-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về tri thức và vai trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay |Bài tập lớn môn triết học mác - lênin
Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về tri thức và vai trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về tri thức và vai trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay |Bài tập lớn môn triết học mác - lênin
Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về tri thức và vai trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:











Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
lOMoAR cPSD| 23022540
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân .....0O0..... BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Đề tài số 2
Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về tri thức và
vai trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển
kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay.
Lê Thị Ngọc Ánh – Mã SV: 11210853
Lớp: Triết học Mác – Lênin(221)__24 Khóa: 63 – GĐ: D304 Hà Nội - 4/2022
Mục lục (đề cương) Trang 1 lOMoAR cPSD| 23022540
Lời mở đầu…………………………………………………………………... 3
Nội dung……………………………………………………………………..... 3 1.
Quan niệm của duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa ý thức và
vậtchất……………………………...………………………………..…............... 4
1.1. Vật chất…………………………………………………………….… 4
1.2. Ý thức……………………………………………………………..…. 5
1.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức……………………………..….. 5 .
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận chung…………………………..………... 7 2.
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào thực tiễn
cuộc sống…………………………………………………….………....................... 9
2.1. Đối với thực tiễn nói chung…………………………………….……. 9
2.2. Đối với công cuộc đổi mới đất nước………………………………..... 9
2.3. Đối với sinh viên……………………………………………………… 10
Kết luận………………………………………………………………………… 11
Tài liệu tham khảo…….…………………………………………………......... 12 Lời mở đầu
Thế giới xung quanh ta có vô vàn những hiện tượng và sự vật phong phú và đa
dạng. Nhưng dù đa dạng và phong phú đến đâu thì cũng được quy về hai linh vực: vật
chất và ý thức. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về triết học xoay quanh các vấn đề
giữa mối quan hệ vật chất và ý thức, nhưng chỉ có quan điểm cảu Triết học Mác –
Lênin là đúng và đầy đủ nhất, đó là: Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật
chất quyết định sự ra đời của ý thức, đồng thời ý thức tác động trở lại vật chất.
Bên cạnh đó từ thực tế hiện nay cùng với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản, mà tại đại hội VII của Đảng ta lần đầu tiên
đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là 2 lOMoAR cPSD| 23022540
kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Tức là, chúng ta phải: dùng lập trường, quan
điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác – Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng
ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới
có thể dần dần tìm hiểu được quy luật phát triển của Cách mạng Việt Nam, định ra
được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của Cách mạng xã hội chủ nghĩa phù
hợp với tình hình nước ta.
Làm đề tài tiểu luận này, với tư cách là một sinh viên, một công dân của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một mặt em muốn cùng mọi người tìm hiểu sâu
hơn, kĩ lưỡng hơn về chủ nghĩa duy vật biện chứng của Triết học Mác – Lênin, cụ thể
hơn, đó là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức. Mặt khác, tôi cũng muốn
góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp cách mạng lớn lao của toàn
Đảng, toàn dân ta hiện nay - sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội - nền tảng tư tưởng
là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là, mọi sách lược, chiến lược cách mạng của chúng ta
phải được xuất phát từ thực tế khách quan, phát huy được tính năng động chủ quan và
đồng thời chống chủ quan duy ý chí. Đây được coi là một vấn đề hết sức quan trọng,
bởi nó quyết định sự thành công hay thất bại trên con đường đi tới chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Điều này sẽ được lý giải rõ hơn trong phần nội dung của đề tài.
1. Quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.1. Vật chất
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.” lấy từ tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” (1909) của Lênin.
Đây là định nghĩa khoa học nhất, hoàn chỉnh nhất về vật chất của V.I.Lênin
trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Định nghĩa
trên đã đề cập đến các nội dung: Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và
không phụ thuộc vào ý thức bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay
chưa nhận thức được; Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động lên giác quan của con người; Cảm giác, ý thức, tư duy chỉ là sự
phản ánh của vật chất lên con người, tức con người có khả năng nhận thức được vật
chất, thực tại khách quan.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất tồn tại bằng vận động, và vận
động của vật chất diễn ra trong không gian và thời gian. Vì vậy, vận động, không gian
và thời gian là các hình thức tồn tại của vật chất. -
Vận động: Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến
đổi nói chung. Xét về bản chất, vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuốc 3 lOMoAR cPSD| 23022540
tính cố hữu của vật chất, vận động không do ai sáng tạo ra và cũng không mất đi mà
nó tồn tại vĩnh viễn. Nguồn gốc vận động là do bản thân sự vật hiện tượng quy định.
