

















Preview text:
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân …...0O0….. BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Đề tài số 3:
Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương
pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn. Họ, tên SV: Mã SV:
Lớp: Triết học Mác – Lênin Khóa: 63 GĐ: Hà Nội - 12/2021 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, con người đã tích lũy và đúc kết được những
tư tưởng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nhân loại. Dựa
trên những giá trị tư tưởng đó và tổng kết thời đại, triết học Mác – Lênin được hình
thành và trở thành hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật – chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được những sai
lầm và hạn chế của các quan niệm duy tâm, siêu hình, từ đó đưa ra những quan
điểm đúng đắn về hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng.
Hơn hết, mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại (hay là vật chất và ý thức) đã và
đang nắm giữ vai trò hết sức quan trọng trong thực tiễn cuộc sống. Những vấn đề
triết học về mối quan hệ biện chứng giữa ý thức và vật chất không chỉ định hướng
cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà còn luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn
chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Với mục tiêu hàng đầu
là tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một đất nước Việt Nam “sánh vai với các
cường quốc năm châu trên thế giới” theo lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng và Nhà nước đã xác định cần phải nhận thức và vạch ra được đường lối,
chính sách phù hợp nhất với đặc điểm tình hình của nước ta. Đảng ta đã khẳng
định trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động”. Cụ thể hơn, Đảng và Nhà nước đã vận dụng mối liên hệ giữa vật chất và ý
thức vào mối liên hệ giữa kinh tế và chính trị, vào đường lối phát triển kinh tế xã
hội giúp đất nước phát triển bền vững.
Chính vì những lí do trên cùng mong muốn góp một phần sức lực vào công
cuộc kiến thiết đất nước, em muốn nghiên cứu sâu thêm về chủ nghĩa duy vật biện
chứng, đặc biệt là về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vậy nên em chọn đề tài:
“Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực
tiễn.” làm đề tài nghiên cứu tiểu luận.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu quan trọng nhất của đề tài là tìm hiểu và phân tích được
mối quan hệ tương quan giữa vật chất và ý thức thông qua quan niệm duy vật biện
chứng. Từ đó rút ra được phương pháp luận chung và vận dụng vào liên hệ với 1
thực tiễn đời sống, cụ thể là trong nhận thức cuộc sống học tập, sinh hoạt thường
ngày và đổi mới đất nước. Đó là mọi sách lược, chiến lược cách mạng đưa ra cần
xuất phát từ cơ sở thực tế khách quan, phát huy tối đa tính năng động chủ quan và
khắc phục tính chủ quan duy ý chí. Những điều này sẽ được phân tích rõ hơn trong
phần nội dung của tiểu luận.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: vật chất, ý thức, quan niệm duy vật biện chứng về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu: trong phạm vi của chủ nghĩa Mác – Lênin.
4. Bố cục của đề tài
Bài tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì
còn được chia thành các nội dung cơ bản như sau:
I. Cơ sở lí luận chung của quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức.
II. Ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào thực tiễn.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm và kiến thức bản thân còn hạn chế nên bài
tiểu luận của em khó có thể tránh khỏi thiếu sót, em kính mong sẽ nhận được sự
góp ý và giúp đỡ của thầy giáo giảng dạy bộ môn cùng toàn thể các bạn đọc. Em xin chân thành cảm ơn! 2 PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG CỦA QUAN NIỆM DUY VẬT BIỆN
CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.
Ph.Ăngghen viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại” [Giáo trình Triết học Mác –
Lênin]. Trong nhiều năm, các giáo trình triết học Mác – Lênin ở nước ta về cơ bản
cũng đều khẳng định tầm quan trọng của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Có thể
nói đây là vấn đề cơ bản, cốt lõi để phân biệt các trường phái triết học trên thế giới.
Trong mối quan hệ này, triết học Mác – Lênin với quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, đã nhận định: “Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó
vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất”.
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
1.1.Các quan niệm về phạm trù vật chất
*Quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất
Trong quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết bất khả tri và phê
phán chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc, C.Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra những
tư tưởng vô cùng quan trọng về vật chất. Ăngghen cho rằng vật chất không có sự tồn
tại cảm tính. Ông chỉ rõ các sự vật, hiện tượng dù muôn hình vạn trạng nhưng vẫn có
một đặc tính chung thống nhất là tính vật chất – tính tồn tại độc lập không lệ thuộc vào ý thức.
