Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
…...0O0…..
BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài số 3
Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ với thực tiễn
Họ và tên sinh viên: Đào Thanh Xuân
Mã sinh viên: 11227028
Lớp: Kinh doanh số EBDB
Khóa 4
GĐ: 2022-2026
Hà Nội - 12/2022
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................3
NỘI DUNG...........................................................................................................4
1. Cơ sở lý luận chung của quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức ..........................................................................................4
a) Phạm trù vật
chất..........................................................................................4
b) Phạm trù ý
thức…........................................................................................5
2. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất ý
thức........6
a) Vật chất quyết định ý thức...........................................................................6
b) Ý thức tính độc lập tương đối tác động trở lại vật
chất......................7
3.Ý nghĩa phương pháp luận chung....................................................................8
4.Liên hệ thực
tiễn...............................................................................................8
KẾT LUẬN.........................................................................................................11
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................12
2
MỞ ĐẦU
Cho đến ngày nay, Triết học Mác-Lênin luôn một trong những thành tựu
đại nhất của tưởng triết học nhân loại hình tức phát triển cao nhất của
các hình thức triết học trong lịch sử. Triết học Mác-Lênin trang bị cho con người
hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học;
giúp con người phát triển duy khoa học, đó là tư duycấp độ phạm trù, quy
luật… Đảng ta rất coi trọng nền tư tưởng đó và đã khẳng định trong Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác –Lênin tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động”. Nghĩa là,
chúng ta phải vận dụng sáng tạo các quan điểm, lập trường và các phương pháp
của chủ nghĩa Mác- Lênin để thể xác định đưa ra được những đường lối,
chính sách sao cho phù hợp nhất với tình hình nước ta. Thực tế cũng đã và đang
khẳng định điều đó sáng suốt khi trong công cuộc đổi mới, phát triển đất
nước, Việt Nam ngày càng khảng định được vai trò vị thế của mình trên
trường quốc tế. Kết quả đó là nhờ sự nỗ lực không mệt mỏi, sự chung sức đồng
lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì thế, việc kế thừa và phát huy những tư
tưởng của Triết học Mác- Lenin là thiết yếu để vận dụng nó vào mối quan
hệ giữ kinh tế chính trị của đất nước,
giúp cho công cuộc xây dựng nền kinh tế nước ta ngày càng
giàu mạnh.
Vì ý nghĩa như vậy, với tư cách là một sinh viên đại học và cũng
thế hệ tương lai của đất nước, em quyết định đi sâu vào tìm
hiểu Triết học Mác-Lenin cụ thể với đề tài "Phân tích quan niệm
duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất ý thức, từ
đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung liên hệ với
thực tiễn.”
3
NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận chung của quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức
a) Phạm trù vật chất
Khi nói về vị trí phạm trù vật chất, đó phạm trù bảnnền tảng của chủ
nghĩa duy vật nói chung, chủ nghĩa duy vật biê pn chứng nói riêng. Trước C. Mác
đã có rất nhiều quan niệm về phạm trù vật chất. Tuy nhiên, những quan niệm đó
đã góp phần tạo ra phương pháp luận đúng cho sự phát triển của nhâ pn thức
khoa học thực tiễn cải tạo thế giới, song vẫn còn tồn tại những hạn chế.
điều đó càng được bộc lộ rõ trước bánh xe phát triển của khoa học tự nhiên hiê pn
đại và nhu cầu phát triển của khoa học xã hô pi.
