lOMoARcPSD| 44985297
0
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
0O0
BÀI TẬP LỚN TRIẾT HỌC
MÁC – LÊNIN
Đề tài số 3: Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ
với thực tiễn.
Họ, tên SV: Thúy Quỳnh Mã SV: 11225586
Lớp: Triết học Mác-Lênin (122)_35 Khóa: 64 GĐ: D206
Hà Nội - 11/2022
MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................. 0
lOMoARcPSD| 44985297
1
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................ 2
1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT Ý ..... 3
THỨC ........................................................................................................ 3
1.1. Phạm trù vật chất ............................................................................. 3
1.2. Phạm trù ý thức ................................................................................ 5
1.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức ................................................ 8
2. LIÊN HỆ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VỚI ..... 10
THỰC TIỄN ............................................................................................ 10
KẾT LUẬN .............................................................................................. 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 14
lOMoARcPSD| 44985297
2
LỜI MỞ ĐẦU
Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XV đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021 - 2026, Tổng thư Nguyễn Phú Trọng đã bài viết quan trọng: “Một
số vấn đluận thực tiễn về chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa
hội Việt Nam”. Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã luận giải
khẳng định: “Ngay khi mới ra đời trong suốt quá trình đấu tranh cách
mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: Chủ nghĩa hội mục
tiêu, tưởng của Đảng Cộng sản nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa
hội yêu cầu khách quan, con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”. Tiến
lên chủ nghĩa xã hi là mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và quan trọng nhất của
Đảng nhân dân ta hiện nay chỉ thực hiện được mục tiêu này, chúng ta
mới thxây dựng được một nước Việt Nam theo cách nói của Hồ Chí
Minh là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”. Từ thực
tế hiện nay cùng với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nước ta đại hội VII
của Đảng ta lần đầu tiên đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác- Lênin, tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chnam cho hoạt động của Đảng. Tức là,
chúng ta phải: dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin
tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn
những đặc điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới có thể dần dần tìm hiểu
được quy luật phát triển của Cách mạng Việt Nam, định ra được đường lối,
phương châm, bước đi phù hợp với tình hình nước ta.
Làm đề tài tiểu luận này, tôi muốn tìm hiểu về Triết học Mác - Lênin phần
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Cụ thể hơn, đó mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất với ý thức. Từ đó đi sâu vào sự nghiệp cách mạng lớn lao của toàn
Đảng, toàn dân ta hiện nay- sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội mà nền tảng
tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây được coi một vấn đề hết sức quan
trọng, bởi quyết định sthành công hay thất bại trên con đường đi tới chủ
nghĩa hội ở nước ta. Điều này sđược giải rõ hơn trong phần nội dung của
đề tài.
lOMoARcPSD| 44985297
3
1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý
THỨC
Để tìm hiểu cthể mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, trước
tiên ta phải hiểu và làm rõ các vấn đề về phạm trù của vật chất và ý thức.
1.1. Phạm trù vật cht
a) Quan niệm duy vật biện chứng về vật chất
Vật chất là phạm trù triết học với quan niệm khác nhau về nó. Để đưa ra
được một quan niệm thực sự đúng đắn về vật chất, V. I. Lênin đặc biệt quan
tâm đến việc tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này.
Kế thừa tưởng của C. Mác Ph. Ăngghen ng những thành tựu khoa
học tự nhiên thế kỷ XIX - XX tnhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
duy tâm, V.I. Lênin đã khẳng định: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”. Vật chất không phải chỉ bao gồm những được tạo nên từ nguyên tử,
tất thảy những tồn tại khách quan, độc lập, không phụ thuộc vào ý
thức...
Như vậy, định nghĩa vật chất ca V. I. Lênin gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, vật chất cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức không lệ
thuộc vào ý thức, kể cả sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa
nhận thức được.
Thứ hai, vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi tác động lên giác
quan của con người.
Thứ ba, vật chất được phản ánh bởi cảm giác, tư duy và ý thức.
Với những nội dung cơ bản như trên, V. I. Lênin đã giải quyết hai mặt vấn
đề cơ bản của triết học trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng, mt mặt
muốn nhấn mạnh vật chất luôn mang tính thứ nhất, là cái quyết định sự hình
thành ý thức, quyết định nội dung phản ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức
và mặt khác khẳng định khả năng nhận thức thế giới khách quan của con
người, vật chất là điều kiện để hiện thực hoá ý thức.
b) Các hình thức tồn tại của vật chất
Vật chất tồn tại dưới rất nhiều hình thái, từ các hình thức vật chất tự nhiên
chưa đặc tính của sự sống với những cấu trúc từ đến vi mô, đến vật
chất tự nhiên có đặc tính của sự sốngcùng đa dạng trong giới tự nhiên và sự
lOMoARcPSD| 44985297
4
xuất hiện của con người với những hình thức tchức hội trong lịch stiến
hóa hàng vạn năm qua đến nay.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các dạng cụ thể ca vật
chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng vận động, không gian và thời gian.
Vận động
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chỉ
sự thay đổi vị trí trong không gian vận động mọi sự biến đổi.
Khi định
nghĩa vận động là sự biến đổi nói chung, thì vận động "thuộc tính cố hữu của
vật chất", "phương thức tồn tại của vật chất", nghĩa là vật chất tồn tại bằng
vận động.
Vật chất là hạn, tận, không sinh ra hay mất đi và vận động một
thuộc tính không thể tách rời vật chất nên bản thân sự vận động cũng không thể
bị mất đi hoặc sáng tạo ra. Kết luận này của triết học Mác - Lênin đã được chứng
minh bởi định luật bảo toàn chuyển hóa năng lượng trong vật lý, vận động của
vật chất được bảo toàn cả về mặt lượng chất. Nếu một hình thức vận động
nào đó của sự vật mất đi thì sẽ nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế
nó. Các hình thức vận động chuyển hóa lẫn nhau, còn vận động của vật chất thì
vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tn tại của vật chất.
Mặc vận động luôn trong quá trình không ngừng, nhưng còn bao
hàm cả hiện tượng đứng im tương đối, tđó sự phân hoá thế giới vật chất
thành các sự vật, hiện tượng phong phú đa dạng. Nếu vận động là biến đổi
của các sự vật hiện tượng thì đứng im sự ổn định, sự bảo toàn tính quy định
sự vật hiện tượng.
