















Preview text:
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân …...0O0….. BÀI TẬP LỚN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Đề tài số 2:
Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức và vai
trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế
(hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay. Họ, tên SV: Mã SV: Lớp:
Khóa: Giảng đường: Hà Nội - 4/2023 1 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………… I. NỘI DUNG CHÍNH
1. Giới thiệu chung về Chủ nghĩa duy vật biện chứng……………………
2. Quan niệm của triết học Mác- Lênin về ý thức
a. Khái niệm về ý thức………………………………………………….
b. Nguồn gốc của ý thức…………………………………………………
c. Bản chất của ý thức…………………………………………………..
d. Cấu trúc của ý thức……………………………………………………….
3. Vai trò của ý thức trong thực tiễn…………………………………….......
4. Liên hệ vai trò của ý thức với thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh)
ở Việt Nam hiện nay……………………………………………………...
II. KẾT LUẬN……………………………………………………………...
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………. 2 LỜI MỞ ĐẦU
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình
thức cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới
có. ý thức của con người là cơ năng của cái “ khối vật chất đặc biệt phức tạm mà
người ta gọi là bộ óc con người” (theo LêNin). Tác động của ý thức xã hội đối với
con người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn
mà con là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn, tác động tích
cự hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ
thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học văn hoá và tư tưỏng.
Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế- kỹ thuật
yếu, trong điều kiện sự biến đổi khoa học- công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất
nhanh, liệu nước ta có thể đạt đựoc những thành công mong muốn trong việc tạo ra
nền khoa học- công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế trong một thời gian ngắn hay không?
Chung ta phải làm gì để tránh được nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và
trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi
và trật tự ưu tiên phát triển khoa học- công nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế
trong các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần phải có tri thức vì tri thức là khoa
học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả năng nhận thức cho mỗi người. Tuy
nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng không có vai trò
gì đối với đời sống hiện thực cả.Chỉ chú trọng đến tri thức mà bỏ qua công tác văn
hoá- tư tưởng thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống của dân tộc. Chức
năng của các giá trị văn hoá đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có
tính đạo đức thì tất cả các dạng giá trị ( giá trị vật chất và tinh thần) sẽ mất đi mọi ý
nghĩa.Còn cách mạng tư tưởng góp phần làm biến đổi đời sống tinh thần- xã hội, xây
dựng mối quan hệ tư tưởng, tình cảm của con người với tư cách là chủ thể xây dựng 3
đời sống tinh thần và tạo ra được những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của
con người.Mà có tự do thì con người mới có thể tham gia xây dựng đất nước.
Như vậy, ý thức mà biểu hiện trong đời sống xã hội là các vấn đề khoa học- văn hoá-
tư tưởng có vai trò vô cùng quan trọng. Tìm hiểu về ý thức và tri thức để có những
biện pháp đúng đắn tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện xã hội.
Trong bài tiểu luận này em chọn đề tài 2: “Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy
vật biện chứng về ý thức và vai trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực
tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay.” 4 I. NỘI DUNG CHÍNH
1. Giới thiệu chung về Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Phương pháp duy vật biện chứng hay chủ nghĩa duy vật biện chứng là một bộ phận
của học thuyết triết học do Karl Marx và Friedrich Engels đề xướng. Cốt lõi của chủ
nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật kết hợp với phép biện chứng.
Đặc trưng của phương pháp duy vật biện chứng là coi một sự vật hay một hiện tượng
trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện
tượng khác, trong sự đấu tranh với đối tượng đối lập dẫn đến hình thành đối tượng
mới mang đặc tính của cả hai.
Marx đã kế thừa tư tưởng về phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm Friedrich
Hegel và lý luận về chủ nghĩa duy vật của Ludwig Andreas von Feuerbach và phát triển nên này phương pháp luận
. Những người theo chủ nghĩa Marx - Lenin cho rằng
phương pháp duy vật biện chứng là cơ sở triết học cho hệ tư tưởng của họ.
2. Quan niệm của triết học Mác- Lênin về ý thức a. Khái niệm về ý thức
Để đưa ra được định nghĩa về ý thức,con người đã trải qua một thời kỳ lịch sử lâu
dài,nó trải qua những tư tưởng từ thô sơ,sai lệch cho tới những định nghĩa có tính khoa học.
