












Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN Đề tài số 4
Phân tích quan điểm toàn diện của Phép biện chứng duy vật
và liên hệ với thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay H v
ọ à tên: Đoàn Th Hồồng ị Mã SV:11212388 Lớp: Qu n lý tà ả i nguyên mồi tr ng ườ Khóa: 63 GĐ D303 Hà Nội- 4/2022 MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………3 NỘI DUNG CHÍNH
I.Quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật…………………………5
1. Phép biện chứng duy vật………………………………………………….5
1.1. Khái niệm phép biện chứng duy vật………………………………….5
1.2. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật….5
2. Quan điểm toàn diện……………………………………………………….6
2.1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến - cơ sở lí luận của quan điểm toàn
diện…………………………………………………………………………………6
2.2. Nội dung của quan điểm toàn diện…………………………………….7
2.3. Vai trò của quan điểm toàn diện trong hoạt động của con người …8
II.LIÊN HỆ THỰC TIỄN ĐỔI MỚI KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY ..8
III. KẾT LUẬN………………………………………………………………14
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………..14 2 LỜI MỞ ĐẦU
V.I.Lênin viết: “Muốn thực sự thấu hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật
đó. Chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự
cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm phải sai
lầm và sự cứng nhắc”. Những chỉ dẫn trên của V.I.Lênin nhắc nhở con người trong
nhận thức, muốn biết chân tướng của sự vật cần phải xem xét sự vật trong mối liên
hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của nó; phải xem
xét sự vật, hiện tượng này trong mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác kể cả khâu
trung gian của nó, phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn để từ đó
thấy được vị trí, vai trò của các mối liên hệ giữa các mặt trong một sự vật, hiện
tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Qua đó, xác định được những
quan hệ trọng tâm trọng điểm cần được giải quyết trong những điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Phép biện chứng duy vật không chỉ là một lý luận khoa học cho phép phản ánh
đúng đắn các sự vật, hiện tượng, nó còn là một công cụ sắc bén để mổ xẻ, phân
tích các vấn đề xã hội và tìm ra các giải pháp thích hợp cho từng giai đoạn phát
triển lịch sử cụ thể. Chính nhờ công cụ sắc bén này, chủ nghĩa Mác đã tìm ra các
quy luật vận động của xã hội, đã nhìn xã hội như một cơ thể sống luôn vận động,
biến đổi do những mối liên hệ nội tại của nó tạo ra; thấy được vai trò quyết định
của điều kiện vật chất, của cơ sở kinh tế nhưng cũng thấy vai trò hết sức to lớn của
kiến trúc thượng tầng chính trị, của tư tưởng, văn hóa... Điều đó đã khắc phục được
tư tưởng duy tâm, siêu hình, lối nhìn nhận phản biện chứng trước đây. Khái lược
điều đó cho thấy các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật là
những nguyên tắc cơ bản để nhận thức về các mối quan hệ lớn ở nước ta hiện nay.
Bước vào thiên nhiên kỷ mới, con người ngày càng tiến lên trong công cuộc
chinh phục thế giới. Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học- kỹ thuật và trong
mọi mặt đời sống xã hội đã làm thay đổi dần bộ mặt thế giới. Trong sự chuyển biến 3
mạnh mẽ đó, Việt Nam chúng ta cũng không ngừng biến đổi vận động. Tính đến
nay nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới đucợ hơn một thập kỷ, bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, những vấn đề của nền kinh tế luôn đặt ra những
thách thức cho các nhà kinh tế. So với thế giới, nước ta vẫn là một nước nghèo,
nền kinh tế còn non trẻ, yếu kém do tàn dư của nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp vẫn còn tồn tại khá nhiều góp phần kìm hãm nền kinh tế. Chính vì thế việc
nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh đất nước, phù hợp với khu vực, thế giới, thời đại là hết sức cần thiết. Điều đó
cũng có nghĩa là phải phân tích nền kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ, trong
sự vận động và phát triển không ngừng của nó. Do vậy vần phải vận dụng các quan
điển lịch sử cụ thể, quan điểm rút ra từ hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng
duy vật triết học Mác- Lênin vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
Quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam
sẽ giúp cho kinh tế nước ta có hướng đi đúng đắn. Về thực tiễn, nghiên cứu quan
điểm lịch sử cụ thể sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta tránh được những mặt xấu,
những sai lầm từ nền kinh tế các nước khác và trên hết là vận dụng những kinh
nghiệm của nó vào quá trình xây dựng nền kinh tế nước nhà.