Dựa trên những thành tựu khoa học, Ph.Ăngghen đã phân chia vận động
thành 5 hình thức:
- Vận động giới (Sự chuyển dịch vị trí của các vật thể trong không
gian).
- Vận động vật (Các qtrình biến đổi của nhiệt, điện, trường, các hạt
cơ bản).
- Vận động hóa (Sự biến đổi của các chất hữu cơ, vô cơ).
- Vận động sinh vật (Quá trình biến đổi của các cơ thể sống).
- Vận động hội (Sự biến đổi của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa).
Không gian, thời gian
lOMoARcPSD| 44985297
5
Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí, có hình
thức kết cấu, có độ dài, ngắn, cao, thấp. Không gian thể hiện sự tồn tại và tách
biệt của các sự vật với nhau, biểu hiện qua tính chất và trật tự của chúng.
Còn thời gian phản ánh thuộc tính của các quá trình vật chất diễn ra nhanh
hay chậm, kế tiếp nhau theo một trình tự nhất định. Thời gian biểu hiện trình độ
tốc độ của quá trình vật chất, tính tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của
quá trình đó, trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật hiện tượng.
Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Như vậy, vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau; không có vật
chất tồn tại ngoài không gian thời gian; cũng không không gian thời
gian tồn tại ngoài vật chất vận động.
những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên không
gian, thời gian cũng có những tính chất chung như những tính chất của vật chất,
đó là tính khách quan, tính vĩnh cữu, tính vô tận và vô hạn.
1.2. Phạm trù ý thức
Trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn gốc, bản chất, kết cấu và vai trò của ý
thức luôn một trong những vấn đtrung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm. Trên sở những thành tựu của triết học
duy vật, của khoa học, của thực tiễn xã hội, triết học Mác - Lênin góp phần làm
sáng tỏ những vấn đề trên.
a) Ý thức là gì?
Về khái niệm, ý thức là toàn bộ đời sống tinh thần của con người, bao gồm
những tri thức, kinh nghiệm, những trạng thái tình cảm, ước muốn, hi vọng, ý
chí niềm tin,... của con người trong cuộc sống. Ý thức sản phẩm của quá trình
phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội, là kết quả của quá trình phản ánh thế
giới hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người.
b) Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tnhiên của ý thức được thể hiện qua sự hình thành của bộ óc
con người và hoạt động của bộ óc đó cùng với mối quan hệ giữa con người với
thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ tạo ra quá
trình phản ánh sáng tạo, năng động.
Về bộ óc người: Ý thức thuộc tính của một dạng vật chất tổ chức cao
bộ óc người, chức năng của bộ óc, kết quả hoạt động sinh thần kinh
lOMoARcPSD| 44985297
6
của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh thần kinh của bộ óc càng
có hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình
phản ánh năng động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan
là quan hệ tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế
giới khách quan, thông qua hoạt động của các giác quan, đã tác động đến b óc
người, hình thành nên ý thức.
Phản ánh sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này dạng vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh
thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, song phản ánh được thể hiện dưới nhiều
hình thức, trình độ: phản ánh vật lý, hóa học; phản ánh sinh học; phản ánh tâm
phản ánh năng động, sáng tạo. Những hình thức này tương ứng với quá
trình tiến hóa ca vật chất tự nhiên.
Phản ánh vật lý, hóa họchình thức phản ánh thấp nhất, đặc trưng cho vật
chất sinh. Phản ánh vật lý, hóa học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý,
hóa khi sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất sinh. Hình
thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa định hướng lựa chọn của vật
nhận tác động.
Phản ánh sinh học hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự
nhiên hữu sinh. Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh,
phản ánh sinh hc được thể hiện qua tính kích thích, tính cm ứng, phản x.
Phản ánh tâm phản ứng của động vật có hệ thần kinh trung ương được
thực hiện trên sở điều khiển ca hệ thần kinh qua chế phản xạ điều
kiện.
Phản ánh năng động sáng tạohình thức phản ánh cao nhất trong các hình
thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất có t chức cao nhất, t
chức cao nhất bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua
quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan
tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động
lựa chọn thông tin, xử thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý
nghĩa của thông tin. Sự phản ánh sáng tạo năng động này được gọi là ý thức.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào những điều kiện tự nhiên để giải thích nguồn
gốc của ý thức thì chỉ là điều kiện cần, nếu chỉ với những tác động tự nhiên
giới hạn trong một con người, thì ý thức chỉ có thể tồn tại trong một thế hệ.
lOMoARcPSD| 44985297
7
Theo quan điểm của chủ nghĩa M. Lênin, ngoài nguồn gốc tự nhiên, sự ra đời
của ý thức còn chịu nhiều tác động của nhân tố xã hội.
Nguồn gốc xã hội
Hai yếu tố vừa nguồn gốc, vừa tiền đề quyết định sra đời ý thức
lao động và ngôn ngữ.
Lao động là quá trình con người tác động vào tự nhiên nhằm thay đổi giới
tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình. Trong quá trình ấy, con người tác
động vào thế giới khách quan làm cho thế giới khách quan bộc lộ thuộc tính,
những kết cấu, những quy luật vận động còn ẩn giấu,... nhằm thỏa mãn nhu cầu
của con người. Qua trình lao động cùng với các giác quan ngày càng phát
triển, từ những “tia ý thức đầu tiên” con người đã có được kho tàng tri thức nói
riêng và ý thức nói chung.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung
ý thức. Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động, nảy sinh từ nhu cầu biểu
đạt trong tập thể. Nhờ ngôn ngữ con người không chỉ giao tiếp, trao đổicòn
khái quát truyền đạt kinh nghiệm từ thế hnày sang thế hệ khác. Như vậy,
nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sra đời phát triển của ý thức
lao động, “... sau lao động đồng thời với lao động ngôn ngữ; đó hai
chất kích thích chủ yếu đã làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển thành bộ óc con
người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức con người”.
c) Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở luận phản ánh: về bản chất,
coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một
cách năng động, sáng tạo; ý thức hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính phụ thuộc vào thực tế kch quan
Tính sáng tạo
Thể hiện ở khả năng của con người trong việc định hướng, tiếp nhận, chọn
lọc, xử lý và lưu giữ thông tin. Trên cơ sở những thông tin đã có, nó có thể tạo
ra những thông tin mới phát hiện ra ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận.
Tính chất năng động sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện qua quá
trình con người tạo ra những giả tưởng trong đời sống tinh thần của mình.