Các hình thức cơ bản của vận động bao gồm: vận động cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã hội. -
Không gian và thời gian: Vật chất luôn vận động và phát triển, sự vận
động ấykhông ở đâu khác. “Ngoài không gian và thời gian”. Không gian và thời gian
là một thuộc tính khách quan của vật chất, gắn liền với sự vận động của vật chất. Mọi
sự vật tồn tại khách quan đều có vị trí, có hình thức kết cấu, có độ dài ngắn, ngang
dọc, cao thấp của nó, tất cả những thuộc tính đó được gọi là không gian.
Mọi sự vật đều ở trong trạng thái không ngừng biến đổi, mà mọi sự biến đổi
diễn ra đều có quá trình, có độ dài của sự diễn biến, nhanh, chậm kế tiếp nhau, tất cả
những thuộc tính đó được gọi là thời gian. Như vậy, không gian và thời gian là thuộc
tính khách quan, nội tại của bản thân vật chất. Không gian là hình thức tồn tại của vật
chất vận động về mặt vị trí, quảng tính, kết cấu, còn thời gian là hình thức tồn tại của
vật chất vận động về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp nhau của quá trình. Không gian
và thời gian là hai thuộc tính khác nhau nhưng không thể tách rời nhau của vật chất
vận động. Vì vậy, không gian và thời gian có những tính chất sau đây: -
Tính khách quan: Không gian và thời gian là một thuộc tính của vật chất,
tồn tại gắn liền với vật chất vận động. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian
và thời gian cùng tồn tại khách quan. -
Tính vĩnh cửu của thời gian và tính vô tận của không gian, những thành
tựu của vật lý học hiện đại về lĩnh vực vi mô cũng như vũ trụ học ngày càng xác nhận những tính chất này. -
Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian, tính ba
chiều của không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời
gian là chiều từ quá khứ đến tương lai. 1.2. Ý thức
a) Nguồn gốc của ý thức -
Nguồn gốc tự nhiên: Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ
là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người. Ý thức
không tự sinh ra trong bộ óc mà là kết quả phản ánh sự tác dộng của thế giới bên
ngoài vào bộ não người. -
Nguồn gốc xã hội: Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc
người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội. Nguồn gốc trực tiếp và quan 4 lOMoAR cPSD| 23022540
trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thưc là lao động, là thực tiễn xã hội.
Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
b) Bản chất của ý thức
Theo quan điểm của Mác: “Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Ý thức là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan vào trong
bộ óc của con người.”
+ Trong mối quan hệ với sự vật, ý thức chỉ là hình ảnh phản ánh sự vật, chứ
không phải bản thân sự vật. Ý thức bao giờ cũng là ý thức của con người. Mỗi con
người đều tồn tại trong một xã hội nhất định. Ý thức phát triển tùy thuộc vào sự phát
triển của xã hội, vì vậy, ý thức bao giờ cũng có bản chất xã hội.
+ Đặc tính tích cực, sáng tạo của ý thức gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện trước hết ở khả năng phản ánh chọn lọc của nó. Xuất
phát từ nhu cầu của thực tiễn, của đời sống xã hội nói chung, sự phản ánh của ý thức
bao giờ cũng tập trung vào những cái cơ bản chính yếu tùy theo nhu cầu của chủ thể
phản ánh. Ý thức có thể dự đoán, đoán trước được tương lai, có thể tạo ra những ảo
tưởng, hoang đường, những lý thuyết khoa học và lý thuyết rất trừu tượng và có tính
khái quát cao. Tuy nhiên, tính sáng tạo ra ý thức là sự sáng tạo ra sự phản ánh, vì ý
thức bao giờ cũng chỉ là sự phản ánh tồn tại.
1.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng,
trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
a) Vật chất quyết định ý thức
- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
+ Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước,
là tính thứ nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con
người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
+ Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới
khách quan) và vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
+ Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan.
Nội dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
+ Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định
tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ. 5 lOMoAR cPSD| 23022540
- Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức: Bản chất của ý thức là phản
ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới vật chất được
dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật
chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
+ Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật
chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
+ Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát
triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất
nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý
thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự
tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất
nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện
cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất -
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự
phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức
có “đời sống” riêng, không lệ thuộc máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất. -
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
thựctiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những
điều kiện, hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người. -
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động
của con người, nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà nó
trang bị cho con người tri thức về hiện tượng khách quan để con người xác định mục
tiêu, kế hoạch, hành động nên làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
+ Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
+ Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất. 6 lOMoAR cPSD| 23022540 -
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất
là trong thời đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. -
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể
vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều
kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận chung
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới; bản chất năng động,
sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức có thể rút ra ý
nghĩa phương pháp luận là: Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải
xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo khách quan đồng thời
phát huy tính năng động chủ quan.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan là xuất phát từ
tính khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng hiện thực khách quan mà căn bản là
tôn trọng quy luật; nhận thức và hành động theo quy luật khách quan. Trong nhận thức
và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề
ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan
làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy
thành lực lượng vật chất để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng
tạo của ý thức và nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động,
sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học, mặt khác
phải tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học đồng thời phải tu
dưỡng rèn luyện bản thân mình về đạo đức, ý chí, nghị lực.
