1) Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức
a) Khái niệm : Ý thức
- Dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của con người
- Là một phạm trù được quyết định với phạm trù vật chất, theo đó ý
thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải
biến và sáng tạo.
b) Kết cấu : Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều
cách tiếp cận, nghiên cứu về kết cấu của ý thức.
- Theo các yếu tố hợp thành: theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba
yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm và ý chí, trong đó theo TH Mác: tri thức là
nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn có thể bao gồm các yếu tố khác như
niềm tin, lí trí,…
) Tri thức
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại
ngôn ngữ. Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng.
Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức
tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà
theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”. [C.
Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr. 236]
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về
tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của
nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri
thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình
cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự
khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại
cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người;
là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không thể
có sự tìm tòi ”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc nhữngchân lý
người vô sản và nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách
mạng người tạo ra, con người phải tự ý thức về mình để nhận rõ bản thân mình, tự
điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó
trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm
đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở
trongquá trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động
1
củaý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác
được mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng
mục đích đã lựa chọn. có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình; nó
điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác;
nó cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành
động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý chí không chỉ
thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa
của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là một trong những yếu tố
tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giaicấp
quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri
thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân
tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu
tốkhácb)
- Theo chiều sâu của nội tâm: Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội
tâm con người, ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
) Tự ý thức
Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự
nhậnthức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng là ý thức,
làmột thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân mình
trongmối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Nhờ vậy con người tự nhận
thức vềbản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có các
hành viđạo đức và có vị trí trong xã hội. Những cảm giác của con người về bản
thân mìnhtrên mọi phương diện giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành tự ý
thức. Conngười chỉ tự ý thức được bản thân mình trong quan hệ với những người
khác, trongquá trình hoạt động cải tạo thế giới. Chính trong quan hệ xã hội, trong
hoạt động thực tiễn xã hội và qua những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần do
chính con người tạo ra, con người phải tự ý thức về mình để nhận rõ bản thân
mình, tự điềuchỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.Tự ý
thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã hội, củamột
giai cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ thống nhữngquan
hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích chung của xã hội mình, của giaicấp
mình, hay của tầng lớp mình.
2
) Tiềm thức:
Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể,
song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm
soát của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có
được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng
sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể chủ
động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát
chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm
lý hàng ngày của con người, cả trong tư duy khoa học. Trong tư duy khoa học,
tiềm thức chủ yếu gắn với các loại hình tư duy chính xác, với các hoạt động tư duy
thường được lặp đi lặp lại nhiều lần. ở đây tiềm thức góp phần giảm sự quá tải của
đầu óc trong việc xử lý khối lượng lớn các tài liệu, dữ kiện, tin tức diễn ra một
cách lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư
duy khoa học.
) Vô thức:
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi,
thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự
truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
Vô thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc
mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác… Mỗi hiện tượng ấy có
vùng hoạt động riêng, có vai trò, chức năng riêng, song tất cả đều có một chức
năng chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất
là những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy
tắc của đời sống cộng đồng. Nó góp phần lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh
thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức,
“libiđo”…
Như vậy, vô thức có vai trò tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt động của con
người. Nhờ vô thức mà con người tránh được tình trạng căng thẳng không cần thiết
khi làm việc “quá tải”. Nhờ vô thức mà chuẩn mực con người đặt ra được thựchiện
một cách tự nhiên… Vì vậy, không thể phủ nhận vai trò cái vô thức trong cuộc
sống, nếu phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ và đúng đắn về con người.
Tuy nhiên không nên cường điệu, tuyệt đối hóa và thần bí vô thức. Không nên coi
vô thức là hiện tượng tâm lý cô lập, hoàn toàn tách khỏi hoàn cảnh xã hội xung
quanh không liên quan gì đến ý thức. Thực ra, vô thức là vô thức nằm trong con
3
người có ý thức. Giữ vai trò chủ đạo trong con người là ý thức chứ không phải vô
thức. Nhờ có ý thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức hướng tới chân,
thiện, mỹ. Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người
c) Nguồn gốc
- Nguồn gốc tự nhiên:
) Hoạt động của bộ não người.
) Giới tự nhiên:
Đối tượng của sự phản ánh
Sự phát triển của các hình thức phản ánh của vâ st chất tự nhiên. (l ý
thuy ết c ủa L ê nin )
Phản ánh vật lý
Hình thức đơn giản nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh
Hình thức phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có sự định
hướng, sự lựa chọn, nó được thể hiệnqua những biến đổi cơ, lý, hoá như: sự thay
đổi vị trí, quá trình biến dạng và phá huỷ: mặt nước có khả năng phản ánh vật như
ánh sáng mặt trời, v.v.
Phản ánh sinh vật
Hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu
sinh
Được biểu hiện ở những trình độ khác nhau như:
Tính kích thích: xuất hiện ở những thực vật và động vật bậc thấp. Phản ánh kích
thích là khả năng trả lời của cơ thể trước những tác động củamôi trường trên cơ sở
của sự chọn lọc.Nhờ tính kích thích mà cơ thể thực vật hay động vật bậc thấp có
thể thíchnghi với môi trường.
Ví dụ: hoa hướng dương hướng về phía ánh nắng mặt trời, rễ cây mọc hướng về
phía có nhiều chất dinh dưỡng.
Tính cảm ứng: xuất hiện ở những loài động vật có năng lực cảm giác. Khi các sự
vật từ môi trường bên ngoài tác động vào cơ thể động vật thì cơ thể có thể phản
ứng lại trước những tác động đó. Ở cấp độ này, nhờ hệ thần kinh mà mối liên hệ
giữa cơ thể và môi trường bên ngoài được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ
không điều kiện
Phản ánh tâm lý:
Đã xuất hiện ở những loài động vật bậc cao có hệ thần
kinh trung ương phát triển, gắn liền với quá trình hình thành các phản xạ có điều
kiện.