Kế thừa những tư tưởng của những bậc thiên tài đi trước, V.I. Lênin đã tổng kết
và đặc biệt quan tâm đến việc tìm kiếm phương pháp định nghĩa phạm trù vật chất.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, V.I. Lênin
đã đưa ra định nghĩa về vật chất một cách mới mẻ và phản ánh các khía cạnh duy vật và lý luận rõ ràng:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
Có thể phân tích định nghĩa của Lênin thành các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại bên ngoài ý thức và
không lệ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa 3
nhận thức được. Ví dụ như vũ trụ, ánh sáng, không khí,..v.v..đều đang tự thân tồn tại
có thật mà không dựa vào ý chí của con người.
Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại
cho con người cảm giác, có thể bằng cách gián tiếp hoặc trực tiếp, thông qua các giác
quan của con người hoặc qua các dụng cụ thí nghiệm khoa học, thậm chí có cái đến
bây giờ vẫn chưa có cách nhận biết. Nhưng nó vẫn được coi là vật chất nếu nó tồn tại
khách quan, hiện thực, độc lập và hoàn toàn không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó. Con
người có khả năng nhận thức được vật chất, thực tại khách quan.
=> Như vậy, có thể thấy rằng định nghĩa của Lênin vô cùng triệt để, giúp chúng
ta xác định được các nhân tố vật chất trong đời sống xã hội, có ý nghĩa trực tiếp định
hướng cho nghiên cứu khoa học tự nhiên đi sâu vào nghiên cứu vật chất, khám phá ra
ngày càng nhiều tính chất, cấu trúc mới của vật chất, không ngừng làm phong phú tri
thức của con người về thế giới. Đồng thời cũng góp phần đưa chủ nghĩa duy vật lên
một tầm cao mới, làm cơ sở khoa học xây dựng quan điểm duy vật biện chứng trong
lĩnh vực xã hội, đóng góp to lớn trong việc khắc phục sự khủng hoảng về mặt thế giới
quan trong đội ngũ các nhà triết học và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ.
1.2.Các hình thức tồn tại của vật chất
*Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất
Vật chất và vận động không tách rời nhau, vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách
vận động và thông qua sự vận động để biểu hiện sự tồn tại của nó dưới các hình dạng
phong phú, muôn vẻ, muôn tận.
*Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Không có vật chất nào tồn tại bên ngoài không gian và thời gian cũng như
không có không gian, thời gian nào tồn tại bên ngoài vật chất.
1.3.Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất:
- Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất, tồn tại khách
quan, có trước và độc lập với ý thức. 4
- Mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất.
- Thế giới vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, tồn tại vĩnh viễn.
2. Nguồn gốc, bản chất của ý thức 2.1.Nguồn gốc
- Nguồn gốc tự nhiên: dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng
không phải của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ
chức cao nhất là bộ óc con người. Ý thức không thể tự sinh ra trong bộ óc mà là kết
quả quản ánh sự tác động của thế giới bên ngoài vào bộ não con người.
- Nguồn gốc xã hội: hoạt động thực tiễn của loài người mới mang tính quyết
định trực tiếp ý thức. Ý thức ra đời song song với quá trình hình thành bộ óc người
nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
=> Ý thức là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài, đồng thời là kết quả trực
tiếp của thực tiễn xã hội – lịch sử loài người. Nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần,
còn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để ý thức hình thành, tồn tại và phát triển.
2.2.Bản chất của ý thức
Một là, sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh.
Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần (thực
chất là quá trình “sáng tạo” lại hiện tượng).
Ba là, chuyển từ mô hình tư duy sang hiện thực khách quan, thể hiện tính năng
động sáng tạo của ý thức.
Không nên hiểu nhầm ý thức sáng tạo có nghĩa là ý thức tạo ra vật chất. Sáng
tạo ở đây là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản
ánh, mà kết quả luôn là những khách thể tinh thần. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt
thuộc bản chất ý thức.