Từ những kiến thức lĩnh hội qua bài giảng trên lớp cùng với những kiến thức
học tập và nghiên cứu qua các nền tảng lý thuyết đa dạng, em xin được phép trình
bày quan điểm của bản thân về chủ đề: “Phân tích quan điểm toàn diện của
Phép biện chứng duy vật và liện hệ với thực tiễn đổi mới nền kinh tế ở Việt
Nam hiện nay” để làm rõ hơn những vấn đề trong tư duy, nhận thức về Phép biện
chứng duy vật cũng như trình bày những am hiểu của bản thân về quá trình đổi
mới nền kinh tế của Việt Nam hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Phạm Văn Sinh- giảng viên môn Triết học
Mác – Lênin đã tận tình hướng dẫn và cung cấp nền tảng kiến thức vững chắc để
em có thể hoàn thành bài thu hoạch này.
Tiểu luận này được thực hiện với nhiều ấp ủ, tâm huyết nhưng cũng không
tránh khroi những thiếu sót, thế nên mong người đọc hãy thực sự đọc và phản biện,
xây dựng tiểu luận để đích đến cuối cùng là xác lập một tư tưởng đa chiều, đúng
đắn và áp dụng được lý luận đó vào nhận thức cũng như hành động trong thực tiễn xã hội Việt Nam. 4 Em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG CHÍNH I.
Quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật
1. Phép biện chứng duy vật
1.1. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen cho rằng:
“Phép biện chứng… là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động
và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác — Lênin còn có một số định nghĩa
khác về phép biện chứng duy vật. Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến, Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên
hệ phổ biến”; còn khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát triển (trong đó
có bao hàm học thuyết về sự phát triển của nhận thức) trong phép biện chứng mà
C.Mác đã kế thừa từ triết học của Hêghen, V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong số
những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về
sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học
thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật
chất luôn luôn phát triển không ngừng”‘,V.V..
1.2 Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin là phép biện
chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Với đặc
trưng này, phép biện chứng duy vật không chỉ có sự khác biệt căn bản với phép
biện chứng duy tâm cổ điển Đức, đặc biệt là với phép biện chứng của Hêghen (là
phép biện chứng được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy tâm), mà còn có sự
khác biệt về trình độ phát triển so với nhiều tư tưởng biện chứng đã từng có trong
lịch sử triết học từ thời cổ đại (là phép biện chứng về căn bản được xây dựng trên 5
lập trường của chủ nghĩa duy vật nhưng đó là chủ nghĩa duy vật còn ở trình độ trực
quan, ngây thơ vàchất phác).
Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác—Lênin có sự
thống nhất giữa nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận
hiện chứng duy vật, do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là
công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Mỗi nguyên lý, quy luật trong
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin không chỉ là sự giải thích đúng
đắn về tính biện chứng của thế giới mà còn là phương pháp luận khoa học của việc
nhận thức và cải tạo thế giới. Trên cơ sở khái quát mối liên hệ phổ biến và sự phát
triển, những quy luật phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của tất thảy
mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác – Lênin cung cấp những nguyên tắc phương pháp luận chung
nhất cho quá trình nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, đó không chỉ là nguyên
tắc phương pháp luận khách quan mà còn là phương pháp luận toàn diện, phát
triển, lịch sử – cụ thể, phưong pháp luận phân tích mâu thuẫn nhằm tìm ra nguồn
gốc, động lực cơ bản của các quá trình vận động, phát triển, V.V.. Với tư cách
đó, phép biện chứng duy vật chính là công cụ khoa học vĩ đại để giai cấp cách
mạng nhận thức và cải tạo thế giới.
Với những đặc trưng cơ bản trên, phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một
nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chú nghĩa Mác –
Lênin, đồng thời nó cũng là thế giới quan vả phương pháp luận chung nhất của
hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn.
Trong công cuộc đổi mới đó, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn, hợp lý quan điểm
toàn diện, đặc biệt là quan điểm toàn diện trong đổi mới kinh tếở nước ta hiện nay.