4
Trong sự phản ánh tâm lý, ngoài cảm giác còn xuất hiện tri giác
và biểu tượng. Phản ánh tâm lý đem lại cho con vật những thông tin về sự vật và ý
nghĩa của những thông tin ấy có liên quan tới đời sống con vật.
Phản ánh ý thức:
Đây là hình thức phản ánh cao nhất, chỉ có ở con người. Nhờ
lao động và ngôn ngữ, phản ánh tâm lý chuyển thành phản ánh ý thức (quá trình
này gắn với sự tiến hoá từ vượn thành người).
Như vậy, ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người. Ý
thức gắn liền với hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người và là chức năng của
não người.
Tuy nhiên, ta không thể đồng nhất hoạt động sinh lý ấy với ý
thức, ý thức chỉ là một mặt của quá trình sinh lý.
- Nguồn gốc xã hội:
) Nhân tố lao động: Lao động và 2 mặt của lao động:
Khái niệm: Lao động là toàn bộ các hoạt động của con người nhằm
tạo ra giá trị nào đó (phục vụ mục đích nào đó/ thỏa mãn nhu cầu nào đó) của con
người.
Lao động có 2 mặt:
Lao động cụ thể:
Là lao động được đào tạo để làm 1 công việc chuyên biệt hay
còn gọi là NGHỀ NGHIỆP.
Tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa ( = công dụng của hàng hóa
đó: xe để đi, áo để mặc,....)
Lao động trừu tượng:
Sự tiêu hao sức lao động (tiêu hóa sức bắp thịt, ) của người sản
xuất hàng hóa nói chung
Lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra
giá trị của hàng hóa. Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của
người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của
giá trị hàng hóa.
Mang phạm trù lịch sử của hàng hóa
Là quá trình con người sử dụng các công cụ lao động tác động vào
hiện thực khách quan nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ cho đời sống con người.
Là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Vì lao động tạo
ra các sản phẩm phục vụ các nhu cầu cần thiết của con người: ăn, mặc, ở, đi lại.
Sáng tạo ra bản thân con người: cải tiến dáng đi, đứng, làm cho các
giác quan của con người ngày càng phát triển --> giúp con người thoát khỏi thế
giới động vật.
Nhờ lao động, con người tác động vào giới tự nhiên, buộc chúng bộc
lộ các thuộc tính --> giúp con người nhận thức bản chất của giới tự nhiên.
5
Lao động dẫn tới sự hình thành ngôn ngữ. (Trong chính quá trình lao
động và giao tiếp đã làm hình thành và phát triển ngôn ngữ)
) Nhân tố ngôn ngữ:
Kết quả của lao động
Nhân tố tích cực tác động đến quá trình lao động và phát triển ý thức
con người
Là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn
ngữ, ý thức không thể thể hiện được.
Giúp con người phản ánh khái quát những đặc tính,những thuộc tính
của sự vật- hiện tượng trong thế giới.
Giúp con gười tổng kết thực tiễn, trao đổi thông tin làm cho ý thức
con người phát triển.
Giúp cho con người ngày càng nhận thức được bản chất của sự vật.
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy
Ngôn ngữ thông thường -> Ngôn ngữ khoa học
d) Bản chất
- Tính phụ thuộc vào TTKQ
Vượt qua phản ánh hiện tượng, đạt tới khái quát hóa, trừu tượng hóa ... các tồn tại
khách quan; đạt tới phản ánh cái bản chất, quy luật khách quan. Từ hiểu biết bản
chất - quy luật khách quan đến sáng tạo ra "thế giới khách quan" thông qua thực
tiễn. Từ nghiên cứu khám phá bản chất di truyền, biến dị của sự sống, các nhà khoa
học công nghệ sinh học có thế sáng tạo ra các giống mới ...
- Tính chủ quan, (ảo):
ý thức là hình ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy
định cả về nội dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như
thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con
người. Theo Mác: “Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu
óc con người và được cải biến đi trong đó” [C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nhà
xuất bản chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, năm 1993. tập 23, trang 35]
- Tính sáng tạo :
thể hiện ở việc con người định hướng tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin. Ngoài ra
con người còn có thể tạo ra những ý tưởng, giả thuyết, xây dựng mô hình tư tưởng
trong cáchoạt động của con người. Như vậy, sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất
của ý thức. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây là sự
phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan theo
nhu cầu của con người.
- Tính xã hội:
6
ý thức là một hiện tượng xã hội mang bản chất xã hội vì nó ra đời và tồn tại gắn
liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học
mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện
sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại
hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
2. Vai trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế
(hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay.
Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt những phạm trù,
những nguyên lý , những quy luật được khái quát từ hiện thực, phù hợp
với hiện thực. Cho nên khả năng phản ánh đúng sự liên hệ , sự
vận động sự phát triển của tự nhiên, xã hội vàduy. Tùy theo nhu
cầu thực tiễn và trình độ nhận thức của con người mà phạm vi các vấn
đề được bao quát trong phép biện chứng duy vật ngày càng được phát
triển cả về bề rộng lẫn bề sâu. Nhưng bất cấp độ phát triển nào
của nó, nguyên về mối liên hệ phổ biến sự phát triển vẫn được
xem là những nguyên lý có ý nghĩa khái quát nhất.
Vận dụng phép biện chứng duy vật về ý thức vào thực tiễn quản
doanh nghiệp
-Tác hại của tư tưởng duy tâm chủ quan, duy ý chí trong việc quản
lý sản xuất và những biểu hiện của nó.