3. Mối quan hệ biện chứng duy vật giữa vật chất và ý thức
Vật chất và ý thức không đối lập mà có quan hệ biện chứng, ràng buộc lẫn
nhau. Mối quan hệ vật chất và ý thức được coi là “vấn đề cơ bản của mọi triết học,
đặc biệt là triết học hiện đại” [C.Mác và Ph.Ăngghen]. Tương ứng với các lập 5
trường thế giới quan khác nhau ta sẽ có các đường lối, cách thức giải quyết mối quan
hệ vật chất và ý thức khác nhau. Tuy nhiên, nắm vững phép biện chứng duy vật và
luôn theo sát, kịp thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã đưa ra những quan điểm khoa học
không chỉ khắc phục được những sai lầm, hạn chế của các quan niệm duy tâm siêu
hình mà còn khát quát đúng đắn về hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới này.
Xét theo quan điểm triết học Mác – Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
3.1. Vật chất quyết định ý thức
Vai trò của vật chất với ý thức được thể hiện qua một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất “sinh” ra ý thức, bởi lẽ con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra nên
theo lẽ tự nhiên thì ý thức – một thuộc tính của con người – cũng là do vật chất sinh
ra. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc của ý thức, điều
này đã được các thành tựu khoa học của con người chứng minh. Ý thức tồn tại phụ
thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình hoạt động khách quan, nếu
bộ não mất chức năng hoạt động thì không thể có ý thức. Sự vận động của thế giới
vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Dưới bất kì hình thức nào, ý thức suy cho cùng đều phản ánh hiện thực khách
quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong đầu óc con người. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả
về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất ảnh hưởng đến tính phong phú và
độ sâu sắc của nội dung tư duy, ý thức con người qua các thế hệ, nền văn minh.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Không giống với chủ nghĩa duy vật cũ coi thế giới vật chất như là những sự vật,
hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là thế
giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính
cải biến thế giới của con người – là cơ sở hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý
thức con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức. 6
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn với quá trình biến đổi của vật chất
dù sớm hay muộn. Con người – một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả
thể chất lẫn tinh thần thì ý thức – một hình thức phản ánh của óc người cũng phát
triển cả về nội dung và hình thức. Sự phát triển của kinh tế quy định sự phát triển của
văn hóa, xã hội. Xã hội phát triển càng cao, điều kiện vật chất thay đổi thì đời sống
tinh thần, nhận thức ngày càng phong phú, đa dạng.
VD: Ở Việt Nam, kĩ năng thực hành của học sinh các cấp 1, 2, 3 về các bộ môn
đòi hỏi quan sát hiện tượng như hóa học, vật lí hay về công nghệ thông tin là rất yếu
kém do không đủ điều kiện về dụng cụ, máy móc cùng đội ngũ giáo viên giảng dạy.
Nhưng dần dần với sự phát triển kinh tế, đầu tư cho giáo dục, những vấn đề về cơ sở
vật chất được đáp ứng thì trình độ và nhận thức của học sinh cũng được nâng cao.
3.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, ý thức do vật chất sinh ra, là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con
người nhưng bản thân ý thức cũng có “đời sống”, quy luật vận động và phát triển riêng.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người, tự bản thân ý thức không thể biến đổi được hiện thực.
Thứ ba, ý thức có thể chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, quyết định
sự thành công hay thất bại, đúng hay sai của hành động ấy. Khi phản ánh đúng hiện
thực, ý thức có thể tiên đoán một cách chính xác hiện thực, đưa ra những lý luận,
định hướng đúng đắn góp phần cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo. Tuy nhiên
nếu ý thức phản ánh sai lệch, xuyên tạc hiện thực thì cũng sẽ dẫn đến tác động tiêu cực.
VD: Nếu không có tư tưởng, đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng thì dân
tộc ta cũng không thể giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mĩ. Hay tâm trạng không tốt sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc của con người.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng được nâng cao,
nhất là trong thời đại thông tin, kinh tế phát triển, thời kì cách mạng khoa học hiện
đại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học, tư tưởng chính trị, tư
tưởng nhân văn là vô cùng quan trọng.
