












Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE BÀI TẬP LỚN
Môn: Triết học Mác - Lênin
Đề 1: Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ và đánh giá việc giải quyết mối
quan hệ này trong thực tiễn đời sống sinh viên hiện nay ( trong lựa chọn ngành
học, định hướng nghề nghiệp trong tình bạn, tình yêu…)
GVHD: TS. Nguyễn Thị Lê Thư
Họ tên: Cao Phương Anh Mã SV: 11210282 Lớp: THMLN_B5/7 Hà Nội – 2022 1 Lời mở đầu
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian
tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại. Triết học nghiên cứu thế giới
bằng phương pháp của riêng mình khác với mọi khoa học cụ thể, nó xem xét thế
giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể
đó .Trong triết học Mác - Lênin, phép biện chứng duy vật được coi là phương pháp
luận chung nhất của mọi hoạt động thực tiễn, giúp con người nhận thức được thế giới.
Và nếu quan hệ giữa vật chất và ý thức, tồn tại và tư duy là vấn đề cơ bản chi
phối đối với bất cứ hệ thống triết học nào thì một vấn đề quan trọng khác mà triết
học quan tâm và muốn làm sáng tỏ là các sự vật, hiện tượng của thế giới xung
quanh tồn tại như thế nào, chúng hoàn toàn biệt lập hay phụ thuộc lẫn nhau, hàon
toàn ở trong trạng thái ngưng đọng hay vận động không ngừng. Lịch sử của triết
học cho thấy, mặc dù có nhiều cách trả lời khác nhau về vấn dề này, nhưng suy cho
cùng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là biện chứng và siêu hình.
Những lý thuyết về phép biện chứng duy vật giúp ta nắm vững những nguyên
tắc phương pháp luận của các khoa học triết học và cung cấp vũ khí luận sắc bén
cho giai cấp vô sản chiến thắng kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Và chính vì thế nên
Đảng và Nhà nước ta luôn trung thành với những nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin nói chung và triết học Mác-Lênin nói riêng.
Để làm rõ những điều đó thì em xin phép được phân tích đề 1 trong bài làm của
mình. Em cũng xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Lê Thư đã nhiệt tình chỉ bảo,
dạy dỗ chúng em trong môn triết học này và giúp chúng em có cái nhìn sâu sắc,
khách quan hơn rất nhiều ạ, trong quá trình bài làm có gì sơ sót mong cô giáo thông cảm ạ. 2
I. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. 1. Vật chất
a) Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về phạm trù vật chất
Chủ nghĩa duy vật thời Cổ đại xuất hiện vào khoảng thế kỉ VIII – VI TCN, đặc
biệt là ở Hy Lạp – La Mã, Trung Quốc, Ấn Độ với quan niệm chất phác về giới tự
nhiên, vật chất, quy vật chất về vật thể hữu hình, cảm tính và xem chúng là khởi
nguyên của thế giới, như nước (Thales), lửa (Heraclitus), không khí (Anaximenes);
đất, nước, lửa, gió (Tứ đại - Ấn Độ); Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ (Ngũ hành – Trung Quốc).
Bước tiến quan trọng nhất có lẽ là của hai nhà triết học Hy Lạp Loxip và
Democrit khi cả hai đều, cho rằng vật chất là nguyên tử. Nguyên tử theo họ là
những hạt nhỏ nhất, không thể phân chia, không khác về chất, tồn tại vĩnh viễn và
phong phú về hình dạng, tư thế, trật tự sắp xếp. Nó là vật chất bao quát nhất, chung
nhất nhưng không có nghĩa con người có thể cảm nhận trực tiếp mà là một lớp các
phần tử hữu hình rộng rãi nằm sâu trong mỗi sự vật, hiện tượng.
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XV – XVIII, đến thế kỷ XVII – XVIII, chủ nghĩa duy
vật mang hình thức chủ nghĩa duy vật siêu hình. Những thành công kỳ diệu của
Newton trong vật lý học cổ điển và việc khoa học vật lý thực nghiệm chứng minh
được sự tồn tại của nguyên tử càng làm cho quan niệm được củng cố thêm. Song,
nhìn chung các nhà triết học duy vật thời kì cận đại thường đồng nhất vật chất với
khối lượng, coi những định luật cơ học như những chân lý không thể thêm bớt và
giải thích mọi thứ theo chuẩn mực thuần túy cơ học. 3
b) Thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX: đảo lộn tất cả
thế giới quan khoa học và triết học.