Trong lĩnh vực quản lý sản xuất, cần kịp thời phát hiện, ngăn chặn, phê
phán các hình thức biểu hiện của tư tưởng duy tâm chủ quan đồng thời
phải củng cố, xây dựng quan điểm và phương pháp tư duy duy vật biện
chứng để chỉ đạo sản xuất. Đó là vấn đề bức thiết cần phải có trong việc
tạo dựng những tố chất của con người quản lý sản xuất hiện nay. Tuy
nhiên, trên thực tế vẫn có những nhân viên quản lý sản xuất hoặc nhiều,
hoặc ít, tự giác, hoặc không tự giác biểu hiện ra một số quan điểm duy
tâm và phương pháp siêu hình trong công việc, nên dẫn đến những tổn
thất nhất định trong công tác sản xuất. Vì vậy, tư duy của con người quản
lý cũng phải linh động, mềm dẻo để phù hợp với những điều kiện khách
quan đang biến đổi đó
Tóm lại, bất cứ nơi nào, bất cứ người quản sản xuất nào, nếu mắc
bệnh duy tâm chủ quan, duy ý chí thì trong chỉ đạo sản xuất tất yếu sẽ dẫn
đến sản xuất đình trệ, kém hiệu quả kinh tế, người lao động thiếu yên tâm,
môi trường kinh doanh bất ổn.
-Người quản lý phải nắm bắt được chính xác quy luật khách quan.
7
Xa rời thực tế, ngại xâm nhập, tìm hiểu coi thường thực tế sinh động
chỉ đề cao luận, chỉ nghiên cứu "lý luận" suông., thoát ly thực tế;
ngược lại chỉ lao vào công tác thực tế, lấy ý muốn chủ quan của mình định
ra chủ trương, đưa ra những quyết định công việc đều không đúng về cả
lý luận phương pháp công tác. Hai loại người này đều dựa vào chủ
quan, coi thường sự tồn tại của sự vật khách quan. Trong sản xuất, chính
họ người coi nhẹ " sự tồn tại" của sự vật khách quan, chỉ dựa vào
nguyện vọng chủ quan, luận suông, từ những kinh nghiệm hẹp hòi,
hoặc vận dụng một cách máy móc kinh nghiệm của người khác, nơi
khác mà thôi. Ý nghĩa của việc nhận thức một cách chính xác tính quy luật
khách quan của sự vật là ở chỗ :
Làm cho sản xuất đạt tới kết quả như đã chỉ định.
Tạo thế chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong điều hành sản xuất của người
quản lý.
-Phát huy tính cách sáng tạo của công nhân viên chức trong
doanh nghiệp.
Là người quản lý doanh nghiệp, đòi hỏi phải có cách nhìn bao quát mọi
hoạt động, lực lượng, yếu tố khách quan cũng như phải có đánh giá hết
sức xác đáng tình trạng hiện tại và xu hướng tương lai cả xí nghiệp, cả thế
mạnh và hạn chế, cả cái tích cực và cái tiêu cực của từng bộ phận, thậm
chí từng con người trong tổ chức. Chỉ nhìn thấy mặt hạn chế, khó khăn
của tình hình, chỉ thấy mục tiêu kinh tế, không thấy mục tiêu tinh thần của
xí nghiệp là rơi vào tư tưởng bi quan. Phép biện chứng duy vật đòi hỏi
người quản lý phải thấy được tính năng động sáng tạo của người lao
động.
Muốn phát huy được đầy đủ tinh thần tích cực và sáng tạo của quần
chúng, thì quan trọng trước hết là phải " giải phóng tư tưởng, bài trừ mê
tín ", làm cho công nhân, viên chức xây dựng được phong cách lao động
cộng sản chủ nghĩa, dám nghĩ, , dám làm, dám chịu trách nhiệm.
-Phát huy, phân tích và giải quyết mâu thuẫn đúng lúc, đúng chỗ, đủ
điều kiện.
Mâu thuẫn là quy luật phổ biến của vũ trụ nên trong lĩnh vực sản xuất -
kinh doanh luôn tồn tại mâu thuẫn. Khắc phục được những mâu thuẫn
trong sản xuất, tức là thúc đẩy được quá trình sản xuất phát triển hơn một
bước. Chúng ta không thể hoàn toàn đạt được điều đó, nhưng cần xem xét
toàn diện thì mới tránh khỏi sai lầm, tránh khỏi cứng nhắc.
8
Tóm lại, vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng để
xem xét việc quản lý sản xuất. Căn cứ vào sự phân tích đó, đề ra phương
pháp giải quyết mâu thuẫn một cách đúng đắn, kịp thời, đưa sự việc phát
triển không ngừng.
-Khắc phục biểu hiện của phương pháp xem xét siêu hình trong quản
lý sản xuất.
Trong quản sản xuất, người mắc bệnh siêu hình thường xem xét tình
hình một cách cô lập, tĩnh tại, không đi tìm nguyên nhân bên trong, mà họ
tin tưởng nguyên nhân bên ngoài, không phát động quần chúng tự lực
cánh sinh theo phương châm kết hợp biện pháp thô với biện pháp hiện
đại, thực hiện song song biện pháp thô hiện đại, họ chỉ khoanh
tay yêu cầu cấp trên chi viện, yêu cầu bộ phận khác hoặc cử người đi hỏi
thiên hạ, mua sắm máy móc mới, thuê mượn công nhân một cách tổ
chức. Sở dĩ sinh ra tình trạng ấy là do họ nhìn vấn đề một cách phiến diện,
chủ quan, bề ngoài.
Phép biện chứng duy vật về ý thức trong việc vận dụng vào hoạt động
nhận thức và thực tiễn với y học
-Phép biện chứng duy vật là công cụ nhận thức của người thầy
thuốc.
+ ở khía cạnh lý luận: phép biện chứng duy vật có thể giúp người thầy
thuốc định hướng công tác nghiên cứu.
+ khía cạnh phương pháp: phép biện chứng duy vật giúp người thầy
thuốc định hướng phương pháp cho các hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn trong y học.
Nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật đối với các hoạt động
thực tiễn và nhận thức của người thầy thuốc :
▪ Phải xem xét toàn diện các mối liên hệ phổ biến của đối tượng
nghiên cứu.
▪ Trong tổng số các mối liên hệ đã tìm ra phải rút ra được mối liên
hệ bản chất, chủ yếu để hiểu sâu sắc bản chất đối tượng
▪ Từ bản chất của đối tượng đã phát hiện, quay trở lại hiểu toàn bộ
đối tượng trên cơ sở liên kết mối liên hệ bản chất.