Để đưa ra một quan niệm thực sự khoa học về vật chất, Lênin đã đặc biệt chú
trọng vào tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này. Kế thừa những tư
tưởng của C. Mác Ph. Angghen, trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật Chủ
nghĩa kinh nghiệm phê pháncủa mình, Lênin đã đưa ra một phương pháp mới
để định nghĩa vật chất với tư cách là một phạm trù triết học và bằng cách đối lập
với phạm trù ý thức trên phương diện nhận thức luận cơ bản:
“Vât cht là phm tr tri!t h"c, d ng đ% ch& th'c ti khách quan, đư*c đem li
cho con ngư-i trong c.m giác, đư*c c.m giác của ch/ng ta ch0p li, ch1p li,
ph.n ánh và t2n ti không lệ thuô c vào c.m giác”
Theo định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất, cần phân biệt phạm trù triết học vật
chất với những biểu hiện cụ thể của nó. Với cách một phạm trù triết học,
tức phạm trù rộng nhất, khái quát nhất, vật chất phản ánh cái chung, hạn,
không sinh ra cũng không mất đi; còn các sự vật hiện tượng xung quanh ta
dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên đều giới hạn,sinh ra,mất đi
có thể chuyển hóa thành cái khác. Vì thế, không thể đồng nhất vật chất với dạng
biểu hiện cụ thể của thế giới vật chất.
Định nghĩa này của V.I.Lênin bao hàm các nội dung sau đây:
Thứ nht, vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại bên ngoài ý thức và không
lệ thuộc vào ý thức. Với tư cách là một phạm trù triết học, vật chất là kết quả của
sự trừu tượng hóa. Sự trừu tượng này chỉ các đặc tính chung nhất, bản chất nhất
4
mà mọi sự vật, hiện tượng cụ thể nào của vật chất cũng có, đó tính vật chất -
tính tồn tại khách quan độc lập với ý thức của loài người. Đặc tính này tiêu
chuẩn để phân biệt cái vật chất, cái không phải vật chất. thể thấy,
trong định nghĩa vật chất của Lênin tồn tại hai khía cạnh đối lập nhưng lại gắn
chặt chẽ với nhau: tính trừu tượng và tính cụ thể của vật chất. Nếu chỉ tuyệt
đối hoá tính trừu tượng của phạm trù thì rất dễ sa vào chủ nghĩa duy tâm, nhưng
nếu chỉ nhìn thấy tính cụ thể thì sẽ đồng nhất vật chất với vật thể. Vì vậy, mọi sự
vật, hiện tượng tồn tại trong tự nhiên hay trong hội thì đều tồn tại khách
quan, tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức con người, đều thuộc phạm trù vật chất
và là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
Thứ hai, thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác. Với nội dung này, V.I.LêNin làm mối quan
giữa thực tại khách quan cảm giác rằng thực tại khách quan (tức vật
chất) là cái có trước ý thức, không phụ thuôc vào ý thức, độc lập với ý thức, còn
cảm giác (tức ý thức) của con người cái sau vật chất, được sinh ra từ vật
chất nên phụ thuộc vào vật chất. Vật chất là nội dung, nguồn gốc khách quan
của ý thức,nguyên nhân phát sinh ra ý thức, khôngcái bị phản ánh vật
chất sẽ không có cái phản ánh là ý thức. Ví dụ, trước khi có sự xuất hiện của con
người trên trái đất, vật chất đã tồn tại từ rất lâu nhưng chưa sự tồn tại của
con người, ý thức cũng chưa xuất hiện và hình thành. Điều này đã chứng tỏ rằng
vật chất tồn tại khách quan và không lệ thuộc vào ý thức.
b) Phạm trù ý thức:
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác- Lênin là một phạm trù song song với
phạm trù vật chất. Theo đó ý thức đời sống tinh thần của con người, sự
phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào đầu óc con người; là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Cụ thể:
Ý thức toàn bộ sản phầm trong hoạt động tinh thần của con người, bao gồm
những yếu tố như tri thức, tình cảm, khát vọng, niềm tin, mơ ước. Tuy nhiên, có
hai yếu tố bản tri thức tình cảm trong đó tri thức quan trọng nhất
nó là phương thức tồn tại của ý thức.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được gắn chặt chẽ với
thực tiễn hội. Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn
lẻ, thụ động của thế giới khách quan. Trái lại, đó kết quả của quá trình phản
ánh có định hướng , có mục đích rõ rệt. Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa
ý thức tạo ra vật chất. Sáng tạo của ý thức sáng tạo của sự phản ánh, theo
quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những
5
khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức không đối lập, loại trừ, tách rời sự
phản ánhngược lại thống nhất với phản ánh, trên sở phản ánh. Phản ánh
và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý thức trong bất cứ trường hợp
nào - cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản
ánh phức tạp, năng động,sáng tạo của não bộ.