Đảm bảo nguyên tắc tính thống nhất biện chứng giữa tôn trọng khách quan và
phát huy năng động chủ quan trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải khắc phục bệnh
chủ quan duy ý chí, chủ nghĩa kinh nghiệm, coi thường tri thức khoa học...trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn. -
Vì vật chất quyết định ý thức, sinh ra ý thức cho nên mọi chủ trương cơ
sở hoạt động nhận thức, hoạt động con người đều phải xuất phát từ hiện thực khách
quan và hoạt động tuân theo quy luật khách quan, nghĩa là chúng ta phải có quan điểm
khách quan trong nhận thức hoạt động thực tiễn. -
Xuất phát từ hiện thực khách quan, không phải từ những cái lẻ tẻ của
hiện thựckhách quan, phải xuất phát từ cái chung là quy luật khách quan. Nghị quyết
VI của Đảng là bài học kinh nghiệm là phải nắm vững hiện thực khách quan. 7 lOMoAR cPSD| 23022540
Hoạt động tuân theo quy luật (quan điểm khách quan) là nhận thức sự vật phải
tôn trọng chính nó có, phải phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của sự vật và
chống chủ nghĩa khách quan, đồng thời chống chủ quan duy ý chí. -
Vì ý thức có tính độc lập tương đối, có tính năng động sáng tạo có thể tác
độngtrở lại vật chất thông qua hoạt động con người, cho nên cùng với xuất phát từ cái
hiện thực khách quan thì phải phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy mặt
tích cực ý thức, hạn chế mặt tiêu cực của ý thức. -
Giữa vật chất và ý thức chỉ có đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức
luận. Ngoài lĩnh vực đó ra, sự phân biệt chỉ là tương đối (Câu nói của Lênin).Vì thế
một chính sách đúng đắn là cơ sở liên kết hợp hai yếu tố này. -
Công tác tư tưởng phải gắn liền với công tác tổ chức nếu tuyệt đối hóa
yếu tố vật chất, yếu tố kinh tế mà coi nhẹ ý thức của con người, coi nhẹ tính năng
động , sáng tạo của con người sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, ngược lại nếu
tuyệt đối hóa yếu tố ý thức và coi nhẹ điều kiện vật chất nhất định thì sẽ rơi vào chủ
nghĩa chủ quan duy ý chí. 8 lOMoAR cPSD| 23022540
2. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào thực tiễn cuộc sống
2.1. Đối với thực tiễn nói chung
Để hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn có hiệu quả, con người phải
xuất phát từ thực tế khách quan, đồng thời phát huy cao nhất tính năng động chủ
quan của mình. Yêu cầu của quan điểm khách quan là trong hoạt động nhận thức
cũng như thực tiễn bao giờ cũng phải xuất phát từ những điều kiện, những hoàn
cảnh thực tế; tôn trọng các quy luật khách quan, các quy luật tự nhiên và xã hội,
đặc biệt là từ điều kiện vật chất. Quan điểm khách quan còn yêu cầu muốn nhận
thức hay cải tạo sự vật phải xuất phát từ chính bản thân nó. Con người không thể
áp đặt cho sự vật những cái mà vốn nó không có hoặc nó chưa thể có. Con người
phản ánh càng đầy đủ, chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả.