Tính chủ quan
Ý thức hình ảnh của thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách
quan quy định cả về nội dung hình thức biểu hiện nhưng không còn y
lOMoARcPSD| 44985297
8
nguyên như giới khách quan đã cải tiến thông qua lăng kính chủ quan
của con người.
Tính xã hội
Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi
phối không chỉ là các quy luật sinh học mà còn của các quy luật xã hội, do nhu
cầu giao tiếp hội các điều kiện sinh hoạt hiện thực của hội quy định.
Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn
xã hội.
1.3. Mối quan hệ giữa vật chất ý thức
Triết học Mác –Lênin khẳng định: “Ý thức do vật chất sinh ra quyết định,
song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập tương đối nên có sự tác động trở lại
to lớn đối với vật chất thông qua hoạt dông thực tiễn của con người”.
a) Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên những khía
cạnh sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc ca ý thức.
Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên ltất nhiên, ý thức
một thuộc tính của bộ óc con người cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra.
Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh rằng giới tự nhiên
có trước con người; vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là tính
thứ nhất, ý thức tính thứ hai. Sự vận động của thế giới vật chất yếu tố quyết
định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Ý thức đều phản ánh hiện thực khách quan. thế giới hiện thực vận
động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản ánh của ý
thức mới có nội dung của ý thức.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất ca ý thức.
Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như những sự
vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất
là thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật
chất có tính cải biến thế giới của con người – là cơ sở để hình thành, phát triển
ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để
sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
lOMoARcPSD| 44985297
9
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của
vật chất; vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người ngày
càng phát triển cả về thể chất tinh thần thì ý thức cũng phát triển cả về nội
dung và hình thức phản ánh. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học
ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện chỗ, ý thức sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi
đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng,
không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người.
ý thức đúng đắn là ý thức dựa trên quy luật khách quan
của con người. Do đó nó có tác động tích cực, làm biến đổi hiện thực, vật chất
khách quan theo nhu cầu của mình.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của
con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức thể dự báo, tiên
đoán một cách chính xác cho hiện thực, hình thành nên những luận định hướng
đúng đắn điều này sẽ góp phần khai thác tiềm năng sáng tạo, sức mạnh
vật chất được nhân lên gấp bội.
Thứ tư, hội càng phát triển thì vai trò của ý thức càng to lớn, nhất trong
thời đại ngày nay, khi tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc to lớn những không thể vượt
quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều
kiện khách quan năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu không
chúng ta sẽ không tránh khỏi thất bại trong các hoạt động thực tiễn.
c) Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật cht và ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất
ý thức thì: Vật chất trước, ý thức sau, vật chất nguồn gốc của ý thức,
quyết định ý thức, song ý thức thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người; vậy, con người phải tôn trọng khách quan,
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát tính
khách quan của vật chất, thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan. Điều
lOMoARcPSD| 44985297
10
đó đòi hỏi trong nhận thức hành động con người phải xuất phát tthực tế
khách quan để xác định mục đích, đra đường lối, chính sách, kế hoạch, biện
pháp; phải lấy thực tế khách quan làm sở, phương tiện; phải tìm ra những
nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành
động.
Phát huy tính năng động chủ quan phát huy vai trò tích cực, năng động,
sáng tạo của ý thức phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất
hóa tính tích cực, năng động sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn
trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa
học và truyền bá nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần
chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặc khác phải tự giác tu dưỡng, rèn
luyện để hình thành, cũng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách
mạng để sự thống nhất hữu giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định
hướng hành động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng chốngkhắc phục bệnh
chủ quan duy ý chí; đó những hành động lấy ý chí áp đặt thực tế, lấy ảo tưởng
thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm
xuất phát cho chiến lược, sách lược... đây cũng quá trình chống chủ nghĩa
kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thương lí luận, bảo thủ, trì trệ,
thụ động... trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
2. LIÊN HỆ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT Ý THỨC VỚI
THỰC TIỄN
Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất ý thức vào sự nghiệp xây dựng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta
a) Xuất phát từ thực tế khách quan từ đó đề ra đường lối đúng đắn cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Thực tế là, chúng ta bước vào con đường xã hội chủ nghĩa từ một xuất
phát điểm về kinh tế xã hội rất thấp - nhất là lực lượng sản xuất. Muốn phát
triển lực lượng sản xuất, chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá trên cả quy mô bề rộng lẫn chiều sâu, nghĩa là, phải xây dựng một chương
trình khả thi cho cả công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, chú
trọng cho phát triển nông nghiệp, cho các vùng kinh tế – xã hội trọng điểm,
cho vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng cũ...
lOMoARcPSD| 44985297
11
Trong thời đại cách mạng thông tin hiện nay, chúng ta không có sự lựa
chọn nào khác là phải tiếp cận nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới của
thời đại để từng bước phát triển kinh tế trí thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và
sức mạnh tinh thần ca người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo là
nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi nhân
tố con người đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản
xuất.
Khi khẳng định: chúng ta phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là, chúng ta lựa chọn, sử
dụng những thành tựu có lợi cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên
phương diện này cần phải xem chủ nghĩa tư bản không chỉ là một đối trọng
mà quan trọng hơn đồng thời là một đối tác.
Đây là một vấn đề rất quan trọng đối với nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa bởi vì muốn chủ nghĩa xã hội thành công thì
không thể không sử dụng chủ nghĩa tư bản. Như Mác đã nói: “ chúng ta đau
khổ vì chủ nghĩa tư bản và cũng đau khổ vì không có nó”. Đó chính là: “Tiền
đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết” (C.Mác và Ph.Ăngghen).
Định hướng và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội tất yếu phải kế thừa
và sử dụng lực lượng sản xuất do nhân loại tạo ra và phát triển trong điều kiện
của xã hội tư bản chủ nghĩa, chẳng hạn đó là: thành tựu khoa học, kỹ thuật, và
công nghệ – môi trường, là cơ chế thị trườngvới nhiều hình thức cụ thể tác
động vào quan điểm phát triển kinh tế, nhất là những mặt tích cực của nó. Nói
như vậy không cónghĩa là lặp lại hoàn toàn quá trình xây dựng lực lượng sản
xuất đó trong lịch sử.