2. Quan điểm toàn diện
2.1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến - cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện
a. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
“Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương
hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa cảc yếu tố, bộ phận trong một đối tượng
hoặc giữa các đối tượng với nhau. Liên hệ là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự
thay đối của một trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi.
b. Các tính chất của mối liên hệ 6
- Tính khách quan: Mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan,
là vốn có của mọi sự vật hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri vô giác cũng đang
ngày hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác nhau
(như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm...) tự nhiên, dù muốn hay không, cũng luôn luôn bị
tác động bởi các sự vật hiện tượng khác. Đó là tính khách quan của mối liên hệ. - Tính phổ biến:
+ Thứ nhất: bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện
tượng khác, không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại
ngày này không có một quốc gia nào không có quan hệ, liên hệ với các quốc gia
khác về mọi mặt của đời sống xã hội và ngay cả Việt Nam ta khi tham gia tích cực
vào các tổ chức như ASEAN, hay sắp tới đây là WTO cũng không ngoài mục đích
là quan hệ, liên hệ, giao lưu với nhiều nước trên thế giới.
+ Thứ hai: mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt cụ thể tuỳ
theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện
của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
-Tính đa dạng, phong phú: Có mối liên hệ về mặt không gian và cũng có mối
liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác động
lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới. Có mối liên hệ riêng
chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ
trực tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng, nhưng cũng có những mối liên hệ gián tiếp.
Có mối liên hệ tất nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ bản chất
cũng có mối liên hệ không bản chất chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Có mối liên hệ chủ
yếu và có mối liên hệ thứ yếu... chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự
vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
c. Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện
Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến và về
sự phát triển rút ra phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực.
Đó chính là quan điểm toàn diện. Vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới
đều tồn tại trong mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật
hiện tượng ta phải xem xét nó thông qua các mối liên hệ của nó với sự vật khác
hay nói cách khác chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến
diện chỉ xét sự vật hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất
hay về tính quy luật của chúng.
2.2. Nội dung của quan điểm toàn diện 7
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức sự vật trong mối liên hệ qua
lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật đó với các sự
vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó
chúng ta mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi
hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải chú ý tới mối liên hệ bên
trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên... để hiểu rõ
bản chất của sự vật. Quan điểm toàn diện không chỉ đòi hỏi chúng ta nắm bắt
những cái hiện đạng tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển
tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến
đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch
ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
2.3. Vai trò của quan điểm toàn diện trong hoạt động của con người
Nắm chắc quan điểm toàn diện xem xét sự vật hiện tượng từ nhiều khía cạnh,
từ mối liên hệ của nó với sự vật hiện tượng từ nhiều khía cạnh từ mối liên hệ với
sự vật hiện tượng khác sẽ giúp con người có nhận thức sâu sắc, toàn diện về sự vật
và hiện tượng đó tránh được quan điểm phiến diện về sự vật và hiện tượng chúng
ta nghiên cứu. Từ đó có thể kết luận về bản chất quy luật chung của chúng để đề ra
những biện pháp kế hoạch có phương1 pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu
quả cao nhất cho hoạt động của bản thân. Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động
chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ trong điều kiện xác định. II.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN ĐỔI MỚI KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
Phép biện chứng khẳng định rằng các sự vật hiện tượng trên thế giới liên
hệ với nhau một cách phổ biến, chúng tác động qua lại lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn
nhau trong một thể thống nhất. Do đó khi xem xét sự vật cần phải có quan điểm
toàn diện. Mối quan hệ tác động qua lại giữa các mặt kinh tế trong xã hội cũng
biểu hiện thông qua mối quan hệ biện chứng giữa các quy luật như quy luật giá trị,
quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh tự do trong sản xuất và phân phối hàng hoá
thống nhất trong một thị trường. Vì thế trong nền kinh tế cần phải có những định
hướng, phân tích một cách toàn diện các mặt kinh tế khắc phục những khó khăn
trong chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ. 8
Nhận thức được tính khách quan và tất yếu của đổi mới kinh tế
Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa vào nền tảng của văn minh nông nghiệp
lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Kinh tế vẫn còn là một nước nghèo nàn, lạc
hậu và kém phát triển. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng
cơ chế quản lý cũ làm xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực: tài nguyên thiên nhiên
bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả,nhà nước thực hiện bao
cấp tràn lan. Những sự việc đó gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng
trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm
hụt nặng nề, tích luỹ hàng năm hầu như không có, vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay
hoặc viện trợ của nước ngoài. Với những khó khăn trên vấn đề cần đặt ra lúc này là
Đảng và Nhà nước cần phải có những chính sách, biện pháp cụ thể đúng đắn kịp
thời khôi phục nền kinh tế. Phát triển trở thành nhiệm vụ mục tiêu số một đối với
toàn Đảng toàn dân ta trong thời kì đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy,
trước hết phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát
triển, là sự phát triển kinh tế thị trường, cùng với nó là công cuộc công nghiệp hoá-
hiện đại hoá đất nước.