Nguyên tắc phát triển của phép biện chứng duy vật đối với hoạt động
nhận thức và thực tiễn của người thầy thuốc có những nội dung chính sau:
▪ Khi xem xét đối tượng nghiên cứu phải đặt nó trong sự vận động,
trong sự phát triển, phải phát hiện ra xu hướng biến đổi chuyển hoá của
chúng.
9
▪ Quan điểm phát triển đối lập với quan điểm tuyệt đối hoá một
nhận thức nào đó về đối tượng có được trong hoàn cảnh cụ thể nhất định,
xem đó là nhận thức tư duy đúng về toàn bộ đối tượng trong quá trình phát
triển tiếp theo.
Nguyên tắc định luận của phép biện chứng duy vật đối với hoạt động nhận
thức và thực tiễn của người thầy thuốc có những nội dung chính sau:
▪ Khi xem xét toàn diện các mối liên hệ của các đối tượng, người
thầy thuốc ghi nhận các thuộc tính của đối tượng và lý giải chúng
thông qua các phạm trù của khoa học chuyên môn.
▪ Vận dụng lý luận phép biện chứng duy vật về nguyên nhân và kết
quả vào việc xem xét nguyên nhân của bệnh có thể kết luận rằng mọi bệnh
đều có nguyên nhân xuất hiện, tồn tại và tiêu vong.
Nguyên tắc từ trừu tượng đến cụ thể: là nguyên tắc được rút ra từ tính quy
luật chung của tự nhiên, hội, nhận thức một hoạt động từ nội dung
kém phong phú, phiến diện đến một nội dung phong phú đa diện, cụ thể
diễn ra trong quá trình những thành tựu này bị những thành tựu khác phủ
định biện chứng..
-Phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận để xây dựng lý thuyết và lý
giải các thành tựu của nhận thức y học.
+ Muốn xây dựng được một thuyết đúng đắn, người thầy thuốc phải
xuất phát từ lập trường duy vật, phải cách nhìn, cách xem xét đối
tượng trong một cách biện chứng.
+ Người thầy thuốc vận dụng những phương pháp riêng thủ thuật riêng
của ngành y do đối tượng của nó quy định để giải quyết vấn đề chuyên
môn của mình.
+ Các quan điểm triết học duy vật biện chứng liên quan với đối tượng
nghiên cứu của y học được người thầy thuốc vận dụng để giải thích về
mặt lý luận bản chất các thành tựu đã thu được ở giai đoạn trước đó.
Phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận duy nhất đúng đắn để giải quyết
những vấn đề triết học nảy sinh trong quá trình nghiên cứu y học.
+ Sự xâm nhập của các tư tưởng và phương pháp của khoa học tự nhiên
hiện đại dẫn đến sự hình thành các khoa học mới như: lý – sinh, hoá -
sinh, điều khiển học – sinh học, sinh học phân tử. Xác định nội dung và
phương pháp của các khoa học đó một cách đúng đắn chỉ có thể tìm thấy
trong triết học duy vật biện chứng.
Phép biện chứng duy vật là khoa học duy nhất đúng đắn về tư duy lý luận,
về nghệ thuật vận dụng các khái niệm của người thầy thuốc.
+ Các kết quả nghiên cứu trong y học phụ thuộc rất nhiều vào nghệ thuật
vận dụng các khái niệm, phạm trù, nghệ thuật vận dụng các hình thức
10
trừu tượng. Các nhà y học phải biết vận dụng không chỉ các khái niệm có
sẵn, các phạm trù cố định bất biến như logic hình thức đang làm mà còn
phải biết vận dụng các khái niệm phạm trù thường xuyên biến đổi, chuyển
hóa lẫn nhau nữa. Phép biện chứng duy vật góp phần đáp ứng được yêu
cầu đó của người thầy thuốc. Phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận
đúng đắn giúp người thầy thuốc đấu tranh chống lại tư tưởng chính trị
phản động thông qua khoa học tự nhiên.
Vai trò của phép duy vật biện chứng đối với thực tiễn phát triển kinh
tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, người dân Việt Nam đã hiểu và tiếp thu những nghiên cứu, đúc
kết từ phân tích của nhà khoa học, nhà triết học vào thực tiễn cuộc sống.
Nó là cơ sở để con người phản ứng với thực tại vật chất thông qua những
nhận thức cụ thể. Có những thứ tồn tại trong thực tế cuộc sống cần phải có
sự cải tạo của con người mới có ích cho nhiều việc. Từ sự hiện diện của
vật chất trên thế giới này, con người nhận thức đúng, thậm chí thay đổi và
tác động trở lại một cách sáng tạo. Làm cho vật chất đó sinh ra các vật thể,
đồ vật, sinh vật, thực vật, …. đa dạng hơn hoặc nếu chủ thể coi đó là vật
có hại thì sẽ tìm cách kìm hãm sự phát triển của nó và loại bỏ nó khỏi thế
giới loài người. Con người Việt Nam đã áp dụng được các kiến thức khoa
học, lí hóa sinh vào phát triển các ngành công nghiệp sản xuất từ may mặc,
thực phẩm đến các sản phẩm điện tử để phục vụ cho nhu cầu trong và
ngoài nước. Như vậy, phép biện chứng duy vật về ý thức cũng như tri thức
đã được áp dụng một cách hiệu quả. Nếu không có tri thức, con người
không thể vận dụng để tạo ra các sản phẩm hàng hóa cũng như phát triển
nền kinh tế đất nước.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Đảng ta chủ trương: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong
và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân và công cuộc phát triển đất
nước”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đảng ta đã xác
định phương hướng cho chặng đường tiếp theo của sự nghiệp đổi mới, đó
là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
dự báo chính xác và kịp thời có chủ trương, chính sách xử lý hiệu quả
những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ
lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta” [Đảng Cộng sản
11
Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG,
H.2016, tr.16-17, tr.65, tr.17]
12

Preview text:

1) Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy
vật biện chứng về ý thức a) Khái niệm : Ý thức -
Dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của con người -
Là một phạm trù được quyết định với phạm trù vật chất, theo đó ý
thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. b) Kết cấu
: Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều
cách tiếp cận, nghiên cứu về kết cấu của ý thức. -
Theo các yếu tố hợp thành: theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba
yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm và ý chí, trong đó theo TH Mác: tri thức là
nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn có thể bao gồm các yếu tố khác như niềm tin, lí trí,… ) Tri thức
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại
ngôn ngữ. Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng.
Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức
tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà
theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”. [C.
Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr. 236]
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về
tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của
nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri
thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình
cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự
khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại
cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người;
là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không thể
có sự tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những
người vô sản và nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách
mạng người tạo ra, con người phải tự ý thức về mình để nhận rõ bản thân mình, tự
điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó
trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm
đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở
trongquá trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động 1
củaý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác
được mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng
mục đích đã lựa chọn. có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình; nó
điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác;
nó cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành
động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý chí không chỉ
thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa
của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là một trong những yếu tố
tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giaicấp
quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri
thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân
tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tốkhácb) -
Theo chiều sâu của nội tâm: Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội
tâm con người, ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức, vô thức. ) Tự ý thức
Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự
nhậnthức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng là ý thức,
làmột thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân mình
trongmối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Nhờ vậy con người tự nhận
thức vềbản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có các
hành viđạo đức và có vị trí trong xã hội. Những cảm giác của con người về bản
thân mìnhtrên mọi phương diện giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành tự ý
thức. Conngười chỉ tự ý thức được bản thân mình trong quan hệ với những người
khác, trongquá trình hoạt động cải tạo thế giới. Chính trong quan hệ xã hội, trong
hoạt động thực tiễn xã hội và qua những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần do
chính con người tạo ra, con người phải tự ý thức về mình để nhận rõ bản thân
mình, tự điềuchỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.Tự ý
thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã hội, củamột
giai cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ thống nhữngquan
hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích chung của xã hội mình, của giaicấp
mình, hay của tầng lớp mình. 2 ) Tiềm thức:
Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể,
song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm
soát của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có
được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng
sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể chủ
động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát
chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm
lý hàng ngày của con người, cả trong tư duy khoa học. Trong tư duy khoa học,
tiềm thức chủ yếu gắn với các loại hình tư duy chính xác, với các hoạt động tư duy
thường được lặp đi lặp lại nhiều lần. ở đây tiềm thức góp phần giảm sự quá tải của
đầu óc trong việc xử lý khối lượng lớn các tài liệu, dữ kiện, tin tức diễn ra một
cách lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học. ) Vô thức:
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi,
thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự
truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
Vô thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc
mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác… Mỗi hiện tượng ấy có
vùng hoạt động riêng, có vai trò, chức năng riêng, song tất cả đều có một chức
năng chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất
là những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy
tắc của đời sống cộng đồng. Nó góp phần lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh
thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức, “libiđo”…
Như vậy, vô thức có vai trò tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt động của con
người. Nhờ vô thức mà con người tránh được tình trạng căng thẳng không cần thiết
khi làm việc “quá tải”. Nhờ vô thức mà chuẩn mực con người đặt ra được thựchiện
một cách tự nhiên… Vì vậy, không thể phủ nhận vai trò cái vô thức trong cuộc
sống, nếu phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ và đúng đắn về con người.
Tuy nhiên không nên cường điệu, tuyệt đối hóa và thần bí vô thức. Không nên coi
vô thức là hiện tượng tâm lý cô lập, hoàn toàn tách khỏi hoàn cảnh xã hội xung
quanh không liên quan gì đến ý thức. Thực ra, vô thức là vô thức nằm trong con 3
người có ý thức. Giữ vai trò chủ đạo trong con người là ý thức chứ không phải vô
thức. Nhờ có ý thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức hướng tới chân,
thiện, mỹ. Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người c) Nguồn gốc
- Nguồn gốc tự nhiên: )
Hoạt động của bộ não người. ) Giới tự nhiên:
Đối tượng của sự phản ánh
Sự phát triển của các hình thức phản ánh của vâ s t chất tự nhiên. (l ý thuy ết c ủa L ê nin ) Phản ánh vật lý
Hình thức đơn giản nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh
Hình thức phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có sự định
hướng, sự lựa chọn, nó được thể hiệnqua những biến đổi cơ, lý, hoá như: sự thay
đổi vị trí, quá trình biến dạng và phá huỷ: mặt nước có khả năng phản ánh vật như ánh sáng mặt trời, v.v. Phản ánh sinh vật
Hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh
Được biểu hiện ở những trình độ khác nhau như:
Tính kích thích: xuất hiện ở những thực vật và động vật bậc thấp. Phản ánh kích
thích là khả năng trả lời của cơ thể trước những tác động củamôi trường trên cơ sở
của sự chọn lọc.Nhờ tính kích thích mà cơ thể thực vật hay động vật bậc thấp có
thể thíchnghi với môi trường.
Ví dụ: hoa hướng dương hướng về phía ánh nắng mặt trời, rễ cây mọc hướng về
phía có nhiều chất dinh dưỡng.
Tính cảm ứng: xuất hiện ở những loài động vật có năng lực cảm giác. Khi các sự
vật từ môi trường bên ngoài tác động vào cơ thể động vật thì cơ thể có thể phản
ứng lại trước những tác động đó. Ở cấp độ này, nhờ hệ thần kinh mà mối liên hệ
giữa cơ thể và môi trường bên ngoài được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ không điều kiện Phản ánh tâm lý:
Đã xuất hiện ở những loài động vật bậc cao có hệ thần
kinh trung ương phát triển, gắn liền với quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện. 4
Trong sự phản ánh tâm lý, ngoài cảm giác còn xuất hiện tri giác
và biểu tượng. Phản ánh tâm lý đem lại cho con vật những thông tin về sự vật và ý
nghĩa của những thông tin ấy có liên quan tới đời sống con vật. Phản ánh ý thức:
Đây là hình thức phản ánh cao nhất, chỉ có ở con người. Nhờ
lao động và ngôn ngữ, phản ánh tâm lý chuyển thành phản ánh ý thức (quá trình
này gắn với sự tiến hoá từ vượn thành người).