- 1895: Ronghen phát hiện ra tia X.
- 1896: Beccoren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani.
- 1897: Thomson phát hiện ra điện tử.
- 1903: Kaufman chứng minh được khối lượng của điện tử có thể thay đổi theo
vận tốc vận động của nguyên tử.
- 1905 và 1916: Thuyết Tương đối hẹp Thuyết Tương đối Tổng quát của
Anhxtanh ra đời chứng minh không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi
cùng sự vận động của vật chất.
Điều này đã gây ra khủng khoảng. Nhiều nhà khoa học đã trượt và rơi vào chủ
nghĩa duy tâm. V.I. Lênin gọi đó là “chủ nghĩa duy tâm vật lý học” và coi đó là
“bước ngoặt nhất thời”, là “thời kỳ ốm đau ngắn ngủi”, là “chứng bệnh của sự
trưởng thành”. Để khắc phục khủng hoảng, V.I. Lênin cho rằng tinh thần duy vật cơ
bản cũng như của các khoa học tự nhiên hiện đại sẽ chiến thắng nhưng với điều
kiện chủ nghĩa duy vật biện chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình.
c) Quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất
V.I. Lênin đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tổn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”. Định nghĩa cũng bao hàm các nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, vật
chất là thực tại khách quan – cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và không lệ
thuộc vào ý thức. Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con
người thì đem lại cho con người cảm giác. Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng
qua chỉ là sự phản ánh của nó. 4
Phương pháp luận của Lênin: Lênin đã đem đối lập vật chất và ý thức, chỉ ra sự
khác biệt giữa chúng để làm rõ thế nào là vật chất, ý thức, là cơ sở cho việc xác
định vật chất trong xã hội, là các điều kiện sinh hoạt vật chất, hoạt động vật chất và
các quan hệ vật chất xã hội giữa người với người.
d) Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của
vật chất, bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ
sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy. Nguồn gốc của vận động đến từ bên
trong sự vật, hay là “tự thân vận động” và mang tính phổ biến. Có năm hình thức
vận động cơ bản: cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã hội. Ngoài ra, sự vận động
không ngừng của vật chất còn bao hàm sự đứng im trong tương đối. Ở đây đứng im
mang tính tương đối, còn vận động lại mang tính tuyệt đối. Đứng im còn là một
hình thức vận động đặc biệt. 2. Ý thức
a) Nguồn gốc của ý thức
- Nguồn gốc tự nhiên: Sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của con
người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
- Nguồn gốc xã hội: Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu làm
chuyển biến dần bộ óc của loài vượn người thành bộ óc con người và tâm lý động
vật thành ý thức con người. Vì thế, nguồn gốc xã hội có vai trò quyết định đến sự hình thành ý thức. b) Bản chất 5
Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản
ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người. Theo như Mác thì “ý
thức là các vật chất được di chuyển vào đầu óc của con người và được cải biến đi ở
trong đó”. Còn theo Lênin thì “ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách
quan”. Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.
Đó còn là kết quả của quá trình phản ánh có định hướng, mục đích rõ rệt. Từ kết
quả nghiên cứu cho thấy: ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc
người về hiện thực khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội – lịch sử. c) Kết cấu
Các lớp cấu trúc của ý thức: tri thức, tình cảm, ý chí; trong đó là nhân tri thức
tố cơ bản, cốt lõi nhất. Ý thức mà không bao hàm tri thức thì chỉ là một sự trừu
tượng trống rỗng, không giúp ích được gì. Cùng với đó, tình cảm là một hình thái
đặc biệt phản ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới
khách quan. Muốn vượt qua khó khăn để đạt tới mục đích, chủ thể nhận thức phải
có ý chí, quyết tâm cao.
Các cấp độ của ý thức: tự ý thức, tiềm thức, vô thức. Tự ý thức là ý thức hướng
về nhận thức bản thân mình, là yếu tố quan trọng của ý thức, đánh dấu trình độ phát
triển của ý thức. Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng
gần như đã thành bản năng. Còn
là hiện tượng tâm lý không phải do lý trí vô thức
điều khiển, nằm ngoài phạm vi kiểm soát của ý thức trong một lúc nào đó.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a) Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
Đối với chủ nghĩa duy tâm, ý thức, tinh thần vốn có của con người bị trừu
tượng hóa, họ coi ý thức là tồn tại duy nhất, là tính thứ nhất còn thế giới vật chất
chỉ là bản sao, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra. Trên thực tế, chủ nghĩa 6
duy tâm là chủ nghĩa ngu dân, phủ nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ quan.