Ngay từ thời cổ xưa,từ khi con người còn rất mơ hồ về cấu tạo của bản thân vì
chưa lý giải được các sự vật hiện tượng xung quanh mình. Do chưa giải thích được
giấc mơ là gì họ đã cho rằng: có một linh hồn nào đó cư trú trong cơ thể và có thể rời
bỏ cơ thể, linh hồn này không những điều khiển được suy nghĩ tình cảm của con
người mà còn điều khiển toàn bộ hoạt động của con người. Nếu linh hồn rời bỏ cơ thể
thì cơ thể sẽ trở thành cơ thể chết.
Tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm đã phát triển quan niệm linh hồn của con người
nguyên thủy thành quan niệm về vai trò sáng tạo của linh hồn đối với thế giới, quan
niệm về hồi tưởng của linh hồn bất tử và quan niệm về một linh hồn phổ biến không
chỉ ở trong con người mà cả trong các sự vật, hiện tượng, trong thế giới cõi người và
cõi thần, quan niệm về ý thức tuyệt đối, về lý tính thế giới.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thì đồng nhất ý thức với cảm gíac và cho rằng cảm
giác của con người chi phối thế giới...Như vậy, cả tôn giáo lẫn chủ nghĩa duy tâm đều 5
cho rằng ý thức tồn tại độc lập với thế giới bên ngoài và là tính thứ nhất, sáng tạo ra thế giới vật chất.
Ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm tự ý thức, tri
thức, tình cảm, ý chí trong đó tri tức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý
thức. Tự ý thức là một yếu tố quan trọng của ý thức.
Khi phản ánh thế giới khách quan, con người tự phân biệt được mình, đối lập
mình với thế giới đó và tự nhận thức mình như là một thực thể hoạt động có cảm
giác, có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội, đặc biệt trong giao
tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn đòi hỏi con người phải nhận thức rõ bản thân mình,
tự điều chỉnh mình tuân theo các tiêu chuẩn, quy tắc mà xã hội đặt ra. Con người có
thể đặt ra và trả lời các câu hỏi: Mình là ai? Mình phải làm gì? Mình được làm gì?
Làm như thế nào? Ngoài ra văn hóa cũng đóng vai trò là "gương soi" giúp con người
tự ý thức được bản thân. Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể có từ trước nhưng
gần như đã trở thành bản năng, kỹ năng nằm sâu trong ý thức của chủ thể. . Tình cảm
là những xúc động của con người trước thế giới xung quanh đối với bản thân mình.
Cảm gíac yêu ghét một cái gì đó, một người nào đó hay một sự vật, hiện tượng xung quanh.
Tóm lại, ý thức bao gồm những yếu tố tri thức và những yếu tố tình cảm, ý chí
trong sự liên hệ tác đọng qua lại nhưng về căn bản ý thức có nội dung tri thức và luôn hướng tới tri thức.
b. Nguồn gốc của ý thức * Nguồn gốc tự nhiên:
Theo quan điểm của triết học Marx-Lenin, ý thức là một thuộc tính của một dạng vật
chất có tổ chức cao là bộ óc người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não
người. Nếu không có sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người và không
có bộ não người với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ không có ý thức.
Bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một dạng vật
chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người hiện đại là sản phẩm của quá
trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội và có cấu tạo rất phức tạp, gồm khoảng
14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này tạo nên nhiều mối liên hệ nhằm thu nhận,
xử lý, dẫn truyền và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế
giới bên ngoài thông qua các phản xạ có điều kiện và không điều kiện. 6
Cũng theo chủ nghĩa Marx-Lenin, hoạt động ý thức con người diễn ra trên cơ sở hoạt
động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Sự phụ thuộc của ý thức vào hoạt động của bộ óc
thể hiện ở chỗ khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Tuy nhiên, nếu
chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại
tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi
đối tượng vật chất. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này
những đặc điểm của hệ thống vật chất khác *Nguồn gốc xã hội:
Để ý thức có thể ra đời, bên những nguồn gốc tự nhiên thì điều kiện quyết định cho sự
ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
“Sau lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ đó là hai sức kích
thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não loài vật thành bộ não loài ”
người, từ tâm lý động vật thành ý thức” – [Friedrich Engels]
Là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt động bản chất người. Đó là hoạt động chủ
động, sáng tạo, có mục đích. Lao động đem lại cho con người dáng đi thẳng đứng, giải
phóng hai tay. Điều này cùng với chế độ ăn có thịt đã thực sự có ý nghĩa quyết định đối
với quá trình chuyển hoá từ vượn thành người, từ tâm lý động vật thành ý thức.
“Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế
đến một mức độ và trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng
tạo ra bản thân con người” – [Friedrich Engels]
c. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng về bản chất, ý thức là sự phản ánh khách quan
vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Thể hiện rằng nội dung của ý
thức do thế giới khách quan quy định. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan vì nó nằm trong bộ não con người. Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan
nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan. Ý thức không có tính
vật chất, nó chỉ là hình ảnh tinh thần, gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng
hóa, có định hướng, có lựa chọn. ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ não con người 7
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới: Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên,
không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc người là tự nhiên trở thành ý
thức. Ngược lại, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của
việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động.
“Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi trong đó” – [Karl Marx]
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người, song đây là sự
phản ánh đặc biệt – phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá trình ý
thức là quá trình thống nhất của 3 mặt là: trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng
phản ánh. Tiếp đến là mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh
thần và cuối cùng là chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.
Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về bản chất là có tính xã hội: Ý
thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là một hiện tượng xã hội. ý
thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử-xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan.
“Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn như vậy đến chừng nào con
người còn tồn tại” – [Karl Marx và Friedrich Engels]
d. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận,
nghiên cứu về kết cấu của ý thức. Ở đây chỉ tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố
cơ bản nhất hợp thành nó. Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản
nhất là: tri thức, tình cảm và ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài
ra ý thức còn có thể bao gồm các yếu tố khác.
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức,
là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện
của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức
và là điều kiện để ý thức phát triển. theo Mác: “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại
và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”. 8
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về tự
nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận
thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh
nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình cảm
là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát
những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm
biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; là một yếu tố phát
huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn. Lênin cho
rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không thể có sự tìm tòi chân lý”;
không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những người vô sản và nửa vô
sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách mạng.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó
trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm đạo
đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá
trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức,
một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của
hoạt động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. có
thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành
vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác; nó cho phép con người tự kìm
chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin
của mình. Giá trị chân chính của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay
yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin
cho rằng: ý chí là một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu
người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức là
yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định
hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác. 9
3. Vai trò của ý thức trong thực tiễn
Khẳng định vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức, còn ý
thức chỉ là sản phẩm, là sự phản ánh thế giới khách quan trong nhận thức và hành
động của con người thì phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành
động theo hiện thực khách quan.
Khẳng định ý thức có vai trò tích cực trong sự tác động trở lại đối với vật chất,
phép biện chứng duy vật yêu cầu trong nhận thức và trong hoạt động Ý thức con
người cần phải nhận thức và vận dụng quy luật khánh quan một cách chủ động, sáng
tạo, chống lại thái độ tiêu cực, thụ động.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con
người để tác động, cải tổ thế giới khánh quan, đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ,
trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại.
Như vậy có thể thấy ý thức là một phạm trù có vai trò quan trọng đối với con
người, nếu con người không có ý thức thì có lẽ sẽ giống như loài động vật bình
thường. Nhưng nhờ ý thức con người có sự vận động và hiểu về thế giới quan, tác
động đến thế giới quan để xây dựng thế giới của con người.
Vai trò của ý thức thể hiện ở mọi lĩnh vực đời sống xã hội hiện nay. Ý thức của
con người được phản ánh qua mọi hình thái ý thức xã hội và từ đó tác động lên đời
sống của con người. Ý thức của con người phản ánh qua chính trị, pháp quyền; qua
đạo đức, phong tục, tập quán; qua khoa học; qua ý thức nghệ thuật; qua tôn giáo;….
Mỗi khía cạnh của xã hội đều được ý thức phản ảnh và thể hiện ra, vì thế những gì
con người có hiện nay trong đời sống chính là những thành quả của ý thức con người.
Bởi vậy ý thức có đóng vai trò quan trọng, là nền tảng xây dựng xã hội, đời sống của con người đến nay.
