











Preview text:
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân …...0O0…… BÀI TẬP LỚN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Đề tài số 02:
Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng về ý thức và vai trò của nó trong thực
tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế
(hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay.
Họ, tên SV: Nguyễn Quỳnh Hương Mã SV: 11222698
Lớp: LLNL1105(222)_03
Khóa: 64 Giảng đường: D302 Hà Nội - 4/2023 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………. 3
NỘI DUNG ………………………………………………………………. 4
1. Quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức và vai trò của
nó trong thực tiễn …………………………………………………. 4
a. Nguồn gốc của ý thức theo quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
………………………………………………………………………. 4
a.1. Nguồn gốc tự nhiên ……………………………………………… 4
a.2. Nguồn gốc xã hội ………………………………………………… 4
b. Bản chất của ý thức …………………………………………………… 6
c. Vai trò của ý thức ……………………………………………………… 7
2. Liên hệ thực tiễn phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay
………………………………………………………………………… 8
KẾT LUẬN ………………………………………………………………… 11
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………… 12 2 MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là một lý thuyết triết học và phương pháp phân
tích thế giới được sáng lập bởi C. Mác và Ph.Ăngghen. Trong quá trình phát triển
lịch sử, Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã trở thành môt trong những phương pháp
được áp dụng rộng rãi để phân tích và giải thích những vấn đề có liên quan đến quá
trình phát triển xã hội và con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng giải thích sự tồn tại và phát triển của thế giới
dựa trên quan hệ giữa vật chất và ý thức. Ý thức, trong lĩnh vực này, không chỉ đơn
thuần là những ý tưởng, quan điểm và giá trị cá nhân mà còn là một phản ánh của
môi trường xã hội và diều kiên vật chất mà con người sống trong đó. Trong thời
đại hiện nay, phát triển kinh tế và kinh doanh không chỉ dựa vào các yếu tố vật chất
mà còn phụ thuộc mạnh mẽ vào yếu tố tinh thần - ý thức. Ý thức là một yếu tố
không thể bỏ qua trong quá trình xác định, hình thành hành động và quyết định của
cá nhân và tổ chức trong môi trường kinh doanh. Ở Việt Nam, nền kinh tế và kinh
doanh đang trải qua những giai đoạn phát triển và thay đổi đáng kể. Trong quá
trình này, ý thức kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển
môi trường kinh doanh, quản lý và sáng tạo.
Phân tích và hiểu rõ quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức
và vai trò của nó trong thực tiễn kinh tế của Việt Nam hiện nay là cực kỳ cần thiết
để nắm bắt và định hướng sự phát triển kinh doanh của đất nước. Vì lí do đó, tôi
xin được chọn đề tài:” Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý
thức và vai trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế
(hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay.” 3 NỘI DUNG
1. Quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức và vai trò của nó trong thực tiễn
a. Nguồn gốc của ý thức theo quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
a.1. Nguồn gốc tự nhiên
Trong các công trình nghiên cứu khoa học của mình, C. Mác và Ph. Ăngghen
đã nhiều lần chỉ rõ rằng, ý thức không những có nguồn gốc tự nhiên mà còn có
nguồn gốc xã hội và là một hiện tượng mang bản chất xã hội. Dựa trên những
thành tựu mới của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học – thần kinh hiện đại, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng, xét về nguồn gốc tự
nhiên, ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng không phải của mọi dạng vật
chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc
người. Mối quan hệ giữa bộ óc người hoạt động bình thường và ý thức không thể
tách rời bộ óc. Ý thức lả chức năng của bộ óc người hoạt động bình thường.
Trái đất hình thành trải qua quá trình tiến hóa lâu dài dẫn đến sự xuất hiện
con người. Đó cũng là lịch sử phát triển năng lực phản ánh của thế giới vật chất từ
thấp đến cao và cao nhất là trình độ phản ánh – ý thức. Phản ánh là thuộc tính phổ
biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa
các đối tượng vật chất với nhau. Sự phản ánh phụ thuộc vào vật tác động và vật
nhận tác động. Các kết cấu vật chất càng phát triển, hoàn thiện thì năng lực phản
ánh của nó càng cao. Những đặc trưng cơ bản này có giá trị khoa học, cung cấp cơ
sở để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức
phản ánh cao nhất của thế giới vật chất. Ý thức là sự phản ánh thế giới hiện thực
bởi bộ óc con người. Như vậy sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của con
người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
a.2. Nguồn gốc xã hội
Sự ra đời của ý thức không phải chỉ có nguồn gốc tự nhiên mà còn do nguồn
gốc xã hội. Sự phát triển của giới tự nhiên mới tạo ra tiền đề vật chất có năng lực
phản ánh, chỉ là nguồn gốc sâu xa của ý thức. Hoạt động thực tiễn của loài người 4
mới là nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời của ý thức. C. Mác và Ph. Ăngghen
khẳng định: “Con người cũng có cả “ý thức” nữa. Song đó không phải là một ý
thức bẩm sinh sinh ra đã là ý thức “thuần túy” … Do đó ngay từ đầu, ý thức đã là
một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”. [ C.
Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.3, tr. 43, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995].
Sự hình thành, phát triển của ý thức là một quá trình thống nhất không tách rời
giữa nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Để tồn tại, loài người phải tạo ra những vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của
mình. Hoạt động lao động sáng tạo của con người có nhiều ý nghĩa đặc biệt. Ph.
Ăngghen đã chỉ rõ những động lực xã hội trực tiếp thúc đẩy sự ra đời của ý thức:
“Trước hết là lao động; sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là
hai sức kích thích chủ yếu dã ảnh hưởng đến bộ ốc của con vượn, làm cho bộ óc
đó dần dần biến chuyển thành bộ óc con người”. [ C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn
tập, t.20, tr.646, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995]. Thông qua hoạt động lao
động cải tạo thế giới khách quan mà con người đã từng bước nhận thức được thế
giới, có ý thức ngày càng sâu sắc về thế giới.
Ý thức hình thành không phải là quá trình con người tiếp nhận thụ động câc
tác động từ thế giới khách quan vào bộ óc của mình, mà chủ yếu từ hoạt động thực
tiễn. Trải qua quá trình hoạt động thực tiễn lâu dài, trong những điều kiện, hoàn
cảnh khác nhau, với nhiều loại đối tượng khác nhau; cùng với sự phát triển của tri
thức khoa học, các phương pháp tư duy khoa học cũng dần dược hình thành, phát
triển giúp nhận thức lý tính của loài người ngày càng sâu sắc. Ý thức không chỉ là
sự phản ánh tái tạo mà còn chủ yếu là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan.
Thông qua thực tiễn những sáng tạo trong tư duy được con người hiện thực hóa,
cho ra đời nhiều vật phẩm chưa có trong tự nhiên.
Ý thức không tồn tại độc lập, mà nó tuân theo quy luật phát triển xã hội. Ý
thức phát triển theo quy luật đối lập và phản ánh sự mâu thuẫn và phát triển xã hội.
Qua quá trình phát triển, ý thức có thể thay đổi, tiến bộ hoặc lạc hậu, phản ánh sự
thay đổi của hiện thực xã hội. Là phương thức tồn tại cơ bản của con người, lao
động mang tính xã hội đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm
giữa các thành viên trong xã hội. Từ nhu cầu đó, bộ máy phát âm, trung tâm ngôn
ngữ trong bộ óc con người được hình thành và hoàn thiện dần. Ngôn ngữ là hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Ngôn ngữ xuất hiện trở thành “vỏ 5
vật chất” của tư duy, là hiện thực trực tiếp của ý thức; là phương thức để ý thức tồn
tại với tư cách là sản phẩm xã hội – lịch sử. Cùng với lao động, ngôn ngữ có vai trò
to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của ý thức. Nhờ ngôn ngữ, con người có thể
khái quát, trừu tượng hóa, suy nghĩ độc lập, tách khỏi sự vật cảm tính; có ngôn ngữ
để có thể giao tiếp, trao đổi tư tưởng, lưu giữ, kế thừa những tri thức, kinh nghiệm
phong phú của xã hội đã tích lũy được qua các thế hệ, thời kỳ lịch sử. Ý thức là
một hiện tượng có tính xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt
ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được. Lao động và ngôn
ngữ là sự kích thích chủ yếu làm chuyển biến dần bộ óc của loài vượn người thành
bộ óc con người và tâm lý động vật thành ý thức con người. Ý thức là sản phẩm
của xã hội, một hiện tượng xã hội đặc trưng của loài người. Có thể thấy, ý thức
xuất hiện là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử trái
đất, đồng thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội – lịch sử của con người;
trong đó nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, còn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ
để ý thức hình thành, tồn tại và phát triển.
b. Bản chất của ý thức
“Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá
trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người”. [ V.I.