Nói ý thức hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức
hình ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả
về nội dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng không còn y nguyên như thế
giới khách quan đã được cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con
người. Theo Mác, ý thức chẳng qua ch& vật cht đư*c di chuy%n vào trong
đầu óc con ngư-i đư*c c.i bi!n trong đó [C. Mác Ph. Ăngghen: Toàn
tập, NXB. CTQG, HN, 1993, Trang 35]
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ vật chất ý thức được coi “vn đề b.n của m"i tri!t h"c,
đặc biệt là tri!t h"c hiện đi” [C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB. CTQG,
HN, 1995, Trang 403]. Nắm vững phép biện chứng duy vậtluôn theo sát kịp
thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát
đúng đắn về mặt triết học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý thức và
mối quan hệ giữa chúng.
Theo quan điểm của triết học Mác- Lênin: vật cht ý thức mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật cht quy!t định ý thức, còn ý thức tác động tích c'c trở
li vật cht. Ta thể hiểu vật chất ý thức mối quan hệ tác động qua lại
với nhau thông qua hoạt động thực tiễn của con người; trong đó suy đến cùng thì
vật chất giữ vai trò quyết định.
a) Vật chất quyết định ý thức
Vai trò đó vật chất đối với ý thức được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên theo lẽ tự nhiên thì ý thức-
một thuộc tính của con người- cũng do giới tự nhiên sinh ra. Các thành tựu
của khoa học tự nhiên đã chứng minh rằng, giới tự nhiên trước con người
vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập
với ý thức nguồn gốc của ý thức. Ý thức con người tồn tại dựa vào vật
chất- bộ não con người- trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận
6
động của vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của vật chất có tư duy là não bộ.
Do đó nếu không có vật chất thì ý thức không thể tồn tại và phát triển.
Vật chất quyết định nội dung của của ý thức.
Ý thức là “hình ảnh” của thế giới khách quan cho nên nội dung của nó là kết quả
của sự phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn.
Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng chiều sâu động lực
mạnh mẽ quyết định tính phong phúđộ sâu sắc của tư duy ý thức của con
người.
Vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Trên sở hoạt động thực tiễn, ý thức con người sự phản ảnh một cách tự
giác, tích cực sáng tạo thế giới khách quan. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ,
xem xét thế giới vật chất những sự vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy
vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là thế giới con người với các hoạt động
thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con
người- là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức.
dụ, thời dịch bệnh khó khăn (thực tại khách quan) đã tác động đến các
doanh nghiệp, nhưng bản thân lãnh đạo, nhân viên trong doanh nghiệp đó sự
năng động, sáng tạo nên đã biến nguy thành hội tạo ra động lực phát
triển cho doanh nghiệp.
Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Con người- sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển thì dĩ nhiên, ý thức- một
hình thức phản ánh não bộ cũng phát triển về nội dung hình thức phản ánh
của nó. hội ngày càng văn minh, khoa học ngày càng phát triển thì ý thức
cũng phát triển theo. Biểu hiện thực tế nhất đó chính là sự ảnh hưởng của kinh tế
đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống văn hóa, tinh thần của con
người. Sự phát triển của kinh tế quy định sự phát triển của văn hóa, đời sống vật
chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nht, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện chỗ ý thức cũng “đời
sống” riêng, quy luật vận động, phát triển riêng không phụ thuộc máy móc
vào vật chất. Do đó, ý thức thể thay đổi nhanh hay chậm hơn so với hiện
thực. Thông thường ý thức thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật
chất.
7
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người, còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện
thực. Con người dựa trên tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết quy luật
khách quan, từ đó đề ra các phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực
hiện thắng lợi các mục tiêu đã xác định.