II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUNG VÀ LIÊN HỆ MỐI QUAN
HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO THỰC TIỄN. 7
1. Ý nghĩa phương pháp luận chung
Dựa trên cơ sở về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động sáng tạo
của ý thức cùng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, có thể rút ra khái
quát ý nghĩa phương pháp luận chung như sau: Trong tất cả các hoạt động thực tiễn
và nhận thức đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo
khách quan đồng thời chú trọng phát huy tính năng động chủ quan. Cụ thể:
- Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn ta phải tôn trọng
khách quan, nhận thức hoạt động theo đúng quy luật khách quan. Trong nhận thức và
hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục tiêu, đề ra
đường lối, chủ trương, kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế làm cơ sở; phải tìm ra
những nhân tố vật chất, tổ chức lại thành lực lượng vật chất để hành động.
- Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng động chủ quan,
đặc biệt là phát huy vai trò của khoa học kĩ thuật, tri thức, quan tâm đến giáo dục và
nâng cao nhận thức con người, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học,
mặt khác phải tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học kết hợp tu
dưỡng rèn luyện bản thân về đạo đức, ý chí, nghị lực.
=> Phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và nhân tố con
người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi
con người phải tôn trọng tri thức khoa học, mặt khác phải tích cực học tập kết hợp tu
dưỡng rèn luyện đạo đức, ý chí, nghị lực.
- Khắc phục bệnh quan điểm chủ quan duy ý chí, chống việc tuyệt đối hóa vai
trò của ý thức mà hạ thấp, đánh giá sai vai trò của các điều kiện vật chất. Tránh hành
động lấy ý chí áp đặt thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Nếu yếu kém về trình
độ nhận thức nói chung và còn nhiều hạn chế trong áp dụng lí luận vào thực tiễn thì
dễ dẫn đến “sự mù quáng chủ quan”, có thể rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách
không tự giác. Đồng thời cũng không nên tuyệt đối hóa vai trò của vật chất, tức là
chống lại “chủ nghĩa khách quan”, có thái độ thụ động ỷ lại vào điều kiện vật chất.
VD: Giáo dục chính trị, tư tưởng cần gắn liền với khuyến khích, động viên bằng
lợi ích vật chất như đạt bằng khen, danh hiệu thi đua, được phần thưởng.
=> Như vậy, đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa tính khách quan và chủ
quan trong hoạt động nhận thức của con người chính là một yếu tố quan trọng trong
quá trình nhận thức của con người. 8
2. Liên hệ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào thực tiễn
2.1. Vận dụng trong cuộc sống học tập của bản thân
Người Việt Nam được công nhận là thông minh, hiếu học. Tuy nền giáo dục
Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất nhưng ta cũng đã đạt
được nhiều thành tựu đáng tự hào. Có thể nói sinh viên Việt Nam khá thông minh, có
khả năng tiếp nhận tri thức khá tốt. Tuy nhiên chỉ chiếm một phần nhỏ, phần lớn sinh
viên vẫn còn thụ động trong việc tìm tòi học tập và thiếu tính sáng tạo. Một kết quả
nghiên cứu về tính sáng tạo của sinh viên ở một trường đại học lớn của Việt Nam cho
biết trong hàng ngàn sinh viên, chỉ có khoảng 20% sinh viên đạt hoặc vượt mức sáng
tạo trung bình. Đây là một điều đáng buồn và buộc các nhà giáo dục phải nghiêm túc
xem xét và đổi mới phương pháp, cách tổ chức dạy và học trong chương trình đào tạo của nước ta.
Để xã hội ngày càng phát triển thì cần phát huy tính năng động chủ quan, nghĩa
là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và vai trò nhân tố con
người để tác động, cải tổ thế giới.
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tức là phải tự xác định được các
điều kiện vật chất khách quan ảnh hưởng đến chất lượng học tập của bản thân. Là
sinh viên năm nhất trường đại học Kinh tế Quốc dân, tuy chưa được trải nghiệm cơ
sở vật chất của trường do dịch bệnh nhưng thông qua thời gian học tập online và sử
dụng các trang web, ứng dụng của nhà trường, em nhận thấy có thể đáp ứng được
nhu cầu học tập và rèn luyện của bản thân. Nhà trường đã cung cấp tài khoản trên các
trang web LMS hay Daihocchinhquy giúp học sinh dễ dàng theo dõi, nắm bắt và điều
chỉnh lịch trình cùng thời gian học tập sao cho tối ưu nhất.