Lênin: Toàn tập, t.18, tr.138, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005]. Như vậy, khi
xem xét ý thức về mặt bản thể luận thì ý thức chỉ là “hình ảnh” về hiện thực khách
quan trong óc người. Ph. Ăngghen đã từng chỉ rõ tính chất biện chứng phức tạp của
quá trình phản ánh: “Trên thực tế, bất kỳ phản ánh nào của hệ thống thế giới vào
trong tư tưởng cũng đều bị hạn chế về mặt khách quan bởi những điều kiện lịch sử,
và về mặt chủ quan bởi những đặc điểm về thể chất và tinh thần của tác giả”. [ C.
Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.20, tr.57, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995].
Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, ý thức không phải là sự vật, mà chỉ là
“hình ảnh” của sự vật ở trong óc người. Ý thức tồn tại phi cảm ứng, đối lập với các
đối tượng vật chất mà nó phản ánh luôn tồn tại cảm tính. Thế giới khách quan là
nguyên bản, là tính thứ nhất. Còn ý thức chỉ là bản sao, là “hình ảnh” về thế giới
đó, là tính thứ hai. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Về nội
dung mà ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức phản ánh là chủ quan. Ý
thức là cái vật chất ở bên ngoài “di chuyển” vào trong đầu óc của con người và
được cải biến đi ở trong đó. 6
Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội. Ý
thức không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động thế giới
khách quan. Trái lại, đó là kết quả của quá trình phản ánh có định hướng, có mục
đích rõ rệt. Là hiện tượng xã hội, ý thức hình thành, phát triển gắn liền với hoạt
động thực tiễn xã hội. Trên cơ sở đó, bằng những thao tác của tư duy trừu tượng
đem lại những tri thức mới để chỉ đạo hoạt động thực tiễn, chủ động cải tạo thế
giới trong hiện thực, sáng tạo ra “thiên nhiên thứ hai” in đậm dấu ấn của con
người. Như vậy, sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Ý thức phản ánh
hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây là sự phản ánh đặc biệt, gắn liền
với thực tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan theo nhu cầu của con người.
Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Qua đó, ta thấy được, ý
thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan
trên cơ sở thực tiễn xã hội – lịch sử. Quan điểm trên của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng về ý thức hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tư duy là cái
có trước, sinh ra vật chất và chủ nghĩa duy vật tầm thường coi ý thức là một dạng
vật chất hoặc coi ý thức là sự phản ánh giản đơn, thụ động về thế giới vật chất.
c. Vai trò của ý thức
Sau khi nghiên cứu sâu về nguồn gốc và bản chất của ý thức, ta thấy được vai
trò to lớn của ý thức đối với con người. Thứ nhất, ý thức là cơ sở để phân biệt giữa
con người và động vật, bởi chỉ có con người mới có ý thức. Thứ hai, sự ra đời của
ý thức đã khẳng định vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức,
còn ý thức chỉ là sản phẩm, là sự phản ánh thế giới khách quan bởi vậy trong nhận
thức và hành động của con người thì phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn
trọng và hành động theo hiện thực khách quan. Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện
ở chỗ, nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, phụ thuộc vào nội dung,
tính chất và trình độ phản ánh thế giới khách quan mà ý thức có thể tác động trở lại
thế giới khách quan theo các chiều hướng khác nhau. Nếu phản ánh đúng đến thế
giới khách quan, ý thức có thể dự báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực,
có thể hình thành nên những lý luận định hướng đúng đắn, phù hợp và những lý
luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi
tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, nếu
ý thức phản ánh sai lệch, đi ngược lại với quy luật khách quan, thì hoạt động của
con người sẽ không đạt được mục đích. Thứ tư, tính năng động, sáng tạo của ý 7
thức có vai trò rất to lớn khi mà ngày nay tri thức khoa học trở thành nòng cốt cho
sự phát triển văn minh nhân loại. Tuy nhiên tính năng động, sáng tạo cũng không
thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào
các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động, nếu
không sẽ dễ sa vào chủ nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và không
tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
2. Liên hệ thực tiễn phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể trong việc phát triển kinh tế
và kinh doanh trong những năm qua. Với việc mở cửa kinh tế, thu hút đầu tư nước
ngoài và các chính sách hỗ trợ, nền kinh tế Việt Nam đã trở thành một trong những
nền kinh tế phát triển nhanh nhất khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, việc phát triển
kinh tế cũng đặt ra nhiều thách thức và vấn đề cần được giải quyết để đảm bảo sự
bền vững và cân đối. Trong quan hệ giữa ý thức và thực tế, Chủ nghĩa duy vật biện
chứng cho rằng ý thức có một vai trò quan trọng trong quá trình thực tiễn, cụ thể là
trong kinh tế và kinh doanh ở Việt Nam hiện nay. Ý thức của các nhà quản lý,
doanh nhân và nhân viên trong các tổ chức và doanh nghiệp có thể ảnh hưởng đến
quyết định chiến lược, phân tích thị trường, dự báo xu hướng và định hình mô hình kinh doanh.