Vai trò của ý thức có một tầm quan trọng đối với thực tiễn cuộc sống và khẳng
định vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức, còn ý thức chỉ là
sản phẩm, là sự phản ánh chân thật về thế giới khách quan. Và hành động của con
người chỉ xuất phát từ những yếu tố tác động của thế giới khách quan.
Điều này đã tạo cho con người sự thông minh, nhạy bén để có thể ứng phó kịp thời
với các tác động của môi trường xung quanh. Từ đó giúp tạo nên các giá trị thực tiễn
cho đời sống xã hội, nhiều công trình kiến trúc được tạo nên, nhiều phát minh khoa 10
học được hình thành do ý thức của con người dự đoán được những thiên tai, hay
những thay đổi của tương lai…
Không những vậy, việc ý thức tốt về một vấn đề nào đó giúp cho con người hạn
chế được những hành vi vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng hậu quả xấu đến sự phát
triển của quốc gia. Các quốc gia có thể mở rộng mối quan hệ ngoại giao với nhau về
kinh tế để cùng nhau hợp tác phát triển, xây dựng đất nước và thị trường thế giới ngày
càng phát triển hiện đại hơn.
Như vậy, nói tới vai trò của ý thức thực chất là nói tới vai trò của con người, vì ý
thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Do đó, muốn thực hiện
tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn. Nghĩa là con người muốn thực hiện quy
luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có ý
chí và phương pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt
động của con người, có thể quyết định làm cho con người hành động đúng hay sai,
thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định.
Do đó, con người càng phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan thì càng
cải tạo thế giới có hiệu quả. Vì vậy, phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức,
phát huy vai trò nhân tố con người để tác động, cải tạo thế giới khách quan.
4. Liên hệ vai trò của ý thức với thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh
doanh) ở Việt Nam hiện nay
Theo quan điểm Mác-Lênin, về bản chất, ý thức xã hội là sự phản ánh và do tồn tại
xã hội quyết định. Do đó, để xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam, trước hết cần phải
tiếp tục đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Quá trình CNH, HĐH chính là nhằm tạo nền tảng vật chất cho sự
hình thành và phát triển của ý thức xã hội mới. Ở nước ta, sự tồn tại của xã hội nông
nghiệp cổ truyền theo phương thức sản xuất châu Á đã kéo dài hàng nghìn năm. Đó là
nền sản xuất mang tính chất tự cấp, tự túc được tiến hành theo kinh nghiệm; công cụ
thủ công, thô sơ, lạc hậu; có tính chất phân tán, khép kín... Nền sản xuất với những
đặc điểm như vậy đã trở thành cơ sở quan trọng nhất để hình thành nên những quan
điểm, tư tưởng, thói quen, phong tục... của con người Việt Nam. Vì vậy, muốn xây
dựng ý thức xã hội mới thì nhiệm vụ quan trọng có tính nền tảng là cần phải xóa bỏ
nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu. Ngay từ Đại hội III (năm 1960), Đảng ta đã khẳng
định, muốn đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu cần phải tiến hành 11
quá trình công nghiệp hóa. CNH, HĐH là quá trình thay đổi căn bản phương thức sản
xuất trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để đạt năng suất lao động xã hội cao, và kết
quả của nó là sự chuyển đổi nền kinh tế sản xuất nhỏ, lạc hậu thành nền sản xuất lớn, công nghiệp hiện đại.
Như chúng ta đã biết sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước ,nền kinh
tế miến bắc bị suy giảm nghiêm trọng.Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém, cơ cấu kinh tế
mất cân đối ,năng suất lao động thấp…sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ lương
thực cho dân ,nguyên liệu cho công nghiệp ,hàng hoá cho xuất khẩu ,ngoài ra còn bị
tàn phá nặng nề bởi đế quốc Mĩ .ở miền nam sau 20 năm chiến tranh nền kinh tế bị
đảo lộn ,nông nghiệp bị hoang hoá ở nhiều vùng…
Trước tình hình đó đại hội Đảng ta lần thứ IV đã đề ra chỉ tiêu và kế hoạch 5 năm
1976-1980 về xây dựng và phát triển vượt quá khả năng kinh tế 1975 phấn đấu dạt
21tr tấn lương thực 1tr tấn cá biển ,1tr ha khai hoang , 1tr200ha rừng mới 10tr tấn than
sạch …ngoài ra còn đề xuất xây dựng thêm các cơ sở mới về công nghiệp như cơ khí
và đặc biệt là phải cải tạo XHCN ở miền nam .Những chủ trương chính sách sai lầm
đó đã gây tổn hại đến nền kinh tế cuộc sóng nhân dân…đến hết 1980 ,nhiều chỉ tiêu đề
ra chỉ đạt được 50-60%, nền kinh tế tăng trưởng chậm, tổng sản phẩm xã hội bình
quân là 1,5% công nghiệp tăng 2,6% nông nghiêp giảm 0,15%.