Thứ hai, vì ý thức có tác động trở lại đối với vật chất nền cần phát huy tính
năng động chủ quan, tức là phải phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý
thức. Bản thân cần phải tham gia đầy đủ và hăng hái, năng nổ trong từng tiết học.
Trong kết cấu của ý thức thì tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Chính vì vậy sinh viên
cần chủ động khai thác, tìm hiểu vấn đề, trong quá trình học không nên quá phụ
thuộc vào giảng viên mà thay vào đó nên suy nghĩ những ý tưởng mới của riêng
mình. Điển hình như bộ môn Triết học cần có sự thảo luận giữa cả giảng viên và sinh
viên, sinh viên cần đưa ra quan điểm riêng của bản thân mình và tiếp nhận những
nhận xét của giảng viên bộ môn. Đối với sinh viên, để đạt thành tích tốt trong học tập
cũng như phát triển tương lai thì cần phải có niềm đam mê và tâm huyết đối với mỗi
môn học, bất kể là môn đại cương hay chuyên ngành. Cần phải có niềm tin ở bản 9
thân và rèn luyện ý chí, sức mạnh tinh thần giúp ta vượt qua những khó khăn để đạt
được mục tiêu đề ra. Có ý thức học tập sẽ giúp ta đạt thành tích cao và nhận được
những phần thưởng đáng tự hào như học bổng khuyến khích học tập, học bổng doanh nghiệp.
Thứ ba, cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ. Là
một con người có nhận thức rõ ràng, cần phải tiếp thu có chọn lọc những ý kiến, quan
điểm mới, phải biết lắng nghe và tiếp thu sự góp ý của mọi người. Nên khắc phục
tính trì hoãn, việc hôm nay chớ để ngày mai, không chủ quan trước mọi tình huống
mà phải suy xét kĩ trước khi làm. Ví dụ như cần lắng nghe ý kiến đóng góp, chỉnh sửa
của các bạn và giảng viên sau mỗi bài thuyết trình và phải thực sự sửa chữa, tránh lặp
lại các lỗi đã mắc. Trong làm việc nhóm cần tự giác hoàn thành nhiệm vụ, có sự sáng
tạo, đột phá, cải tiến cái cũ nhưng không nên quá cầu toàn.
Thứ tư, khi giải thích các hiện tượng xã hội cần phải suy xét toàn diện cả về
điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh thần, điều kiện khách quan lẫn yếu tố chủ quan.
Chẳng hạn khi đăng kí học phần, ta không chỉ tính toán đến điều kiện tài chính, quỹ
thời gian mà còn phải cân nhắc cả năng lực học tập và phải đảm bảo sức khỏe của
bản thân. Không nên vì cố gắng tốt nghiệp sớm hoặc học theo các bạn dẫn đến hao
phí tiền của, thời gian, công sức mà không thu được kết quả như ý.
2.2. Vận dụng trong thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay
Không thể phủ nhận tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc xây
dựng nền tảng tư tưởng để Đảng và Nhà nước ta vận dụng và phát triển lý luận về
chủ nghĩa xã hội cũng như đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác,
đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ
nghĩa và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Công sản Việt Nam thì tất yếu phải lấy
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Tuy xã hội hiện đại
phát triển, một số kết luận cụ thể nào đó của chủ nghĩa Mác – Lênin có thể không còn
hoàn toàn phù hợp trong mọi trường hợp, song những giá trị cơ bản, căn cốt của học
thuyết ngày càng được làm rõ, những dự báo của các nhà kinh điển ngày càng tiến
gần đến chân lý, sát thực hơn.