2.2. Đối với công cuộc đổi mới đất nước
Trước đại hội VI, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta đã phạm sai
lầm trong việc xác định mục tiêu và về xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cải tạo
xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Chúng ta nóng vội muốn xoá bỏ ngay nền
kinh tế nhiều thành phần ,nền kinh tế thị trường để đi thẳng lên CNXH. Từ đó nền
kinh tế nước ta kéo dài sự trì trệ và chậm phát triển. Đại hội VI khẳng định: “Đảng
đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan”. Khắc phục
thiếu sót đó, đại hội VI đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, thừa nhận sự
tồn tại khách quan nền sản xuất hàng hoá và thị trường, chuyển sang hạch toán
kinhdoanh xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn đã bắt chúng ta trả giá rất đắt cho sự chủ quan, nóng vội, đem thay
thế sự phân tích đánh giá khách quan bằng cách đánh giá tình hình theo cảm tính
chủ quan, áp đặt. Nhiệt tình cách mạng sẽ trở thành duy tâm, duy ý chí nếu thiếu
khoa học. Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới đòi hỏi Đảng và nhà
nước ta phải kiên trì, kiên định, luôn nâng cao trình độ, văn hoá, lý luận để thích
ứng kịp thời với tình hình thực tế biến đổi không ngừng. Phải biết đánh giá đúng
tình hình, xem xét, cân nhắc kỹ hoàn cảnh cụ thể, từ đó đi tới những quyết định tối
ưu. Đồng thời phải có tầm nhìn xa trông rộng, biết giải quyết một cách khoa học
các nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Có như thế mới tạo điều kiện cho nền kinh tế
Việt Nam cất cánh, để từ đó nâng cao hơn nữa vị thế Việt Nam trên thế giới, góp
phần xây dựng công cuộc đổi mới kinh tế đất nước. 9 lOMoAR cPSD| 23022540
2.3. Đối với sinh viên
Bản thân em là sinh viên và là chủ nhân tương lai của đất nước, em phải cố
gắng học tập, phát triển bản thân, thay đổi để cho phù hợp với yêu cầu của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Bản thân cần tích cực nghiên cứu, không ngừng
sáng tạo để góp sức mình trong việc cải tiến kĩ thuật sản xuất, nâng cao năng suất
lao động. Với nhu cầu của tình hình xã hội hiện nay, bản thân em cũng phải cố
gắng thích nghi, đáp ứng qua những hành động cụ thể, thiết thực như: tìm hiểu,
tiếp cận các kỹ thuật mới phục vụ chuyên môn nghề nghiệp, trau dồi kiến thức,
tích cực học tập qua sách báo, tạp chí thế giới, sử dụng Internet một cách hiệu quả
để phục vụ cho học tập và công việc hay trực tiếp tham gia vào những hội thảo để
tìm hiểu nhiều hơn về xu hướng toàn cầu, trách nhiệm của bản thân trong công
cuộc đổi mới đất nước, học tập những cái tiến bộ của thế giới để áp dụng vào thực
tiễn tại Việt Nam những vẫn gìn giữ bản sắc dân tộc. Từ đó thực hiện đổi mới toàn
diện, đóng góp trí tuệ vào công việc, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công
nghệ mới cũng như nhiệt tình hăng hái tham gia các hoạt động, đóng góp sức trẻ
và sự phát triển của đất nước. Trong đó quan trọng nhất là bản thân em phải
thường xuyên rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức của bản thân, kiên định
và trung thành với con đường mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn, góp sức xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, chống các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Kết luận
Qua việc tìm hiểu và phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ
với thực tiễn, chúng ta thấy rằng thế giới về bản chất là vật chất, vật chất thì tồn tại
khách quan có trước và quyết định ý thức, còn ý nghĩa thì chính là cái có sau và là
sự phản ánh vật chất, cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Trong
hoạt động thực tiễn thì nhân tố vật chất là cơ sở quy định các nhân tố tinh thần chỉ
có thể phát huy tác dụng nếu nó bảo đảm sự thống nhất gắn bó với các nhân tố vật
chất. Do vậy, để phát huy hiệu quả hoạt động học tập của bản thân thì em phải xuất
phát từ thực tế khách quan, phải phản ánh đúng thế giới khách quan không thêm
bớt và từ những kiến thức áp dụng vào thực tế cuộc sống cũng như trải nghiệm để 10 lOMoAR cPSD| 23022540
bản thân mình hoạt động học tập dễ dàng, đóng góp công sức học tập cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự nghiệp rất khó và phức tạp, có
thể coi nó như một công cuộc kháng chiến trường kỳ của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta. Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những biến động nhiều
của đất nước ta trong quá trình đổi mới toàn diện xã hội càng đòi hỏi Đảng và nhà
nước ta phải kiên trì, kiên định, giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc phục khó khăn
đồng thời phải tỉnh táo, thông minh nhạy bén để thích ứng kịp thời với tình hình
thực tế biến đổi từng ngày, từng giờ.
Vận dụng thành thạo phép duy vật biện chứng vào việc nghiên cứu và quản
lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
trong công cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, nhất định chúng
ta sẽ trở thành những cán bộ quản lý kinh tế giỏi góp phần xứng đáng vào công
cuộc đổi mới kinh tế đất nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam cất cánh, để
từ đó nâng cao hơn nữa vị trí Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần củng cố sự
ổn định về chính trị của đất nước. Đó là đường lối là trách nhiệm của những nhà
quản lí kinh tế, chính trị của chúng ta.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành cho bậc đại
học hệ không chuyên lý luận chính trị), NXB chính trị quốc gia sự thật, Hà
Nội, 2021, tr.172 – 182).
2. Tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” (1909) của Lênin.
3. PGS.TS Bùi Thị Thanh Hương - PGS.TS Nguyễn Minh Hoàn (Đồng chủ
biên) - Giáo trình Triết học Mác – Lênin (2018), nhà xuất bản khoa học xã hội.
4. GS.TS Phạm Văn Đức (Chủ biên) - Giáo trình Triết học Mác – Lênin
(2019), Bộ Giáo dục và Đào tạo. 11