Như vậy, ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người. Ý
thức gắn liền với hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người và là chức năng của não người.
Tuy nhiên, ta không thể đồng nhất hoạt động sinh lý ấy với ý
thức, ý thức chỉ là một mặt của quá trình sinh lý.
- Nguồn gốc xã hội: )
Nhân tố lao động: Lao động và 2 mặt của lao động:
Khái niệm: Lao động là toàn bộ các hoạt động của con người nhằm
tạo ra giá trị nào đó (phục vụ mục đích nào đó/ thỏa mãn nhu cầu nào đó) của con người. Lao động có 2 mặt: Lao động cụ thể:
Là lao động được đào tạo để làm 1 công việc chuyên biệt hay
còn gọi là NGHỀ NGHIỆP.
Tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa ( = công dụng của hàng hóa
đó: xe để đi, áo để mặc,....) Lao động trừu tượng:
Sự tiêu hao sức lao động (tiêu hóa sức bắp thịt, ) của người sản xuất hàng hóa nói chung
Lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra
giá trị của hàng hóa. Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của
người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Mang phạm trù lịch sử của hàng hóa
Là quá trình con người sử dụng các công cụ lao động tác động vào
hiện thực khách quan nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ cho đời sống con người.
Là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Vì lao động tạo
ra các sản phẩm phục vụ các nhu cầu cần thiết của con người: ăn, mặc, ở, đi lại.
Sáng tạo ra bản thân con người: cải tiến dáng đi, đứng, làm cho các
giác quan của con người ngày càng phát triển --> giúp con người thoát khỏi thế giới động vật.
Nhờ lao động, con người tác động vào giới tự nhiên, buộc chúng bộc
lộ các thuộc tính --> giúp con người nhận thức bản chất của giới tự nhiên. 5
Lao động dẫn tới sự hình thành ngôn ngữ. (Trong chính quá trình lao
động và giao tiếp đã làm hình thành và phát triển ngôn ngữ) ) Nhân tố ngôn ngữ: Kết quả của lao động
Nhân tố tích cực tác động đến quá trình lao động và phát triển ý thức con người
Là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn
ngữ, ý thức không thể thể hiện được.
Giúp con người phản ánh khái quát những đặc tính,những thuộc tính
của sự vật- hiện tượng trong thế giới.
Giúp con gười tổng kết thực tiễn, trao đổi thông tin làm cho ý thức con người phát triển.
Giúp cho con người ngày càng nhận thức được bản chất của sự vật.
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy
Ngôn ngữ thông thường -> Ngôn ngữ khoa học d) Bản chất
- Tính phụ thuộc vào TTKQ
Vượt qua phản ánh hiện tượng, đạt tới khái quát hóa, trừu tượng hóa ... các tồn tại
khách quan; đạt tới phản ánh cái bản chất, quy luật khách quan. Từ hiểu biết bản
chất - quy luật khách quan đến sáng tạo ra "thế giới khách quan" thông qua thực
tiễn. Từ nghiên cứu khám phá bản chất di truyền, biến dị của sự sống, các nhà khoa
học công nghệ sinh học có thế sáng tạo ra các giống mới ... - Tính chủ quan, (ảo):
ý thức là hình ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy
định cả về nội dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như
thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con
người. Theo Mác: “Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu
óc con người và được cải biến đi trong đó” [C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nhà
xuất bản chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, năm 1993. tập 23, trang 35] - Tính sáng tạo:
thể hiện ở việc con người định hướng tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin. Ngoài ra
con người còn có thể tạo ra những ý tưởng, giả thuyết, xây dựng mô hình tư tưởng
trong cáchoạt động của con người. Như vậy, sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất
của ý thức. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây là sự
phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan theo nhu cầu của con người. - Tính xã hội: 6
ý thức là một hiện tượng xã hội mang bản chất xã hội vì nó ra đời và tồn tại gắn
liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học
mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện
sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại
hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội. 2. V
ai trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế
(hoặc kinh doanh) ở V
iệt Nam hiện nay .
Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt những phạm trù,
những nguyên lý , những quy luật được khái quát từ hiện thực, phù hợp
với hiện thực. Cho nên nó có khả năng phản ánh đúng sự liên hệ , sự
vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Tùy theo nhu
cầu thực tiễn và trình độ nhận thức của con người mà phạm vi các vấn
đề được bao quát trong phép biện chứng duy vật ngày càng được phát
triển cả về bề rộng lẫn bề sâu. Nhưng ở bất kì cấp độ phát triển nào
của nó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển vẫn được
xem là những nguyên lý có ý nghĩa khái quát nhất.
Vận dụng phép biện chứng duy vật về ý thức vào thực tiễn quản lý doanh nghiệp
-Tác hại của tư tưởng duy tâm chủ quan, duy ý chí trong việc quản
lý sản xuất và những biểu hiện của nó.