Thông qua những thành tựu mang ý nghĩa lịch sử to lớn mà Đảng và Nhà nước
ta đã đạt được trong hơn 30 năm đổi mới, ta có thể thấy rõ sự tiến bộ trong vận dụng,
sáng tạo đúng đắn những đường lối, chủ trương của Đảng trong công cuộc đổi mới
đất nước, đồng thời cũng góp phần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trong
điều kiện mới. C.Mác và Ph.Ăngghen đã cung cấp cho giai cấp công nhân “vũ khí” lý
luận, chỉ rõ vị thế và vai trò của họ trong sự phát triển của lịch sử. Trong toàn bộ lý 10
luận của mình, các ông đã phân tích, chứng minh rất rõ rằng hình thái kinh tế - xã hội
tư bản chủ nghĩa sẽ không thể trụ vững trước những mâu thuẫn cố hữu, nội tại và
theo quy luật khách quan, tất yếu sẽ bị thay thế bởi hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Đặc biệt, trong thời kì đổi mới, Đảng ta đã nhận thức rõ luận điểm có tính
phương pháp luận hết sức sâu sắc của V.I. Lênin: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên
chủ nghĩa xã hội, đó là điều không thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến
tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa
đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào
loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác
của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”.[V.I. Lênin]
Học tập có chọn lọc, trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã tích lũy và vận dụng có
sáng tạo những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là mối quan
hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức và ý nghĩa phương pháp luận chung vào phát
triển kinh tế - chính trị nước ta. Chắt lọc từ vô vàn quan điểm, phương pháp, Đảng và
Nhà nước ta đã chọn và đúc kết ra những luận điểm lý luận phù hợp nhất với mô hình
chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Trước đại hội VI, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta đã phạm sai lầm
trong việc xác định mục tiêu về xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ
nghĩa và quản lý kinh tế. Vì nóng vội muốn loại bỏ nền kinh tế nhiều thành phần để
cải tạo xã hội chủ nghĩa, Đại hội Đảng lần thứ IV (tháng 12/1976) lại đề ra những chỉ
tiêu kế hoạch quá cao vượt khả năng của nền kinh tế, khiến kinh tế nước ta kéo dài sự
trì trệ và chậm phát triển. Vì vậy, Đại hội VI (tháng 12/1986) đã khẳng định: “Đảng
đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan”. Trước tình hình
ngày càng nghiêm trọng, Đảng và Nhà nước đã đi sâu nghiên cứu, phân tích tình
hình, lấy ý kiến rộng rãi của cơ sở, của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy kinh
tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã tạo ra “bước ngoặt” quan trọng trong đổi
mới tư duy về con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với phương châm: “Nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Xuất phát từ thực tiễn, tôn
trọng quy luật khách quan là khởi nguồn cho những sáng tạo của Đảng khi xác định
mô hình và bước đi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tại Đại
hội VI, Đảng ta đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, đã phân tích đúng nguyên
nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội, đề ra các định hướng mới đặc biệt là
đổi mới kinh tế, đã thực hiện mục tiêu của ba chương trình kinh tế: lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất, hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, 11
thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tiểu tư sản, sản xuất hàng hoá và kinh tế tư bản tư
nhân, đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá- tiền tệ.
Sau nhiều lần rút kinh nghiệm, nối tiếp các Đại hội đại biểu toàn quốc sau đó,
Đảng đã vạch ra những chủ trương, chính sách phù hợp để cải thiện và đổi mới kinh
tế. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991), trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động”. Sau 4 năm đổi mới ta đã đạt được những thành tựu
bước đầu rất quan trọng. Tình hình chính trị của đất nước ổn định, nền kinh tế có
những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, nguồn lực sản xuất
của xã hội được huy động tốt hơn, tốc độ lạm phát được kìm chế bớt, đời sống vật
chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân có phần được cải thiện. Qua những dẫn
chứng trên, ta thấy rõ tác động qua lại giữa ý thức và vật chất, giữa kinh tế và chính
trị. Lạm phát được đẩy lùi từ 67% năm 1991 xuống còn 17,5% năm 1992 và còn
5,2% năm 1993. Tổng sản phẩm trong nước GDP tăng bình quân 8,2% (mức đề ra
cho năm 1991- 1995 là 5,5- 6,5%).
