lOMoARcPSD| 44985297
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung liên hệ
với thực tiễn.
Tác giả: Nguyễn Vũ Hà My
Mã sinh viên: 11219098
Lớp học phần: LLNL1105(221)CLC_05
Viện: Đào tạo TT, và POHE
Giáo viên hướng dẫn: TS. Lê Ngọc Thông
Hà Nội - 2022
Tiểu luận
lOMoARcPSD| 44985297
PHẦN MỞ ĐẦU
Tiến lên Chủ nghĩa Xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu đối với Đảng và Nhà nước
ta hiện nay, đi theo đúng mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một đất nước:
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Không những thế, ngay cả người dân cũng có cơ hội được đảm bảo về cuộc sống “…ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Đặt trong bối cảnh đi lên Xã hội Chủ
nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định: Chủ nghĩa
Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tẳng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt
động của Đảng. Với quan điểm này, chúng ta cần phải sử dụng được linh hoạt các kiến
thức, am hiểu, lập luận từ
Chủ nghĩa Mác- Lênin để rút ra những phân tích chính xác, chọn lọc được đường lối
lãnh đạo phù hợp với tình hình đất nước hiện nay.
Với đề tài “Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn.” em cũng
muốn góp một phần sức nhỏ bé của mình vào mục tiêu cách mạng to lớn của toàn Đảng,
toàn dân tộc. Là một sinh viên đại học, em hiểu được rằng mọi kế hoạch, chiến lược mà
Đảng và Nhà nước ta đề ra đều xuất phát từ thực tế khách quan, phát huy tối đa sự chủ
động và đồng thời hạn chế sự chủ quan duy ý chí. Và để hiểu rõ ràng hơn về vấn đề này,
phần nội dung chi tiết của đề tài sẽ đưa ra những lập luận cũng như các phân tích thông
tin cụ thể.
Do hiểu biết và kiến thức của bản thân còn nhiều hạn chế nên bài làm sẽ không tránh được
những thiếu sót, em kính mong sẽ nhận được lời góp ý từ phía thầy giáo cùng bạn đọc để
bài viết được hoàn thiện và chỉn chu hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
2
lOMoARcPSD| 44985297
PHẦN NỘI DUNG
I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ QUAN NIỆM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ
MỐI QUAN HỆ GIỮA VÂT CHẤT VÀ Ý THỨC
Muốn phân biệt đươc các trường phái trong triết học, trước hết cần hiểu được vấn đề
cơ bản này. Trong triết học Mác- Lênin có khắng định rằng: Mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ động mà có thể tác động trở
lại vật chất qua hoạt động của con người.
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của nó
1.1. Định nghĩa phạm trù vật chất
a. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng rất nhiều những cách giải thích khác nhau về vật chất trước
Mác, trong đó phải kể tới một số định nghĩa tiêu biểu như sau:
Thứ nhất, vật chất là một vật cụ thể, hữu hình nhất định. Sự hình dung này đến từ nhận
thức trực quan, thiên về cảm tính. Mọi thvật, hiện tượng trên thế giới đều xuất phát từ
một nguyên thể nhất định theo góc nhìn của những nhà triết học cổ Hy Lạp hay i cách
khác, đây quan điểm nhất nguyên thể. dụ, Talet đưa ra nhận định rằng vật chất
nước, nếu vậy nước chính yếu tố đầu tiên, nguyên bản hình thành lên mọi thứ xuất
hiện trên Trái Đất này. Ông tin rằng mọi sự vật đều được sinh ra tớc, biến đổi không
ngừng nghỉ và cho tới khi mất đi cũng sẽ trở về hình hài ban đầu là nước, suy cho cùng chỉ
có nước là tồn tại mãi mãi trong không gian.
Trái với quan điểm thứ nhất, nhiều nhà triết học người Trung Quốc cổ đại lại tin theo
thuyết ngũ hành hay còn biết tới với cái tên đa nguyên thể. Thuyết này lại cho rằng năm
yếu tố Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ khởi nguyên, hình thành mọi sự vật tất cả những
thay đổi của tự nhiên là do sự hoà trộn đa dạng của những yếu tố vật chất đầu tiên này. Với
đặc điểm rằng sở hình thành của mọi vật đều khá rộng nên có thể coi học thuyết này là
một bước phát triển lớn trong quá trình nhận thức về vật chất của con người.
Định nghĩa về vật chất của hai nhà triết học thời Hy Lạp cổ Đêmôcrit (khoảng
427374 TCN) và Lờxíp (khoảng 500-440 TCN) có thể coi là bước tiến cần thiết nhất trong
sự nghiệp nghiên cứu và phát triển phạm trù vật chất. Theo nội dung phân tích, hai ông
định nghĩa căn nguyên của mọi vật đều xuất phát từ nguyên tử. Đây là những hạt nhỏ nhất.
không thể phân tách, không thể
biến mất sự đa dạng về hình hài, tư thế, thứ tự sắp xếp hình thành lên tính muôn vẻ của
sự vật. Vật chất được định nghĩa bao quát nhất một lớp các phần tử hữu hình nằm sau
trong mỗi sự vật. Trong quá trình tìm kiếm định nghĩa đúng đắn về vật chất, quan niệm trên
đã xuất hiện đóng vai trò là một bước tiến lớn còn ý nghĩa như một dự báo khoa học
tài tình của con người về cấu tạo của thế giới vật chất nói chung.
Từ thời Phục Hưng thế kỉ XV, phương Đông dấu hiệu bị thụt lùi phía sau khi phương
Tây cho ra đời khoa học thực nghiệm, trong đó phải nói tới sự bứt phá của cơ học và công
nghiệp. Cho tới khi chủ nghĩa duy vật mang hình thức chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy
móc ra đời trong thế kỉ XVII-XVIII. Trong quá trình các nhà khoa học nghiên cứu về thuyết
lOMoARcPSD| 44985297
lượng tử, thành công vang dội của Niutơn trong vật học cổ điển (nghiên cứu cấu tạo
các thuộc tính các vậy thể vật chất vĩ mô tính từ nguyên tử trở lên) và sáng tỏ được sự tồn
tại của nguyên tkhi thực nghiệm khoa học vật lý càng làm quan điểm trên vững chắc hơn.
Nhưng thuyết nguyên tử vẫn tồn tại những nhược điểm không cho ra được những định
nghĩa triết học chính xác về vật chất. Trong thời điểm đó, các nhà triết học xu hướng
liên kết vật chất và khối lượng với nhau, coi những định luật cơ học như khuôn mẫu không
thể thay thế dựa vào đó để giải thích mọi hiện tượng của thế giới. Tuy nhiên, cũng
những nhà triết học cố tìm ra những lỗ hổng của thuyết nguyên tử, phải kể đến như Cantơ,
Đềcáctơ… nhưng sau cùng cái nhìn cơ học về thế giới vẫn không xoay chuyển.
Tia X được nghiên cứu ra vào năm 1895 bởi Rơnghen. Một năm sau, 1896, hiện tượng
phóng xạ của nguyên tố Urani được Béccơren tìm ra. Tới 1901, Kaufman đã khẳng định
được khối lượng của điện tử không phải là bất biến mà thay đổi theo vận tốc vận động của
nguyên tử. Hai chất phóng xạ mạnh Pôlôni Radium cũng được khám phá bởi nhà khoa
học Marie Curie cùng chồng Pie Curie vào năm 1902. Tất cả những phát hiện này đã chứng
tỏ một điều rằng nguyên tử vẫn thể bị phân tách chuyển hoá. Bên cạnh đó, không
gian, thời gian, khối lượng luôn thay đổi cùng với sự hoạt động linh hoạt của vật chất đã
được chứng minh bởi thuyết Tương đối hẹp năm 1905 thuyết Tương đối rộng năm 1906
của nhà bác học A.Einstein. Thế giới vật chất không không thể những vật th
không kết cấu, tức là không thể đơn vị cuối cùng, tuyệt đối đơn giản và không thay
đổi để tượng tưng cho vật chất. Thế giới còn rất nhiều thứ ẩn hấp dẫncon người đã
và đang tìm tòi khám phá: Sự chuyển hoá giữa trường và hạt, song và hạt, hạt và phản hạt,
hụt khối lượng,… Chính điều này đã khẳng định được phán đoán của Ph.Ăngghen: “Không
thể coi nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của vật chất đã biết” V.I.Lênin cũng câu: “Điện
tử cũng vô cùng tận như nguyên tử, tự nhiên là vô tận” là lập luận hoàn toàn có căn cứ xác
thực.
b. Định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin
tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” của bản thân,
Lênin đã làm bật lên được một hướng đi mới trong việc định nghĩa vật chất và phát triển
luận phản ánh duy vật và lý luận: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác. Được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.” Khái niệm này của
V.I.Lênin bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, dưới góc nhìn là một phạm trù triết học thì vật chất là một sự trừu tượng. Thế nên,
“chúng ta không biết, chưa ai nhìn được cảm thấy vật chất với tính cách vật
chất…bằng con đường cảm tính nào khác.” (C.Mác và P.Ăngghen: toàn tập, NXB Chính trị
Quốc gia Nội, 1994, tr.726). Sự trừu tượng này hướng đến các đặc điểm chung nhất,
nguyên thuỷ nhất mà mọi sự vật, hiện tượng cụ thể nào của vật chất cũng sở hữu. Đó là đặc
tính tồn tại khách quan độc lập với ý thức loài người. Đặc điểm này tiêu chuẩn đơn
giản duy nhất để phân loại vật chất không vật chất. Tính trừu tượng tính cụ thể
hai tính chất của vật chất nhưng mối quan hkhăng khít với nhau. Chủ nghĩa duy vật
Mácxit cũng chưa bao giờ quy vật chất thành “những viên gạch nhỏ của lâu đài thế giới”
không bao giờ đổi thay luôn luôn hiểu rằng vật chất thực tại khách quan tồn tại độc
lập với ý thức và được ý thức con người phản ánh lại.
lOMoARcPSD| 44985297
Thứ hai, thực tại khách quan đưa con người vào trong cảm giác và tồn tại không phụ thuộc
vào cảm giác. Với quan điểm này, V.I.Lênin xác thực mối liên hệ giữa thực tại khách quan
và cảm giác rằng thực tại khách quan (hay vật chất) là thứ xuất hiện trước ý thức, không lệ
thuộc vào ý thức, đứng độc lập, còn cảm giác (hay ý thức) của con người cái xuất hiện
sau vật chất, khởi nguồn tạo ra ý thức, không có cái bị phản ánh vật chất sẽ không
cái phản ánh là ý thức.
