TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KẾ HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN
BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC LÊ-NIN
Đề bài 1: Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ và đánh giá việc giải quyết
mối quan hệ này trong thực tiễn đời sống sinh viên hiện nay.
Hà Nội – 2022
Lời mở đầu
Tiến lên chủ nghĩa hội mục tiêu lớn lao quan trọng nhất của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta hiện nay vì chỉ có thực hiện mục tiêu này, chúng ta mới có
thể xây dựng được đất nước Việt Nam giàu mạnh phát triển. cũng chỉ xây
dựng thành công chủ nghĩa hội, chúng ta mới thể đạt được mục tiêu quan
trọng nhất là phát triển toàn diện đời sống của nhân dân. Vậy phải làm thế nào để có
thể thực hiện mục tiêu trên? Trên cơ sở thực tiễn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
cùng với lời khẳng định tại đại hội VII của Đảng ta: Chủ nghĩa Mác- Lênin,
tưởng Hồ Chí Minhnền tảng tư tưởng,kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng.
Có nghĩa là chúng ta sẽ lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền móng, làm phương tiện
để tổng kết kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích đúng đắn những đặc điểm của nước
ta. Có như vậy, chúng ta mới có thể dần tìm được quy luật phát triển của cách mạng
Việt Nam, định hướng được đường lối , phương chấm cũng như bước đi cụ thể để
phát triển Cách mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình của đất nước.
Trên tinh thần khai thác đề tài tiểu luận này, với tư cách là một sinh viên, trước
hết em muốn cùng mọi người có cái nhìn sâu rộng hơn về Triết học Mác Lênin,
cụ thể làkhía cạnh mối quan hệ biện chứng giữa vật chấtý thức. Thứ hai, em
cũng mong muốn sẽ đưa ra những ý kiến quan điểm đúng đắn để góp một phần
công sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp cách mạng lớn lao của Đảng, Nhà nước và
toàn dân ta hiện nay.
Do trình độluận cũng như hiểu biết thực tiễn còn hạn chế, bài viết này của
em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của cô để giúp em hoàn thiện kiến thức và nắm chắc hơn bài học để vận
dụng vào thực tế.
1
MỤC LỤC
1. Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.......................2
1.1. Vật chất.................................................................................................2
1.1.1. Định nghĩa vật chất...........................................................................2
1.1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất...................................................5
1.2. Ý thức....................................................................................................7
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức........................................................................7
1.2.2 Bản chất của ý thức............................................................................8
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.....................................................9
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình9
2.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng................................10
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận................................................................11
3. Liên hệ thực tiễn và đánh giá trong việc giải quyết mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức..................................................................12
3.1. Trong học tập......................................................................................12
3.2. Trong vấn đề định hướng nghề nghiệp.............................................14
2
1. Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.1. Vật chất
1.1.1. Định nghĩa vật chất
Theo các nhà duy tâm nguồn gốc vật chất là do “sự tha hóa” của “tinh thần thế
giới”.
Đối với các nhà duy vật cổ đại (chủ nghĩa duy vật chất phác), vật chất được
quy về một hay một vài dạng cụ thể và xem chúng là khởi nguyên của thế giới
(nước(Thales), lửa(Heraclitus),...)
Các nhà duy vật cận đại (chủ nghĩa duy vật siêu hình) có quan điểm giống các
nhà duy vật cổ đại nhưng họ đã chứng minh được sự tồn tại thực sự của nguyên tử
là phần tử nhỏ nhất của vật chất vĩ mô thông qua thực nghiệm của vật lý học cổ
điển, song lại đồng nhất vật chất với khối lượng và cho rằng sự vận động của sự vật
chỉ là vận động cơ giới, khối lượng của vật thể không thay đổi khi vật thể vận động.
Các quan điểm về phạm trù vật chất đi trước C. Mác đều có hạn chế, sai lầm:
thường đồng nhất vật chất với một dạng cụ thể của vật chất, một thuộc tính của vật
chất. Cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên qua các thành tựu cơ bản dẫn
đến cuộc “khủng hoảng” thế giới quan khoa học và triết học (cuối thế kỷ XIX – đầu
thế kỷ XX). Để khắc phục khủng hoảng này, Lênin cho rằng: “Tinh thần duy vật cơ
bản của vật lý học, cũng như của tất cả các khoa học tự nhiên hiện đại, sẽ chiến
thắng tất cả mọi thứ khủng hoảng, nhưng với điều kiện tất yếu là chủ nghĩa duy vật
biện chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình
”.
1
Quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất:
Ph.Ăngghen cho rằng: “vật chất với tính cách là vật chất, là một sáng tạo
thuần túy của tư duy và là một trừu tượng, không có sự tồn tại cảm tính; bản thân
phạm trù vật chất cũng không phải sự sáng tạo tùy tiện của tư duy con người, mà
trái lại, là kết quả của con đường trừu tượng hóa tư duy của con người về các sự
vật, hiện tượng có thể cảm biết được bằng các giác quan”.
2
Trước bối cảnh đó, kế thừa tư tưởng của Ph.Ăngghen, trên cơ sở tổng kết
những thành tựu của khoa học tự nhiên, V.I. Lênin đưa ra định nghĩa về vật chất để
lấy lại thế giới quan duy vật cho các nhà khoa học: “Vật chất là một phạm trù triết
1 Sdđ, tr.379
2 C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, t. 20, tr. 751.
3
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”. (“CNDV và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” (1909) của
Lênin)
3
Phân tích định nghĩa:
Phạm trù triết học là những phạm trù chung nhất dùng trong mọi lĩnh vực.
Vật chất với tư cách phạm trù triết học là vật chất nói chung, vô tận, vô hạn,
không sinh ra, không mất đi đối lập với quan điểm về dạng vật chất của khoa học là
vật chất cụ thể, đều có giới hạn, có sinh ra, có mất đi.
Thực tại khách quan là thuộc tính chung nhất có ở mọi dạng vật chất, là
thuộc tính cơ bản khái quát nhất để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là
vật chất. Thực tại khách quan có nghĩa là sự tồn tại của nó không phụ thuộc vào
nhận thức của con người.
Nội dung định nghĩa:
Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác (tức là
thực tại khách quan (vật chất) là cái có trước, quyết định còn cảm giác (ý thức) là
cái có sau, bị quy định).
Vật chất là thực tại khách quan, tức là cái tồn tại hiện thực bên ngoài, không
phụ thuộc vào ý thức, sự tồn tại của vật chất không phụ thuộc vào việc con người đã
nhận thức được hay chưa nhận thức được.
Thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh (tức là con người bằng cái giác
quan của mình có thể nhận thức được thực tại khách quan)
Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác
động lên các giác quan của con người (con người chúng ta tính cho đến nay nay có
năm giác quan: khứu giác, vị giác, thị giác, thính giác, xúc giác. Khi có một sự vật,
hiện tượng gây nên cảm giác của con người qua các giác quan đó, tác động đến con
người gián tiếp hoặc trực tiếp: thì đó là vật chất).
Vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó
Ý thức của con người không tự sinh ra mà là sự phản ánh thế giới bên ngoài.
Nhưng phản ánh lại thế giới vật chất là chưa đủ để ý thức tồn tại, phát triển. Bộ óc
3 V. I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, t. 18, tr.151.
4
người cần phải cải biên vật chất để hình thành ngôn ngữ qua lao động, các hình thái
xã hội. Ý thức tồn tại, phát triển được lên cao hơn do vai trò trực tiếp, quan trọng
của lao động và thực tiễn xã hội. Nếu thiếu đi ngôn ngữ, sẽ không có phương tiện
để phản ánh hiện thực thế giới khách quan.
Ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lênin
Lấy lại thế giới quan đúng đắn cho các nhà khoa học.
Bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo về vật chất.
Chỉ ra sai lầm và khắc phục được hạn chế của các nhà duy vật cũ.
Phát triển chủ nghĩa duy vật trên cơ sở thành tựu khoa học tự nhiên mới nhất.
1.1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất
Vật chất, cái thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác, các
dạng tồn tại cụ thể của vật chất vốn hết sức phong phú đa dạng.
Theo Ph. Ăngghen: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì
bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí giản đơn cho đến tư duy
”.
4
Với cách hiểu như thế, , nhờ vận vận động là phương thức tồn tại của vật chất
động và thông qua vận động mà vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Do đó, con
người chỉ nhận thức được sâu sắc sự vật, hiện tượng bằng cách xem xét chúng trong
quá trình vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Nguồn gốc của vận động là do sự tác động lẫn nhau của các yếu tố, bộ phận
cấu thành sự vật; vận động của vật chất là tự thân vận động, là tuyệt đối, vĩnh viễn.