Song chúng ta phải biết rằng, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển gắn
liền với quan hệ sản xuất phù hợp. Vì vậy, Đảng và nhà nước ta đã ch trương
thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Từ đó, phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất - kinh tế của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân
dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại tới mức xã hội hoá gắn liền với xây
dựng quan hệ sản xuất mớiphù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân
phối.
lOMoARcPSD| 44985297
12
Nói chung, chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua việc xác lập hệ thống
chính trị của chủ nghĩa tư bản không phải là không có kế thừa và chọn lọc
những quan hệ sản xuất, những hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa khi nó chưa
hết tác dụng tích cực ngay trong thời kỳ quá độ. Đây chính là những “cây cầu
nhỏ”, những bước trung gian quá độ đưa chúng ta tới “phòng chờ” trực tiếp đi
vào chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta xác định mục tiêu: chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là
một chế độ xã hội vì con người và do con người. Để tiến hành đến mục tiêu
xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với tăng trưởng kinh tế,
với công bằng xã hội, với tiến bộ xã hội, phải ra sức thực hiện các chính xác
xã hội. Đảng ta khẳng định: “chính xác xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con
người là động lực to lớnphát huy mi tiềm năng sáng tại của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”, bởi “không có đầu tư nào có lợi như đầu
tư cho con người ”.
Mặt khác, ta còn phải nâng cao năng lực và hiệu quả chủ động hội nhập
quốc tế theo hướng đẩy nhanh tốc độ và khả năng nội sinh hoá những sức
mạnh bên trong nhằm thâu thức, tích tụ và tăng cường nội lực đất nước để hội
nhập một cách mạnh mẽ, toàn diện và sâu sắc mà vẫn giữ được bản sắc Việt
Nam.
Hiện nay, các thế lực thù địch với những “diễn biến hoà bình” vẫn đang đe
dọa hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Từ thực tế đó đòi hỏi Đảng
và nhà nước ta phải ra sức tăng cường an ninh quốc phòng, ra sức đổi mới hệ
thốngchính trị phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, của thời đại.
b) Phát huy vai trò của tính năng động chủ quan và chống chủ quan
duy ý chí
Bên cạnh một s chính sách, biện pháp nhằm đưa đất nước ta vững bước
trên con đường xã hội chủ nghĩa, ta không thể không kể đến vai trò của khối
đại đoàn kết toàn dân và đó còn là ý chí, nhiệt tình, quyết tâm thực hiện cho
được xã hội xã hội chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam.
Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ,
khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao đ vai trò của nhân tố chủ quan,
của tính năng động chủ quan. Đó chính là những phát minh vĩ đại, những
đường lối chính sách đứng đắn của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp sáng tạo vĩ đại của đông
đảo quần chúng. Không có ý chí, hoài bão lớn, nghị lực lớn thì không thể
lOMoARcPSD| 44985297
13
thựchiện được những nhiệm vụ trọng đại, khó khăn phức tạp chưa từng
trong lịch sử dân tộc. Vấn đề là ở chỗ mọi nhiệt tình và ý chí cách mạng hiện
nay phải gắn liền với tri thức, hiểu biết, đặt trên cơ sở khoa học, sự phát triển
tiềm lực trí tuệ của cả dân tộc.
Không có khoa học, không có sự phát triển mạnh mẽ nguồn lực trí tuệ thì
không thể dẫn dắt xã hội đi tới văn minh, hiện đại. Do đó, phải quy tụ mọi tài
năng của công dân, tập hợp trí tuệ và phát huy sức mạnh trí tuệ của cả dân tộc.
Đây phải đứng ở đỉnh cao và là chỗ kết tinh tài năng ý chí chỉ đạo, bản lĩnh
giai cấp và dân tộc, biểu hiện tinh thần thời đại.
Bước vào thế kỷ XXI, chúng ta tin vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa hội bảo vệ tổ quốc, tin chắc chủ nghĩa hội nhất định thành
công. Đó phải chăng sự khẳng định một ý chí lớn, một niềm tin lớn, một quyết
tâm lớn mà nếu không có thì sẽ không tiếp tục cụ thể hoá và từng bước đưa vào
cuộc sống những điều ghi trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qua
độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như trong Đại hội Đảng lần thứ IX.
Với ý chí “quyết tâm đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu”, thì không
thể chậm chễ trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để nhanh chóng thu
hẹp khoảng cách giữa nước ta với các nước phát triển.
Trong khi đề cao vai trò của nhân tố chủ quan, của ý chí, nhiệt tình, cách
mạng cũng cần phải phân biệt với tư tưởng chủ quan duy ý chí. Chủ nghĩa duy
vật biện chứng cho rằng tồn tại xã hội quyết đnh ý thức xã hội nhưng ý thức
hội lại có tác đng ngược lại đến tồn tại xã hội, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển của xã hội. Khi con người xuất phát ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho
thực tế thì sẽ trở thành một vận cản đối với sự nghiệp cách mạng. vậy,
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội trước mắt sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta không thể tiến hành theo quan niệm cũ, cách
làm (trước 1986). mọi đường lối, kế hoạch đều phải dựa vào tình hình
thực tế, những điều kiện và khả năng thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.
Nêu cao, bồi dưỡng ý chí cách mạng và phê phán tư tưởng chủ quan duy ý
chí hai mặt của một vấn đề. Nêu cao ý chí cách mạng là khuyến khích tinh
thần dám nghĩ, dám làm, dám tạo ra những bước đột phá có tính cách mạng để
phát triển chứ không phải kích thích những hành động chủ quan nóng vội, bất
chấp quy luật khách quan. Phê phán tưởng chủ quan duy ý chí nhằm hướng
tới sự tỉnh táo khoa học tính thực tiễn trong mọi mặt hoạt động chứ không
phải là làm nhụt ý chí cách mạng.
lOMoARcPSD| 44985297
14
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu đề tài trên, chúng ta đã tìm hiểu một cách sâu sắc hơn
về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức, đó là mối quan hệ biện chứng tác
động qua lại lẫn nhau. Qua đó, chúng ta có thể rút ra bài học hết sức cần thiết
cho sự nghiệp cách mạng lớn lao của Đảng và nhân dân ta - Sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội đó là: Chúng ta chỉ có thể tiến lên ch nghĩa xã hội nếu
như mọi đường lối, chính sách, phương hướng mục tiêu đề ra được xuất phát
từ thực tế điều kiện nước nhà.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một sự nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, nó như cuộc chiến đấu kháng chiến trường kì của Đảng và nhà nước.