Thứ ba, thực tại khách quan được cảm giác của con người sao chép, chụp lại phản ánh. Với
định nghĩa này, V.I.LêNin sáng tỏ được rằng vật chất tồn tại khách quan, không phải dưới
vỏ bọc ẩn tồn tại dưới dạng sự vật, hiện tượng cụ thể khi sử dụng các giác quan
thì con người ít nhiều thể cảm nhận được, bằng cả gián tiếp và trực tiếp. Hay hiểu cách
khác ngoài đặc điểm tồn tại khách quan, vật chất còn có một đặc điểm không kém phần
nổi bật tính thể nhận thức được. thế thể nói, bất đối tượng nào cũng thể
nhận biết, nếu không là do họ chưa phát hiện ra mà thôi. Định nghĩa vật chất của V.I.LêNin
là thành quả cho sự bao hàm những bước tiến khoa học lớn hoạt động thực tiễn của con
người, nó đã đưa ra kết quả một cách xác thực nhất
về cả hai mặt nội dung vấn đề bản của triết học. thể thấy, định nghĩa vật chất của
V.I.LêNin ngoài mang ý nghĩa thế giới quan khoa học còn khẳng định về phương pháp
luận chung đối với con người trong nhận thức và các hoạt động thực tiễn.
Vì vật chất là thứ có trước, tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức, ý thức xuất hiện
sau, vật chất quyết định ý thức cho nên trong nhận thức hoạt động thực tiễn “Phải luôn
luôn xuất phát tthực tế, tôn trọng hành động theo quy luật khách quan” (Đảng Cộng
Sản Việt Nam: Văn Kiện Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc Lần Thứ VI, NXB Sự Thật, Hà Nội,
1987, tr.30), phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan đã và đang có làm nền tảng cho
mọi hành động của mình, không được sử dụng nhu cầu chủ quan để m điểm bắt đầu. Yêu
cầu khi đặt ra mục tiêu, nhiệm vụ các biện pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cho địa
phương mình, đơn vị mình, ngành mình phải chắc chắn hiểu tình hình thực tế khách quan
thì mới thể đưa ra được những quyết định, hướng đi, chiến lược đúng đắn đạt được
thành tựu trong hoạt động thực tiễn. Trái lại, cần bài trừ thái độ chủ quan, duy y chí, nóng
vội, bất chấp các quy luật khách quan, không quan tâm đến các điều kiện vật chất khách
quan, tuỳ ý phiến diện, lấy mong muốn, nguyện vọng, cảm tính làm điểm bắt đầu cho chủ
trương, chính sách, hậu quả là đường lối không thực tế và hiển nhiên sẽ dẫn đến cái kết thất
bại trong hoạt động thực tiễn.
1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất tồn tại bằng vận động và vận động của vật
chất diễn ra trong cả thời gian không gian. thế, sự tồn tại của vật chất được thể hiện
dưới ba dạng vận động, không gian thời gian. Sự bùng nổ của thời đại công nghệ, khoa
học hiện đại đã chứng trằng: Không thể hiểu vận động chỉ theo nghĩa học, nghĩa là sự
chuyển dịch vị trí của vật thể trong không gian mà phải hiểu vận động theo nghĩa chung nhât
mọi sự biến đổi nói chung. điều đó đã được Ph.Ăngghen thể hiện: “Vận động, hiểu
theo nghĩa chung nhất, được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính
cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi mọi quá trình diễn ra trong trụ,
kể cả sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.” (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn Tập, NXB
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1994, tr 519).
lOMoARcPSD| 44985297
a. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
“Vận động phương thức tồn tại của vật chất. Bất cứ đâu bất cứ lúc nào cũng không
không thể vật chất không vận động. Vận động trong không gian trụ, vận
động cơ học của những khối nhỏ hơn trên mỗi
thiên thể riêng biệt, dao động phân tử dưới hình thức nhiệt, hay dưới hình thức dòng điện
hoặc dòng từ, phân giải hoá học và hoá hợp hoá học đời sống hữu cơ, đó là những hình thức
vận động mà mỗi một nguyên tử vật chất riêng biệt trong vũ trụ (trong mỗi lúc nhất định đều
nằm dưới một hình thức vận động hay dưới nhiều hình thức vận động cùng một lúc. Mọi
trạng thái đứng yên, mọi trạng thái thăng bằng đều chỉ tương đối, chỉý nghĩa nếu đem
so sánh với một hình thức vận động nhất định nào đó.”
Vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua phương thức vận động. Có thể hiểu, tất cả
sự vật, sự việc, hiện tượng luôn luôn trong trạng thái hoạt động. Từ những hạt nhỏ li ti đến
các thiên thể to lớn, từ vô sinh đến hữu sinh, từ tự nhiên đến văn minh loài người, tất cả đều
biến đổi không ngừng nghỉ, dưới bất kì hình thức nào.
b. Nguồn gốc của vận động nằm trong ngay bản thân sự vật, bản thân vật chất
Mọi sự vật, hiện tượng vật chất đều là những thể thống nhất với kết cấu rõ ràng n thể
khẳng định rằng vật chất luôn luôn trong trạng thái vận động. Kết cấu đó bao gồm những
nhân tố, những bộ phận, những xu hướng khác nhau, trái ngược nhau. Sự tương tác, ảnh
hưởng qua lại của các yếu tố đó tạo lên những thay đổi, trong đó có vận động. Do đó, nguồn
gốc của vận động là sự tương tác của các mặt khác nhau bên trong kết cấu của mỗi vật chất
hình thành lên. Nói cách khác, vận động của vật chất có tính chất tự vận động.
c. Những hình thức vận động cơ bản của vật chất
Vât chất được chia ra thành năm hình thức vận động bản theo quan điểm duy vật
biện chứng của Ph.Ăngghen:
- Vận động cơ học (sự dịch chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
- Vận động vật (vận động của các phân tử, các hạt bản, vận động của điện tử,
của các quá trình nhiệt, điện…).
- Vận động sinh vật (sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường)
- Vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá học và phân giải
các chất).
- Vận động hội (sự biến đổi, thay thế của các hình thái kinh tế hội). Các hình
thức vận động cơ bản có sự khác nhau về chất nhưng gắn liền với mối quan hệ biện
chứng. Mỗi hình thức vận động khi được thưc hiện do tác động lẫn nhau với nhiều
hình thức vận động khác.
2. Nguồn gốc và bản chất của ý thức 2.1.
Nguồn gốc ý thức
a. Nguồn gốc tự nhiên
Trước c, nguồn gốc và bản chất của ý thức không được giải thích chính xác do khoa
học chưa đủ phát triển song nhiều nhà duy vật không thừa nhận tính siêu tự nhiên của ý
thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, đặc biệt sinh học thần kinh,
chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định rằng: ý thức một thuộc tính của vật chất
lOMoARcPSD| 44985297
nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống
tổ chức cao bộ não con người. quan vật chất của con người được biết đến là bộ
não còn chức năng của bộ não ý thức con người. Dựa trên sở hoạt động sinh thần
kinh của bộ não, hoạt động ý thức được diễn ra như sau: khi bộ não bị tổn thương thì hoạt
động ý thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn. Do đó bộ não sẽ không thể tách rời ý
thức ra khỏi hoạt động.
Phản ánh thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, nó được biểu hiện ra
trong sự liên hệ, tương tác qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Vật tác động và vật
nhận tác động ảnh hưởng đến kết quả của sự phản ánh. Đồng thời trong đó bao gồm cả quá
trình thông tin. Một điều quan trọng làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức là vật nhận
tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động.
Ý thức ra đời kết quả của sự phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất, nội
dung của là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh. Nếu thiếu đi sự tác
động của thế giới bên ngoài lên các giác quan chuyển tới não bộ thì hoạt động ý thức
không thể xảy ra. Như vậy, nguồn gốc tự nhiên của ý thức sự tác động của bộ não người
cùng với thế giới bên ngoài.
b. Nguồn gốc của xã hội
Để ý thức được xuất hiện, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên yếu tố không thể thiếu được,
đóng gó vai trò vô cùng quan trọng, tuy nhiên nó chưa phải là điều kiện tiên quyết cho sự ra
đời của ý thức. Ý thức sản phẩm của sự phát triển hội, phụ thuộc vào hội
mang tính chất xã hội.
Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận thụ động. Để
các đối tượng hiện thực bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động
thành những hiện tượng nhất định phải nhờ tới lao động, sau các hiện tượng này tác
động vào bộ não con người. Ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động của con người
cải tạo thế giới khách quan làm biến đối thể giới đó. Không phải ngẫu nhiên thế giới
khách quan tác động vào bộ não của con người để con người ý thức mà ngược lại, con
người có ý thức là vì con người chủ động tác động vào thế giới. nhờ đó con người
đã tìm ra những bí mật của thế giới, sự phong phú sâu sắc ý thức của người về thế giới
cũng ngày càng có những bước tiến lớn.
nhu cầu của lao động ngôn ngữ xuất hiện, trở thành hệ thống tín hiệu không thể
thay thế. Theo C. Mác, ngôn ngữ chính cái vỏ vật chất của duy, là hiện thực trực tiếp của
tưởng. thể nói, nếu như ngôn ngữ không tồn tại thì ý thức không thể xuất hiện con
người. Và có thể nói, nguồn gốc trực tiếp và đóng góp vai trò quyết định trong sự ra đời của
ý thức là lao động và thực tiễn xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong
bộ não con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội đồng thời được coi là
một hiện tượng của xã hội.
2.2. Bản chất của ý thức
Không thể nói ý thức là bản sao đơn giản hay thụ động của sự vật vì ý thức là của con
người, con người một thực thể hội sáng tạo. Nên cũng thể suy ra, ý thức của
con người phản ánh tính năng động, sáng tạo đó. Theo nhu cầu thực tiện của xã hội, ý thức
lOMoARcPSD| 44985297
“chẳng qua chỉ vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc của con người, được cải
biên đi ở trong đó” (C. Mác và Ph. Ănggen: Toàn tập, NXB. CTQG, HN, 1993, Trang 35).
Ý thức đại diện cho hình ảnh chủ quan trong thế giới khách quan, là sphản chiếu
nét hiện thực vào bộ não của con người. Song, đây là sự phản ánh đặc biệt, phản ánh trong
quá trình hình thành lên con người. thể tóm gọn quá trình thống nhất của ý thức qua 3
mặt sau:
Thứ nhất, sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Đây hình thức mang
tính trao đổi qua lại từ hai phía, có định hướng và chọn lọc các thông tin quan trọng.
Thứ hai, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Có thể hiểu đây
quá trình “sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, theo cách hoá các đối tượng vật chất
thành ý thức mang tính phi vật chất nhiều hơn.
Thứ ba, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, có nghĩa là quá trình thực tế h
tưởng thông qua các hoat động thực tiễn, biến quan niệm thành điều thực tại, biến ý tưởng
phi vật chất vốn dĩ nằm trong bộ não thành các dạng vật chất bên ngoài cuộc sống. Ở trong
giai đoạn nà, con người có quyền quyết định những phương pháp, phương tiện, công cụ để
tác động vào hiện thưc nhằm đạt được mục tiêu của mình. Điều này càng thể hiện ràng
tính năng động sáng tạo của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức không nên đánh đồng với ý thức tạo ra vật chất. Có thể hiểu rằng,
sáng tạo của ý thức sáng tạo của sphản ánh, theo quy luật trong khuôn khổ kết
quả luôn luôn những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức được thống nhất, liên kết
chặt chẽ với phản ánh, phát triển dựa trên cơ sở của sự phản ánh. Ý thức trong bất cứ trường
hợp nào đều là sự phản ánh
và chính thực tiễn xã hội của con người đã tạo ra sự phản ánh mang cả ba yếu tố phức tạp,
năng động, sáng tạo của bộ não.