Đại hội Đảng lần V vẫn chưa tìm ra nguyên nhân dẫn tới sự trì trệ ,đồng thời
cũng chưa đề ra các chính sách mới cho nền kinh tế 1981-1985 . Chúng ta chưa khắc
phục chủ quan trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế ,cảI tạo XHCN và quản lý kinh tế lại
phạm những sai lầm mới rong lĩnh vực phân phối lưu thông .Nhìn chung vẫn chưa đạt
được mục tiêu đại hội V đề ra .
Tất nhiên ngoài những yếu tố chủ quan còn có yếu tố khách quan dẫn đến sự trì
trệ của nền kinh tế do chiến tranh ,bối cảnh quốc tế song chúng ta vẫn mắc sai lầm chủ
quan trong việc quản lý cán bộ ,phát triển lực lượng sản xuất
Nhắc lại thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức đối với vật chất ,thấy rõ tác động
qua lại giữa kinh tế và chính trị trước khi có công cuộc đổi mới. Phép biện chứng duy
vật khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào thải .
Trước tình hình kinh tế đó, Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu ,phân tích
tình hình ,lấy ý kiến của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế. Đại hội
Đảng VI đã rút ra kinh nghiệm lớn trong đó phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn 12
trọng và hoạt động theo quy luật khách quan. Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra
bước ngoặt trong sự việc xây dựng CNXH ở nước ta .
Tổng sản lượng kinh tế trong nước năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990. Kết
cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng
hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay đã sản xuất đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân
dân. Nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường
định huqướng XHCN. Đời sống của nhân dân dần được cải thiện. Đất nước đã ra khỏi
khủng hoanmgr kinh tế-xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hụt hẫng
về thị trường. kinh tế tăng trưởng tương đối cao: Tổng sản phẩm trong nước tăng bình
quân 7% trong một năm; giá trị nông -lâm-ngư ngiệp tăng bình quân 5,7%/ năm. trong
đó: Nông nghiệp tăng 5,6%, lâm nghiệp 0,4% và ngư nghiệp tăng 8,9%. Công nghiệp
đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nhịp độ tăng giá trị sản xuất hàng năm 13,5%.
Dầu tư sản xuất ra sản phẩm có triều sâu, đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất
khẩu. dịch vụ phát triển vứi giá trị trung bình là 6,8%/ năm. Lạm phát giảm đáng kể:
Năm 1986 là 587,2% thì năm 1990 chỉ còn 52,8%.
Trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa
trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và công nghệ của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư...”(22). Quá trình này tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật làm
thay đổi những điều kiện kinh tế cũng như tạo ra cơ sở và môi trường xã hội để thay
đổi tư duy, nếp nghĩ, thay đổi thói quen, lối sống... của từng cá nhân và cả cộng đồng
xã hội. Đồng thời, chủ thể của quá trình CNH, HĐH chính là con người. Cho nên, khi
tham gia vào quá trình CNH, HĐH, thực tiễn của quá trình này đòi hỏi những con
người đó buộc phải thay đổi, phải từ bỏ những tư tưởng, thói quen, nếp nghĩ, tập quán
cũ, không còn phù hợp để hình thành nên những tư tưởng, quan điểm, lối sống mới,
đáp ứng được yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội hiện nay.