Như vậy, rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam ngày càng vận dụng đúng đắn
phương pháp luận duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào
công cuộc đổi mới, tiến hành đổi mới kinh tế trước để tạo điều kiện đổi mới trong
lĩnh vực chính trị. Quán triệt nguyên tắc khách quan khắc phục bệnh chủ quan duy ý
chí là nhiệm vụ của Đảng, toàn nhân dân ta, nhiệm vụ này chỉ được thực hiện nếu
chúng ta kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học. So với
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đại
hội X (tháng 4/2006) đã bổ sung hai đặc trưng là xây dựng “Xã hội dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” và “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, Đảng ta đã nhận thức lại, thấm
nhuần quan điểm thực tiễn, lịch sử, phát triển nhằm khắc phục những cách hiểu, cách
nghĩ, cách làm giản đơn, siêu hình, giáo điều, duy ý chí, trái quy luật khách quan về
thời kỳ trước đổi mới, theo đúng tinh thần của V.I. Lê-nin. Đổi mới, do đó, không
phải là xa rời hay từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận chủ nghĩa xã hội khoa học
mà trái lại, là sự nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn, là sự phát triển sáng tạo hơn nữa
bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, của chủ nghĩa xã hội
khoa học để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách có căn cứ khoa học và
thực tiễn. Tư tưởng của V.I. Lênin về Chính sách kinh tế mới là cơ sở nền tảng để 12
Đảng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – sự phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới. Tuy
nhiên, phải sau 15 năm, khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
mới chính thức được xác định từ Đại hội IX (tháng 4/2001).
Có thể thấy, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo ngày càng được cụ thể hoá và đi vào chiều sâu, được nhân dân nhiệt liệt
hưởng ứng và hăng hái thực hiện, Đảng ngày càng nắm vững và vận dụng đúng đắn
sáng tạo phương pháp luận triết học toàn diện Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới nhằm tăng
trưởng nền kinh tế là rất rõ ràng. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (tháng
1/2016), Đảng ta cũng xác định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam”. Đảng Cộng
sản Việt Nam đã có bước phát triển tư duy rất rõ nét về kinh tế thị trường khi xác
định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại
hội XII xác định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Như vậy, từ sự thúc bách
của cuộc sống, từ nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong quá trình đổi mới cũng
như nghiên cứu kế thừa tư tưởng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
Đảng ta đã thực hiện đổi mới, sáng tạo thừa nhận kinh tế nhiều thành phần, chấp
nhận cơ chế thị trường và khẳng định nó không đối lập với chủ nghĩa xã hội, thực
hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tháng 1/2021), Đảng ta tiếp tục
khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh”. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, tiếp tục
thực hiện đường lối đổi mới trong giai đoạn tới, toàn Đảng toàn dân và toàn quân ta
cần quán triệt trong cả nhận thức và hành động thực tiễn các quan điểm chỉ đạo cơ
bản là: Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải
kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối
đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi
ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình 13
đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tổng kết lại, sau hơn 30 năm đổi mới, đặc biệt là trong 10 năm gần đây, Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã vực dậy và phát triển nền kinh tế trở
nên ngày càng vững mạnh. Đạt được những thành tựu to lớn về cả kinh tế - chính trị
lẫn văn hóa – xã hội, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi
mới và phát triển mạnh mẽ trong tương lai. Qua 4 năm nhiệm kỳ khóa XII và hứa hẹn
trong nhiệm kì khóa XIII tiếp theo, đất nước sẽ tiếp tục phát triển nhanh và toàn diện
hơn trên hầu hết các kĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, nâng cao uy tín và vị thế trên
trường quốc tế: kinh tế tăng trưởng liên tục, kinh tế vĩ mô ổn định và từng bước tăng
cường tiềm lực và quy mô kinh tế. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh
không ngừng được củng cố, giữ vững nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, chấn chỉnh hệ thống chính trị, các cấp ban
ngành, đặc biệt là phòng chống tham nhũng và triệt tiêu các tổ chức, thành phần
khủng bố chống phá cách mạng đã có bước tiến rõ rệt, nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt của toàn dân.
Theo báo cáo mới nhất, tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng năm 2021
ước tính tăng 1,42% so với cùng kỳ năm trước, do dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm
trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, nhiều địa phương kinh tế trọng điểm phải thực
hiện giãn cách xã hội kéo dài thì đây là một thành công lớn của nước ta trong việc
phòng chống dịch bệnh, duy trì sản xuất kinh doanh. Một tín hiệu tích cực khác của
nền kinh tế là tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11 ước
tính đạt 397.000 tỷ đồng, tăng 6,2% so với tháng trước. Ngoài ra, Việt Nam đã có
tháng xuất siêu thứ 3 liên tiếp khi cán cân thương mại thặng dư khoảng 100 triệu USD.
Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, vất vả nhưng thực tiễn những năm qua đã
chứng tỏ đường lối đổi mới, chủ trương chính sách lớn về đổi mới là rất đúng đắn,
bước đi là thích hợp. Xây dựng chủ nghĩa xã hội còn là sự nghiệp rất mới mẻ, khó
khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan của tính
năng động chủ quan. Việc gặp phải sai lầm, khuyết điểm trong quá trình xây dựng đất
nước là khó tránh khỏi. Từ đó có thể rút ra một số kinh nghiệm:
- “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” trong đánh giá tình hình, “Tôn trọng
quy luật khách quan” trong quá trình đổi mới.
- Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để hoạch định
chiến lược, sách lược phát triển đất nước. 14
- Kiên quyết ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan duy ý chí; lối suy nghĩ, hành
động giản đơn; nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng, bất chấp quy
luật hiện thực khách quan.
- Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác nhau (kinh tế, chính trị, tinh thần:
cá nhân, tập thể, xã hội…) thành động lực thúc đẩy đổi mới. PHẦN KẾT LUẬN
Tổng kết lại, trên cơ sở lý luận về vật chất và ý thức cũng như mối quan hệ giữa
chúng, ta có thể rút ra kết luận: vật chất bao giờ cũng nắm giữ vai trò quyết định đối
với ý thức nhưng đồng thời ý thức cũng có tác động trở lại vật chất. Mối quan hệ tác
động qua lại này chỉ có thể thực hiện thông qua hoạt động thức tiễn của con người.
Chúng ta cần tuân thủ nguyên tắc tôn trọng tính khách quan và kết hợp phát huy tính
năng động chủ quan. Nâng cao vai trò của ý thức với vật chất bản chất cũng chính là
tự giác cải thiện năng lực nhận thức các quy luật khách quan kết hợp vận dụng các
quy luật khách quan trong các hoạt động thực tiễn và sinh hoạt hàng ngày.
Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chưa bao giờ dễ dàng, có thể
ví như một cuộc kháng chiến trường kì lâu dài đầy khó khăn của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta. Muốn đất nước ta ngày càng đổi mới, ngày càng phát triển bền vững và
ổn định không chỉ ở khu vực Đông Nam Á mà còn ở toàn thế giới thì đòi hỏi ở Đảng
và Nhà nước sự kiên trì, kiên định, quyết tâm khắc phục khó khăn cùng sự tỉnh táo,
thông minh nhạy bén để thích ứng với tình hình thế giới biến đổi từng ngày, từng giờ.
Bên cạnh đó, nhân dân ta cũng cần ủng hộ, động viên và giữ vững lòng tin với Đảng
và Nhà nước, không lung lay trước những chiêu trò chống phá, bôi nhọ của các thế
lực thù địch. Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, nắm rõ nội dung lý thuyết và vận dụng thành thạo phép duy vật biện
chứng vào nghiên cứu và quản lí kinh tế, phát huy mạnh mẽ hơn nữa mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới. Nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế, phát triển kinh tế Việt Nam và giữ ổn định chính trị đất
nước chính là mong muốn chung của mọi người dân, cũng là trách nhiệm cao cả của
thế hệ sinh viên Việt Nam.
Trên đây là nội dung bài tiểu luận của em, trong quá trình làm bài khó tránh
khỏi mắc một số lỗi dẫn đến sai sót, kính mong thầy giáo giảng dạy bộ môn Triết học
Mác – Lênin có thể nhận xét và bổ sung những thiếu sót cần sửa đổi để em không chỉ 15
cải thiện hiểu biết về kiến thức lý luận và thực tiễn, mà còn có thể rút kinh nghiệm
cho những bài tập tiếp theo. Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Bộ Giáo dục và đào tạo, 2019.
2. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc VI, VII, X, XIII.
3. GS, TS. Lưu Văn Sùng (2014), Quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng
Cộng sản Việt Nam khi bước vào công cuộc đổi mới và hiện nay, Cổng thông
tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao (vksndtc.gov.vn)
4. PGS, TS. Nguyễn Chí Hiếu (2020), Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định vận
dụng sáng tạo tư tưởng của V.I Lê-nin vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam thời kì đổi mới, Tạp chí cộng sản (tapchicongsan.org.vn)
5. Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2021,
Tổng cục thống kê (gso.gov.vn) 16 17