3. Mối quan hệ biện chứng duy vật giữa vật chất và ý thức
Sự liên kết giữa vật chất ý thức được coi “vấn đề bản của mọi triết học, đặc
biệt triết học hiện đại” (C. Mác Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB. CTQG, HN, 1995,
Trang 403). Tuỳ cách suy nghĩ về thế giới khi xử lý mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
sẽ dẫn đến những con đường khác nhau. Để nắm vững phép biện chứng duy vật luôn
bám sát những thành tựu mới nhất trong giới khoa học tự nhiên, những nhà khoa học lỗi
lạc của chủ nghĩa Mác- Lênin đã làm bật lên được những quan điểm khoa học, bao quát về
mặt triết học ở hai khía cạnh được coi là lớn nhất của thế giới: vật chất và ý thức.
Dựa theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin: “vật chất ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất”.
3.1. Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất tác động tới ý thức được thể hiện qua bốn nội dung sau đây:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Giới tự nhiên tạo lên con người, theo lẽ tự nhiên thì ý thức, một trong những thuộc tính
của con người cũng không phải ngoại lệ. Thành quả của các nghiên cứu khoa học đã sáng
lOMoARcPSD| 44985297
tỏ một điều rằng, giới tự nhiên xuất hiện trước con người, vật chất là cái có trước và ý thức
là cái sau. Yếu tố quan trọng mang tính quyết định đến sự ra đời của vật chất sự vận
động của não bộ.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Ở bất kì hình thức nào, ý thức cũng đều phản chiếu được cái nhìn của hiện thực khách quan.
từ đó, ý thức nội dung của chính kết quả phản ánh vào bộ não của con người.
thể nói, động lực mạnh mẽ mang yếu tố quyết định đến tính phong phú và sâu sắc của tư
duy, ý thức con người chính sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộngchiều
sâu.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Trái lại với những quan điểm trong chủ nghĩa duy vật, coi thế giới vật chất những sự
vật, hiên tượng thiên về cảm tính thì chủ nghĩa duy vật biện chứng đánh giá thế giới vật chất
thế giới với các hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn nền tảng để hình thành phát
triển ý thức.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Khi con người càng ngày càng phát triển thì kéo theo ý thức một hình thức phản ứng
của não bộ phát triển theo, cả về hình thức và nội dung bao hàm. Biểu hiện thực tế nhất của
nó chính là sự ảnh hưởng của kinh tế chính trị và đời sống tinh thần của con người. Chỉ khi
đời sống vật chất của con người thay đổi thì đời sống tinh thần sẽ có sự biến chuyển theo.
3.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Một là, mặc dù ý thức phản ánh thế giới vật chất vào trong trí não con người nhưng mấy ai
biết rằng ý thức cũng có “đời sống” riêng, mang theo quy luật vận động và phát triển riêng
biệt.
Hai là, thông qua hoạt động thực tiễn của con người đã ảnh hưởng lên ý thức đối với
vật chất, tự bản thân ý thức không thể biến đổi được hiện thực. Nhờ chất liệu trong thế giới
vật chất con người sáng tạo được đưa ra những ý kiến, quan điểm định hướng
thực hiện mục tiêu với đích đến là sự thắng lợi vẻ vang.
Ba là, hoạt động của con người thể bị điều khiển bởi ý thức, quyết định hoạt động đó
đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, nó có thể giúp ta tạo ra
những con đường đúng đắn, đưa sức mạnh vật chất lên mức tối đa nhất. Nhưng mặt trái của
nó cũng đem đến những tác động tiêu cực nếu như hiện thực được phản chiếu một cách sai
lệch.
Bốn là, khi hội càng ngày càng lớn mạnh thì sẽ kéo theo vai trò của ý thức ngày càng
quan trọng. Đặc biệt khi đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá, tầm quan trọng của tri thức khoa
học, tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn càng được khẳng định rõ ràng hơn bao giờ hết.
II. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ VẬN DỤNG MỐI QUAN
lOMoARcPSD| 44985297
HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO THỰC TIỄN ĐỔI MỚI Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Ý nghĩa phương pháp luận
Dựa vào những hoạt động thực tiễn của con người ý thức thể chuyển hoá tự nhiên,
thâm nhập vào sự vật, biến những mục đích đề ra thành hiện thực. Con người chính nhờ vào
tính phản sáng tạo và tính xã hội nên mới hình thành khả năng thống trị được tự nhiên, biến
những thứ hoang thuần tuý nhất thành những trù phú, đa dạng nhất. thể nói, đời
sống của con người là sự gắn kết chặt chẽ nhất, là bao hàm cả về vật chất và tinh thần – hai
yếu tố có vai trò bình đẳng trong đời sống và hoạt động của con người. Ngược lại, triết học
Mác- Lênin đã khẳng định rằng, trong quá trình hoạt động, vật chất và ý thức có sự
tương tác qua lại với nhau, song trình tự diễn ra dựa trên sở tính thứ nhất của nhân tố vật
chất so với tính thứ hai của nhân tố ý thức.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, những nhu cầu về vật bao giờng giữ vị trí ưu tiên,
kiểm soát hoạt động của con người nhân tố vật chất quy định khnăng các nhân tố tinh
thần thể tham gia lập lên những quy định, mục đích, biện pháp con người đặt ra
cho hoạt động của mình bằng cách soát, kiểm duyệt, bổ sung, đi sâu các chi tiết. Khẳng
định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của nhân tố vật chất, triết học Mác- Lênin đề cao vai
trò của nhân tố tinh thần, của tính năng động chủ quan. Thêm vào đó, con người không thể
để cho thế giới khách quan chi phối hoạt động của mình. Do đó, con người phải tuân th
những quy luật khách quan và chỉ nên đặt ra những mục tiêu trong khả năng mà hoàn cảnh
cho phép.
Vì vật chất đóng vai trò quan trọng, quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn ta phải
nhìn nhận một cách khách quan, hoạt động theo dúng quy luật khách quan.
Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phải chú ý tính năng động chủ quan, đặc biệt phải
phát huy được vai trò của tri thức, khoa học, giáo dục và nâng cao nhận thức của con người.
“Sự mù quáng chủ quan” là lỗi lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách
không tự giác. thế, chúng ta không nên tuyệt đối hoá tầm quan trọng của mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức.
Để tính khách quan và chủ quan đảm bảo được sự thồng nhất, đây cũng yếu tố quan trọng
trong quá trình nhận thức.
2. Liên hệ với thực tiễn
Xuyên suốt hành trình hơn 30 năm đổi mới, những thành tựu đáng tự hào của Đảng và
nhân dân đạt được đã góp phần xây dựng và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin – nền tảng
tưởng để Đảng Cộng sản Việt Nam tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để có thể biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành chủ nghĩa xã hội khoa học thì không
thể không nhắc tới những cống hiến to lớn của C. Mác Ph. Ăngghen. Trong những luận
cứ mình đưa ra, đặc biệt phải nhắc tới “Tư bản”, luận này đã chứng tỏ rất ràng,
củng cố hình thái kinh tế - hội tư bản chủ nghĩa sẽ khó đứng vững trước những mâu thuẫn
nội bộ và dựa trên quy luật khách quan, nó tất yếu sẽ phải thay thế bởi hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Đặc biệt, trong lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, các ông cũng
chỉ ra những đường lối đúng đắn cho giai cấp công nhân vùng lên đấu tranh thoát khỏi áp
lOMoARcPSD| 44985297
bức bóc lột. Không phải trùng hợp V.I.Lênin đã cực kì nhấn mạnh một điểm: “Điều quan
trọng nhất trong học thuyết Mác là việc làm sáng tỏ vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp
vô sản với tư cách là người xây dựng, kiến tạo xã hội mới”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng ta đã những bước đi đúng đắn, áp dụng sáng tạo
những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen V.I.Lênin khi đưa ra những luận điểm có chiều
sâu về mối liên hệ biện chứng giữa “tính phổ biến” “tính đặc thù” trong quá trình tiến
n chủ nghĩa xã hội: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa hội, đó là điều không
thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa hội không phải một
cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay
hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính sản,
vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo hội chủ nghĩa đối với các mặt khác
nhau của đời sống xã hội”.
Từ những luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, Đảng nhà nước ta đã vận dụng linh
hoạt cùng đổi mới sáng tạo để tạo ra những bước đi thận trọng, hiệu quả nhất cho mô hình
nhà nước Việt Nam. Đó cũng là những nội dung chung về mục tiêu cũng như đặc điểm của
sự phát triển đất nước trong hành trình tiến lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm khi coi thường quy luật khách quan và yêu cầu thay
đổi tư duy về chủ nghĩa xã hội của V.I.Lênin năm 1921, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng (tháng 12-1986) đã tạo ra bước ngoặt trong đổi mới tư duy về định hướng đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
sự thật, nói sự thật”, Đảng nhà nước ta dần đưa ra những bước đi vững chắc trong
quá trình xây dựng đường lối chủ nghĩa hội. Từ những gì học được trong suốt 5 năm đổi
mới, Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời quá độ lên chủ nghĩa hội. Nội dung của Cương lĩnh đã khẳng định được
sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Ngoài u đặc trưng đó, Đại hội cũng đã bổ sung kịp thời hai đặc trưng nữa xây dựng
“xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” “có nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản”. trong suốt quá trình đó, Đảng nhà nước vẫn tiếp tục bổ sung sửa đổi Cương
lĩnh để phù hợp với thực tế, trong đó phải nói tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng (tháng 1-2011).
Từ bảy phương hướng cơ bản được hình thành trong Cương lĩnh năm 1991 cho tới 20
năm sau, vào 2011 đã phát triển hình thành lên tám phương hướng cơ bản nhằm hiện
thực hoá những mục tiêu khi thời quá độ kết thúc, bao gồm phát triển kinh tế, nền tảng
về chính trị, tưởng, văn hoá, đưa Việt Nam trở thành đất nước xã hội chủ nghĩa phát triển
phồn vinh, dân giàu, nước mạnh.
Tám đặc trưng cơ bản tiếp tục được phân tích kĩ càng hơn, sửa đổi cho phù hợp với sự
phát triển của đất nước tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (tháng 12016).
Đến cuối cùng, Đại hội đưa ra được ba nội dung quan trọng:
- Những thành tựu là tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước tiếp tục có những bước
chuyển mình trong những năm tới.
lOMoARcPSD| 44985297
- Những thành tựu đó khẳng định được Đảng nhà nước đang đường lối đúng
đắn, sáng tạo.
- Những thành tựu đó con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội củaớc ta phù hợp với
tình hình thực tế tại Việt Nam cũng như xu thế phát triển của lịch sử.
Trong quá trình nhận thức, đổi mới, thấm nhuần các tưởng luận, Đảng ta đã
những nhận thức đúng đắn hơn về chủ nghĩa Mác- Lênin chứ không bác bỏ hay tách rời.