Các hình thức vận động cơ bản của vật chất
Căn cứ vào các trình độ phát triển của thế giới vật chất, Ph. Ăngghen chia
vận động thành 5 hình thức cơ bản:
4 C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, t. 20, tr. 751.
5
Vận động cơ học
Vận động sinh học
Vận động vật lý
Vận động xã hội
Vận động hóa học
Vận động cơ học: sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian. (nhìn
thấy). Ví dụ: quạt đang quay
Vận động vật lý: sự vận động của các phân tử, điện tử, sự biến đổi của các hạt
cơ bản. (có hoặc không nhìn thấy). Ví dụ: vận động của dòng electron, của điện từ
quay xung quanh hạt nhân
Vận động hóa học: quá trình phân giải và hóa hợp của các chất. (có hoặc
không nhìn thấy). Ví dụ: sự kết hợp giữa H2 và O2 tạo thành H2O
Vận động sinh vật: sự biến đổi gen, trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi
trường. Ví dụ: quá trình quang hợp của cây xanh
Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực của xã hội, sự thay thế nhau
các hình thái kinh tế - xã hội (vận động cao nhất-hình thức vận động đặc trưng của
con người).
Mỗi hình thức vận động cơ bản trên khác nhau về chất, nhưng giữa chúng lại
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trong đó hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ
sở của hình thức vận động thấp hơn và bao hàm tất cả những hình thức vận động
thấp hơn và các hình thức vận động có thể chuyển hóa cho nhau.
Đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong trạng
thái cân bằng, trong sự ổn định tương đối, nói lên sự vật còn là nó mà chưa chuyển
hóa thành cái khác.
Không gian, thời gian
Chủ nghĩa duy tâm phủ nhận tính khách quan của không gian và thời gian.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình không gian, thời gian, vận động không liên quan
với nhau và ở bên ngoài vật chất (Newton).
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian
và thời gian và xem chúng là hình thức tồn tại của vật chất vận động, được con
người khái quát khi nhận thức về thế giới: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là
6
không gian và thời gian; tồn tại ngoài thi gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại
ngoài không gian”.
5
Không gian: mọi sự vật hiện tượng đều có kích thước, kết cấu dài ngắn cao
thấp khác nhau – những cái đó gọi là không gian; không có sự vật nào lại không có
không gian của nó.
Thời gian: sự vật luôn tồn tại trong trạng thái biến đổi nhanh chậm, chuyển
hóa kế tiếp nhau – thời gian.
Không gian và thời gian có tính khách quan, vĩnh cửu và vô tận. Không gian
có tính 3 chiều (dài, rộng, cao). Thời gian có tính một chiều (từ quá khứ, hiện tại
đến tương lai)
Không gian và thời gian gắn bó mật thiết với nhau và gắn liền với vật chất,
không có một dạng vật chất nào tồn tại ở bên ngoài nó. Ngược lại, cũng không thể
có thời gian và không gian nào ở ngoài vật chất.
Tính thống nhất vật chất của thế giới:
CNDV biện chứng khẳng định thế giới thống nhất ở tính vật chất vì:
Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất tồn tại khách
quan.
Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh ra và không
bị mất đi.
Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều có mối liên hệ, thống nhất với nhau.
1.2. Ý thức
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác – Lênin khẳng định ý thứcthuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao
là bộ óc người.
Bộ não người và sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ não con người
chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức (lý thuyết phản ánh – Lênin). Nếu không có
bộ não người và thuộc tính phản ánh của nó thì sự tác động lẫn nhau giữa bộ
não người với thế giới khách quan sẽ không thể có ý thức.
Nguồn gốc xã hội
5 C. Mác & Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.78.
7
Sự phát triển của giới tự nhiên mới tạo ra tiền đề vật chất năng lực phản
ánh, chỉ điều kiện cần cho sự ra đời của ý thức. Hoạt động thực tiễn của loài
người mới nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời của ý thức, trong đó bản
nhất và trực tiếp nhất là lao động và ngôn ngữ.
Lao động: quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới
tự nhiên, cải biến những dạng vật chất của giới tự nhiên thỏa mãn nhu cầu tồn tại
của mình. Từ đó từng bước làm biến đổi cấu trúc thể của con người để thực
hiện những động tác tinh vi hơn, mặt khác cũng giúp con người khả năng sáng
tạo ra công cụ lao động sử dụng công cụ ấy phục vụ mục đích sống của con
người.
Việc tạo ra sử dụng công cụ trong lao động một mặt giúp con người thỏa
mãn nhu cầu tồn tại của mình đưa bộ não con người ngày càng phát triển, hoàn
thiện về mặt sinh học. Mặt khác, tạo ra công cụ, phương tiện giúp con người
nhận thức thế giới thuận lợi hơn.
Trong quá trình lao động, con người tương tác với các đối tượng trong thế giới
làm cho chúng bộc lộ ra những thuộc tính thông qua đó con người nhận thức hình
thành lên tri thức – thành phần quan trọng của ý thức. Đồng thời, quá trình lao động
con người làm biến đổi thế giới ngược lại làm biến đổi chính bản thân mình,
ngày càng làm sâu sắc và phong phú thêm ý thức của mình.
Lao động ngay từ đầu đã mang tính xã hội, từ đó ny sinh nhu cầu hình thành
ngôn ngữ.
Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ một mặt là kết quả của lao động, mặt khác lại là nhân tố tích cực tác
động đến quá trình lao động và phát triển ý thức con người.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là công cụ thể
hiện ý thức, tư tưởng và tạo điều kiện để phát triển ý thức.
Ngôn ngữ giúp con người phản ánh khái quát những đặc tính, những thuộc tính
của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Ngôn ngữ giúp con người trao đổi kinh nghiệm hoạt động sống.
1.2.2 Bản chất của ý thức
8
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách
quan của óc người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan:
Cả vật chất và ý thức đều tồn tại nhưng sự tồn tại của vật chất là tồn tại khách quan
còn ý thức tồn tại chủ quan. Ý thức không phải sự vật mà chỉ là “hình ảnh” của sự
vật ở trong đầu óc con người. Sự tồn tại của ý thức gắn liền với sự tồn tại của con
người và khả năng nhận thức của con người.
Ý thức phản ánh thế giới khách quan, nhưng thế giới đó đã được cải biến thông qua
lăng kính chủ quan của con người (chịu tác động của các yếu tố như: tâm tư, tình
cảm, nguyện vọng, nhu cầu, tri thức, kinh nghiệm...). Ý thức là sự phản ánh năng
động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc người, là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của phản ánh ý thức:
Tính năng động của ý thức thể hiện ở sự phản ánh, chọn lọc và luôn đáp ứng yêu
cầu hoạt động thực tiễn.
Tính sáng tạo thể hiện ở chỗ: Dưa trên những tri thức đã biết có thể rút ra tri thức
mới, có thể dự báo tương lai, có thể tạo ra lý thuyết khoa học trừu tượng, có thể
sáng tạo ra những cái không có trong hiện thực…
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội:
Sự ra đời và phát triển của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người,
chịu chi phối không chỉ của các quy luật tự nhiên mà còn (và chủ yếu là) của các
quy luật xã hội.
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của con người về hiện thực khách
quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử.
Các lớp cấu trúc của ý thức: xem xét ý thức dựa trên các yếu tố hợp thành, ý
thức gồm nhiều yếu tố quan hệ mật thiết với nhau, trong đó yếu tố cơ bản nhất là tri
thức, tình cảm, niềm tin, ý chí. Trong đó, tri thức có vai trò quyết định ý thức vì nó
là phương thức tồn tại của ý thức.
Các cấp độ của ý thức: xem xét ý thức dựa theo chiều sâu của thế giới nội tâm
con người, ý thức bao gồm: tự ý thức, vô thức và tiềm thức.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
9
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy tâm: Ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, có tính quyết định;
còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ
2, do ý thức tinh thần sinh ra.
Phủ nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ quan, duy ý chí,
hành động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan
Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh
một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức
Phủ nhận tính độc lập tương đối và tính năng động sáng tạo của ý thức trong
hoạt động thực tiễn; rơi vào trạng thái thụ động, ỷ lại, trông chờ không đem lại hiệu
quả trong hoạt động thực tiễn
2.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Vật chất quyết định ý thức: Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức.
Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở 4 phương diện sau:
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là
tính thứ nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con
người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
Sự vận động của thế giới vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới
khách quan) và vật chất trong xã hội (thông qua lao động và ngôn ngữ) là yếu tố
quyết định sự ra đời của vật chất.
Vật chất quyết định nội dung của ý thức
Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội
dung của ý thức chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan một
cách năng động, sáng tạo vào trong đầu óc con người.
Tất cả những gì mà con người tưởng tượng ra cũng đều lấy chất liệu từ thế giới
khách quan (vật chất).
Vật chất quyết định bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua hoạt động
thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con
10
người - là cơ sở để hình thành phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa
phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Vật chất quyết định sự vận động, biến đổi của ý thức
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật
chất, vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả
về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình
thức phản ánh.
Vật chất là điều kiện, là chất liệu giúp hiện thực hóa ý thức
Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
Thứ nhất, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc của con người.
Nhưng từ khi ra đời, ý thức có “đời sống” riêng, không lệ thuộc một cách máy móc
vào vật chất và có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Ý thức có thể thay đổi nhanh chậm, song hành với hiện thực nhưng nhìn
chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có th làm biến đổi những điều
kiện, hoàn cảnh vật chất phục vụ cho cuộc sống con người.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người; nó có thể quyết định sự thành bại của hoạt động thực tiễn:
Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Khi phản ánh sai hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất.
Thứ tư xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, , nhất là trong
thời đại thông tin, thời đại kinh tế tri thức, thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá
tính quy định của những tiền đề vật cht đã xác định, phải dựa vào các điều kiện
khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động, chỉ có như vậy thì mới
có thể hành động đúng đắn, thành công trong hoạt động thực tiễn.
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Ý nghĩa phương pháp luận chủ đạo: Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát
huy tính năng động chủ quan.
11
Tôn trọng tính khách quan: Vật chất quyết định ý thức, do đó mọi suy nghĩ
và hành động đều phải xuất phát từ hiện thực khách quan, chống chủ quan duy ý
chí. Mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch... đều phải xuất phát từ điều kiện, tiền đề
vật chất hiện có. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và
sách lược cách mạng.
Phát huy tính năng động chủ quan: Phải phát huy tính năng động, sáng tạo
của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng thụ động; coi trọng
công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức,
ý chí và nghị lực để bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức
khoa học.
Muốn thực hiện tốt nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính
năng động chủ quan, cần nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích
với thái độ thật sự khách quan, khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
3. Liên hệ thực tiễn đánh giá trong việc giải quyết mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức
3.1. Trong học tập
Vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi
phải xuất phát từ thực tế khách quan.
Trước hết, bản thân tôi phải tự xác định được các điều kiện khách quan ảnh hưởng
đến cuộc sống học tập của bản thân. Cụ thể, trong học tập, tôi cần phải xác định
được nội quy trường học, chấp hành đúng kỷ luật; tuân thủ thời khóa biểu, đi học
đúng giờ, tham gia các tiết học đầy đủ và hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra.
Ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính năng
động chủ quan tức là phải phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý
thức.
Trong kết cấu của ý thức thì là yếu tố có vai trò quyết định ý thức, là tri thức
phương thức vận động và tồn tại của ý thức. Trong học tập, để có thể phát triển bản
thân, thì không nên cứ thụ động, ỷ lại những gì mình đã học, đã biết. Mà phải cập
nhật, đổi mới so sánh để tìm ra cách tối ưu nhất để hoàn thành mục tiêu. Cụ thể,
sinh viên cần phải tích cực trong học tập, chủ động tìm hiểu và khai thác vấn đề, khi
12
học không nên quá phụ thuộc vào giảng viên mà thay vào đó hãy suy nghĩ những ý
tưởng của riêng mình.
Ví dụ trong những buổi học nhóm hay thảo luận, tôi thường tìm đến kiến thức
chuyên ngành. Tuy nhiên, những tri thức tiếp thu từ sách vở là chưa đủ, xã hội luôn
đòi hỏi mỗi người phải có một vốn kỹ năng sống dày dặn. Muốn làm được như vậy
thì chúng ta cần tham gia vào các hoạt động xã hội hay tìm kiếm một công việc làm
thêm phù hợp trau dồi kỹ năng sống.
Tình cảm là những rung cảm của con người trong các mối quan hệ với hiện
thực. Nhờ có tình cảm mà tri thức mới có sức mạnh và trở thành cơ sở cho hành
động. Nói cách khác, tình cảm là động lực lớn nhất thúc đẩy chúng ta đi đến thành
công.
Muốn đạt thành tích tốt trong học tập, cần phải có niềm đam mê đối với mỗi môn
học dù là môn chuyên ngành hay môn đại cương; cần phải tạo cảm giác thoải mái
và tình thần vui vẻ trong học tập thì mới tạo ra được hứng thú để tìm tòi, học hỏi.
Ngoài ra, tình cảm gia đình góp phần giúp bản thân vượt qua những khó khăn
để tiếp tục con đường học tập.
Niềm tin là động cơ tinh thần định hướng cho những hoạt động của con người.
Là một sinh viên tốt thì cần phải biết đặt niềm tin vào nhiều thứ. Đặc biết là cần
phải có niềm tin ở chính bản thân mình, phải biết đặt ra hoài bão, ước mơ nhưng
không bao giờ được quên việc thực hiện hóa nó bằng các kế hoạch cụ thể. Một khi
có niềm tin thì chắc chắn sẽ có động lực để phấn đấu, vươn lên nhằm đạt được
những mục tiêu đặt ra. Ví dụ như mục tiêu bây giờ của tôi chính là đạt được học
bổng loại giỏi trở lên nhưng muốn thực hiện được điều ấy thì phải lập ra thời gian
biểu học tập cụ thể với một phương pháp học đúng đắn.
Ý chí biểu hiện cho sức mạnh tinh thần của con người, giúp con người vượt qua
những khó khăn, trở ngại để đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Môi trường đại học
ẩn chứa rất nhiều thử thách và cám dỗ vì vậy, cần phải xây dựng cho mình một ý chí
kiên định nhằm tránh xa những thói hư tật xấu.
Ví dụ như cuộc sống sinh viên tự do đòi hỏi tôi phải lập ra những quy tắc riêng cho
bản thân để giữ vững lập trường của mình trước những cạm bẫy trước mắt: tránh
tụ tập nhậu nhẹt ăn chơi sa đà, không vì lười biếng mà cúp học, chưa học bài xong
13
chưa đi ngủ chưa học bài đủ chưa đi chơi, không nên chạy theo những công việc chỉ
sinh ra lợi ích tức thời mà bỏ bê việc học.
Cần phải phát huy tính năng động chủ quan đồng thời chống lại bệnh chủ
quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ.
Ví dụ như sau một bài thuyết trình thì phải nán lại lắng nghe ý kiến chỉnh sửa của
cả lớp và giảng viên hay khi làm bài hoặc họp nhóm cần phải sáng tạo, đột phá, cải
tiến cái cũ nhưng không nên quá cầu toàn. Khi đăng kí học phần không nên đăng kí
quá nhiều tránh việc không kham nổi. Khi hoàn thành công việc, không nên chủ
quan không kiểm tra lại, vì nghĩ mình đã làm nhiều lần thành công.
Bản thân không được lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, áp đặt thực tế. Trong
một tập thể, khi muốn tìm ra giải pháp, kế hoạch biết lắng nghe tôn trọng quan điểm
, ý kiến của người khác rồi mới thống nhất quyết định, không lấy tình cảm để quyết
định cho chiến lược công việc. Một quan điểm về sự vật, hiện tượng nào đó có thể
đúng ở thời gian, không gian này nhưng khi ở thời điểm khác nó đã trở nên lạc hậu,
lỗi thời.
Cần phải xem xét các điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh thần, điều kiện khách
quan lẫn yếu tố khách quan.
Ví dụ đối với việc đăng lý học phần, sinh viên cần phải tính đến năng lực học tập
của bản thân, điều kiện tài chính của gia đình, cân nhắc quỹ thời gian, không đăng
ký học phần một cách tràn lan với mục đích tốt nghiệp sớm tránh trường hợp học
không theo kịp, dẫn đến hao phí tiền bạc, thời gian, công sức mà kết quả lại không
được như ý muốn.
3.2. Trong vấn đề định hướng nghề nghiệp
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan.