Trong lĩnh vực quản lý sản xuất, cần kịp thời phát hiện, ngăn chặn, phê
phán các hình thức biểu hiện của tư tưởng duy tâm chủ quan đồng thời
phải củng cố, xây dựng quan điểm và phương pháp tư duy duy vật biện
chứng để chỉ đạo sản xuất. Đó là vấn đề bức thiết cần phải có trong việc
tạo dựng những tố chất của con người quản lý sản xuất hiện nay. Tuy
nhiên, trên thực tế vẫn có những nhân viên quản lý sản xuất hoặc nhiều,
hoặc ít, tự giác, hoặc không tự giác biểu hiện ra một số quan điểm duy
tâm và phương pháp siêu hình trong công việc, nên dẫn đến những tổn
thất nhất định trong công tác sản xuất. Vì vậy, tư duy của con người quản
lý cũng phải linh động, mềm dẻo để phù hợp với những điều kiện khách quan đang biến đổi đó
Tóm lại, ở bất cứ nơi nào, bất cứ người quản lý sản xuất nào, nếu mắc
bệnh duy tâm chủ quan, duy ý chí thì trong chỉ đạo sản xuất tất yếu sẽ dẫn
đến sản xuất đình trệ, kém hiệu quả kinh tế, người lao động thiếu yên tâm,
môi trường kinh doanh bất ổn.
-Người quản lý phải nắm bắt được chính xác quy luật khách quan. 7
Xa rời thực tế, ngại xâm nhập, tìm hiểu và coi thường thực tế sinh động
mà chỉ đề cao lý luận, chỉ nghiên cứu "lý luận" suông., thoát ly thực tế;
ngược lại chỉ lao vào công tác thực tế, lấy ý muốn chủ quan của mình định
ra chủ trương, đưa ra những quyết định công việc đều không đúng về cả
lý luận và phương pháp công tác. Hai loại người này đều dựa vào chủ
quan, coi thường sự tồn tại của sự vật khách quan. Trong sản xuất, chính
họ là người coi nhẹ " sự tồn tại" của sự vật khách quan, mà chỉ dựa vào
nguyện vọng chủ quan, lý luận suông, từ những kinh nghiệm hẹp hòi,
hoặc vận dụng một cách máy móc kinh nghiệm của người khác, ở nơi
khác mà thôi. Ý nghĩa của việc nhận thức một cách chính xác tính quy luật
khách quan của sự vật là ở chỗ :
Làm cho sản xuất đạt tới kết quả như đã chỉ định.
Tạo thế chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong điều hành sản xuất của người quản lý.
-Phát huy tính cách sáng tạo của công nhân viên chức trong doanh nghiệp.
Là người quản lý doanh nghiệp, đòi hỏi phải có cách nhìn bao quát mọi
hoạt động, lực lượng, yếu tố khách quan cũng như phải có đánh giá hết
sức xác đáng tình trạng hiện tại và xu hướng tương lai cả xí nghiệp, cả thế
mạnh và hạn chế, cả cái tích cực và cái tiêu cực của từng bộ phận, thậm
chí từng con người trong tổ chức. Chỉ nhìn thấy mặt hạn chế, khó khăn
của tình hình, chỉ thấy mục tiêu kinh tế, không thấy mục tiêu tinh thần của
xí nghiệp là rơi vào tư tưởng bi quan. Phép biện chứng duy vật đòi hỏi
người quản lý phải thấy được tính năng động sáng tạo của người lao động.
Muốn phát huy được đầy đủ tinh thần tích cực và sáng tạo của quần
chúng, thì quan trọng trước hết là phải " giải phóng tư tưởng, bài trừ mê
tín ", làm cho công nhân, viên chức xây dựng được phong cách lao động
cộng sản chủ nghĩa, dám nghĩ, , dám làm, dám chịu trách nhiệm.
-Phát huy, phân tích và giải quyết mâu thuẫn đúng lúc, đúng chỗ, đủ điều kiện.
Mâu thuẫn là quy luật phổ biến của vũ trụ nên trong lĩnh vực sản xuất -
kinh doanh luôn tồn tại mâu thuẫn. Khắc phục được những mâu thuẫn
trong sản xuất, tức là thúc đẩy được quá trình sản xuất phát triển hơn một
bước. Chúng ta không thể hoàn toàn đạt được điều đó, nhưng cần xem xét
toàn diện thì mới tránh khỏi sai lầm, tránh khỏi cứng nhắc. 8
Tóm lại, vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng để
xem xét việc quản lý sản xuất. Căn cứ vào sự phân tích đó, đề ra phương
pháp giải quyết mâu thuẫn một cách đúng đắn, kịp thời, đưa sự việc phát triển không ngừng.
-Khắc phục biểu hiện của phương pháp xem xét siêu hình trong quản lý sản xuất.
Trong quản lý sản xuất, người mắc bệnh siêu hình thường xem xét tình
hình một cách cô lập, tĩnh tại, không đi tìm nguyên nhân bên trong, mà họ
tin tưởng nguyên nhân bên ngoài, không phát động quần chúng tự lực
cánh sinh theo phương châm kết hợp biện pháp thô sơ với biện pháp hiện
đại, thực hiện song song biện pháp thô sơ và hiện đại, mà họ chỉ khoanh
tay yêu cầu cấp trên chi viện, yêu cầu bộ phận khác hoặc cử người đi hỏi
thiên hạ, mua sắm máy móc mới, thuê mượn công nhân một cách vô tổ
chức. Sở dĩ sinh ra tình trạng ấy là do họ nhìn vấn đề một cách phiến diện, chủ quan, bề ngoài.
Phép biện chứng duy vật về ý thức trong việc vận dụng vào hoạt động
nhận thức và thực tiễn với y học

-Phép biện chứng duy vật là công cụ nhận thức của người thầy thuốc.
+ ở khía cạnh lý luận: phép biện chứng duy vật có thể giúp người thầy
thuốc định hướng công tác nghiên cứu.
+ ở khía cạnh phương pháp: phép biện chứng duy vật giúp người thầy
thuốc định hướng phương pháp cho các hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn trong y học.
Nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật đối với các hoạt động
thực tiễn và nhận thức của người thầy thuốc :
▪ Phải xem xét toàn diện các mối liên hệ phổ biến của đối tượng nghiên cứu.
▪ Trong tổng số các mối liên hệ đã tìm ra phải rút ra được mối liên
hệ bản chất, chủ yếu để hiểu sâu sắc bản chất đối tượng
▪ Từ bản chất của đối tượng đã phát hiện, quay trở lại hiểu toàn bộ
đối tượng trên cơ sở liên kết mối liên hệ bản chất.