Đây là căn cứ khoa học để đất nước ta những bước chuyển mình trong quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Dựa trên sở nền tảng tưởng của V.I.Lênin về Chính sách kinh tế mới Đảng ta
mới định hướng trong tình hình Việt Nam được đặt trong bối cảnh kinh tế mới. Trong
“Chính sách kinh tế mới”, chế thị trường được sử dụng để kích thích sản xuất, u gọi
đầu tư, kiểm soát nhà nước. Nhờ chính sách này nên về bản, nước Liên đã từng
bước khôi phục nền kinh tế quốc dân và chính thức hoàn thành vào cuối năm 1925.
Cũng dựa theo Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin, Đại hội VI đã đưa ra những chính
sách mới, trong đó bao gồm đổi mới chế quản kinh tế với mục đích kích thích tiềm
lực kinh tế cũng như người dân hăng hái tham gia phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả
lao động đi tới mục đích chung xây dựng nền kinh tế vững mạnh. Thế nhưng phải mất
tới 15 năm để định nghĩa “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được thừa nhận
tại Đại hội IX của Đảng năm 2001. Cho tới Đại hội XII năm 2016, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã thể hiện được duy đổi mới về kinh tế thị trường khi xác định được những đặc
điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường theo định hướng hội chủ nghĩa. Thông qua Đại
hội XII đã khẳng định rằng nền kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
quy chuẩn của thị trường nói chung. Đồng thời bảo đảm sự phát triển này liên tục được đổi
mới, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo với phương châm “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Từ những đòn bẩy của cuộc sống cũng như thừa hưởng và phát triển tư duy từ lý luận
của chủ nghĩa c- nin, Đảng ta đã đang đưa đất nước phát triển theo con đường
đúng đắn, củng cố được các giai cấp xã hội, xây dựng đoàn kết dân tộc, lấy dân làm gốc,
phát huy được sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp đổi mới. Chính V.I.Lênin cũng từng
khẳng định rằng: “Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa hội nào khác hơn
chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa
tư bản đã thu được”.
Trong giai đoạn Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin đã áp dụng được những quan điểm của
C.Mác Ph.Ăngghen về liên minh giai cấp vào cách mạng Nga lúc bấy giờ đã thật sự
xây dựng được liên minh giai cấp công-nông mạnh mẽ, đóng góp một phần to lớn trong
công cuộc chiến thắng Cách mạng Tháng Mười cũng như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Xuyên suốt quá trình này, V.I.Lênin luôn luôn chú ý tới sức mạnh của tri thức nhấn
mạnh việc “đảm bảo cho các người tri thức những điều kiện lao động tốt nhất”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2001 đã khẳng
định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
giữa công nhân với nông dân và tri thức do Đảng lãnh đạo”. Từ đó thể hiện sự coi trọng của
lOMoARcPSD| 44985297
Đảng Nhà nước ta dành cho liên minh công nông - trí thức, lực lượng quan trọng
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Kế thừa và phát triển tinh thần đó trong bối cảnh kinh tế mới, các Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X, XI XII đã đang tiếp tục khẳng định được vai trò của liên minh
giai cấp công nhân, ng dân đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp chung xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
tưởng của V.I.Lênin về Đảng Cộng sản kiểu mới đã được vận dụng sáng tạo, đem lại
những kết quả trong việc xây dựng và củng cố vai trò Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo
Nhà nước và xã hội ở Việt Nam – nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm cho sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiến tới thắng lợi.
Cho tới khi Đảng Cộng sản trở thành đảng đứng đầu thì năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng phụ thuộc rất nhiều vào kỷ luật của một người đảng viên. Tháng 5-1920, trong tác
phẩm “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào
cộng sản”, V.I.Lênin viết: Những người Bônsêvích sẽ không giữ được chính quyền, tôi
không nói được tới hai năm rưỡi, ngay cả đến hai tháng rưỡi cũng không được nữa,
nếu đảng ta không có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật sắt thật sự”. Theo ông, có ba kẻ
thù chính mà ta cần kiên quyết đấu tranh đó chính là “tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa;
nạn mù chữ, sự ngu dốt, cản trở việc giáo dục chính trị và nạn hối lộ, tham nhũng”. Thấm
nhuần những tư tưởng của V.I.Lênin, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn đặc biệt chú
trọng tới công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng. Đó cũng sở, tiền đề vững chắc bảo
đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình.
Trong suốt quãng thời gian gần 35 năm, đặc biệt trong 10 năm gần đây, những quan điểm
về công tác xây dựng Đảng có nhiều đổi mới. Đảng ta ngày càng hoàn tiện hơn, sâu sắc hơn
vị trí trong công tác xây dựng Đảng. Đảng ta luôn khẳng định xây dựng Đảng nhiệm vụ
then chốt, là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng.
Những nhận định của Đảng về công tác xây dựng Đảng ngày càng hoàn thiện cả về khách
quan khoa học; thể hiện sự vận dụng sáng tạo những nguyên tắc của chủ nghĩa MácLênin
về xây dựng Đảng đội tiền phong của giai cấp công nhân phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Đảng ta đã thực hiện đúng theo di huấn của V.I.Lênin là phải dựa vào nhân
dân để xây dựng Đảng các đoàn thể chính tr- xã hội, đó phải những tổ chức bộ máy
phục vụ chính trị chứ chính trị không phục vụ bộ máy. Theo V.I.Lênin, chính trị được đề cập
ở đây chính cuộc sống của nhân dân, lợi ích của nhân dân, số phận của hàng triệu con
người.
Trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng
sản Việt Nam không ngừng bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, dân, tăng
cường phát huy thực hành dân chủ xã hội chnghĩa để phát triển đất nước trong điều
kiện mới, sớm đưa Việt Nam sánh vai các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Bác
Hồ.
Trải qua quãng thời gian 33 năm đổi mới, 28 m thực hiện cương lĩnh 1991, nhất 10 m
gần đây, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, mang tính lịch sử, bước đệm cho
nước ta trên đà tiếp tục đổi mới phát triển. Đồng thời, cũng phải thấy còn nhiều vấn đề
lOMoARcPSD| 44985297
lớn, phức tạp, nhiều hạn chế , bất cập cần tiếp tục nghiên cứu, đưa đất nước phát triển bền
vững hơn. Qua 4 năm nhiệm kỳ khoá XII, đất nước tiếp tục phát triển nhanh khá toàn
diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo lên nhiều dấu ấn nổi bật: kinh tế tăng trưởng liên tục
cao hơn so với nhiệm kì trước, trở thành một trong những nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, sức cạnh tranh, tiềm lực nâng cao. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
xây dựng hệ thống chính trị mạnh mẽ, đặc biệt công tác đấu tranh phòng chống tham
nhũng, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ. Quan hệ đối ngoại hội nhập quốc tế cũng ngày
càng sâu rộng, góp phần nâng cao vị trí và uy tín của Việt Nam trên thương trường quốc tế.
Theo bộ kế hoạch và đầu tư, năm 2020, quy nền kinh tế Việt Nam đạt khoảng 343
tỷ USD, đứng trong top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ 4 ASEAN. GDP bình
quân đầu người đạt 3,521 USD, đứng thứ 6 tại ASEAN. Thành tích giảm nghèo của nước
ta vẫn tiếp tục một điểm sáng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Sau hơn 50 năm
thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đất nước càng ngày ng phát triển thịnh
vượng.
Tuy nhiên, những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế trong quá trình xây dựng đất nước là
điều không thể tránh khỏi. Đây là không việc khó khăn, phức tạp, tính khoa học, đòi hỏi
cao về cả thời gian nguồn lực, nhất khi chúng ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa
hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi cuộc chiến tranh khốc liệt kéo
dài suốt 30 năm. Cái khó khăn lớn nhất đối với chúng ta lẽ lối suy nghĩ, tác phong
mang nặng tính chất của nền văn hoá nông nghiệp. Không sự hỗ trợ từ phe hội chủ
nghĩa như trước đây, cộng thêm thiếu kinh nghiệm. Chúng ta đã duy trì tốc độ tăng trưởng
GDP cao trên 6.5% / năm trong suốt 30 năm thực hiện chính sách đổi mới. Đời sống nhân
dân từng bước được cải thiện. Để được những thành quả to lớny, Đảng Nhà nước
Việt Nam đã những bước đi ra khỏi “vùng an toàn” về nhận thức cũng như sự đổi mới
mạnh mẽ về chính sách xã hội. Từ một nền kinh tế bao cấp hoàn toàn dựa trên sở hữu công
cộng, chúng ta đã chuyển sang xây dựng nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần sở hữu rồi
chuyển sang hẳn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ một nhà nước xây
dựng theo hình chính chuyên vô sản, chúng ta đã chuyển sang xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, chỉ quan hệ với các nước khối
hội chủ nghĩa chủ yếu, chúng ta đã mở cửa để hội nhập với thị trường quốc tế, thiết lập
quan hệ ngoại giao với189 quốc gia trên 200 quốc gia trên thế giới; thiết lập khuôn khổ
quan hệ ổn định lâu dài với 30 đối tác chiến lược toàn diện trong đó 2 đối tác toàn
diện đặc biệt, 15 đối tác chiến lược, 11 đối c toàn diện, 2 đối tác chiến lược theo từng lĩnh
vực.
PHẦN KẾT LUẬN
Tổng kết lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó là cái có
trước ý thức, nhưng ý thức lại tác động trở lại vật chất. Mối quan hệ c động qua lại này
chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chúng ta nâng cao vai trò
của ý thức với vật chất chính chỗ nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách
quan và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt động thực tiễn của con người.
Trong quá trình làm bài, bản thân em còn gặp nhiều sai sót, em mong sẽ nhận được sự
góp ý từ phía thầy giáo phụ trách bộ môn Triết Học Mác- Lênin để em điều kiện hoàn
lOMoARcPSD| 44985297
thiện hiểu biết cvề hai mặt luận thực tiễn, rút kinh nghiệm cho những bài làm tiếp
theo. Em xin chân thành cảm ơn!
lOMoARcPSD| 44985297
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB Chính tr
quốcgia, Hà Nội, 2019.
2. V.I.Lênin: Toàn tập, t.30, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1977.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.21, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
4. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.18, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
5. ĐCSCN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương
Đảng, Hà Nội, 2016.
6. https://vksndtc.gov.vn/tin-vks/cac-bai-bao/quan-diem-duong-loi-chien- luoccua-
dang-cong-san-v-d11-t3533.html
7. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi- bch-
trung-uong/khoa-vi/nghi-quyet-so-06-nqhntw-ngay-2931989-hoi- nghi-lan-thu-
sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-vi-ve-kiem-diem- hai-nam-thuc-1107
lOMoARcPSD| 44985297
MỤC LỤC
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................2
PHẦN 2: PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................3
I. Lí luận chung về quan niệm duy vật biện chứng và mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức......................................................................................................................3
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của nó .............................................................3
1.1. Định nghĩa phạm trù vật chất ...................................................
................. 3
1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất ...................................................
.......... 6
2. Nguồn gốc và bản chất của ý thức .......................................................................7
2.1. Nguồn gốc ý thức ...................................................
...................................... 7
2.2. Bản chất của ý thức ...................................................
.................................. 9
3. Mối quan hệ biện chứng duy vật giữa vật chất và ý thức ................................10
3.1. Vật chất quyết định ý thức ...................................................
..................... 10
3.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất ..................
