Để thực hiện nguyên tắc, ta cần nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan
hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội với thái độ khách quan.
III, Liên hệ và đánh giá việc giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn
đời sống sinh viên hiện nay
3.1, Sự cần thiết của áp dụng phương pháp luận biện chứng trong đời sống
Trong đời sống sinh viên nói riêng cũng như trong cuộc sống hằng ngày nói
chung, có rất nhiều những vấn đề xảy ra liên tục và liên quan đến nhiều lĩnh vực cùng
có ảnh hưởng lớn hoặc nhỏ đến cuộc đời chúng ta. Những vấn đề đó dù ít dù nhiều
đều gắn liền đến mối quan hệ giữa vật chất và ý thức và nó cũng không thoát ra khỏi
quy luật, định lý về vật chất – ý thức của chủ nghĩa Duy vật biện chứng. Việc phân
tích rõ ràng vấn đề theo phương pháp luận về mối quan hệ vật chất - ý thức sẽ giúp
ta có cái nhìn khách quan và tổng quát nhất về vấn đề, làm cho ta có thể hiểu sâu hơn
về vấn đề và tìm ra những phương pháp để giải quyết vấn đề từ những thiếu sót hay
sai sót mà ta đã phân tích. Từ đó sẽ giúp ta giải quyết được phần đa những vấn đề
cũng như có cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống xung quanh.
3.2, Vận dụng phương pháp luận biện chứng
Trong lựa chọn ngành học, định hướng nghề nghiệp
Vấn đề đặt ra ở đây là lựa chọn ngành, trường học như nào. Trước hết ta phải
phân tích những điều kiện thực tế khách quan. Phải tôn trọng và tuân theo thực tế
khách quan, và những điều kiện cùng khả năng khách quan quyết định đến ý thức
cùng lựa chọn. Chọn ngành học cũng như trường đại học phải dựa vào thực lực học
tập hiện có của bản thân, cùng với đó là có đăng kí thêm khóa học để nâng cao khả
năng của bản thân không, nếu muốn đăng kí thêm thì có đủ điều kiện kinh tế không; lOMoAR cPSD| 23022540
ngoài thực lực, việc lựa chọn ngành cùng trường còn phụ thuộc lớn vào kinh tế, tài
chính của gia đình, có đủ khả năng để chi trả cho việc học hết đại học hay không;
hay đơn giản quyết định chọn trường đại học của một số bạn sinh viên là vì cơ sở vật
chất của trường tốt, trường đẹp, trường có nhiều chương trình học bổng hấp dẫn, trường gần nhà.
Thứ hai là ý thức chủ quan tiếp thu những điều đó và bằng sự năng động, sáng
tạo mà tác động cũng như thay đổi hay điều kiện khách quan để đạt được mục tiêu.
Phải chủ động tìm tòi, học tập để trau dồi bản thân, cảm thấy bản thân chưa đủ khả
năng để đỗ vào ngành hay trường đó thì phải đặt ra mục tiêu, tìm kiếm phương pháp
học tập đúng đắn, tự học ở nhà, tham gia các trung tâm, lớp học thêm hoặc mua khóa
học trên mạng, dựa vào tri thức vốn có để phát triển tri thức cao hơn; kinh tế không
đủ thì dựa vào ý thức cùng nỗ lực bản thân, cố gắng đạt học bổng, hoặc đặt ra và thực
hiện việc làm gì đó để kiếm thêm thu nhập, hỗ trợ cho việc học tập; không chỉ phụ
thuộc vào những vật chất, điều kiện thực tế hay nhận thức chủ quan của mình về
ngành hay trường mà chọn trường đó mà phải tiếp thu, chọn lọc ý kiến mới, không
để bản thân bảo thủ, chủ quan, ví dụ không thể thích và muốn vào trường vì trường
xịn đẹp, mà phải năng động, sáng tạo trong phân tích cái lợi cùng hại của chọn trường,
ngành đó cùng nghe ý kiến bố mẹ hay người lớn, người có kinh nghiệm để có cái
nhìn khách quan, đúng đắn nhất.
Định hướng nghề nghiệp cũng giống chọn trường cùng ngành, cần dựa vào
những khả năng, điều kiện vật chất trong thực tế rồi đặt ra mục tiêu, phương pháp để
đạt được mục tiêu, phân tích đúng sai một cách khách quan và đưa ra lựa chọn đúng đắn.