Đầu tiên, bản thân tôi phải tự xác định được các điều kiện khách quan, đánh giá
được hoàn cảnh, khả năng để định hướng bản thân theo con đường đúng đắn.
Cụ thể là, dựa trên xu hướng phát triển của thị trường việc làm (cơ hội việc làm,
mức lương,...). Nắm bắt xu hướng việc làm nhanh nhạy sẽ giúp chúng ta tiếp cận
được nhiều cơ hội việc làm tốt và có khả năng thăng tiến cao trong tương lai. Nhiều
bạn sau khi học đại học thậm chí đang học đại học đã nhận ra bản thân không thực
14
sự phù hợp với chuyên ngành hiện tại, muốn chuyển hướng sang những lĩnh vực
mới phù hợp hơn nhưng vẫn đắn đo, thiếu định hướng về lộ trình phát triển mới.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy
tính năng động chủ quan tức là phải phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo
của ý thức.
Tri thức là yếu tố có vai trò quyết định ý thức, là phương thức vận động và tồn tại
của ý thức.
Thực tế cho thấy, những người thành công chỉ vâ n dụng có 25% kiến thức chuyên
môn trong công viê c, còn lại 75% là dựa vào những kỹ năng mềm mà họ đã học hỏi
và rèn luyê n được. Do đó, bên cạnh kiến thức chuyên ngành, chúng ta cần liên tục
bổ sung những kỹ năng mềm hữu ích.
Hiện nay, có rất nhiều khóa học kỹ năng để chúng ta đăng ký tham gia. Khi dành
thời gian học tâ p và nghiên cứu sâu về một kỹ năng, chúng ta sẽ càng định hướng
nghề nghiê p bản thân rõ ràng và chính xác hơn nữa.
Cách tốt nhất để biết bản thân có phù hợp với nghề nghiêp nào đó hay không chính
là tự bản thân bạn phải trải nghiêm. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, bạn
nên tìm cơ hôi làm những công viê c mình quan tâm để hiểu rõ hơn về nghề nghiê p
đó cũng như nhâ n định được xem bản thân có phù hợp với nghề hay không.
Tình cảm là những rung động của con. Nhờ có tình cảm mà tri thức mới có sức
mạnh và sau đó trở thành cơ sở cho hành động. Nói cách khác, tình cảm là động lực
lớn nhất thúc đẩy chúng ta đi đến thành công.
Được làm công việc đúng sở trường và khuynh hướng phát triển cũng giúp chúng ta
lĩnh hội kiến thức nhanh chóng hoàn thành công việc hiệu quả hơn. Việc miễn
cưỡng theo đuổi nghề nghiệp không phù hợp cũng giống như người bơi ngược
dòng, chúng ta sẽ cảm thấy rất mệt mỏi, mất sức, căng thẳng và chịu áp lực lớn khi
làm việc.
Ý chí biểu hiện cho sức mạnh tinh thần của con người, giúp con người vượt qua
những khó khăn, trở ngại để đạt được những mục tiêu đã đặt ra
Không ít bạn trẻ chịu ảnh hưởng từ những định hướng nghề nghiê p của bố mẹ,
người thân. Mặc dù lời khuyên của người đi trước rất đáng quý nhưng bạn cần nhận
thức về sở thích, mong muốn của bản thân nhìn nhận ý kiến của gia đình
15
góc độ khách quan nhất. Nếu nhâ n thấy những định hướng này không phù hợp, bạn
cần kiên định với quan điểm của mình.
Bên cạnh đó, bạn cũng nên tránh trường hợp chọn nghề nghiê p dựa trên tâm lý đám
đông, thấy nghề nào đang hot, dễ kiếm tiền thì chạy theo nghề ấy bất chấp việc bản
thân không phù hợp. Hãy nhớ rằng: Sức hút của nghề càng lớn sẽ đồng nghĩa với
mức độ cạnh tranh cũng ác liệt, áp lực bị đào thải cũng tăng cao. Nếu bản thân
không phù hợp với ngành nghề lựa chọn, bạn sẽ dễ cảm giác chán nản khó
gắn bó với công việc lâu dài.
Mỗi nhân đều mang trong mình những nét đặc trưng ưu, khuyết điểm riêng.
vậy, việc định hướng nghề nghiệp phải xuất phát từ tài năng, sở thích thiên
hướng của bản thân. Bạn cần tự đặt ra lựa chọn nghề nghiệp mình muốn theo đuổi,
cũng như vạch ra các bước đi đúng đắn để thể phát triển sự nghiệp theo hướng
đó trong tương lai xa.
Niềm tin là động cơ tinh thần định hướng cho những hoạt động của con người.
dụ như mục tiêu bây giờ của chúng ta chính được làm công việc mà bản thân
hứng thú với một mức lương hấp dẫn nhưng muốn thực hiện được điều ấy thì phải
lên danh sách những kỹ năng lợi thể đối với ngành nghề chúng ta chọn. Nên ưu
tiên các kỹ năng quan trọng mà mọi ngành nghề đều cần đến (kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng quản lý thời gian, chứng chỉ ngoi ngữ,...).
Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì
trệ.
Cụ thể, đối với các bạn sinh viên, xu hướng thị trường lao động luôn luôn biến đổi
không ngừng, nên nếu bệnh chủ quan, ỷ lại, phụ thuộc vào người khác, không nhận
ra yếu kém của bản thân, chắc chắn sẽ bị lạc hậu, bước lùi, không phù hợp với trình
độ phát triển, dẫn đến thất nghiệp. Do đó, điều chúng ta là phải làm là luôn trau dồi,
tiếp thu có chọn lọc những ý kiến mới, việc hôm nay không nên để ngày mai, không
chủ quan trước mọi tình huống, phải biết lắng nghe và tiếp thu sự góp ý của người
khác, nhìn nhận vấn đề một cách khái quát, hành động không theo lối mòn, không
chỉ hoàn thành công việc cho có, mà còn phải hiệu quả, phát huy được năng lực bản
thân.
Thứ tư, khi giải thích các hiện tượng xã hội cần phải tính đến các điều kiện vật
chất lẫn yếu tố tinh thần, điều kiện khách quan lẫn yếu tố khách quan.
16
Trong khi định hướng nghề nghiệp, sinh viên cần phải xem xét đến năng lực của
bản thân, cân nhắc thời gian làm việc và nghỉ ngơi, mức tiền lương so với công sức
chúng ta bỏ ra,... không dựa theo “tâm lý đám đông” dẫn đến hao phí thời gian,
công sức mà kết quả lại không được như ý muốn.
17
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bài tiểu luận Triết học Mác - Lenin phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. StuDocu:
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-kinh-te-thanh-pho-ho-
chi-minh/triet-hoc/bai-tieu-luan-triet-hoc-mac-lenin-phan-tich-moi-quan-he-
giua-vat-chat-va-y-thuc/20127493
2. anh Đặng. (2021). Triết học Mác - Lenin - bộ môn khá thú vị cho nhiều sinh
viên trong trường học. StuDocu:
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-quoc-gia-ha-noi/triet-hoc-mac-
le-nin/triet-hoc-mac-lenin-bo-mon-kha-thu-vi-cho-nhieu-sinh-vien-trong-
truong-hoc-triet-hoc-mac-le-ni/20556095
3. Định hướng nghề nghiệp bản thân: Lời khuyên dành cho các bạn trẻ. (29 06,
2021). Indec:
https://indec.vn/dinh-huong-nghe-nghiep-ban-than-loi-khuyen-danh-cho-cac-
ban-tre/
4. Giáo trình triết học Mác - Lênin. (2021). Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự
thật.