11
II . Ý nghĩa của phương pháp luận và vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức vào thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay .........................................
11
1. Ý nghĩa phương pháp luận
.................................................................................11 2. Liên hệ với thực tiễn
...........................................................................................12
PHẦN 3: PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................18

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44985297
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN Tiểu luận TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn.
Tác giả: Nguyễn Vũ Hà My Mã sinh viên: 11219098
Lớp học phần: LLNL1105(221)CLC_05
Viện: Đào tạo TT, và POHE
Giáo viên hướng dẫn: TS. Lê Ngọc Thông Hà Nội - 2022 lOMoAR cPSD| 44985297 PHẦN MỞ ĐẦU
Tiến lên Chủ nghĩa Xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu đối với Đảng và Nhà nước
ta hiện nay, đi theo đúng mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một đất nước:
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Không những thế, ngay cả người dân cũng có cơ hội được đảm bảo về cuộc sống “…ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đặt trong bối cảnh đi lên Xã hội Chủ
nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định: Chủ nghĩa
Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tẳng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt
động của Đảng. Với quan điểm này, chúng ta cần phải sử dụng được linh hoạt các kiến
thức, am hiểu, lập luận từ
Chủ nghĩa Mác- Lênin để rút ra những phân tích chính xác, chọn lọc được đường lối
lãnh đạo phù hợp với tình hình đất nước hiện nay.
Với đề tài “Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn.” em cũng
muốn góp một phần sức nhỏ bé của mình vào mục tiêu cách mạng to lớn của toàn Đảng,
toàn dân tộc. Là một sinh viên đại học, em hiểu được rằng mọi kế hoạch, chiến lược mà
Đảng và Nhà nước ta đề ra đều xuất phát từ thực tế khách quan, phát huy tối đa sự chủ
động và đồng thời hạn chế sự chủ quan duy ý chí. Và để hiểu rõ ràng hơn về vấn đề này,
phần nội dung chi tiết của đề tài sẽ đưa ra những lập luận cũng như các phân tích thông tin cụ thể.
Do hiểu biết và kiến thức của bản thân còn nhiều hạn chế nên bài làm sẽ không tránh được
những thiếu sót, em kính mong sẽ nhận được lời góp ý từ phía thầy giáo cùng bạn đọc để
bài viết được hoàn thiện và chỉn chu hơn.
Em xin chân thành cảm ơn. 2 lOMoAR cPSD| 44985297 PHẦN NỘI DUNG I.
LÍ LUẬN CHUNG VỀ QUAN NIỆM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ
MỐI QUAN HỆ GIỮA VÂT CHẤT VÀ Ý THỨC
Muốn phân biệt đươc các trường phái trong triết học, trước hết cần hiểu được vấn đề
cơ bản này. Trong triết học Mác- Lênin có khắng định rằng: Mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ động mà có thể tác động trở
lại vật chất qua hoạt động của con người.
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của nó 1.1.
Định nghĩa phạm trù vật chất
a. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng có rất nhiều những cách giải thích khác nhau về vật chất trước
Mác, trong đó phải kể tới một số định nghĩa tiêu biểu như sau:
Thứ nhất, vật chất là một vật cụ thể, hữu hình nhất định. Sự hình dung này đến từ nhận
thức trực quan, thiên về cảm tính. Mọi thứ vật, hiện tượng trên thế giới đều xuất phát từ
một nguyên thể nhất định theo góc nhìn của những nhà triết học cổ Hy Lạp hay nói cách
khác, đây là quan điểm nhất nguyên thể. Ví dụ, Talet đưa ra nhận định rằng vật chất là
nước, nếu vậy nước chính là yếu tố đầu tiên, là nguyên bản hình thành lên mọi thứ xuất
hiện trên Trái Đất này. Ông tin rằng mọi sự vật đều được sinh ra từ nước, biến đổi không
ngừng nghỉ và cho tới khi mất đi cũng sẽ trở về hình hài ban đầu là nước, suy cho cùng chỉ
có nước là tồn tại mãi mãi trong không gian.
Trái với quan điểm thứ nhất, nhiều nhà triết học người Trung Quốc cổ đại lại tin theo
thuyết ngũ hành hay còn biết tới với cái tên đa nguyên thể. Thuyết này lại cho rằng năm
yếu tố Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ là khởi nguyên, hình thành mọi sự vật và tất cả những
thay đổi của tự nhiên là do sự hoà trộn đa dạng của những yếu tố vật chất đầu tiên này. Với
đặc điểm rằng cơ sở hình thành của mọi vật đều khá rộng nên có thể coi học thuyết này là
một bước phát triển lớn trong quá trình nhận thức về vật chất của con người.
Định nghĩa về vật chất của hai nhà triết học thời Hy Lạp cổ là Đêmôcrit (khoảng
427374 TCN) và Lờxíp (khoảng 500-440 TCN) có thể coi là bước tiến cần thiết nhất trong
sự nghiệp nghiên cứu và phát triển phạm trù vật chất. Theo nội dung phân tích, hai ông
định nghĩa căn nguyên của mọi vật đều xuất phát từ nguyên tử. Đây là những hạt nhỏ nhất.
không thể phân tách, không thể
biến mất và sự đa dạng về hình hài, tư thế, thứ tự sắp xếp hình thành lên tính muôn vẻ của
sự vật. Vật chất được định nghĩa bao quát nhất là một lớp các phần tử hữu hình nằm sau
trong mỗi sự vật. Trong quá trình tìm kiếm định nghĩa đúng đắn về vật chất, quan niệm trên
đã xuất hiện đóng vai trò là một bước tiến lớn và còn có ý nghĩa như một dự báo khoa học
tài tình của con người về cấu tạo của thế giới vật chất nói chung.
Từ thời Phục Hưng thế kỉ XV, phương Đông có dấu hiệu bị thụt lùi phía sau khi phương
Tây cho ra đời khoa học thực nghiệm, trong đó phải nói tới sự bứt phá của cơ học và công
nghiệp. Cho tới khi chủ nghĩa duy vật mang hình thức chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy
móc ra đời trong thế kỉ XVII-XVIII. Trong quá trình các nhà khoa học nghiên cứu về thuyết lOMoAR cPSD| 44985297
lượng tử, thành công vang dội của Niutơn trong vật lý học cổ điển (nghiên cứu cấu tạo và
các thuộc tính các vậy thể vật chất vĩ mô tính từ nguyên tử trở lên) và sáng tỏ được sự tồn
tại của nguyên tử khi thực nghiệm khoa học vật lý càng làm quan điểm trên vững chắc hơn.
Nhưng thuyết nguyên tử vẫn tồn tại những nhược điểm là không cho ra được những định
nghĩa triết học chính xác về vật chất. Trong thời điểm đó, các nhà triết học có xu hướng
liên kết vật chất và khối lượng với nhau, coi những định luật cơ học như khuôn mẫu không
thể thay thế và dựa vào đó để giải thích mọi hiện tượng của thế giới. Tuy nhiên, cũng có
những nhà triết học cố tìm ra những lỗ hổng của thuyết nguyên tử, phải kể đến như Cantơ,
Đềcáctơ… nhưng sau cùng cái nhìn cơ học về thế giới vẫn không xoay chuyển.
Tia X được nghiên cứu ra vào năm 1895 bởi Rơnghen. Một năm sau, 1896, hiện tượng
phóng xạ của nguyên tố Urani được Béccơren tìm ra. Tới 1901, Kaufman đã khẳng định
được khối lượng của điện tử không phải là bất biến mà thay đổi theo vận tốc vận động của
nguyên tử. Hai chất phóng xạ mạnh là Pôlôni và Radium cũng được khám phá bởi nhà khoa
học Marie Curie cùng chồng Pie Curie vào năm 1902. Tất cả những phát hiện này đã chứng
tỏ một điều rằng nguyên tử vẫn có thể bị phân tách và chuyển hoá. Bên cạnh đó, không
gian, thời gian, khối lượng luôn thay đổi cùng với sự hoạt động linh hoạt của vật chất đã
được chứng minh bởi thuyết Tương đối hẹp năm 1905 và thuyết Tương đối rộng năm 1906
của nhà bác học A.Einstein. Thế giới vật chất không có và không thể có những vật thể
không có kết cấu, tức là không thể có đơn vị cuối cùng, tuyệt đối đơn giản và không thay
đổi để tượng tưng cho vật chất. Thế giới còn rất nhiều thứ bí ẩn hấp dẫn mà con người đã
và đang tìm tòi khám phá: Sự chuyển hoá giữa trường và hạt, song và hạt, hạt và phản hạt,
hụt khối lượng,… Chính điều này đã khẳng định được phán đoán của Ph.Ăngghen: “Không
thể coi nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của vật chất đã biết” và V.I.Lênin cũng có câu: “Điện
tử cũng vô cùng tận như nguyên tử, tự nhiên là vô tận” là lập luận hoàn toàn có căn cứ xác thực.
b. Định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin
Ở tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” của bản thân,
Lênin đã làm bật lên được một hướng đi mới trong việc định nghĩa vật chất và phát triển lý
luận phản ánh duy vật và lý luận: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác. Được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
Khái niệm này của
V.I.Lênin bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, dưới góc nhìn là một phạm trù triết học thì vật chất là một sự trừu tượng. Thế nên,
“chúng ta không biết, vì chưa có ai nhìn được và cảm thấy vật chất với tính cách là vật
chất…bằng con đường cảm tính nào khác.” (C.Mác và P.Ăngghen: toàn tập, NXB Chính trị
Quốc gia Hà Nội, 1994, tr.726). Sự trừu tượng này hướng đến các đặc điểm chung nhất,
nguyên thuỷ nhất mà mọi sự vật, hiện tượng cụ thể nào của vật chất cũng sở hữu. Đó là đặc
tính tồn tại khách quan và độc lập với ý thức loài người. Đặc điểm này là tiêu chuẩn đơn
giản duy nhất để phân loại vật chất và không là vật chất. Tính trừu tượng và tính cụ thể là
hai tính chất của vật chất nhưng có mối quan hệ khăng khít với nhau. Chủ nghĩa duy vật
Mácxit cũng chưa bao giờ quy vật chất thành “những viên gạch nhỏ của lâu đài thế giới”
không bao giờ đổi thay mà luôn luôn hiểu rằng vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc
lập với ý thức và được ý thức con người phản ánh lại. lOMoAR cPSD| 44985297
Thứ hai, thực tại khách quan đưa con người vào trong cảm giác và tồn tại không phụ thuộc
vào cảm giác. Với quan điểm này, V.I.Lênin xác thực rõ mối liên hệ giữa thực tại khách quan
và cảm giác rằng thực tại khách quan (hay vật chất) là thứ xuất hiện trước ý thức, không lệ
thuộc vào ý thức, đứng độc lập, còn cảm giác (hay ý thức) của con người là cái xuất hiện
sau vật chất, là khởi nguồn tạo ra ý thức, không có cái bị phản ánh là vật chất sẽ không có
cái phản ánh là ý thức.