Trong tình bạn, tình yêu
Trong các mối quan hệ tình bạn hay tình yêu, sẽ luôn có những vấn đề xảy ra
liên quan đến tài chính, tính cách mỗi người hay năng lực bản thân mà dẫn đến những
mâu thuẫn, thì ta cần phân tích rõ ràng và khách quan đúng sai trong đó, mọi người
trong mối quan hệ có những gì, cần phải đạt được điều gì, từ đó đưa ra những phương 16 lOMoAR cPSD| 23022540
án giải quyết, tác động và thay đổi những điều kiện hay vấn đề của thế giới vật chất
đó để đáp ứng thỏa mãn của thế giới tinh thần.
3.3, Ví dụ cụ thể về bản thân
Trong lựa chọn ngành Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành của trường đại học
Kinh tế Quốc dân. Mục tiêu đặt ra là đỗ được ngành này của trường. Những điều
kiện khách quan mà tôi có là năng lực làm bài thi đại thi đại học đạt được mức điểm
trong ước lượng là hơn 24 điểm và có thêm 0.75 điểm cộng vùng miền, điều kiện
kinh tế của gia đình là có khả năng cho học phí của ngành du lịch – một ngành hệ
chính quy của trường nhưng không quá dư giả trong chi tiêu hàng ngày và không có
phương tiện đi lại. Vậy mục tiêu khi đó là đủ điểm chuẩn dự tính của ngành của
trường là 27 điểm (vì sẽ có cộng cả điểm vùng) và đủ học phí trong năm đầu là
khoảng 19 triệu cùng chi tiêu 4 triệu một tháng. Vậy các phương hướng đặt ra để
thực hiện đối với nâng cao điểm số là tập trung nhiều nhất vào một môn trong khối
thi hoặc học đều nâng cao cả ba môn, và phương án cụ thể gồm có đi học thêm bên
ngoài và mua khóa học trên mạng, tôi lựa chọn mua khóa học và học tập trung nhiều
hơn vào một môn cùng với đó nâng cao hai môn còn lại trong khả năng. Về vấn đề
chi phí, vì giá xăng ngày càng đắt đỏ nên lựa chọn trọ gần trường để đi bộ, mức giá
thuê có thể cao hơn một chút nhưng sẽ không tốn tiền mua xe và tiền xăng, trong chi
tiêu, ăn uống hằng ngày cũng tiết kiệm trong mức có thể và tìm việc làm thêm gần
chỗ trọ để có thêm thu nhập.
Trong mối quan hệ bạn bè, một vấn đề khá phổ biến là giúp đỡ nhau trong học
tập, thi cử. Khi trong thi cử, bạn bè hỏi bài thì nên làm như nào và nếu không làm gì
thì có thể dẫn đến mâu thuẫn trong mối quan hệ của cả hai hay không. Điều kiện
khách quan đặt ra ở đây là tôi và bạn chơi chung hợp nhau và khá thân thiết, tôi có
khả năng hiểu và làm tốt một môn học, bạn tôi thì có khả năng trong lĩnh vực khác
hơn và bạn tôi yêu cầu tôi hỗ trợ khi thi. Điều mong muốn là cả hai có thể đạt được
kết quả tốt môn đó và giữ được mối quan hệ cùng cả hai đều thoải mái. Vậy phương lOMoAR cPSD| 23022540
án đặt ra một là tôi sẽ giúp bạn lúc thi để cả hai có kết quả tốt nhưng bản thân tôi sẽ
không quá thoải mái và bạn đó có thể cũng sẽ có vướng mắc trong lòng; thay vào đó,
tôi sẽ bỏ công sức, thời gian hướng dẫn, chia sẻ bí quyết và học cùng bạn để cả hai
đều hiểu bài hơn cũng như làm bài tốt hơn, từ đó kết quả của cả hai có thể còn tốt
hơn dự kiến không những thế trong quan hệ bình thường cũng sẽ thoải mái và thân thiết hơn. Tài liệu tham khảo
Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Sử dụng trong các trường đại học - hệ
không chuyên lý luận chính trị), Hà Nội, 2019, tr. 57 – 83. 18