5. Nguyễn Kim Ngân. (07/09/2021). Vật chất và ý thức - Chủ nghĩa duy vật biện
chứng. VnKienthuc:
https://vnkienthuc.com/threads/vat-chat-va-y-thuc-chu-nghia-duy-vat-bien-
chung.88088/
6. Hoàng Linh Nguyễn. Academia: https://www.academia.edu/39421864/TRI
%E1%BA%BET_H%E1%BB%8CC_M%C3%81C
7. Ái Thương. Academia: Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
https://www.academia.edu/9209795/V%E1%BA%ADn_d%E1%BB%A5ng_m
%E1%BB%91i_quan_h%E1%BB%87_gi%E1%BB%AFa_v%E1%BA
%ADt_ch%E1%BA%A5t_v%C3%A0_%C3%BD_th%E1%BB%A9c
8. Tien Tran (17/05/2022). Định Hướng Nghề Nghiệp Cho Tương Lai Không Khó
Như Bạn Nghĩ. Glints:
https://glints.com/vn/blog/giup-ban-dinh-huong-nghe-nghiep-qua-trai-nghiem-
thuc-tap/#.YooCQXZBw2
18
19

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KẾ HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC LÊ-NIN
Đề bài 1: Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ và đánh giá việc giải quyết
mối quan hệ này trong thực tiễn đời sống sinh viên hiện nay. Hà Nội – 2022 Lời mở đầu
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lớn lao và quan trọng nhất của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta hiện nay vì chỉ có thực hiện mục tiêu này, chúng ta mới có
thể xây dựng được đất nước Việt Nam giàu mạnh và phát triển. Và cũng chỉ xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới có thể đạt được mục tiêu quan
trọng nhất là phát triển toàn diện đời sống của nhân dân. Vậy phải làm thế nào để có
thể thực hiện mục tiêu trên? Trên cơ sở thực tiễn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
cùng với lời khẳng định tại đại hội VII của Đảng ta: Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng.
Có nghĩa là chúng ta sẽ lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền móng, làm phương tiện
để tổng kết kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích đúng đắn những đặc điểm của nước
ta. Có như vậy, chúng ta mới có thể dần tìm được quy luật phát triển của cách mạng
Việt Nam, định hướng được đường lối , phương chấm cũng như bước đi cụ thể để
phát triển Cách mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình của đất nước.
Trên tinh thần khai thác đề tài tiểu luận này, với tư cách là một sinh viên, trước
hết em muốn cùng mọi người có cái nhìn sâu rộng hơn về Triết học Mác – Lênin,
cụ thể là ở khía cạnh mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Thứ hai, em
cũng mong muốn sẽ đưa ra những ý kiến quan điểm đúng đắn để góp một phần
công sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp cách mạng lớn lao của Đảng, Nhà nước và toàn dân ta hiện nay.
Do trình độ lý luận cũng như hiểu biết thực tiễn còn hạn chế, bài viết này của
em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của cô để giúp em hoàn thiện kiến thức và nắm chắc hơn bài học để vận dụng vào thực tế. 1 MỤC LỤC
1. Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.......................2
1.1. Vật chất.................................................................................................2
1.1.1. Định nghĩa vật chất...........................................................................2
1.1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất...................................................5
1.2. Ý thức....................................................................................................7
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức........................................................................7
1.2.2 Bản chất của ý thức............................................................................8
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.....................................................9
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình 9
2.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng................................10
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận................................................................11
3. Liên hệ thực tiễn và đánh giá trong việc giải quyết mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức..................................................................12
3.1. Trong học tập......................................................................................12
3.2. Trong vấn đề định hướng nghề nghiệp.............................................14 2
1. Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 1.1. Vật chất
1.1.1. Định nghĩa vật chất
Theo các nhà duy tâm nguồn gốc vật chất là do “sự tha hóa” của “tinh thần thế giới”.
Đối với các nhà duy vật cổ đại (chủ nghĩa duy vật chất phác), vật chất được
quy về một hay một vài dạng cụ thể và xem chúng là khởi nguyên của thế giới
(nước(Thales), lửa(Heraclitus),...)
Các nhà duy vật cận đại (chủ nghĩa duy vật siêu hình) có quan điểm giống các
nhà duy vật cổ đại nhưng họ đã chứng minh được sự tồn tại thực sự của nguyên tử
là phần tử nhỏ nhất của vật chất vĩ mô thông qua thực nghiệm của vật lý học cổ
điển, song lại đồng nhất vật chất với khối lượng và cho rằng sự vận động của sự vật
chỉ là vận động cơ giới, khối lượng của vật thể không thay đổi khi vật thể vận động.
Các quan điểm về phạm trù vật chất đi trước C. Mác đều có hạn chế, sai lầm:
thường đồng nhất vật chất với một dạng cụ thể của vật chất, một thuộc tính của vật
chất. Cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên qua các thành tựu cơ bản dẫn
đến cuộc “khủng hoảng” thế giới quan khoa học và triết học (cuối thế kỷ XIX – đầu
thế kỷ XX). Để khắc phục khủng hoảng này, Lênin cho rằng: “Tinh thần duy vật cơ
bản của vật lý học, cũng như của tất cả các khoa học tự nhiên hiện đại, sẽ chiến
thắng tất cả mọi thứ khủng hoảng, nhưng với điều kiện tất yếu là chủ nghĩa duy vật
biện chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”.1
Quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất:
Ph.Ăngghen cho rằng: “vật chất với tính cách là vật chất, là một sáng tạo
thuần túy của tư duy và là một trừu tượng, không có sự tồn tại cảm tính; bản thân
phạm trù vật chất cũng không phải sự sáng tạo tùy tiện của tư duy con người, mà
trái lại, là kết quả của con đường trừu tượng hóa tư duy của con người về các sự
vật, hiện tượng có thể cảm biết được bằng các giác quan”.2
Trước bối cảnh đó, kế thừa tư tưởng của Ph.Ăngghen, trên cơ sở tổng kết
những thành tựu của khoa học tự nhiên, V.I. Lênin đưa ra định nghĩa về vật chất để
lấy lại thế giới quan duy vật cho các nhà khoa học: “Vật chất là một phạm trù triết 1 Sdđ, tr.379
2 C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, t. 20, tr. 751. 3
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”. (“CNDV và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” (1909) của Lênin)3
Phân tích định nghĩa:
Phạm trù triết học là những phạm trù chung nhất dùng trong mọi lĩnh vực.
Vật chất với tư cách phạm trù triết học là vật chất nói chung, vô tận, vô hạn,
không sinh ra, không mất đi đối lập với quan điểm về dạng vật chất của khoa học là
vật chất cụ thể, đều có giới hạn, có sinh ra, có mất đi.
Thực tại khách quan là thuộc tính chung nhất có ở mọi dạng vật chất, là
thuộc tính cơ bản khái quát nhất để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là
vật chất. Thực tại khách quan có nghĩa là sự tồn tại của nó không phụ thuộc vào
nhận thức của con người.
Nội dung định nghĩa:
Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác (tức là
thực tại khách quan (vật chất) là cái có trước, quyết định còn cảm giác (ý thức) là
cái có sau, bị quy định).
Vật chất là thực tại khách quan, tức là cái tồn tại hiện thực bên ngoài, không
phụ thuộc vào ý thức, sự tồn tại của vật chất không phụ thuộc vào việc con người đã
nhận thức được hay chưa nhận thức được.
Thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh (tức là con người bằng cái giác
quan của mình có thể nhận thức được thực tại khách quan)
Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác
động lên các giác quan của con người (con người chúng ta tính cho đến nay nay có
năm giác quan: khứu giác, vị giác, thị giác, thính giác, xúc giác. Khi có một sự vật,
hiện tượng gây nên cảm giác của con người qua các giác quan đó, tác động đến con
người gián tiếp hoặc trực tiếp: thì đó là vật chất).
Vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó
Ý thức của con người không tự sinh ra mà là sự phản ánh thế giới bên ngoài.
Nhưng phản ánh lại thế giới vật chất là chưa đủ để ý thức tồn tại, phát triển. Bộ óc
3 V. I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, t. 18, tr.151. 4
người cần phải cải biên vật chất để hình thành ngôn ngữ qua lao động, các hình thái
xã hội. Ý thức tồn tại, phát triển được lên cao hơn do vai trò trực tiếp, quan trọng
của lao động và thực tiễn xã hội. Nếu thiếu đi ngôn ngữ, sẽ không có phương tiện
để phản ánh hiện thực thế giới khách quan.
Ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lênin
Lấy lại thế giới quan đúng đắn cho các nhà khoa học.
Bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo về vật chất.
Chỉ ra sai lầm và khắc phục được hạn chế của các nhà duy vật cũ.
Phát triển chủ nghĩa duy vật trên cơ sở thành tựu khoa học tự nhiên mới nhất.
1.1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất
Vật chất, cái thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác, các
dạng tồn tại cụ thể của vật chất vốn hết sức phong phú đa dạng.
Theo Ph. Ăngghen: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì
bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí giản đơn cho đến tư duy”.4
Với cách hiểu như thế, vận động là phương thức tồn tại của vật chất, nhờ vận
động và thông qua vận động mà vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Do đó, con
người chỉ nhận thức được sâu sắc sự vật, hiện tượng bằng cách xem xét chúng trong quá trình vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Nguồn gốc của vận động là do sự tác động lẫn nhau của các yếu tố, bộ phận
cấu thành sự vật; vận động của vật chất là tự thân vận động, là tuyệt đối, vĩnh viễn.