Đối với chủ nghĩa duy vật siêu hình tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, nhấn mạnh
một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của ý
thức, không thấy vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động thực tiễn.
b) Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý
thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
Vật chất quyết định ý thức
: được thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức.
- Vật chất quyết định bản chất của ý thức.
- Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Ý thức quyết định vật chất
: thể hiện qua các khía cạnh sau:
- Tính độc lập tương đối của ý thức được thể hiện ở sự phản ánh thế giới vật
chất vào trong đầu óc con người.
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con người.
- Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn. c) Phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác – Lênin, rút ra
nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính
năng động chủ quan. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, ta đều phải thực tế
khách quan từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có, nếu không phải gánh chịu 7
những hậu quả tai nạn khôn lường. Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức,
phát huy vai trò nhân tốc con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, bảo
thủ, kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với tập thể.
II. Liên hệ và đánh giá việc giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn đời
sống sinh viên hiện nay
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật
chất có trước, ý thức có sau. Vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức,
nhưng ý thức không thụ động mà còn có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động
của con người. Vật chất và ý thức có quan hệ hai chiều và tác động qua lại lẫn
nhau. Trong thực tiễn các quyết định đưa ra có thể do một trong hai vật chất và ý
thức đóng vai trò quyết định. Và hiện tại ngày nay thì khi đưa ra các lựa chọn, mối
quan hệ này vẫn luôn chặt chẽ và ảnh hưởng nhiều đến các quyết định trong mọi sự
việc. Việc vật chất có trước sẽ tạo nền móng cho ý thức, tư tưởng, từ đó con người
có thể đưa ra được lựa chọn phù hợp với yêu cầu của bản thân.
Ta có thể lấy ví dụ từ việc chọn ngành học của sinh viên hiện nay. Việc chọn
ngành học bắt nguồn từ nhiều thứ như sở thích, khả năng cũng như tác động của
bên ngoài. Nếu như một người có hứng thú về kinh doanh, số liệu hay có khả năng
bán hàng, thường họ sẽ theo học những ngành học hoặc ngôi trường thiên về kinh
tế. Còn nếu như người đó có ngoại ngữ tốt, biết cách giao tiếp thì họ có thể sẽ chọn
học ngành liên quan đến ngoại giao. Hay khi có khả năng về hội họa, biết ca hát,
nhảy múa hay đơn giản là họ yêu thích nghệ thuật thì những ngôi trường chuyên về
đào tạo những người nghệ sĩ sẽ là lựa chọn hàng đầu của họ. Chọn ngành học là
một quyết định gây nhiều suy nghĩ vì đây là một quyết định mà vật chất và ý thức
đôi lúc xảy ra mâu thuẫn với nhau. Ý thức có thể thay đổi quyết định khi con người
ta có tài nhưng không có sự chăm chỉ, dễ nản thì họ sẽ theo chọn những ngành dễ
học hơn, dễ có việc làm hơn là theo đuổi công việc mình thích. Hoặc khi thấy đa 8
phần mọi người chọn học theo kinh tế hay ngoại giao, họ cũng sẽ chạy theo số
đông mà không biết mình có khả năng theo học hay không. Đây là suy nghĩ sợ bản
thân khác với mọi người, không dám thể hiện con người thật của mình, không có sự quyết tâm.