Như vậy, ý thức hệ kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là ý tưởng,
nhận thức, giá trị và niềm tin chung nhất về quan điểm, tư tưởng lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, được biểu hiện
thông qua nhận thức, tư duy và hành động của con người; là quan niệm, khái niệm,
tâm tư, tình cảm của người Việt Nam ở hiện tại kết hợp với những tàn dư lịch sử làm
điều kiện nẩy sinh những khát khao, kỳ vọng và mục tiêu hướng tới tương lai. Chính
vì vậy, khi xem xét ý thức hệ kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là xem
xét những nét chung nhất trong nhận thức, tư duy và hành động của con người Việt Nam. 13
Với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững theo mô hình kinh tế thị trường
định hướng XHCN, một mặt, cần tiếp tục phát huy, cải tạo nhận thức, tư duy về kinh
tế cho thanh niên, mặt khác, cần tuyên truyền, giáo dục cho thanh niên hình thành ý
thức hệ kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm tính kế thừa, tính mới và bản
chất con đường đi lên XHCN ở Việt Nam. II. KẾT LUẬN
Thực tế đã khẳng định rằng, cho đến nay học thuyết của Mác về hình thái kinh tế,
xã hội vẫn là quan niệm duy nhất khoa học và cách mạng để nghiên cứu phân tích
lịch sử và nhận thức các vấn đề trong xã hội . Bởi vì học thuyết đó đòi hỏi phải phân
tích sự phát triển của các xã hội như một quá trình lịch tổng hợp các nhân tố và quy
luật khách quan, nó là cơ sở phương pháp luận của sự phân tích khoa học về xã hội, là
hòn đá tảng của khoa học xã hội. Là nguyên lý để nước ta áp dụng vào phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế không những là đòi hỏi cho mỗi Đảng mỗi Nhà nước mà còn là
nhiệm vụ trọng tâm của toàn xã hội. Nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam "Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho
hành động " đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đi từ khó
khăn ban đầu đến vẻ vang độc lập như ngày hôm nay.
Dưới ánh sáng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta với tư cách là thành viên của giai cấp vô
sản trên thế giới đã đồng tâm, đồng sức cùng với nhân dân cả nước, nhân dân tiến bộ
trên thế giới mãi mãi dương cao ngọn cờ cách mạng phấn đấu không mệt mỏi vì ''Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh ".
Cùng với các chủ trương đường lối chíng sách phát triển kinh tế đất nước, Đảng
luôn ra sức để phát huy nhân tố con người là yếu tố quyết định cho sự tồn tại của đất nước.
Trong sự nghiệp đổi mới của Đảng hiện nay, Đất nước ta đã đạt được những thành
tựu rất đáng khích lệ. Nền kinh tế chuyển từ "Kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước " đã đánh dấu một chấm son
trong lịch sử kinh tế - xã hội. Đi từ khó khăn ban đầu Đảng đã nỗ lực không mệt mỏi
cải cách sửa đổi những đường lối chính sách cho phù hợp với tình hình đất nước và xu thế của thời đại.
Trong thực tế hiện nay chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế mở có sự tham gia
của mọi thành phần kinh tế. Đó cũng là biện pháp tốt nhằm phát huy sức mạnh toàn
diện và phát huy những mặt mạnh của xã hội. 14
Trên con đường đi lên xã hội chủ nghĩa quan hệ sản xuất mặc dù bị chi phối bởi
lực lượng sản xuất nhưng nó cũng có tác động rất lớn tới lực lượng sản xuất, tới sự
phát triển của xã hội. Xây dựng cơ chế "Thị trường " mà sản phẩm là nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần và đa dạng hóa các loại hình sản xuất kinh doanh.
Như vậy vai trò của ý thức với thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở
Việt Nam hiện nay là vô cùng quan trọng. Đó cũng là sự vận dụng phù hợp quy luật
của các phương thức sản xuất xã hội. Và cũng là sự vận dụng hình thái kinh tế xã hội
vào thực tế của đất nước ta.
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội
2. Lí luận chính trị: Số 11 năm 2011 (Tạp chí nghiên cứu của học viện chính trị quốc gia HCM )
3. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
4. Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác – Lê nin (tái bản), Hội đồng Trung ương chỉ
đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2005
5. Tạp chí cộng sản (số 10 – 2/1999)
6. Sinh hoạt lí luận Số 4( 47- 2001), Học viện chính trị quốc gia HCM- phân viện Đà Nẵng. 15 16