Với những biến động trước tình hình kinh tế của nhiều nước trên thế giới đòi
hỏi Đảng và nhà nước phải kiên trì, giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc phục
khó khăn, đồng thời phải tỉnh táo, nhạy bén thích ứng kịp thời với thực tế biến
đổi từng ngày từng giờ. Chúng ta cũng cần tránh tư tưởng ch quan duy ý chí,
nóng vội trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một điu hết sức quan
trọng đó là làm sao để vừa xây dựng nền kinh tế có sự tham gia của các thành
phần kinh tư bản lại vừa tránh được nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây cũng là một vấn đề cấp thiết mà Đảng và nhà nước ta cần có phương
hướng đi sao cho phù hợp.
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh ,vận dụng thành thạo phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu và
quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ quan hệ giữa kinh tế và chính tr trong
công cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, nhất định chúng ta
sẽ trở thành những nhà quản lý giỏi góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi
mới của đất nước,tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam phát triển cao ,từ đó
nâng cao vị trí Việt Nam trên chính trường quốc tế, góp phần củng cố sự ổn
định về chính trị của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia sự thật.
2. PGS, TS. LƯU NGỌC KHẢI, 2021, Tạp chí Cộng Sản.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9, NXB Chính trị quốc gia,
năm 2001.
lOMoARcPSD| 44985297
15

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44985297
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 0O0
BÀI TẬP LỚN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài số 3: Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ với thực tiễn.
Họ, tên SV: Võ Thúy Quỳnh Mã SV: 11225586
Lớp: Triết học Mác-Lênin (122)_35 Khóa: 64 GĐ: D206 Hà Nội - 11/2022 MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................. 0 0 lOMoAR cPSD| 44985297
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................ 2
1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý ..... 3
THỨC ........................................................................................................ 3
1.1. Phạm trù vật chất ............................................................................. 3
1.2. Phạm trù ý thức ................................................................................ 5
1.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức ................................................ 8
2. LIÊN HỆ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VỚI ..... 10
THỰC TIỄN ............................................................................................ 10
KẾT LUẬN .............................................................................................. 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 14 1 lOMoAR cPSD| 44985297 LỜI MỞ ĐẦU
Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021 - 2026, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết quan trọng: “Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam”. Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã luận giải
và khẳng định: “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách
mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục
tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã
hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”. Tiến
lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và quan trọng nhất của
Đảng và nhân dân ta hiện nay vì chỉ có thực hiện được mục tiêu này, chúng ta
mới có thể xây dựng được một nước Việt Nam mà theo cách nói của Hồ Chí
Minh là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”. Từ thực
tế hiện nay cùng với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đại hội VII
của Đảng ta lần đầu tiên đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Tức là,
chúng ta phải: dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin
mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn
những đặc điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới có thể dần dần tìm hiểu
được quy luật phát triển của Cách mạng Việt Nam, định ra được đường lối,
phương châm, bước đi phù hợp với tình hình nước ta.
Làm đề tài tiểu luận này, tôi muốn tìm hiểu về Triết học Mác - Lênin phần
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Cụ thể hơn, đó là mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất với ý thức. Từ đó đi sâu vào sự nghiệp cách mạng lớn lao của toàn
Đảng, toàn dân ta hiện nay- sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà nền tảng
tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây được coi là một vấn đề hết sức quan
trọng, bởi nó quyết định sự thành công hay thất bại trên con đường đi tới chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Điều này sẽ được lý giải rõ hơn trong phần nội dung của đề tài. 2 lOMoAR cPSD| 44985297
1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Để tìm hiểu cụ thể mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, trước
tiên ta phải hiểu và làm rõ các vấn đề về phạm trù của vật chất và ý thức.
1.1. Phạm trù vật chất
a) Quan niệm duy vật biện chứng về vật chất
Vật chất là phạm trù triết học với quan niệm khác nhau về nó. Để đưa ra
được một quan niệm thực sự đúng đắn về vật chất, V. I. Lênin đặc biệt quan
tâm đến việc tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này.
Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen cùng những thành tựu khoa
học tự nhiên thế kỷ XIX - XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
duy tâm, V.I. Lênin đã khẳng định: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”. Vật chất không phải chỉ bao gồm những gì được tạo nên từ nguyên tử,
mà là tất thảy những gì tồn tại khách quan, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức...
Như vậy, định nghĩa vật chất của V. I. Lênin gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không lệ
thuộc vào ý thức, kể cả sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
Thứ hai, vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi tác động lên giác quan của con người.
Thứ ba, vật chất được phản ánh bởi cảm giác, tư duy và ý thức.
Với những nội dung cơ bản như trên, V. I. Lênin đã giải quyết hai mặt vấn
đề cơ bản của triết học trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng, một mặt
muốn nhấn mạnh vật chất luôn mang tính thứ nhất, là cái quyết định sự hình
thành ý thức, quyết định nội dung phản ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức
và mặt khác khẳng định khả năng nhận thức thế giới khách quan của con
người, vật chất là điều kiện để hiện thực hoá ý thức.
b) Các hình thức tồn tại của vật chất
Vật chất tồn tại dưới rất nhiều hình thái, từ các hình thức vật chất tự nhiên
chưa có đặc tính của sự sống với những cấu trúc từ vĩ mô đến vi mô, đến vật
chất tự nhiên có đặc tính của sự sống vô cùng đa dạng trong giới tự nhiên và sự 3 lOMoAR cPSD| 44985297
xuất hiện của con người với những hình thức tổ chức xã hội trong lịch sử tiến
hóa hàng vạn năm qua đến nay.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các dạng cụ thể của vật
chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng vận động, không gian và thời gian. Vận động
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chỉ là
sự thay đổi vị trí trong không gian mà vận động là mọi sự biến đổi. Khi định
nghĩa vận động là sự biến đổi nói chung, thì vận động "là thuộc tính cố hữu của
vật chất
", "là phương thức tồn tại của vật chất", có nghĩa là vật chất tồn tại bằng vận động.
Vật chất là vô hạn, vô tận, không sinh ra hay mất đi và vận động là một
thuộc tính không thể tách rời vật chất nên bản thân sự vận động cũng không thể
bị mất đi hoặc sáng tạo ra. Kết luận này của triết học Mác - Lênin đã được chứng
minh bởi định luật bảo toàn chuyển hóa năng lượng trong vật lý, vận động của
vật chất được bảo toàn cả về mặt lượng và chất. Nếu một hình thức vận động
nào đó của sự vật mất đi thì sẽ nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế
nó. Các hình thức vận động chuyển hóa lẫn nhau, còn vận động của vật chất thì
vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại của vật chất.