Mối quan hệ này cũng được thể hiện qua một trong những vấn đề được nhiều
người quan tâm nhất, đó là tình yêu. Tình yêu là một thứ rất mạnh mẽ, nó có thể
quyết định cảm xúc của bản thân vui hay buồn đơn giản vì một hành động nhỏ hay
một câu nói. Tình yêu có nhiều kiểu, tình yêu gia đình, tình yêu bạn bè hay hơn cả
là tình yêu giữa hai người đồng cảm về cảm xúc và tinh thần. Để có được cảm xúc
yêu thương nhau thì ta cũng phải có tiền đề về suy nghĩ. Muốn hiểu rõ hơn ta có thể
xem xét thông qua tình yêu giữa hai người với nhau. Việc đầu tiên để có được tình
yêu thì ta phải có sự để ý đối phương, sự rung động khi tiếp xúc với họ. Để có được
điều đó, ta phải có sự hứng thú cũng như thấy được điểm ta ưng ý ở họ, từ đó bản
thân sẽ có quyết định là thích hay chỉ là nhất thời. Những điều làm hai người thích
nhau, là cảm xúc dành cho nhau khi ở bên cạnh, là những sự tương đồng trong suy
nghĩ cũng như tư tưởng sẽ hình thành nên sự quan tâm nhau, những cảm xúc đặc
biệt khó nói. Khi họ thực sự cảm thấy yêu đối phương, hoàn cảnh vật chất phù hợp,
có đủ điều kiện thì tự khắc ý thức bước vào một mối quan hệ sẽ được xây dựng và
phát triển. Nhưng cũng xảy ra trường hợp ngược lại là khi suy nghĩ trở thành thứ
quyết định. Trong tình yêu đôi khi phải có sự cố gắng thì mới hòa hợp được, không
phải những cặp đôi nào cũng hợp hết ngay từ đầu mà đều là sự cố gắng thấu hiểu
và nghĩ cho nhau. Nếu như không có sự cố gắng đó thì rất dễ đổ vỡ, một tình yêu
không trọn vẹn, không hạnh phúc. Ý chí là rất cần thiết nếu như muốn giữ gìn mối
quan hệ này phát triển theo lâu dài. Nếu quên điều đó và để thuận theo tự nhiên thì
đôi khi mọi thứ sẽ không theo ý bản thân mong muốn, dễ rơi vào bế tắc, chia ly.
Từ hai điều thường xảy ra trong cuộc sống trên, ta có thế thấy mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức ảnh hưởng rất nhiều đến quyết định của mỗi người. Có người sẽ 9
lựa chọn theo sở thích, mong muốn, có người lại lựa chọn theo số đông. Như trong
việc chọn ngành học, không phải trường hợp nào cũng là vật chất quyết định chính
mà đôi khi là ý thức nắm quyền. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất
“sinh” ra ý thức. Đúng là như vậy vì khi chọn ngành học, điều quan trọng nhất là ta
phải theo học được và có sự hứng thú với nó vì khi có sự thích thú thì khả năng tiếp
thu và học hỏi được đẩy cao hơn rất nhiều. Đó có thể coi là vật chất trong trường
hợp này vì phải có tài cũng như có sự yêu thích với thứ mình có thể làm được thì
việc chọn ngành học theo khả năng mới có thể xảy ra. Điều đó cũng giúp bản thân
được phát triển theo hướng mình muốn và trở nên hoàn thiện hơn. Theo đuổi một
thứ mình yêu thích luôn là lựa chọn hàng đầu mỗi khi được đặt câu hỏi bạn sẽ theo
ngành học nào hay làm công việc gì. Lúc này là vật chất quyết định nguồn gốc, nội
dung, bản chất cũng như sự vận động của ý thức. Lựa chọn này có thể coi là nên vì
nó xuất phát từ mong muốn thật sự của bản thân, là điều mà mình luôn muốn làm
cũng như có khả năng thực hiện. Khi chọn ngành học ta nên hiểu rõ bản thân có gì,
giỏi cái gì, có thể theo đuổi được hay không để đưa ra được quyết định đúng đắn
nhất và sau này khi nghĩ lại sẽ không cảm thấy hối hận. Mặc dù thế nhưng vẫn có
những người chọn ngành học phổ biến, dễ có việc làm hoặc theo số đông hơn là sở
thích của mình. Họ làm vậy do bị ảnh hưởng bởi tác động bên ngoài như từ gia
đình, bạn bè, xã hội rằng học những ngành đó tìm việc sẽ dễ hơn, có nhiều lựa chọn
công việc hơn. Những người đó không xem xét bản thân có thể theo học được hay
không, mà chỉ đơn giản vì tác động bên ngoài và không có tính quyết đoán với điều
mình thích, hoặc đơn giản do họ không có mục tiêu hay sở thích gì cả. Điều này rất
dễ dẫn đến việc chán nản, mệt mỏi vì phải theo học một thứ mà bản thân không
hứng thú, không có tài, khó đạt được sự thành công bùng nổ mà chỉ có sự ổn định
qua ngày. Lúc này ý thức quyết định cho vật chất. Ý thức dưới bất kỳ hình thức
nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách quan, phản ánh cách thế giới
hiện thực hoạt động. Nó còn chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, quyết