Trong quá trình phát triển kinh tế, ý thức cần được định hình và phát triển
thông qua việc nâng cao kiến thức, học tập và trao dồi kĩ năng. Ý thức cũng cần đi
đôi với sự nhạy bén và linh hoạt thích ứng với các thay đổi trong môi trường kinh
doanh và thị trường. Ví dụ, trong việc đưa ra quyết định đầu tư, ý thức của các nhà
quản lý có vai trò quan trọng. Ý thức họ sẽ đánh giá và phân tích các yếu tố như
tiềm năng thị trường, mức dộ cạnh tranh, nguồn lực sẵn có, rủi ro và tiềm năng
sinh lợi. Các quyết định đầu tư sẽ phụ thuộc vào ý thức về việc đánh giá và lựa
chọn các dự án có tiềm năng và khả năng đem lại lợi nhuận cao.
Ngoài ra, ý thức cũng đóng vai trò quan trọng trong việc định hình mô hình
kinh doanh. Ý thức giúp các nhà doanh nhân và quản lý nhận biết và nắm bắt các
xu hướng của thị trường, nhu cầu của khách hàng và sự phát triển của công nghệ.
Dựa trên những thông tin này, họ có thể điều chỉnh, thay dổi mô hình kinh doanh
để tận dụng cơ hội đối phó với thách thức.
Trong thực tế phát triển kinh tế và kinh doanh ở Việt Nam hiện nay, ý thức
đóng vai trò quan trọng trong việc thích ứng với các biến đổi và cải cách. Qua quá 8
trình đổi mới và hội nhập quốc tế, ý thức của người Việt Nam đã được nâng cao và
mở rộng. Các doanh nghiệp và tổ chức đã nhận ra tầm quan trọng của ý thức và
đầu tư vào việc đào tạo và phát triển ý thức cho nhân viên.
Tuy nhiên, vẫn còn những thách thức đối với vai trò của ý thức trong thực
tiễn phát triển kinh tế ở Việt Nam. Một số doanh nghiệp và cá nhân vẫn tồn tại
những quan niệm hẹp hơn và thiếu ý thức về bảo vệ môi trường, đạo đức kinh
doanh và trách nhiệm xã hội. Để thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững, cần có sự
tăng cường ý thức và giáo dục về quản lý và kinh doanh có trách nhiệm. Trong
thực tế phát triển kinh tế và kinh doanh ở Việt Nam hiện nay, ý thức đóng vai trò
quan trọng trong việc thích ứng với các biến đổi và cải cách.
Đầu tiên, cần tăng cường giáo dục và đào tạo về quản lý, kỹ năng lãnh đạo,
và nhận thức về trách nhiệm xã hội. Đào tạo và nâng cao ý thức cho nhân viên,
doanh nhân và nhà quản lý về những giá trị đạo đức, bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững sẽ thúc đẩy họ đưa ra những quyết định tốt hơn và thực hiện các
hành động có ý nghĩa. Điều này giúp xây dựng một lực lượng lao động có ý thức
cao, sẵn sàng đối mặt với các thách thức và tận dụng cơ hội.
Thứ hai, cần tạo ra môi trường kinh doanh và chính sách hỗ trợ thúc đẩy ý
thức và phát triển bền vững. Chính phủ và các tổ chức liên quan cần đặt ra các quy
định và tiêu chuẩn rõ ràng về đạo đức kinh doanh, bảo vệ môi trường và quyền lợi
của người lao động. Cùng với đó, xây dựng các cơ chế kiểm soát và xử lý các hành
vi kinh doanh không đạo đức, không bảo vệ môi trường và vi phạm quyền lợi của
người lao động. Đồng thời, cần thúc đẩy sự hợp tác và trao đổi kinh nghiệm giữa
các doanh nghiệp trong việc xây dựng ý thức và thực hiện các hành động có ích cho cộng đồng.