Thứ ba, thực tại khách quan được cảm giác của con người sao chép, chụp lại phản ánh. Với
định nghĩa này, V.I.LêNin sáng tỏ được rằng vật chất tồn tại khách quan, không phải dưới
vỏ bọc bí ẩn mà tồn tại dưới dạng sự vật, hiện tượng cụ thể mà khi sử dụng các giác quan
thì con người ít nhiều có thể cảm nhận được, bằng cả gián tiếp và trực tiếp. Hay hiểu cách
khác là ngoài đặc điểm tồn tại khách quan, vật chất còn có một đặc điểm không kém phần
nổi bật là tính có thể nhận thức được. Vì thế có thể nói, bất kì đối tượng nào cũng có thể
nhận biết, nếu không là do họ chưa phát hiện ra mà thôi. Định nghĩa vật chất của V.I.LêNin
là thành quả cho sự bao hàm những bước tiến khoa học lớn và hoạt động thực tiễn của con
người, nó đã đưa ra kết quả một cách xác thực nhất
về cả hai mặt nội dung vấn đề cơ bản của triết học. Có thể thấy, định nghĩa vật chất của
V.I.LêNin ngoài mang ý nghĩa thế giới quan khoa học nó còn khẳng định về phương pháp
luận chung đối với con người trong nhận thức và các hoạt động thực tiễn.
Vì vật chất là thứ có trước, tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức, ý thức xuất hiện
sau, vật chất quyết định ý thức cho nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn “Phải luôn
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan” (Đảng Cộng
Sản Việt Nam: Văn Kiện Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc Lần Thứ VI, NXB Sự Thật, Hà Nội,
1987, tr.30), phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan đã và đang có làm nền tảng cho
mọi hành động của mình, không được sử dụng nhu cầu chủ quan để làm điểm bắt đầu. Yêu
cầu khi đặt ra mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cho địa
phương mình, đơn vị mình, ngành mình phải chắc chắn hiểu rõ tình hình thực tế khách quan
thì mới có thể đưa ra được những quyết định, hướng đi, chiến lược đúng đắn và đạt được
thành tựu trong hoạt động thực tiễn. Trái lại, cần bài trừ thái độ chủ quan, duy y chí, nóng
vội, bất chấp các quy luật khách quan, không quan tâm đến các điều kiện vật chất khách
quan, tuỳ ý phiến diện, lấy mong muốn, nguyện vọng, cảm tính làm điểm bắt đầu cho chủ
trương, chính sách, hậu quả là đường lối không thực tế và hiển nhiên sẽ dẫn đến cái kết thất
bại trong hoạt động thực tiễn. 1.2.
Các hình thức tồn tại của vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất tồn tại bằng vận động và vận động của vật
chất diễn ra trong cả thời gian và không gian. Vì thế, sự tồn tại của vật chất được thể hiện
dưới ba dạng là vận động, không gian và thời gian. Sự bùng nổ của thời đại công nghệ, khoa
học hiện đại đã chứng tỏ rằng: Không thể hiểu vận động chỉ theo nghĩa cơ học, nghĩa là sự
chuyển dịch vị trí của vật thể trong không gian mà phải hiểu vận động theo nghĩa chung nhât
là mọi sự biến đổi nói chung. Và điều đó đã được Ph.Ăngghen thể hiện: “Vận động, hiểu
theo nghĩa chung nhất, được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính
cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ,
kể cả sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.” (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn Tập, NXB
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1994, tr 519). lOMoAR cPSD| 44985297
a. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
“Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào cũng không
có và không thể có vật chất mà không có vận động. Vận động trong không gian vũ trụ, vận
động cơ học của những khối nhỏ hơn trên mỗi
thiên thể riêng biệt, dao động phân tử dưới hình thức nhiệt, hay dưới hình thức dòng điện
hoặc dòng từ, phân giải hoá học và hoá hợp hoá học đời sống hữu cơ, đó là những hình thức
vận động mà mỗi một nguyên tử vật chất riêng biệt trong vũ trụ (trong mỗi lúc nhất định đều
nằm dưới một hình thức vận động hay dưới nhiều hình thức vận động cùng một lúc. Mọi
trạng thái đứng yên, mọi trạng thái thăng bằng đều chỉ là tương đối, chỉ có ý nghĩa nếu đem
so sánh với một hình thức vận động nhất định nào đó.”
Vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua phương thức vận động. Có thể hiểu, tất cả
sự vật, sự việc, hiện tượng luôn luôn ở trong trạng thái hoạt động. Từ những hạt nhỏ li ti đến
các thiên thể to lớn, từ vô sinh đến hữu sinh, từ tự nhiên đến văn minh loài người, tất cả đều
biến đổi không ngừng nghỉ, dưới bất kì hình thức nào.
b. Nguồn gốc của vận động nằm trong ngay bản thân sự vật, bản thân vật chất
Mọi sự vật, hiện tượng vật chất đều là những thể thống nhất với kết cấu rõ ràng nên có thể
khẳng định rằng vật chất luôn luôn trong trạng thái vận động. Kết cấu đó bao gồm những
nhân tố, những bộ phận, những xu hướng khác nhau, trái ngược nhau. Sự tương tác, ảnh
hưởng qua lại của các yếu tố đó tạo lên những thay đổi, trong đó có vận động. Do đó, nguồn
gốc của vận động là sự tương tác của các mặt khác nhau bên trong kết cấu của mỗi vật chất
hình thành lên. Nói cách khác, vận động của vật chất có tính chất tự vận động.
c. Những hình thức vận động cơ bản của vật chất
Vât chất được chia ra thành năm hình thức vận động cơ bản theo quan điểm duy vật
biện chứng của Ph.Ăngghen:
- Vận động cơ học (sự dịch chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
- Vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động của điện tử,
của các quá trình nhiệt, điện…).
- Vận động sinh vật (sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường)
- Vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá học và phân giải các chất).
- Vận động xã hội (sự biến đổi, thay thế của các hình thái kinh tế xã hội). Các hình
thức vận động cơ bản có sự khác nhau về chất nhưng gắn liền với mối quan hệ biện
chứng. Mỗi hình thức vận động khi được thưc hiện là do tác động lẫn nhau với nhiều
hình thức vận động khác.
2. Nguồn gốc và bản chất của ý thức 2.1.
Nguồn gốc ý thức
a. Nguồn gốc tự nhiên
Trước Mác, nguồn gốc và bản chất của ý thức không được giải thích chính xác do khoa
học chưa đủ phát triển song nhiều nhà duy vật không thừa nhận tính siêu tự nhiên của ý
thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, đặc biệt là sinh lý học thần kinh,
chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định rằng: ý thức là một thuộc tính của vật chất lOMoAR cPSD| 44985297
nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống
có tổ chức cao là bộ não con người. Cơ quan vật chất của con người được biết đến là bộ
não còn chức năng của bộ não là ý thức con người. Dựa trên cơ sở hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ não, hoạt động ý thức được diễn ra như sau: khi bộ não bị tổn thương thì hoạt
động ý thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn. Do đó bộ não sẽ không thể tách rời ý
thức ra khỏi hoạt động.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, nó được biểu hiện ra
trong sự liên hệ, tương tác qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Vật tác động và vật
nhận tác động ảnh hưởng đến kết quả của sự phản ánh. Đồng thời trong đó bao gồm cả quá
trình thông tin. Một điều quan trọng làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức là vật nhận
tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động.
Ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất, nội
dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh. Nếu thiếu đi sự tác
động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và chuyển tới não bộ thì hoạt động ý thức
không thể xảy ra. Như vậy, nguồn gốc tự nhiên của ý thức là sự tác động của bộ não người
cùng với thế giới bên ngoài.
b. Nguồn gốc của xã hội
Để ý thức được xuất hiện, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là yếu tố không thể thiếu được,
đóng gó vai trò vô cùng quan trọng, tuy nhiên nó chưa phải là điều kiện tiên quyết cho sự ra
đời của ý thức. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc vào xã hội và mang tính chất xã hội.
Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận thụ động. Để
các đối tượng hiện thực bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động
thành những hiện tượng nhất định phải nhờ tới lao động, sau dó các hiện tượng này tác
động vào bộ não con người. Ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động của con người
cải tạo thế giới khách quan làm biến đối thể giới đó. Không phải ngẫu nhiên mà thế giới
khách quan tác động vào bộ não của con người để con người có ý thức mà ngược lại, con
người có ý thức là vì con người chủ động tác động vào thế giới. Và nhờ đó mà con người
đã tìm ra những bí mật của thế giới, sự phong phú và sâu sắc ý thức của người về thế giới
cũng ngày càng có những bước tiến lớn.
Vì nhu cầu của lao động mà ngôn ngữ xuất hiện, trở thành hệ thống tín hiệu không thể
thay thế. Theo C. Mác, ngôn ngữ chính là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của
tư tưởng. Có thể nói, nếu như ngôn ngữ không tồn tại thì ý thức không thể xuất hiện ở con
người. Và có thể nói, nguồn gốc trực tiếp và đóng góp vai trò quyết định trong sự ra đời của
ý thức là lao động và thực tiễn xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong
bộ não con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội đồng thời được coi là
một hiện tượng của xã hội. 2.2.
Bản chất của ý thức
Không thể nói ý thức là bản sao đơn giản hay thụ động của sự vật vì ý thức là của con
người, mà con người là một thực thể xã hội sáng tạo. Nên cũng có thể suy ra, ý thức của
con người phản ánh tính năng động, sáng tạo đó. Theo nhu cầu thực tiện của xã hội, ý thức lOMoAR cPSD| 44985297
“chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc của con người, và được cải
biên đi ở trong đó” (C. Mác và Ph. Ănggen: Toàn tập, NXB. CTQG, HN, 1993, Trang 35).
Ý thức đại diện cho hình ảnh chủ quan trong thế giới khách quan, là sự phản chiếu rõ
nét hiện thực vào bộ não của con người. Song, đây là sự phản ánh đặc biệt, phản ánh trong
quá trình hình thành lên con người. Có thể tóm gọn quá trình thống nhất của ý thức qua 3 mặt sau:
Thứ nhất, sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Đây là hình thức mang
tính trao đổi qua lại từ hai phía, có định hướng và chọn lọc các thông tin quan trọng.
Thứ hai, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Có thể hiểu đây
là quá trình “sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, theo cách mã hoá các đối tượng vật chất
thành ý thức mang tính phi vật chất nhiều hơn.
Thứ ba, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, có nghĩa là quá trình thực tế hoá
tư tưởng thông qua các hoat động thực tiễn, biến quan niệm thành điều thực tại, biến ý tưởng
phi vật chất vốn dĩ nằm trong bộ não thành các dạng vật chất bên ngoài cuộc sống. Ở trong
giai đoạn nà, con người có quyền quyết định những phương pháp, phương tiện, công cụ để
tác động vào hiện thưc nhằm đạt được mục tiêu của mình. Điều này càng thể hiện rõ ràng
tính năng động sáng tạo của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức không nên đánh đồng với ý thức tạo ra vật chất. Có thể hiểu rằng,
sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ mà kết
quả luôn luôn là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức được thống nhất, liên kết
chặt chẽ với phản ánh, phát triển dựa trên cơ sở của sự phản ánh. Ý thức trong bất cứ trường
hợp nào đều là sự phản ánh
và chính thực tiễn xã hội của con người đã tạo ra sự phản ánh mang cả ba yếu tố phức tạp,
năng động, sáng tạo của bộ não.