Nguyên tắc phát triển của phép biện chứng duy vật đối với hoạt động
nhận thức và thực tiễn của người thầy thuốc có những nội dung chính sau:
▪ Khi xem xét đối tượng nghiên cứu phải đặt nó trong sự vận động,
trong sự phát triển, phải phát hiện ra xu hướng biến đổi chuyển hoá của chúng. 9
▪ Quan điểm phát triển đối lập với quan điểm tuyệt đối hoá một
nhận thức nào đó về đối tượng có được trong hoàn cảnh cụ thể nhất định,
xem đó là nhận thức tư duy đúng về toàn bộ đối tượng trong quá trình phát triển tiếp theo.
Nguyên tắc định luận của phép biện chứng duy vật đối với hoạt động nhận
thức và thực tiễn của người thầy thuốc có những nội dung chính sau:
▪ Khi xem xét toàn diện các mối liên hệ của các đối tượng, người
thầy thuốc ghi nhận các thuộc tính của đối tượng và lý giải chúng
thông qua các phạm trù của khoa học chuyên môn.
▪ Vận dụng lý luận phép biện chứng duy vật về nguyên nhân và kết
quả vào việc xem xét nguyên nhân của bệnh có thể kết luận rằng mọi bệnh
đều có nguyên nhân xuất hiện, tồn tại và tiêu vong.
Nguyên tắc từ trừu tượng đến cụ thể: là nguyên tắc được rút ra từ tính quy
luật chung của tự nhiên, xã hội, nhận thức là một hoạt động từ nội dung
kém phong phú, phiến diện đến một nội dung phong phú đa diện, cụ thể
diễn ra trong quá trình những thành tựu này bị những thành tựu khác phủ định biện chứng..
-Phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận để xây dựng lý thuyết và lý
giải các thành tựu của nhận thức y học.
+ Muốn xây dựng được một lý thuyết đúng đắn, người thầy thuốc phải
xuất phát từ lập trường duy vật, phải có cách nhìn, cách xem xét đối
tượng trong một cách biện chứng.
+ Người thầy thuốc vận dụng những phương pháp riêng thủ thuật riêng
của ngành y do đối tượng của nó quy định để giải quyết vấn đề chuyên môn của mình.
+ Các quan điểm triết học duy vật biện chứng liên quan với đối tượng
nghiên cứu của y học được người thầy thuốc vận dụng để giải thích về
mặt lý luận bản chất các thành tựu đã thu được ở giai đoạn trước đó.
Phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận duy nhất đúng đắn để giải quyết
những vấn đề triết học nảy sinh trong quá trình nghiên cứu y học.
+ Sự xâm nhập của các tư tưởng và phương pháp của khoa học tự nhiên
hiện đại dẫn đến sự hình thành các khoa học mới như: lý – sinh, hoá -
sinh, điều khiển học – sinh học, sinh học phân tử. Xác định nội dung và
phương pháp của các khoa học đó một cách đúng đắn chỉ có thể tìm thấy
trong triết học duy vật biện chứng.
Phép biện chứng duy vật là khoa học duy nhất đúng đắn về tư duy lý luận,
về nghệ thuật vận dụng các khái niệm của người thầy thuốc.
+ Các kết quả nghiên cứu trong y học phụ thuộc rất nhiều vào nghệ thuật
vận dụng các khái niệm, phạm trù, nghệ thuật vận dụng các hình thức 10
trừu tượng. Các nhà y học phải biết vận dụng không chỉ các khái niệm có
sẵn, các phạm trù cố định bất biến như logic hình thức đang làm mà còn
phải biết vận dụng các khái niệm phạm trù thường xuyên biến đổi, chuyển
hóa lẫn nhau nữa. Phép biện chứng duy vật góp phần đáp ứng được yêu
cầu đó của người thầy thuốc. Phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận
đúng đắn giúp người thầy thuốc đấu tranh chống lại tư tưởng chính trị
phản động thông qua khoa học tự nhiên.
Vai trò của phép duy vật biện chứng đối với thực tiễn phát triển kinh
tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, người dân Việt Nam đã hiểu và tiếp thu những nghiên cứu, đúc
kết từ phân tích của nhà khoa học, nhà triết học vào thực tiễn cuộc sống.
Nó là cơ sở để con người phản ứng với thực tại vật chất thông qua những
nhận thức cụ thể. Có những thứ tồn tại trong thực tế cuộc sống cần phải có
sự cải tạo của con người mới có ích cho nhiều việc. Từ sự hiện diện của
vật chất trên thế giới này, con người nhận thức đúng, thậm chí thay đổi và
tác động trở lại một cách sáng tạo. Làm cho vật chất đó sinh ra các vật thể,
đồ vật, sinh vật, thực vật, …. đa dạng hơn hoặc nếu chủ thể coi đó là vật
có hại thì sẽ tìm cách kìm hãm sự phát triển của nó và loại bỏ nó khỏi thế
giới loài người. Con người Việt Nam đã áp dụng được các kiến thức khoa
học, lí hóa sinh vào phát triển các ngành công nghiệp sản xuất từ may mặc,
thực phẩm đến các sản phẩm điện tử để phục vụ cho nhu cầu trong và
ngoài nước. Như vậy, phép biện chứng duy vật về ý thức cũng như tri thức
đã được áp dụng một cách hiệu quả. Nếu không có tri thức, con người
không thể vận dụng để tạo ra các sản phẩm hàng hóa cũng như phát triển
nền kinh tế đất nước.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Đảng ta chủ trương: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong
và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân và công cuộc phát triển đất
nước”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đảng ta đã xác
định phương hướng cho chặng đường tiếp theo của sự nghiệp đổi mới, đó
là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
dự báo chính xác và kịp thời có chủ trương, chính sách xử lý hiệu quả
những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ
lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta” [Đảng Cộng sản 11
Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG,
H.2016, tr.16-17, tr.65, tr.17] 12