Các hình thức vận động cơ bản của vật chất
Căn cứ vào các trình độ phát triển của thế giới vật chất, Ph. Ăngghen chia
vận động thành 5 hình thức cơ bản: Vận động cơ học
Vận động sinh học Vận động vật lý
Vận động hóa học
Vận động xã hội
4 C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, t. 20, tr. 751. 5
Vận động cơ học: sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian. (nhìn
thấy). Ví dụ: quạt đang quay
Vận động vật lý: sự vận động của các phân tử, điện tử, sự biến đổi của các hạt
cơ bản. (có hoặc không nhìn thấy). Ví dụ: vận động của dòng electron, của điện từ quay xung quanh hạt nhân
Vận động hóa học: quá trình phân giải và hóa hợp của các chất. (có hoặc
không nhìn thấy). Ví dụ: sự kết hợp giữa H2 và O2 tạo thành H2O
Vận động sinh vật: sự biến đổi gen, trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi
trường. Ví dụ: quá trình quang hợp của cây xanh
Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực của xã hội, sự thay thế nhau
các hình thái kinh tế - xã hội (vận động cao nhất-hình thức vận động đặc trưng của con người).
Mỗi hình thức vận động cơ bản trên khác nhau về chất, nhưng giữa chúng lại
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trong đó hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ
sở của hình thức vận động thấp hơn và bao hàm tất cả những hình thức vận động
thấp hơn và các hình thức vận động có thể chuyển hóa cho nhau.
Đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong trạng
thái cân bằng, trong sự ổn định tương đối, nói lên sự vật còn là nó mà chưa chuyển hóa thành cái khác.
Không gian, thời gian
Chủ nghĩa duy tâm phủ nhận tính khách quan của không gian và thời gian.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình không gian, thời gian, vận động không liên quan
với nhau và ở bên ngoài vật chất (Newton).
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian
và thời gian và xem chúng là hình thức tồn tại của vật chất vận động, được con
người khái quát khi nhận thức về thế giới: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là 6
không gian và thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không gian”.5
Không gian: mọi sự vật hiện tượng đều có kích thước, kết cấu dài ngắn cao
thấp khác nhau – những cái đó gọi là không gian; không có sự vật nào lại không có không gian của nó.
Thời gian: sự vật luôn tồn tại trong trạng thái biến đổi nhanh chậm, chuyển
hóa kế tiếp nhau – thời gian.
Không gian và thời gian có tính khách quan, vĩnh cửu và vô tận. Không gian
có tính 3 chiều (dài, rộng, cao). Thời gian có tính một chiều (từ quá khứ, hiện tại đến tương lai)
Không gian và thời gian gắn bó mật thiết với nhau và gắn liền với vật chất,
không có một dạng vật chất nào tồn tại ở bên ngoài nó. Ngược lại, cũng không thể
có thời gian và không gian nào ở ngoài vật chất.
Tính thống nhất vật chất của thế giới:
CNDV biện chứng khẳng định thế giới thống nhất ở tính vật chất vì:
Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất tồn tại khách quan.
Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh ra và không bị mất đi.
Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều có mối liên hệ, thống nhất với nhau. 1.2. Ý thức
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác – Lênin khẳng định ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người.
Bộ não người và sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ não con người
chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức (lý thuyết phản ánh – Lênin). Nếu không có
bộ não người và thuộc tính phản ánh của nó thì sự tác động lẫn nhau giữa bộ
não người với thế giới khách quan sẽ không thể có ý thức.
Nguồn gốc xã hội
5 C. Mác & Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.78. 7
Sự phát triển của giới tự nhiên mới tạo ra tiền đề vật chất có năng lực phản
ánh, chỉ là điều kiện cần cho sự ra đời của ý thức. Hoạt động thực tiễn của loài
người mới là nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời của ý thức, trong đó cơ bản
nhất và trực tiếp nhất là lao động và ngôn ngữ.
Lao động: là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới
tự nhiên, cải biến những dạng vật chất của giới tự nhiên thỏa mãn nhu cầu tồn tại
của mình. Từ đó mà từng bước làm biến đổi cấu trúc cơ thể của con người để thực
hiện những động tác tinh vi hơn, mặt khác cũng giúp con người có khả năng sáng
tạo ra công cụ lao động và sử dụng công cụ ấy phục vụ mục đích sống của con người.
Việc tạo ra và sử dụng công cụ trong lao động một mặt giúp con người thỏa
mãn nhu cầu tồn tại của mình đưa bộ não con người ngày càng phát triển, hoàn
thiện về mặt sinh học. Mặt khác, nó tạo ra công cụ, phương tiện giúp con người
nhận thức thế giới thuận lợi hơn.
Trong quá trình lao động, con người tương tác với các đối tượng trong thế giới
làm cho chúng bộc lộ ra những thuộc tính thông qua đó con người nhận thức hình
thành lên tri thức – thành phần quan trọng của ý thức. Đồng thời, quá trình lao động
con người làm biến đổi thế giới và ngược lại làm biến đổi chính bản thân mình,
ngày càng làm sâu sắc và phong phú thêm ý thức của mình.
Lao động ngay từ đầu đã mang tính xã hội, từ đó nảy sinh nhu cầu hình thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ một mặt là kết quả của lao động, mặt khác lại là nhân tố tích cực tác
động đến quá trình lao động và phát triển ý thức con người.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là công cụ thể
hiện ý thức, tư tưởng và tạo điều kiện để phát triển ý thức.
Ngôn ngữ giúp con người phản ánh khái quát những đặc tính, những thuộc tính
của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Ngôn ngữ giúp con người trao đổi kinh nghiệm hoạt động sống.
1.2.2 Bản chất của ý thức 8
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách
quan của óc người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan:
Cả vật chất và ý thức đều tồn tại nhưng sự tồn tại của vật chất là tồn tại khách quan
còn ý thức tồn tại chủ quan. Ý thức không phải sự vật mà chỉ là “hình ảnh” của sự
vật ở trong đầu óc con người. Sự tồn tại của ý thức gắn liền với sự tồn tại của con
người và khả năng nhận thức của con người.
Ý thức phản ánh thế giới khách quan, nhưng thế giới đó đã được cải biến thông qua
lăng kính chủ quan của con người (chịu tác động của các yếu tố như: tâm tư, tình
cảm, nguyện vọng, nhu cầu, tri thức, kinh nghiệm...). Ý thức là sự phản ánh năng
động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của phản ánh ý thức:
Tính năng động của ý thức thể hiện ở sự phản ánh, chọn lọc và luôn đáp ứng yêu
cầu hoạt động thực tiễn.
Tính sáng tạo thể hiện ở chỗ: Dưa trên những tri thức đã biết có thể rút ra tri thức
mới, có thể dự báo tương lai, có thể tạo ra lý thuyết khoa học trừu tượng, có thể
sáng tạo ra những cái không có trong hiện thực…
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội:
Sự ra đời và phát triển của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người,
chịu chi phối không chỉ của các quy luật tự nhiên mà còn (và chủ yếu là) của các quy luật xã hội.
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của con người về hiện thực khách
quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử.
Các lớp cấu trúc của ý thức: xem xét ý thức dựa trên các yếu tố hợp thành, ý
thức gồm nhiều yếu tố quan hệ mật thiết với nhau, trong đó yếu tố cơ bản nhất là tri
thức, tình cảm, niềm tin, ý chí. Trong đó, tri thức có vai trò quyết định ý thức vì nó
là phương thức tồn tại của ý thức.
Các cấp độ của ý thức: xem xét ý thức dựa theo chiều sâu của thế giới nội tâm
con người, ý thức bao gồm: tự ý thức, vô thức và tiềm thức.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 9
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy tâm: Ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, có tính quyết định;
còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ
2, do ý thức tinh thần sinh ra.
Phủ nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ quan, duy ý chí,
hành động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan
Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh
một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức
Phủ nhận tính độc lập tương đối và tính năng động sáng tạo của ý thức trong
hoạt động thực tiễn; rơi vào trạng thái thụ động, ỷ lại, trông chờ không đem lại hiệu
quả trong hoạt động thực tiễn
2.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Vật chất quyết định ý thức: Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức.
Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở 4 phương diện sau:
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là
tính thứ nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con
người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
Sự vận động của thế giới vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới
khách quan) và vật chất trong xã hội (thông qua lao động và ngôn ngữ) là yếu tố
quyết định sự ra đời của vật chất.
Vật chất quyết định nội dung của ý thức
Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội
dung của ý thức chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan một
cách năng động, sáng tạo vào trong đầu óc con người.
Tất cả những gì mà con người tưởng tượng ra cũng đều lấy chất liệu từ thế giới khách quan (vật chất).
Vật chất quyết định bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua hoạt động
thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con 10
người - là cơ sở để hình thành phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa
phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Vật chất quyết định sự vận động, biến đổi của ý thức
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật
chất, vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả
về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
Vật chất là điều kiện, là chất liệu giúp hiện thực hóa ý thức
Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
Thứ nhất, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc của con người.
Nhưng từ khi ra đời, ý thức có “đời sống” riêng, không lệ thuộc một cách máy móc
vào vật chất và có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Ý thức có thể thay đổi nhanh chậm, song hành với hiện thực nhưng nhìn
chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều
kiện, hoàn cảnh vật chất phục vụ cho cuộc sống con người.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người; nó có thể quyết định sự thành bại của hoạt động thực tiễn:
Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Khi phản ánh sai hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất.
Thứ tư xã hội càng phát triển thì vai trò của ý ,
thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại thông tin, thời đại kinh tế tri thức, thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá
tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện
khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động, chỉ có như vậy thì mới
có thể hành động đúng đắn, thành công trong hoạt động thực tiễn.
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Ý nghĩa phương pháp luận chủ đạo: Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát
huy tính năng động chủ quan. 11
Tôn trọng tính khách quan: Vật chất quyết định ý thức, do đó mọi suy nghĩ
và hành động đều phải xuất phát từ hiện thực khách quan, chống chủ quan duy ý
chí. Mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch... đều phải xuất phát từ điều kiện, tiền đề
vật chất hiện có. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
Phát huy tính năng động chủ quan: Phải phát huy tính năng động, sáng tạo
của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng thụ động; coi trọng
công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức,
ý chí và nghị lực để bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
Muốn thực hiện tốt nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính
năng động chủ quan, cần nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích
với thái độ thật sự khách quan, khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
3. Liên hệ thực tiễn và đánh giá trong việc giải quyết mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức 3.1. Trong học tập
Vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi
phải xuất phát từ thực tế khách quan.
Trước hết, bản thân tôi phải tự xác định được các điều kiện khách quan ảnh hưởng
đến cuộc sống học tập của bản thân. Cụ thể, trong học tập, tôi cần phải xác định
được nội quy trường học, chấp hành đúng kỷ luật; tuân thủ thời khóa biểu, đi học
đúng giờ, tham gia các tiết học đầy đủ và hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra.
Ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính năng
động chủ quan tức là phải phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý thức.
Trong kết cấu của ý thức thì tri thức là yếu tố có vai trò quyết định ý thức, là
phương thức vận động và tồn tại của ý thức. Trong học tập, để có thể phát triển bản
thân, thì không nên cứ thụ động, ỷ lại những gì mình đã học, đã biết. Mà phải cập
nhật, đổi mới so sánh để tìm ra cách tối ưu nhất để hoàn thành mục tiêu. Cụ thể,
sinh viên cần phải tích cực trong học tập, chủ động tìm hiểu và khai thác vấn đề, khi 12
học không nên quá phụ thuộc vào giảng viên mà thay vào đó hãy suy nghĩ những ý tưởng của riêng mình.
Ví dụ trong những buổi học nhóm hay thảo luận, tôi thường tìm đến kiến thức
chuyên ngành. Tuy nhiên, những tri thức tiếp thu từ sách vở là chưa đủ, xã hội luôn
đòi hỏi mỗi người phải có một vốn kỹ năng sống dày dặn. Muốn làm được như vậy
thì chúng ta cần tham gia vào các hoạt động xã hội hay tìm kiếm một công việc làm
thêm phù hợp trau dồi kỹ năng sống.
Tình cảm là những rung cảm của con người trong các mối quan hệ với hiện
thực. Nhờ có tình cảm mà tri thức mới có sức mạnh và trở thành cơ sở cho hành
động. Nói cách khác, tình cảm là động lực lớn nhất thúc đẩy chúng ta đi đến thành công.
Muốn đạt thành tích tốt trong học tập, cần phải có niềm đam mê đối với mỗi môn
học dù là môn chuyên ngành hay môn đại cương; cần phải tạo cảm giác thoải mái
và tình thần vui vẻ trong học tập thì mới tạo ra được hứng thú để tìm tòi, học hỏi.
Ngoài ra, tình cảm gia đình góp phần giúp bản thân vượt qua những khó khăn
để tiếp tục con đường học tập.
Niềm tin là động cơ tinh thần định hướng cho những hoạt động của con người.
Là một sinh viên tốt thì cần phải biết đặt niềm tin vào nhiều thứ. Đặc biết là cần
phải có niềm tin ở chính bản thân mình, phải biết đặt ra hoài bão, ước mơ nhưng
không bao giờ được quên việc thực hiện hóa nó bằng các kế hoạch cụ thể. Một khi
có niềm tin thì chắc chắn sẽ có động lực để phấn đấu, vươn lên nhằm đạt được
những mục tiêu đặt ra. Ví dụ như mục tiêu bây giờ của tôi chính là đạt được học
bổng loại giỏi trở lên nhưng muốn thực hiện được điều ấy thì phải lập ra thời gian
biểu học tập cụ thể với một phương pháp học đúng đắn.
Ý chí biểu hiện cho sức mạnh tinh thần của con người, giúp con người vượt qua
những khó khăn, trở ngại để đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Môi trường đại học
ẩn chứa rất nhiều thử thách và cám dỗ vì vậy, cần phải xây dựng cho mình một ý chí
kiên định nhằm tránh xa những thói hư tật xấu.
Ví dụ như cuộc sống sinh viên tự do đòi hỏi tôi phải lập ra những quy tắc riêng cho
bản thân để giữ vững lập trường của mình trước những cạm bẫy trước mắt: tránh
tụ tập nhậu nhẹt ăn chơi sa đà, không vì lười biếng mà cúp học, chưa học bài xong 13
chưa đi ngủ chưa học bài đủ chưa đi chơi, không nên chạy theo những công việc chỉ
sinh ra lợi ích tức thời mà bỏ bê việc học.
Cần phải phát huy tính năng động chủ quan đồng thời chống lại bệnh chủ
quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ.
Ví dụ như sau một bài thuyết trình thì phải nán lại lắng nghe ý kiến chỉnh sửa của
cả lớp và giảng viên hay khi làm bài hoặc họp nhóm cần phải sáng tạo, đột phá, cải
tiến cái cũ nhưng không nên quá cầu toàn. Khi đăng kí học phần không nên đăng kí
quá nhiều tránh việc không kham nổi. Khi hoàn thành công việc, không nên chủ
quan không kiểm tra lại, vì nghĩ mình đã làm nhiều lần thành công.
Bản thân không được lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, áp đặt thực tế. Trong
một tập thể, khi muốn tìm ra giải pháp, kế hoạch biết lắng nghe tôn trọng quan điểm
, ý kiến của người khác rồi mới thống nhất quyết định, không lấy tình cảm để quyết
định cho chiến lược công việc. Một quan điểm về sự vật, hiện tượng nào đó có thể
đúng ở thời gian, không gian này nhưng khi ở thời điểm khác nó đã trở nên lạc hậu, lỗi thời.
Cần phải xem xét các điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh thần, điều kiện khách
quan lẫn yếu tố khách quan.
Ví dụ đối với việc đăng lý học phần, sinh viên cần phải tính đến năng lực học tập
của bản thân, điều kiện tài chính của gia đình, cân nhắc quỹ thời gian, không đăng
ký học phần một cách tràn lan với mục đích tốt nghiệp sớm tránh trường hợp học
không theo kịp, dẫn đến hao phí tiền bạc, thời gian, công sức mà kết quả lại không được như ý muốn.
3.2. Trong vấn đề định hướng nghề nghiệp
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan.
Đầu tiên, bản thân tôi phải tự xác định được các điều kiện khách quan, đánh giá
được hoàn cảnh, khả năng để định hướng bản thân theo con đường đúng đắn.