Mặc dù vận động luôn ở trong quá trình không ngừng, nhưng nó còn bao
hàm cả hiện tượng đứng im tương đối, từ đó có sự phân hoá thế giới vật chất
thành các sự vật, hiện tượng phong phú và đa dạng. Nếu vận động là biến đổi
của các sự vật hiện tượng thì đứng im là sự ổn định, là sự bảo toàn tính quy định sự vật hiện tượng.
Dựa trên những thành tựu khoa học, Ph.Ăngghen đã phân chia vận động thành 5 hình thức:
- Vận động cơ giới (Sự chuyển dịch vị trí của các vật thể trong không gian).
- Vận động vật lí (Các quá trình biến đổi của nhiệt, điện, trường, các hạt cơ bản).
- Vận động hóa (Sự biến đổi của các chất hữu cơ, vô cơ).
- Vận động sinh vật (Quá trình biến đổi của các cơ thể sống).
- Vận động xã hội (Sự biến đổi của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa).
Không gian, thời gian 4 lOMoAR cPSD| 44985297
Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí, có hình
thức kết cấu, có độ dài, ngắn, cao, thấp. Không gian thể hiện sự tồn tại và tách
biệt của các sự vật với nhau, biểu hiện qua tính chất và trật tự của chúng.
Còn thời gian phản ánh thuộc tính của các quá trình vật chất diễn ra nhanh
hay chậm, kế tiếp nhau theo một trình tự nhất định. Thời gian biểu hiện trình độ
tốc độ của quá trình vật chất, tính tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của
quá trình đó, trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật hiện tượng.
Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Như vậy, vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau; không có vật
chất tồn tại ngoài không gian và thời gian; cũng không có không gian và thời
gian tồn tại ngoài vật chất vận động.
Là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên không
gian, thời gian cũng có những tính chất chung như những tính chất của vật chất,
đó là tính khách quan, tính vĩnh cữu, tính vô tận và vô hạn.
1.2. Phạm trù ý thức
Trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn gốc, bản chất, kết cấu và vai trò của ý
thức luôn là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trên cơ sở những thành tựu của triết học
duy vật, của khoa học, của thực tiễn xã hội, triết học Mác - Lênin góp phần làm
sáng tỏ những vấn đề trên.
a) Ý thức là gì?
Về khái niệm, ý thức là toàn bộ đời sống tinh thần của con người, bao gồm
những tri thức, kinh nghiệm, những trạng thái tình cảm, ước muốn, hi vọng, ý
chí niềm tin,... của con người trong cuộc sống. Ý thức là sản phẩm của quá trình
phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội, là kết quả của quá trình phản ánh thế
giới hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người.
b) Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được thể hiện qua sự hình thành của bộ óc
con người và hoạt động của bộ óc đó cùng với mối quan hệ giữa con người với
thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ tạo ra quá
trình phản ánh sáng tạo, năng động.
Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao
là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh 5 lOMoAR cPSD| 44985297
của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng
có hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình
phản ánh năng động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan
là quan hệ tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế
giới khách quan, thông qua hoạt động của các giác quan, đã tác động đến bộ óc
người, hình thành nên ý thức.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là
thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, song phản ánh được thể hiện dưới nhiều
hình thức, trình độ: phản ánh vật lý, hóa học; phản ánh sinh học; phản ánh tâm
lý và phản ánh năng động, sáng tạo. Những hình thức này tương ứng với quá
trình tiến hóa của vật chất tự nhiên.
Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức phản ánh thấp nhất, đặc trưng cho vật
chất vô sinh. Phản ánh vật lý, hóa học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý,
hóa khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình
thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.
Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự
nhiên hữu sinh. Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh,
phản ánh sinh học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ.
Phản ánh tâm lý là phản ứng của động vật có hệ thần kinh trung ương được
thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
Phản ánh năng động sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình
thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất có tổ chức cao nhất, có tổ
chức cao nhất là bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua
quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan
tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động
lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý
nghĩa của thông tin. Sự phản ánh sáng tạo năng động này được gọi là ý thức.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào những điều kiện tự nhiên để giải thích nguồn
gốc của ý thức thì chỉ là điều kiện cần, vì nếu chỉ với những tác động tự nhiên
giới hạn trong một con người, thì ý thức chỉ có thể tồn tại trong một thế hệ. 6 lOMoAR cPSD| 44985297
Theo quan điểm của chủ nghĩa M. Lênin, ngoài nguồn gốc tự nhiên, sự ra đời
của ý thức còn chịu nhiều tác động của nhân tố xã hội. Nguồn gốc xã hội
Hai yếu tố vừa là nguồn gốc, vừa là tiền đề quyết định sự ra đời ý thức là
lao động và ngôn ngữ.
Lao động là quá trình con người tác động vào tự nhiên nhằm thay đổi giới
tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình. Trong quá trình ấy, con người tác
động vào thế giới khách quan làm cho thế giới khách quan bộc lộ thuộc tính,
những kết cấu, những quy luật vận động còn ẩn giấu,... nhằm thỏa mãn nhu cầu
của con người. Qua uá trình lao động cùng với các giác quan ngày càng phát
triển, từ những “tia ý thức đầu tiên” con người đã có được kho tàng tri thức nói
riêng và ý thức nói chung.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung
ý thức. Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động, nảy sinh từ nhu cầu biểu
đạt trong tập thể. Nhờ ngôn ngữ con người không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn
khái quát và truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy,
nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức
là lao động, “... sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai
chất kích thích chủ yếu đã làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển thành bộ óc con
người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức con người”.
c) Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lý luận phản ánh: về bản chất,
coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một
cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Tính phụ thuộc vào thực tế khách quanTính sáng tạo
Thể hiện ở khả năng của con người trong việc định hướng, tiếp nhận, chọn
lọc, xử lý và lưu giữ thông tin. Trên cơ sở những thông tin đã có, nó có thể tạo
ra những thông tin mới và phát hiện ra ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận.