định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Cho 10
nên, trong trường hợp này, có người sẽ chọn theo học ngành mình yêu thích, hứng
thú cũng như có tài, đó là vật chất quyết định ý thức. Họ lựa chọn thông qua những
gì mình có, từ đó phát triển khả năng của bản thân hơn. Ngược lại, sẽ có những
người lựa chọn theo số đông hoặc ngành học giúp họ tìm việc làm dễ hơn, ổn định
cuộc sống nhanh hơn. Đây là khi ý thức có tính độc lập tương đối và tác động lại
vật chất. Họ không xem xét bản thân có khả năng gì mà thay vào đó họ lựa chọn
những thứ ổn định, được nhiều người lựa chọn hơn. Cả hai đều không sai nhưng để
mà lựa chọn thì nên theo học ngành mình yêu thích vì vật chất là thứ quyết định thì
sự vận động, phát triển của sự vật cũng sẽ cao hơn. Ý thức từ đó cũng được nâng
cao, nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Việc mình tiếp thu, học hỏi trở nên dễ dàng hơn
cũng là lúc khả năng bản thân được phát triển tốt nhất, hiện đại nhất trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay. Trong tình yêu cũng vậy, vật chất và ý thức cũng đóng vai
trò quan trọng. Đây là về cảm xúc nên trong trường hợp này, ý thức đóng vai trò
quan trọng hơn. Để bắt đầu một mối quan hệ có rất nhiều lí do. Có thể là họ hợp
nhau về điều kiện, về suy nghĩ hay đơn giản là cảm giác bình yên ở cạnh nhau. Khi
tiếp xúc, họ nhận thấy được có sự đồng điệu về cảm xúc, tâm hồn, muốn dành thời
gian cho nhau nhiều hơn. Và có thể vì những tưởng chừng nhỏ bé nhưng lại hạnh
phúc không tả được. Nó phản ánh được mối quan hệ này tác động lên suy nghĩ của
bản thân ra sao thông qua nhiều hành động, chi tiết thực tiễn. Tình yêu được bắt
nguồn từ lí do này thường sẽ hạnh phúc, vì có sự giống nhau trong tư tưởng sẽ
tránh đến cãi vã, xích mích. Ngoài ra, để một mối quan hệ lâu bền thì ý chí gìn giữ
cũng rất quan trọng. Nếu không có nó thì thường con người ta sẽ dễ chán nản, mệt
mỏi, đặt đâu ngồi đó, không có phản kháng hay phủ nhận điều gì dù có mất đi
người mình yêu. Đôi khi vật chất cũng nắm quyền trong tình yêu. Dù là về cảm
xúc, nhưng khi yêu ta cũng cần có sự lý trí, thực tế chứ không phải một túp lều
tranh hai quả tim vàng. Nếu chỉ mơ mộng, nghĩ rằng tình yêu màu hồng thì rất dễ 11
đau khổ vì thực tế rất khắc nghiệt, ta phải luôn chuẩnn bị sẵn sàng tinh thần đón
chờ mọi thứ. Một mối quan hệ đẹp là khi dung hòa được cả lý trí lẫn cảm xúc, đồng
điệu về tâm hồn và suy nghĩ.
Trong cuộc sống thực tiễn hiện nay, vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác
động tích cực lại vào vật chất. Trong mỗi quyết định của mỗi người, nếu biết cách
ta có thể cân bằng được cả hai để có được phương án tốt nhất. Ta phải biết tôn
trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan. Trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu ta đều phải
đến từ thực tế khách quan, phải biết nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá rõ đúng sai.
Như trong việc chọn ngành học, ta phải biết nhìn nhận khách quan bản thân muốn
gì, làm được gì chứ không phải chạy theo số đông hay nghe theo người khác. Chỉ
có ta mới có quyền quyết định cuộc sống của mình như nào. Hay trong tình yêu, ta
phải có cái nhìn thực tế, không phải vì yêu mà mù quáng, đâm đầu vào đau khổ để
rồi quên mất bản thân có quyền được hạnh phúc. Cảm xúc là thứ quan trọng, nó có
thể nâng ta lên rất cao nhưng cũng có thể dìm xuống rất sâu. Vì thế lựa chọn khách
quan nhất, thực tế nhất giúp ta tránh được hậu quả khôn lường nhất. Ta cũng phải
nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài hòa lợi
ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, phải có động cơ trong sáng, thái độ thật
sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.
Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ trí thức của bản thân, củng cố, bồi
dưỡng nhiệt tình ý chí để có sự quyết tâm và quyết đoán trong mỗi lựa chọn thực
tiễn của bản thân, sau này không phải hối hận vì lựa chọn của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (Nhà xuất bản chính trị quốc gia)
2. Wikipedia – Bách khoa toàn thư mở 12
3. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
Em cảm ơn cô đã dành thời gian ra đọc bài của em ạ. 13