Cụ thể là, dựa trên xu hướng phát triển của thị trường việc làm (cơ hội việc làm,
mức lương,...). Nắm bắt xu hướng việc làm nhanh nhạy sẽ giúp chúng ta tiếp cận
được nhiều cơ hội việc làm tốt và có khả năng thăng tiến cao trong tương lai. Nhiều
bạn sau khi học đại học thậm chí đang học đại học đã nhận ra bản thân không thực 14
sự phù hợp với chuyên ngành hiện tại, muốn chuyển hướng sang những lĩnh vực
mới phù hợp hơn nhưng vẫn đắn đo, thiếu định hướng về lộ trình phát triển mới.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy
tính năng động chủ quan tức là phải phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý thức.
Tri thức là yếu tố có vai trò quyết định ý thức, là phương thức vận động và tồn tại của ý thức.
Thực tế cho thấy, những người thành công chỉ vâ „n dụng có 25% kiến thức chuyên
môn trong công viê „c, còn lại 75% là dựa vào những kỹ năng mềm mà họ đã học hỏi
và rèn luyê „n được. Do đó, bên cạnh kiến thức chuyên ngành, chúng ta cần liên tục
bổ sung những kỹ năng mềm hữu ích.
Hiện nay, có rất nhiều khóa học kỹ năng để chúng ta đăng ký tham gia. Khi dành
thời gian học tâ „p và nghiên cứu sâu về một kỹ năng, chúng ta sẽ càng định hướng
nghề nghiê „p bản thân rõ ràng và chính xác hơn nữa.
Cách tốt nhất để biết bản thân có phù hợp với nghề nghiê „p nào đó hay không chính
là tự bản thân bạn phải trải nghiê „m. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, bạn
nên tìm cơ hô „i làm những công viê „c mình quan tâm để hiểu rõ hơn về nghề nghiê „p
đó cũng như nhâ „n định được xem bản thân có phù hợp với nghề hay không.
Tình cảm là những rung động của con. Nhờ có tình cảm mà tri thức mới có sức
mạnh và sau đó trở thành cơ sở cho hành động. Nói cách khác, tình cảm là động lực
lớn nhất thúc đẩy chúng ta đi đến thành công.
Được làm công việc đúng sở trường và khuynh hướng phát triển cũng giúp chúng ta
lĩnh hội kiến thức nhanh chóng và hoàn thành công việc hiệu quả hơn. Việc miễn
cưỡng theo đuổi nghề nghiệp không phù hợp cũng giống như người bơi ngược
dòng, chúng ta sẽ cảm thấy rất mệt mỏi, mất sức, căng thẳng và chịu áp lực lớn khi làm việc.
Ý chí biểu hiện cho sức mạnh tinh thần của con người, giúp con người vượt qua
những khó khăn, trở ngại để đạt được những mục tiêu đã đặt ra
Không ít bạn trẻ chịu ảnh hưởng từ những định hướng nghề nghiê „p của bố mẹ,
người thân. Mặc dù lời khuyên của người đi trước rất đáng quý nhưng bạn cần nhận
thức rõ về sở thích, mong muốn của bản thân và nhìn nhận ý kiến của gia đình ở 15
góc độ khách quan nhất. Nếu nhâ „n thấy những định hướng này không phù hợp, bạn
cần kiên định với quan điểm của mình.
Bên cạnh đó, bạn cũng nên tránh trường hợp chọn nghề nghiê „p dựa trên tâm lý đám
đông, thấy nghề nào đang hot, dễ kiếm tiền thì chạy theo nghề ấy bất chấp việc bản
thân không phù hợp. Hãy nhớ rằng: Sức hút của nghề càng lớn sẽ đồng nghĩa với
mức độ cạnh tranh cũng ác liệt, áp lực bị đào thải cũng tăng cao. Nếu bản thân
không phù hợp với ngành nghề lựa chọn, bạn sẽ dễ có cảm giác chán nản và khó
gắn bó với công việc lâu dài.
Mỗi cá nhân đều mang trong mình những nét đặc trưng và ưu, khuyết điểm riêng.
Vì vậy, việc định hướng nghề nghiệp phải xuất phát từ tài năng, sở thích và thiên
hướng của bản thân. Bạn cần tự đặt ra lựa chọn nghề nghiệp mình muốn theo đuổi,
cũng như vạch ra các bước đi đúng đắn để có thể phát triển sự nghiệp theo hướng đó trong tương lai xa.
Niềm tin là động cơ tinh thần định hướng cho những hoạt động của con người.
Ví dụ như mục tiêu bây giờ của chúng ta chính là được làm công việc mà bản thân
hứng thú với một mức lương hấp dẫn nhưng muốn thực hiện được điều ấy thì phải
lên danh sách những kỹ năng có lợi thể đối với ngành nghề chúng ta chọn. Nên ưu
tiên các kỹ năng quan trọng mà mọi ngành nghề đều cần đến (kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng quản lý thời gian, chứng chỉ ngoại ngữ,...).
Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ.
Cụ thể, đối với các bạn sinh viên, xu hướng thị trường lao động luôn luôn biến đổi
không ngừng, nên nếu bệnh chủ quan, ỷ lại, phụ thuộc vào người khác, không nhận
ra yếu kém của bản thân, chắc chắn sẽ bị lạc hậu, bước lùi, không phù hợp với trình
độ phát triển, dẫn đến thất nghiệp. Do đó, điều chúng ta là phải làm là luôn trau dồi,
tiếp thu có chọn lọc những ý kiến mới, việc hôm nay không nên để ngày mai, không
chủ quan trước mọi tình huống, phải biết lắng nghe và tiếp thu sự góp ý của người
khác, nhìn nhận vấn đề một cách khái quát, hành động không theo lối mòn, không
chỉ hoàn thành công việc cho có, mà còn phải hiệu quả, phát huy được năng lực bản thân.
Thứ tư, khi giải thích các hiện tượng xã hội cần phải tính đến các điều kiện vật
chất lẫn yếu tố tinh thần, điều kiện khách quan lẫn yếu tố khách quan. 16
Trong khi định hướng nghề nghiệp, sinh viên cần phải xem xét đến năng lực của
bản thân, cân nhắc thời gian làm việc và nghỉ ngơi, mức tiền lương so với công sức
chúng ta bỏ ra,... không dựa theo “tâm lý đám đông” dẫn đến hao phí thời gian,
công sức mà kết quả lại không được như ý muốn. 17
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bài tiểu luận Triết học Mác - Lenin phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. StuDocu:
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-kinh-te-thanh-pho-ho-
chi-minh/triet-hoc/bai-tieu-luan-triet-hoc-mac-lenin-phan-tich-moi-quan-he-
giua-vat-chat-va-y-thuc/20127493
2. anh Đặng. (2021). Triết học Mác - Lenin - bộ môn khá thú vị cho nhiều sinh
viên trong trường học. StuDocu:
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-quoc-gia-ha-noi/triet-hoc-mac-
le-nin/triet-hoc-mac-lenin-bo-mon-kha-thu-vi-cho-nhieu-sinh-vien-trong-
truong-hoc-triet-hoc-mac-le-ni/20556095
3. Định hướng nghề nghiệp bản thân: Lời khuyên dành cho các bạn trẻ. (29 06, 2021). Indec:
https://indec.vn/dinh-huong-nghe-nghiep-ban-than-loi-khuyen-danh-cho-cac- ban-tre/
4. Giáo trình triết học Mác - Lênin. (2021). Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
5. Nguyễn Kim Ngân. (07/09/2021). Vật chất và ý thức - Chủ nghĩa duy vật biện chứng. VnKienthuc:
https://vnkienthuc.com/threads/vat-chat-va-y-thuc-chu-nghia-duy-vat-bien- chung.88088/
6. Hoàng Linh Nguyễn. Academia: https://www.academia.edu/39421864/TRI
%E1%BA%BET_H%E1%BB%8CC_M%C3%81C
7. Ái Thương. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Academia:
https://www.academia.edu/9209795/V%E1%BA%ADn_d%E1%BB%A5ng_m
%E1%BB%91i_quan_h%E1%BB%87_gi%E1%BB%AFa_v%E1%BA
%ADt_ch%E1%BA%A5t_v%C3%A0_%C3%BD_th%E1%BB%A9c
8. Tien Tran (17/05/2022). Định Hướng Nghề Nghiệp Cho Tương Lai Không Khó
Như Bạn Nghĩ. Glints:
https://glints.com/vn/blog/giup-ban-dinh-huong-nghe-nghiep-qua-trai-nghiem- thuc-tap/#.YooCQXZBw2 18 19