Tại đại hội VI đảng đã chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực
hiện chuyển đổi cơ chế kinh tế. Đảng ta đã xác định việc đổi mới cơ chế kinh tế ở
nước ta là một tất yếu khách quan và thực trạng diễn ra là chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng
trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế.
Việc chuyển đổi trên hoàn toàn đúng đắn, nó phù hợp với thực tế nước ta, phù hợp
với các quy luật kinh tế và xu thế thời đại.Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ
chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa nói đến tích
luỹ vốn để mở rộng sản xuất
Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu,đó là: sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể
kinh tế độc lập, lợi ích riêng. Quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể được thực hiện
thông qua quan hệ hàng hoá tiền tệ. Phân công lao động xã hội với tính chất là cơ
sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những vẫn tồn tại mà còn được phát triển cả
về chiều rộng và chiều sâu. Cụ thể: trong nền kinh tế nước ta ngày càng có nhiều
ngành nghề mới ra đời như công nghiệp hoá dầu, ngành bưu chính viễn thông,
hàng không,xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ… Thành phần kinh tế nhà nước và 9
kinh tế tập thể cùng dựa trên chế độ công hữu nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự
tách biệt nhất định về kinh tế, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích
riêng. Vì thế quan hệ kinh tế giữa họ chỉ được thực hiện thông qua thị trường.
Quan hệ hàng hoá tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ đối ngoại. Phát triển kinh tế
thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam xuất phỏt từ những cơ sở lý
luận và thực tiễn sõu sắc, bắt nguồn từ bối cảnh thời đại và điều kiện lịch sử – cụ thể của đất nước.
Những khía cạnh quy định tính tất yếu phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
- Thứ nhất, mô hình chủ nghĩa xó hội cổ điển, đặc trưng bởi hệ thống kinh
tế kế hoạch hoá tập trung, sau gần 70 năm tồn tại với tất cả những ưu thế
và nhược điểm, rốt cuộc đó tỏ ra khụng cũn sức sống và khả năng tự phát
triển nội sinh về mặt kinh tế, bị va vấp nặng nề trong thực tiễn. Trong khi
đó, chủ nghĩa tư bản với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận đó lợi dụng tối đa
những mặt mạnh của kinh tế thị trường để tạo ra động cơ về lợi ích và sự
cạnh tranh mạnh mẽ, phát triển các lực lượng sản xuất cũng như tiềm
năng kinh doanh. Vì thế các nước chủ nghĩa xã hội càc phải thay đổi cơ
chế kinh tế cũ để hòa nhập cân bằng với nền kinh tế thế giới đương thời.
- Thứ hai, mặc dù chủ nghĩa tư bản đó cú những thành cụng nhất định trong
phát triển kinh tế thị trường, nhưng cần nhận thức sâu sắc rằng, phát triển
kinh tế thị trường theo con đường tư bản chủ nghĩa không phải là duy nhất
đúng mà trong nó cũng ẩn chứa đầy rẫy những cạm bẫy, rủi ro.
- Thứ ba, trong thực tế khụng cú một mô hình kinh tế thị trường chung cho
mọi quốc gia, mà trái lại, mỗi quốc gia - dân tộc tùy theo trỡnh độ phát
triển, đặc điểm cơ cấu tổ chức và thể chế chính trị, kể cả các yếu tố văn
hoá - xó hội truyền thống, mà xây dựng những mô hình kinh tế thị trường
đặc thù của riêng mình. Không thể phủ nhận những hạn chế và mâu thuẫn
cố hữu của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ngay tại quê hương của nó
và việc khắc phục những mâu thuẫn đó vẫn đang là vấn đề cực kỳ nan giải.
- Thứ tư, nền kinh tế thị trường hiện đại ngày càng thể hiện xu hướng tự
phủ định và tiến hoá tất yếu để chuyển sang giai đoạn mới cao hơn - hậu
thị trường, hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Trong những điều kiện
hiện đại, con đường phát triển rút ngắn như C.Mác đó từng dự bỏ, trở
thành một khả năng hiện thực xét cả về hai phương diện: tính tất yếu kinh
tế - xã hội và tính tất yếu công nghệ - kỹ thuật. Thực tế cho thấy, công 10
nghệ cao có khả năng áp dụng trong hoàn cảnh nông nghiệp và tương ứng,
một nền nông nghiệp truyền thống có thể đi tắt sang hậu công nghiệp mà
không bắt buộc phải trải qua tất cả các giai đoạn của quá trình công
nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa nặng nề, tốn kém.