3. Mối quan hệ biện chứng duy vật giữa vật chất và ý thức
Sự liên kết giữa vật chất và ý thức được coi là “vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc
biệt là triết học hiện đại” (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB. CTQG, HN, 1995,
Trang 403). Tuỳ cách suy nghĩ về thế giới mà khi xử lý mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
sẽ dẫn đến những con đường khác nhau. Để nắm vững phép biện chứng duy vật và luôn
bám sát những thành tựu mới nhất trong giới khoa học tự nhiên, những nhà khoa học lỗi
lạc của chủ nghĩa Mác- Lênin đã làm bật lên được những quan điểm khoa học, bao quát về
mặt triết học ở hai khía cạnh được coi là lớn nhất của thế giới: vật chất và ý thức.
Dựa theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin: “vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất”. 3.1.
Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất tác động tới ý thức được thể hiện qua bốn nội dung sau đây:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Giới tự nhiên tạo lên con người, theo lẽ tự nhiên thì ý thức, một trong những thuộc tính
của con người cũng không phải ngoại lệ. Thành quả của các nghiên cứu khoa học đã sáng lOMoAR cPSD| 44985297
tỏ một điều rằng, giới tự nhiên xuất hiện trước con người, vật chất là cái có trước và ý thức
là cái có sau. Yếu tố quan trọng mang tính quyết định đến sự ra đời của vật chất là sự vận động của não bộ.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Ở bất kì hình thức nào, ý thức cũng đều phản chiếu được cái nhìn của hiện thực khách quan.
Và từ đó, ý thức và nội dung của nó chính là kết quả phản ánh vào bộ não của con người.
Có thể nói, động lực mạnh mẽ mang yếu tố quyết định đến tính phong phú và sâu sắc của tư
duy, ý thức con người chính là sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Trái lại với những quan điểm cũ trong chủ nghĩa duy vật, coi thế giới vật chất là những sự
vật, hiên tượng thiên về cảm tính thì chủ nghĩa duy vật biện chứng đánh giá thế giới vật chất
là thế giới với các hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là nền tảng để hình thành và phát triển ý thức.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Khi con người càng ngày càng phát triển thì kéo theo ý thức – là một hình thức phản ứng
của não bộ phát triển theo, cả về hình thức và nội dung bao hàm. Biểu hiện thực tế nhất của
nó chính là sự ảnh hưởng của kinh tế chính trị và đời sống tinh thần của con người. Chỉ khi
đời sống vật chất của con người thay đổi thì đời sống tinh thần sẽ có sự biến chuyển theo. 3.2.
Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Một là, mặc dù ý thức phản ánh thế giới vật chất vào trong trí não con người nhưng mấy ai
biết rằng ý thức cũng có “đời sống” riêng, mang theo quy luật vận động và phát triển riêng biệt.
Hai là, thông qua hoạt động thực tiễn của con người đã ảnh hưởng lên ý thức đối với
vật chất, tự bản thân ý thức không thể biến đổi được hiện thực. Nhờ chất liệu trong thế giới
vật chất mà con người sáng tạo được và đưa ra những ý kiến, quan điểm và định hướng
thực hiện mục tiêu với đích đến là sự thắng lợi vẻ vang.
Ba là, hoạt động của con người có thể bị điều khiển bởi ý thức, quyết định hoạt động đó là
đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, nó có thể giúp ta tạo ra
những con đường đúng đắn, đưa sức mạnh vật chất lên mức tối đa nhất. Nhưng mặt trái của
nó cũng đem đến những tác động tiêu cực nếu như hiện thực được phản chiếu một cách sai lệch.
Bốn là, khi xã hội càng ngày càng lớn mạnh thì sẽ kéo theo vai trò của ý thức ngày càng
quan trọng. Đặc biệt khi đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá, tầm quan trọng của tri thức khoa
học, tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn càng được khẳng định rõ ràng hơn bao giờ hết.
II. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ VẬN DỤNG MỐI QUAN lOMoAR cPSD| 44985297
HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO THỰC TIỄN ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Ý nghĩa phương pháp luận
Dựa vào những hoạt động thực tiễn của con người mà ý thức có thể chuyển hoá tự nhiên,
thâm nhập vào sự vật, biến những mục đích đề ra thành hiện thực. Con người chính nhờ vào
tính phản sáng tạo và tính xã hội nên mới hình thành khả năng thống trị được tự nhiên, biến
những thứ hoang sơ thuần tuý nhất thành những gì trù phú, đa dạng nhất. Có thể nói, đời
sống của con người là sự gắn kết chặt chẽ nhất, là bao hàm cả về vật chất và tinh thần – hai
yếu tố có vai trò bình đẳng trong đời sống và hoạt động của con người. Ngược lại, triết học
Mác- Lênin đã khẳng định rằng, trong quá trình hoạt động, vật chất và ý thức có sự
tương tác qua lại với nhau, song trình tự diễn ra dựa trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật
chất so với tính thứ hai của nhân tố ý thức.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, những nhu cầu về vật bao giờ cũng giữ vị trí ưu tiên,
kiểm soát hoạt động của con người vì nhân tố vật chất quy định khả năng các nhân tố tinh
thần có thể tham gia và lập lên những quy định, mục đích, biện pháp mà con người đặt ra
cho hoạt động của mình bằng cách rà soát, kiểm duyệt, bổ sung, đi sâu các chi tiết. Khẳng
định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của nhân tố vật chất, triết học Mác- Lênin đề cao vai
trò của nhân tố tinh thần, của tính năng động chủ quan. Thêm vào đó, con người không thể
để cho thế giới khách quan chi phối hoạt động của mình. Do đó, con người phải tuân thủ
những quy luật khách quan và chỉ nên đặt ra những mục tiêu trong khả năng mà hoàn cảnh cho phép.
Vì vật chất đóng vai trò quan trọng, quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn ta phải
nhìn nhận một cách khách quan, hoạt động theo dúng quy luật khách quan.
Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phải chú ý tính năng động chủ quan, đặc biệt phải
phát huy được vai trò của tri thức, khoa học, giáo dục và nâng cao nhận thức của con người.
“Sự mù quáng chủ quan” là lỗi lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách
không tự giác. Vì thế, chúng ta không nên tuyệt đối hoá tầm quan trọng của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Để tính khách quan và chủ quan đảm bảo được sự thồng nhất, đây cũng là yếu tố quan trọng
trong quá trình nhận thức.
2. Liên hệ với thực tiễn
Xuyên suốt hành trình hơn 30 năm đổi mới, những thành tựu đáng tự hào của Đảng và
nhân dân đạt được đã góp phần xây dựng và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin – nền tảng tư
tưởng để Đảng Cộng sản Việt Nam tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để có thể biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành chủ nghĩa xã hội khoa học thì không
thể không nhắc tới những cống hiến to lớn của C. Mác và Ph. Ăngghen. Trong những luận
cứ mà mình đưa ra, đặc biệt phải nhắc tới “Tư bản”, lý luận này đã chứng tỏ rất rõ ràng,
củng cố hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa sẽ khó đứng vững trước những mâu thuẫn
nội bộ và dựa trên quy luật khách quan, nó tất yếu sẽ phải thay thế bởi hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Đặc biệt, trong lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, các ông cũng
chỉ ra những đường lối đúng đắn cho giai cấp công nhân vùng lên đấu tranh thoát khỏi áp lOMoAR cPSD| 44985297
bức bóc lột. Không phải trùng hợp mà V.I.Lênin đã cực kì nhấn mạnh một điểm: “Điều quan
trọng nhất trong học thuyết Mác là việc làm sáng tỏ vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp
vô sản với tư cách là người xây dựng, kiến tạo xã hội mới”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có những bước đi đúng đắn, áp dụng sáng tạo
những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen V.I.Lênin khi đưa ra những luận điểm có chiều
sâu về mối liên hệ biện chứng giữa “tính phổ biến” và “tính đặc thù” trong quá trình tiến
lên chủ nghĩa xã hội: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là điều không
thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải là một
cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay
hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản,
vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác
nhau của đời sống xã hội”.
Từ những lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, Đảng và nhà nước ta đã vận dụng linh
hoạt cùng đổi mới sáng tạo để tạo ra những bước đi thận trọng, hiệu quả nhất cho mô hình
nhà nước Việt Nam. Đó cũng là những nội dung chung về mục tiêu cũng như đặc điểm của
sự phát triển đất nước trong hành trình tiến lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm khi coi thường quy luật khách quan và yêu cầu thay
đổi tư duy về chủ nghĩa xã hội của V.I.Lênin năm 1921, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng (tháng 12-1986) đã tạo ra bước ngoặt trong đổi mới tư duy về định hướng đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
sự thật, nói rõ sự thật”
, Đảng và nhà nước ta dần đưa ra những bước đi vững chắc trong
quá trình xây dựng đường lối chủ nghĩa xã hội. Từ những gì học được trong suốt 5 năm đổi
mới, Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
. Nội dung của Cương lĩnh đã khẳng định được
sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Ngoài sáu đặc trưng đó, Đại hội cũng đã bổ sung kịp thời hai đặc trưng nữa là xây dựng
“xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” “có nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản”.
Và trong suốt quá trình đó, Đảng và nhà nước vẫn tiếp tục bổ sung sửa đổi Cương
lĩnh để phù hợp với thực tế, trong đó phải nói tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011).
Từ bảy phương hướng cơ bản được hình thành trong Cương lĩnh năm 1991 cho tới 20
năm sau, vào 2011 đã phát triển và hình thành lên tám phương hướng cơ bản nhằm hiện
thực hoá những mục tiêu khi thời kì quá độ kết thúc, bao gồm phát triển kinh tế, nền tảng
về chính trị, tư tưởng, văn hoá, đưa Việt Nam trở thành đất nước xã hội chủ nghĩa phát triển
phồn vinh, dân giàu, nước mạnh.
Tám đặc trưng cơ bản tiếp tục được phân tích kĩ càng hơn, sửa đổi cho phù hợp với sự
phát triển của đất nước tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (tháng 12016).
Đến cuối cùng, Đại hội đưa ra được ba nội dung quan trọng:
- Những thành tựu là tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước tiếp tục có những bước
chuyển mình trong những năm tới. lOMoAR cPSD| 44985297
- Những thành tựu đó khẳng định được Đảng và nhà nước đang có đường lối đúng đắn, sáng tạo.
- Những thành tựu đó con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với
tình hình thực tế tại Việt Nam cũng như xu thế phát triển của lịch sử.
Trong quá trình nhận thức, đổi mới, thấm nhuần các tư tưởng lý luận, Đảng ta đã có
những nhận thức đúng đắn hơn về chủ nghĩa Mác- Lênin chứ không bác bỏ hay tách rời.