Tính chất năng động sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện qua quá
trình con người tạo ra những giả tưởng trong đời sống tinh thần của mình. Tính chủ quan
Ý thức là hình ảnh của thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách
quan quy định cả về nội dung và hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y 7 lOMoAR cPSD| 44985297
nguyên như giới khách quan mà nó đã cải tiến thông qua lăng kính chủ quan của con người. • Tính xã hội
Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi
phối không chỉ là các quy luật sinh học mà còn của các quy luật xã hội, do nhu
cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định.
Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
1.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Triết học Mác –Lênin khẳng định: “Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định,
song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập tương đối nên có sự tác động trở lại
to lớn đối với vật chất thông qua hoạt dông thực tiễn của con người”
.
a) Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức –
một thuộc tính của bộ óc con người – cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra.
Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh rằng giới tự nhiên
có trước con người; vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là tính
thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết
định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Có thế giới hiện thực vận
động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản ánh của ý
thức mới có nội dung của ý thức.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những sự
vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất
là thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật
chất có tính cải biến thế giới của con người – là cơ sở để hình thành, phát triển
ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để
sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức. 8 lOMoAR cPSD| 44985297
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của
vật chất; vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người ngày
càng phát triển cả về thể chất và tinh thần thì ý thức cũng phát triển cả về nội
dung và hình thức phản ánh. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học
ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi
đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng,
không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. ý thức đúng đắn là ý thức dựa trên quy luật khách quan
của con người. Do đó nó có tác động tích cực, làm biến đổi hiện thực, vật chất
khách quan theo nhu cầu của mình.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của
con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên
đoán một cách chính xác cho hiện thực, hình thành nên những lí luận định hướng
đúng đắn và điều này sẽ góp phần khai thác tiềm năng sáng tạo, và sức mạnh
vật chất được nhân lên gấp bội.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức càng to lớn, nhất là trong
thời đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù to lớn những không thể vượt
quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều
kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu không
chúng ta sẽ không tránh khỏi thất bại trong các hoạt động thực tiễn.
c) Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức thì: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức,
quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người; vì vậy, con người phải tôn trọng khách quan,
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.

Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát tính
khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan. Điều 9 lOMoAR cPSD| 44985297
đó đòi hỏi trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế
khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chính sách, kế hoạch, biện
pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những
nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động,
sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất
hóa tính tích cực, năng động sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn
trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa
học và truyền bá nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần
chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặc khác phải tự giác tu dưỡng, rèn
luyện để hình thành, cũng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách
mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng chống và khắc phục bệnh
chủ quan duy ý chí; đó là những hành động lấy ý chí áp đặt thực tế, lấy ảo tưởng
thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm
xuất phát cho chiến lược, sách lược... đây cũng là quá trình chống chủ nghĩa
kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thương lí luận, bảo thủ, trì trệ,
thụ động... trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
2. LIÊN HỆ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VỚI THỰC TIỄN
Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào sự nghiệp xây dựng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta
a) Xuất phát từ thực tế khách quan từ đó đề ra đường lối đúng đắn cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Thực tế là, chúng ta bước vào con đường xã hội chủ nghĩa từ một xuất
phát điểm về kinh tế xã hội rất thấp - nhất là lực lượng sản xuất. Muốn phát
triển lực lượng sản xuất, chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá trên cả quy mô bề rộng lẫn chiều sâu, nghĩa là, phải xây dựng một chương
trình khả thi cho cả công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, chú
trọng cho phát triển nông nghiệp, cho các vùng kinh tế – xã hội trọng điểm,
cho vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng cũ... 10 lOMoAR cPSD| 44985297
Trong thời đại cách mạng thông tin hiện nay, chúng ta không có sự lựa
chọn nào khác là phải tiếp cận nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới của
thời đại để từng bước phát triển kinh tế trí thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và
sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo là
nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi nhân
tố con người đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất.
Khi khẳng định: chúng ta phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là, chúng ta lựa chọn, sử
dụng những thành tựu có lợi cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên
phương diện này cần phải xem chủ nghĩa tư bản không chỉ là một đối trọng
mà quan trọng hơn đồng thời là một đối tác.
Đây là một vấn đề rất quan trọng đối với nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa bởi vì muốn chủ nghĩa xã hội thành công thì
không thể không sử dụng chủ nghĩa tư bản. Như Mác đã nói: “ chúng ta đau
khổ vì chủ nghĩa tư bản và cũng đau khổ vì không có nó”. Đó chính là: “Tiền
đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết” (C.Mác và Ph.Ăngghen).
Định hướng và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội tất yếu phải kế thừa
và sử dụng lực lượng sản xuất do nhân loại tạo ra và phát triển trong điều kiện
của xã hội tư bản chủ nghĩa, chẳng hạn đó là: thành tựu khoa học, kỹ thuật, và
công nghệ – môi trường, là cơ chế thị trườngvới nhiều hình thức cụ thể tác
động vào quan điểm phát triển kinh tế, nhất là những mặt tích cực của nó. Nói
như vậy không cónghĩa là lặp lại hoàn toàn quá trình xây dựng lực lượng sản
xuất đó trong lịch sử.
Song chúng ta phải biết rằng, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển gắn
liền với quan hệ sản xuất phù hợp. Vì vậy, Đảng và nhà nước ta đã chủ trương
thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Từ đó, phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất - kinh tế của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân
dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại tới mức xã hội hoá gắn liền với xây
dựng quan hệ sản xuất mớiphù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. 11 lOMoAR cPSD| 44985297
Nói chung, chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua việc xác lập hệ thống
chính trị của chủ nghĩa tư bản không phải là không có kế thừa và chọn lọc
những quan hệ sản xuất, những hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa khi nó chưa
hết tác dụng tích cực ngay trong thời kỳ quá độ. Đây chính là những “cây cầu
nhỏ”, những bước trung gian quá độ đưa chúng ta tới “phòng chờ” trực tiếp đi vào chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta xác định mục tiêu: chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là
một chế độ xã hội vì con người và do con người. Để tiến hành đến mục tiêu
xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với tăng trưởng kinh tế,
với công bằng xã hội, với tiến bộ xã hội, phải ra sức thực hiện các chính xác
xã hội. Đảng ta khẳng định: “chính xác xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con
người là động lực to lớnphát huy mọi tiềm năng sáng tại của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”, bởi “không có đầu tư nào có lợi như đầu tư cho con người ”.