- Thứ năm, xét về mặt lịch sử thì quan hệ hàng hoá - thị trường chỉ là
hình thức đặc biệt, là nấc thang trung gian cần thiết để chuyển xó hội từ
trình độ xã hội nông nghiệp, phi thị trường, lên trình độ xã hội hậu công
nghiệp, hậu thị trường. Chính sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ra đời trên
cơ sở tách rời các yếu tố con người và vật của sản xuất, các yếu tố này
vốn gắn bó hữu cơ trong sở hữu tư nhân của kinh tế hàng hoá giản đơn.
- Thứ sáu, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu nếu đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá; thế
giới đang bước vào giai đoạn quá độ sang trình độ xã hội hậu công
nghiệp, hậu thị trường và kinh tế tri thức; yêu cầu phát triển rút ngắn và
hội nhập. Đây không phải là sự gán ghép miễn cưỡng, chủ quan giữa kinh
tế thị trường và chủ nghĩa xó hội, mà là trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính
quy luật tất yếu của thời đại, sự khái quát hoá, đúc rút từ kinh nghiệm phát
triển kinh tế thị trường thế giới, và đặc biệt, từ tổng kết thực tiễn mấy
chục năm xây dựng chủ nghĩa xó hội và gần hai thập kỷ đổi mới của Việt Nam.
Về mục đích phát triển kinh tế thị trường : kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
phục vụ lợi ích các nhà tư bản, xây dựng cơ sỉư kinh tế cho chủ nghĩa tư bản, bảo
vệ chế độ tư bản, phát triển chủ nghĩa tư bản. Bây giờ có điều chỉnh gì cũng là để
bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Còn chúng ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, là để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở
vật chất- kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, phục và năng cao đời sống nhân dân, bảo
đảm từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Ta dùng cơ chế thị trường,
sử dụng các hình thức và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích
sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động sáng tạo của người lao độnh, giải
phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhưng là để đi lên chủ
nghĩa xã hội, không để cho thị trường tự phát theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Vì vậy phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần là một tất yếu đối với
nước ta. Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Thông qua các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với
việc sử dụng các lực lượng kinh tế của mình, nhà nước tác động lên mối quan hệ
tổng cung- tổng cầu thưch hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy cơ chế 11
hoạt động của nền kinh tế là: thị trường điều tiết nền kinh tế, nhà nước điều tiết thị
trường và mối quan hệ nhà nước- thị trường – các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ thống nhất.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở, hội
nhập: Mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở
giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng
của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Để phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị
trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng
thái tự cung tự cấp, mà phải mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa
hội nhập được thực hiện trên 3 nội dung chính là: thương mại, đầu tư và chuyển
giao khoa học công nghệ. Tuy nhiên sự mở cửa hội nhập không có nghĩa là sự hoà
tan, đánh mất mình, mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng
nâng cao sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ.
Chính sách, nhiêm vụ đổi mới nền kinh tế thị trường của Đảng và Nhà nước
ta. Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa trong thời
gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định
những chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xó
hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
- Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư
bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả
đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần
cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và
kinh tế nhà nước. Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát
triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xõy dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm.
- Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
- Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu
lực quản lý kinh tế của Nhà nước.
- Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền
kinh doanh. Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phỏt
huy những yếu tố tớch cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp 12
trong kinh doanh, tăng cường vai trũ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà
nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lóng phớ, gây phiền hà.
- Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh
nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển.
- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã
hội, thực hiện cụng bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của
định hướng xó hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xó hội mới III. PHẦN KẾT LUẬN
Tổng kết khái quát lại đề tài, rút ra bài học kinh nghiệm. Từ những vấn đề
nêu trên ta có thể khẳng định: Việc vận dụng nguyên lý toàn diện của phép biện
chứng duy vật vaò việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta
là một quyết định sáng suốt của Đảng và nhà nước. Cơ sở lý luận là một chân lý
được chứng minh trong suốt quá trình phát triển của xã hội, bên cạnh đó khi áp
dụng vào Việt Nam lai được lãnh đạo Đảng xem xét, đánh giá toàn diện, khách
quan, đặt trong điều kiện hoàn cảnh của đất nước từ đó có chính sách đổi mới và
phát triển phù hợp.Đồng thời việc xây dựng kinh tế thị trường thời kì quá độ ở
nước ta là một tất yếu. Trước một thế giới phát triển kinh tế mạnh, một khu vực năng động hội nhập. Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác- Lênin 13