Đây là căn cứ khoa học để đất nước ta có những bước chuyển mình trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Dựa trên cơ sở nền tảng là tư tưởng của V.I.Lênin về Chính sách kinh tế mới mà Đảng ta
mới có định hướng trong tình hình Việt Nam được đặt trong bối cảnh kinh tế mới. Trong
“Chính sách kinh tế mới”, cơ chế thị trường được sử dụng để kích thích sản xuất, kêu gọi
đầu tư, kiểm soát nhà nước. Nhờ có chính sách này nên về cơ bản, nước Liên Xô đã từng
bước khôi phục nền kinh tế quốc dân và chính thức hoàn thành vào cuối năm 1925.
Cũng dựa theo Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin, Đại hội VI đã đưa ra những chính
sách mới, trong đó bao gồm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục đích kích thích tiềm
lực kinh tế cũng như người dân hăng hái tham gia phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả
lao động đi tới mục đích chung là xây dựng nền kinh tế vững mạnh. Thế nhưng phải mất
tới 15 năm để định nghĩa “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được thừa nhận
tại Đại hội IX của Đảng năm 2001. Cho tới Đại hội XII năm 2016, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã thể hiện được tư duy đổi mới về kinh tế thị trường khi xác định được những đặc
điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua Đại
hội XII đã khẳng định rằng nền kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
quy chuẩn của thị trường nói chung. Đồng thời bảo đảm sự phát triển này liên tục được đổi
mới, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo với phương châm “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Từ những đòn bẩy của cuộc sống cũng như thừa hưởng và phát triển tư duy từ lý luận
của chủ nghĩa Mác- Lênin, Đảng ta đã và đang đưa đất nước phát triển theo con đường
đúng đắn, củng cố được các giai cấp xã hội, xây dựng đoàn kết dân tộc, lấy dân làm gốc,
phát huy được sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp đổi mới. Chính V.I.Lênin cũng từng
khẳng định rằng: “Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là
chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa
tư bản đã thu được”.

Trong giai đoạn Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin đã áp dụng được những quan điểm của
C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh giai cấp vào cách mạng Nga lúc bấy giờ và đã thật sự
xây dựng được liên minh giai cấp công-nông mạnh mẽ, đóng góp một phần to lớn trong
công cuộc chiến thắng Cách mạng Tháng Mười cũng như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Xuyên suốt quá trình này, V.I.Lênin luôn luôn chú ý tới sức mạnh của tri thức và nhấn
mạnh việc “đảm bảo cho các người tri thức những điều kiện lao động tốt nhất”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2001 đã khẳng
định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
giữa công nhân với nông dân và tri thức do Đảng lãnh đạo”. Từ đó thể hiện sự coi trọng của lOMoAR cPSD| 44985297
Đảng và Nhà nước ta dành cho liên minh công – nông - trí thức, là lực lượng quan trọng
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Kế thừa và phát triển tinh thần đó trong bối cảnh kinh tế mới, các Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X, XI và XII đã và đang tiếp tục khẳng định được vai trò của liên minh
giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp chung xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng của V.I.Lênin về Đảng Cộng sản kiểu mới đã được vận dụng sáng tạo, đem lại
những kết quả trong việc xây dựng và củng cố vai trò Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo
Nhà nước và xã hội ở Việt Nam – nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm cho sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiến tới thắng lợi.
Cho tới khi Đảng Cộng sản trở thành đảng đứng đầu thì năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng phụ thuộc rất nhiều vào kỷ luật của một người đảng viên. Tháng 5-1920, trong tác
phẩm “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào
cộng sản”, V.I.Lênin viết: “Những người Bônsêvích sẽ không giữ được chính quyền, tôi
không nói được tới hai năm rưỡi, mà ngay cả đến hai tháng rưỡi cũng không được nữa,
nếu đảng ta không có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật sắt thật sự”
. Theo ông, có ba kẻ
thù chính mà ta cần kiên quyết đấu tranh đó chính là “tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa;
nạn mù chữ, sự ngu dốt, cản trở việc giáo dục chính trị và nạn hối lộ, tham nhũng”
. Thấm
nhuần những tư tưởng của V.I.Lênin, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn đặc biệt chú
trọng tới công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đó cũng là cơ sở, tiền đề vững chắc bảo
đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình.
Trong suốt quãng thời gian gần 35 năm, đặc biệt trong 10 năm gần đây, những quan điểm
về công tác xây dựng Đảng có nhiều đổi mới. Đảng ta ngày càng hoàn tiện hơn, sâu sắc hơn
vị trí trong công tác xây dựng Đảng. Đảng ta luôn khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt, là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng.
Những nhận định của Đảng về công tác xây dựng Đảng ngày càng hoàn thiện cả về khách
quan và khoa học; thể hiện sự vận dụng sáng tạo những nguyên tắc của chủ nghĩa MácLênin
về xây dựng Đảng – đội tiền phong của giai cấp công nhân – phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Đảng ta đã thực hiện đúng theo di huấn của V.I.Lênin là phải dựa vào nhân
dân để xây dựng Đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội, đó phải là những tổ chức bộ máy
phục vụ chính trị
chứ chính trị không phục vụ bộ máy. Theo V.I.Lênin, chính trị được đề cập
ở đây chính là cuộc sống của nhân dân, lợi ích của nhân dân, là số phận của hàng triệu con người.
Trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng
sản Việt Nam không ngừng bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, tăng
cường phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa để phát triển đất nước trong điều
kiện mới, sớm đưa Việt Nam sánh vai các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Bác Hồ.
Trải qua quãng thời gian 33 năm đổi mới, 28 năm thực hiện cương lĩnh 1991, nhất là 10 năm
gần đây, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, mang tính lịch sử, là bước đệm cho
nước ta trên đà tiếp tục đổi mới và phát triển. Đồng thời, cũng phải thấy còn nhiều vấn đề lOMoAR cPSD| 44985297
lớn, phức tạp, nhiều hạn chế , bất cập cần tiếp tục nghiên cứu, đưa đất nước phát triển bền
vững hơn. Qua 4 năm nhiệm kỳ khoá XII, đất nước tiếp tục phát triển nhanh và khá toàn
diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo lên nhiều dấu ấn nổi bật: kinh tế tăng trưởng liên tục và
cao hơn so với nhiệm kì trước, trở thành một trong những nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, có sức cạnh tranh, tiềm lực nâng cao. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
xây dựng hệ thống chính trị mạnh mẽ, đặc biệt là công tác đấu tranh phòng chống tham
nhũng, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ. Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế cũng ngày
càng sâu rộng, góp phần nâng cao vị trí và uy tín của Việt Nam trên thương trường quốc tế.
Theo bộ kế hoạch và đầu tư, năm 2020, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt khoảng 343
tỷ USD, đứng trong top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ 4 ASEAN. GDP bình
quân đầu người đạt 3,521 USD, đứng thứ 6 tại ASEAN. Thành tích giảm nghèo của nước
ta vẫn tiếp tục là một điểm sáng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Sau hơn 50 năm
thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đất nước càng ngày càng phát triển thịnh vượng.
Tuy nhiên, những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế trong quá trình xây dựng đất nước là
điều không thể tránh khỏi. Đây là không việc khó khăn, phức tạp, có tính khoa học, đòi hỏi
cao về cả thời gian và nguồn lực, nhất là khi chúng ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã
hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi cuộc chiến tranh khốc liệt kéo
dài suốt 30 năm. Cái khó khăn lớn nhất đối với chúng ta có lẽ là lối suy nghĩ, tác phong
mang nặng tính chất của nền văn hoá nông nghiệp. Không có sự hỗ trợ từ phe xã hội chủ
nghĩa như trước đây, cộng thêm thiếu kinh nghiệm. Chúng ta đã duy trì tốc độ tăng trưởng
GDP cao trên 6.5% / năm trong suốt 30 năm thực hiện chính sách đổi mới. Đời sống nhân
dân từng bước được cải thiện. Để có được những thành quả to lớn ấy, Đảng và Nhà nước
Việt Nam đã có những bước đi ra khỏi “vùng an toàn” về nhận thức cũng như sự đổi mới
mạnh mẽ về chính sách xã hội. Từ một nền kinh tế bao cấp hoàn toàn dựa trên sở hữu công
cộng, chúng ta đã chuyển sang xây dựng nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần sở hữu rồi
chuyển sang hẳn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ một nhà nước xây
dựng theo mô hình chính chuyên vô sản, chúng ta đã chuyển sang xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, chỉ có quan hệ với các nước khối xã
hội chủ nghĩa là chủ yếu, chúng ta đã mở cửa để hội nhập với thị trường quốc tế, thiết lập
quan hệ ngoại giao với189 quốc gia trên 200 quốc gia trên thế giới; thiết lập khuôn khổ
quan hệ ổn định lâu dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện trong đó có 2 đối tác toàn
diện đặc biệt, 15 đối tác chiến lược, 11 đối tác toàn diện, 2 đối tác chiến lược theo từng lĩnh vực. PHẦN KẾT LUẬN
Tổng kết lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó là cái có
trước ý thức, nhưng ý thức lại tác động trở lại vật chất. Mối quan hệ tác động qua lại này
chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chúng ta nâng cao vai trò
của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách
quan và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt động thực tiễn của con người.
Trong quá trình làm bài, bản thân em còn gặp nhiều sai sót, em mong sẽ nhận được sự
góp ý từ phía thầy giáo phụ trách bộ môn Triết Học Mác- Lênin để em có điều kiện hoàn lOMoAR cPSD| 44985297
thiện hiểu biết cả về hai mặt lí luận và thực tiễn, rút kinh nghiệm cho những bài làm tiếp
theo. Em xin chân thành cảm ơn! lOMoAR cPSD| 44985297 TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB Chính trị quốcgia, Hà Nội, 2019.
2. V.I.Lênin: Toàn tập, t.30, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1977.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.21, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
4. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.18, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
5. ĐCSCN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
6. https://vksndtc.gov.vn/tin-vks/cac-bai-bao/quan-diem-duong-loi-chien- luoccua-
dang-cong-san-v-d11-t3533.html
7. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi- bch-
trung-uong/khoa-vi/nghi-quyet-so-06-nqhntw-ngay-2931989-hoi- nghi-lan-thu-
sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-vi-ve-kiem-diem- hai-nam-thuc-1107 lOMoAR cPSD| 44985297 MỤC LỤC
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................2
PHẦN 2: PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................3 I.
Lí luận chung về quan niệm duy vật biện chứng và mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức......................................................................................................................3
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của nó .............................................................3 1.1.
Định nghĩa phạm trù vật chất ................................................... ................. 3 1.2.
Các hình thức tồn tại của vật chất ................................................... .......... 6
2. Nguồn gốc và bản chất của ý thức .......................................................................7 2.1.
Nguồn gốc ý thức ...................................................
...................................... 7 2.2.
Bản chất của ý thức ...................................................
.................................. 9
3. Mối quan hệ biện chứng duy vật giữa vật chất và ý thức ................................10
3.1. Vật chất quyết định ý thức ...................................................
..................... 10
3.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất .................. 11
II . Ý nghĩa của phương pháp luận và vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức vào thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay ......................................... 11
1. Ý nghĩa phương pháp luận
.................................................................................11 2. Liên hệ với thực tiễn
...........................................................................................
12
PHẦN 3: PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................18