Mặt khác, ta còn phải nâng cao năng lực và hiệu quả chủ động hội nhập
quốc tế theo hướng đẩy nhanh tốc độ và khả năng nội sinh hoá những sức
mạnh bên trong nhằm thâu thức, tích tụ và tăng cường nội lực đất nước để hội
nhập một cách mạnh mẽ, toàn diện và sâu sắc mà vẫn giữ được bản sắc Việt Nam.
Hiện nay, các thế lực thù địch với những “diễn biến hoà bình” vẫn đang đe
dọa hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Từ thực tế đó đòi hỏi Đảng
và nhà nước ta phải ra sức tăng cường an ninh quốc phòng, ra sức đổi mới hệ
thốngchính trị phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, của thời đại.
b) Phát huy vai trò của tính năng động chủ quan và chống chủ quan duy ý chí
Bên cạnh một số chính sách, biện pháp nhằm đưa đất nước ta vững bước
trên con đường xã hội chủ nghĩa, ta không thể không kể đến vai trò của khối
đại đoàn kết toàn dân và đó còn là ý chí, nhiệt tình, quyết tâm thực hiện cho
được xã hội xã hội chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam.
Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ,
khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan,
của tính năng động chủ quan. Đó chính là những phát minh vĩ đại, những
đường lối chính sách đứng đắn của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp sáng tạo vĩ đại của đông
đảo quần chúng. Không có ý chí, hoài bão lớn, nghị lực lớn thì không thể 12 lOMoAR cPSD| 44985297
thựchiện được những nhiệm vụ trọng đại, khó khăn phức tạp chưa từng có
trong lịch sử dân tộc. Vấn đề là ở chỗ mọi nhiệt tình và ý chí cách mạng hiện
nay phải gắn liền với tri thức, hiểu biết, đặt trên cơ sở khoa học, sự phát triển
tiềm lực trí tuệ của cả dân tộc.
Không có khoa học, không có sự phát triển mạnh mẽ nguồn lực trí tuệ thì
không thể dẫn dắt xã hội đi tới văn minh, hiện đại. Do đó, phải quy tụ mọi tài
năng của công dân, tập hợp trí tuệ và phát huy sức mạnh trí tuệ của cả dân tộc.
Đây phải đứng ở đỉnh cao và là chỗ kết tinh tài năng ý chí chỉ đạo, bản lĩnh
giai cấp và dân tộc, biểu hiện tinh thần thời đại.
Bước vào thế kỷ XXI, chúng ta tin vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, tin chắc chủ nghĩa xã hội nhất định thành
công. Đó phải chăng là sự khẳng định một ý chí lớn, một niềm tin lớn, một quyết
tâm lớn mà nếu không có thì sẽ không tiếp tục cụ thể hoá và từng bước đưa vào
cuộc sống những điều ghi trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qua
độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như trong Đại hội Đảng lần thứ IX.
Với ý chí “quyết tâm đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu”, thì không
thể chậm chễ trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để nhanh chóng thu
hẹp khoảng cách giữa nước ta với các nước phát triển.
Trong khi đề cao vai trò của nhân tố chủ quan, của ý chí, nhiệt tình, cách
mạng cũng cần phải phân biệt với tư tưởng chủ quan duy ý chí. Chủ nghĩa duy
vật biện chứng cho rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội nhưng ý thức xã
hội lại có tác động ngược lại đến tồn tại xã hội, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển của xã hội. Khi con người xuất phát ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho
thực tế thì nó sẽ trở thành một vận cản đối với sự nghiệp cách mạng. Vì vậy,
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà trước mắt là sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta không thể tiến hành theo quan niệm cũ, cách
làm cũ (trước 1986). Mà mọi đường lối, kế hoạch đều phải dựa vào tình hình
thực tế, những điều kiện và khả năng thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.
Nêu cao, bồi dưỡng ý chí cách mạng và phê phán tư tưởng chủ quan duy ý
chí là hai mặt của một vấn đề. Nêu cao ý chí cách mạng là khuyến khích tinh
thần dám nghĩ, dám làm, dám tạo ra những bước đột phá có tính cách mạng để
phát triển chứ không phải là kích thích những hành động chủ quan nóng vội, bất
chấp quy luật khách quan. Phê phán tư tưởng chủ quan duy ý chí là nhằm hướng
tới sự tỉnh táo khoa học và tính thực tiễn trong mọi mặt hoạt động chứ không
phải là làm nhụt ý chí cách mạng. 13 lOMoAR cPSD| 44985297 KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu đề tài trên, chúng ta đã tìm hiểu một cách sâu sắc hơn
về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức, đó là mối quan hệ biện chứng tác
động qua lại lẫn nhau. Qua đó, chúng ta có thể rút ra bài học hết sức cần thiết
cho sự nghiệp cách mạng lớn lao của Đảng và nhân dân ta - Sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội đó là: Chúng ta chỉ có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội nếu
như mọi đường lối, chính sách, phương hướng mục tiêu đề ra được xuất phát
từ thực tế điều kiện nước nhà.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một sự nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, nó như cuộc chiến đấu kháng chiến trường kì của Đảng và nhà nước.
Với những biến động trước tình hình kinh tế của nhiều nước trên thế giới đòi
hỏi Đảng và nhà nước phải kiên trì, giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc phục
khó khăn, đồng thời phải tỉnh táo, nhạy bén thích ứng kịp thời với thực tế biến
đổi từng ngày từng giờ. Chúng ta cũng cần tránh tư tưởng chủ quan duy ý chí,
nóng vội trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một điều hết sức quan
trọng đó là làm sao để vừa xây dựng nền kinh tế có sự tham gia của các thành
phần kinh tư bản lại vừa tránh được nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây cũng là một vấn đề cấp thiết mà Đảng và nhà nước ta cần có phương
hướng đi sao cho phù hợp.
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh ,vận dụng thành thạo phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu và
quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong
công cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, nhất định chúng ta
sẽ trở thành những nhà quản lý giỏi góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi
mới của đất nước,tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam phát triển cao ,từ đó
nâng cao vị trí Việt Nam trên chính trường quốc tế, góp phần củng cố sự ổn
định về chính trị của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia sự thật.
2. PGS, TS. LƯU NGỌC KHẢI, 2021, Tạp chí Cộng Sản.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9, NXB Chính trị quốc gia, năm 2001. 14 lOMoAR cPSD| 44985297 15