Cuối cùng, cần khuyến khích sự tham gia của các bên liên quan, bao gồm
chính phủ, các tổ chức, doanh nghiệp, người lao động và cộng đồng. Việc tạo ra
một môi trường ủng hộ ý thức và trách nhiệm xã hội sẽ tạo động lực cho các cá
nhân và tổ chức tham gia vào các hoạt động kinh doanh có tác động tích cực đến
xã hội và môi trường. Cần xây dựng một hệ thống pháp luật và chính sách hỗ trợ
việc thúc đẩy ý thức và trách nhiệm xã hội trong kinh doanh. Chính phủ có thể đưa
ra các khung pháp lý rõ ràng về trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường, cùng với
các chính sách khuyến khích và ưu đãi cho các doanh nghiệp có ý thức và hướng
tới phát triển bền vững. 9
Hơn nữa, sự tham gia và hỗ trợ từ phía doanh nghiệp cũng là rất quan trọng.
Các doanh nghiệp có thể thiết lập các chiến lược và chính sách nội bộ để đảm bảo
ý thức và trách nhiệm xã hội được thực hiện một cách toàn diện. Họ cũng có thể
tham gia vào các hoạt động xã hội và môi trường, đồng hành với cộng đồng để giải
quyết các vấn đề xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững. Cuối cùng, sự tham
gia và nhận thức của người lao động và cộng đồng cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy ý thức và trách nhiệm xã hội trong kinh doanh. Người lao động
có thể đòi hỏi và tham gia vào các hoạt động công tác xã hội của doanh nghiệp,
đảm bảo quyền lợi của họ được bảo vệ và thúc đẩy môi trường làm việc công bằng
và an toàn. Cộng đồng có thể thúc đẩy ý thức bằng cách đánh giá và ủng hộ các
doanh nghiệp có hoạt động có trách nhiệm xã hội và gắn kết với cộng đồng. 10 KẾT LUẬN
Trong tiểu luận này, chúng ta đã phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật
biện chứng về ý thức và vai trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn
phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi ý thức
không chỉ là sự phản ánh tái tạo mà còn là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách
quan. Ý thức không chỉ phản ánh mâu thuẫn và đấu tranh xã hội mà còn có khả
năng tạo ra những ý tưởng và giá trị mới, cùng với tác động lên thực tiễn xã hội.
Liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế ở Việt Nam, chúng ta đã nhìn nhận
rằng Chủ nghĩa duy vật biện chứng có thể được áp dụng để phân tích và hiểu quá
trình phát triển kinh tế đang diễn ra. Việt Nam đang trải qua một giai đoạn phát
triển kinh tế nhanh chóng và đa dạng hóa ngành công nghiệp. Qua việc áp dụng
quan niệm về ý thức và vai trò của nó trong thực tiễn, chúng ta có thể nhìn thấy vai
trò quan trọng của ý thức trong kinh doanh, từ việc hiểu và phản ánh mối quan hệ
xã hội đến việc tạo ra những ý tưởng sáng tạo và giải pháp mới. Ngoài ra, mâu
thuẫn và đấu tranh trong kinh doanh cũng là một phần không thể thiếu trong quá
trình phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, việc áp dụng quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng trong
thực tiễn phát triển kinh tế không chỉ đơn giản là việc lý thuyết, mà cần sự chủ
động và sáng tạo trong thực hiện. Việc tăng cường ý thức và hiểu biết về quy luật
phát triển xã hội và kinh doanh, đồng thời thúc đẩy sự tương tác tích cực giữa ý
thức và thực tiễn kinh tế, sẽ giúp chúng ta đạt được sự phát triển bền vững và tiến bộ của đất nước.
Tổng kết lại, Chủ nghĩa duy vật biện chứng cung cấp cho chúng ta cơ sở lý
luận và quan điểm toàn diện về ý thức và vai trò của nó trong thực tiễn. Áp dụng
quan niệm này, chúng ta có thể phân tích và liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế
ở Việt Nam hiện nay, từ đó tìm ra các giải pháp và hướng đi phù hợp để đạt được
sự phát triển bền vững và tiến bộ của đất nước. 11 Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin: Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý
luận chính trị, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, năm 2021.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
3. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
4. Vũ Văn Hiền, GS, TS, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Phát
triển bền vững ở Việt Nam.
https://btgtu.quangninh.gov.vn/pInChiTiet.aspx?nid=3553 12