Thứ ba, ý thức thể chỉ đạo hoạt động của con người, quyết định hoạt động
của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Sự tác động trở lại của ý
thức luôn diễn ra theo hai chiều hướng. Khi phản ánh đúng hiện thực, nó có thể
giúp hình thành nên những luận, định hướng đúng đắn, góp phần khia thác
tiềm năng con người, từ đó sức mạnh vật chất sẽ được tăng lên gấp bội. Ngược
lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lệch hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng lớn. Nhất là trong
bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa hiện tại thì vai trò của tri thức khia học,
tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn lại càng vô cùng quan trọng.
3. Ý nghĩa phương pháp luận chung
Dựa vào mối quan hệ giữa vật chất ý thức trong triết học Mác Leenin,
thể rút ra nguyên tắc phương pháp luận như sau: Trong tất cả các hoạt động thực
tiễn nhận thức, khi giải quyết vấn đề bất kì, phải tôn trọng tính khách quan
kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan.
Nói một cách cụ thể, vật chất quyết định ý thức nên phải lấy thực tế khách
quan, những điều kiện tiền đề vật chất hiện làm căn cứ cho mọi hoạt động,
phải tôn trọng hành động theo quy luât khách quan để tránh hậu quả khôn
lường. Nhận thức sự vật, hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh thái độ chủ
quan, nóng vội, định kiếnthiếu trung thực. V. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh
rằng: “Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan , nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế,
lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí”.
Mặt khác, ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng động
chủ quan, đặc biệt là phát huy vai trò của nhân tố con người, phát huy mọi phẩm
chất năng lực của chủ thể, chống tưởng, thái độ thụ động, lại, thiếu tính
sáng tạo. Tôn trọng tri thức khoa học, tích cực học tập làm chủ tri thức khoa học
và ứng dụng tri thức khoa học vào đời sống. Bên cạnh đó, cần truyền bá tri thức
khoa học vào quần chúng để trở thành niềm tin, định hướng cho con người
hành động.
4. Liên hệ thực tiễn trong việc học tập của sinh viên để phát triển bản thân
và góp phần phát triển đất nước.
8
a) Tôn trọng tính khách quan
Hiểu được nội dung của nguyên tắc tôn trọng khách quan sinh viên phải biết vận
dụng vào trong quá trình học tập của bản thân để đạt kết quả cao trong học tập.
Trước tiên, trong nhận thức sinh viên phải phản ánh trung thực nội dung bản
chất của sự vật, hiện tượng. Không được lấy ý kiến chủ quan, định kiến của
mình áp đặt cho sự vật, hiện tượng. Cụ thể là, phấp hành nghiêm chỉnh nội quy
nhà trường nội quy giành cho sinh viên trong nhà trường tiêu chuẩn đánh
giá về tác phong, đạo đức mỗi người sinh viên phải có. Không nên
tưởng cá nhân là nội quy nhà trường rườm rà, làm ảnh hưởng không tốt đến việc
học, đến thời gian nhân không thực hiện theo thì sẽ dẫn đến hậu quả
không tốt. Khi đề bạt, tranh cử ban cán sự lớp đầu năm học phải đảm bảo tính
công bằng, đánh giá trung thực năng lực của từng cá nhân để bổ nhiệm vào vị trí
phù hợp dẫn dắt tập thể lớp đi lên. Không nên vì định kiến cá nhân mà đánh giá
không trung thực thì sẽ ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thi đua của tập thể. Bên
cạnh đó, sinh viên phải trung thực trong các kiểm tra, thi hết môn. Sinh viên
phải tích cực ôn luyện và làm bài bằng kiến thức của mình. Không nên có hành
vi quay cóp, chép bài của bạn vì điểm cao đó cũng không phải số đi ểm bạn
đạt được, không phản ánh đúng lượng kiến thức bạn có.
Bên cạnh đó, sinh viên phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở để đưa ra đường
lối, chủ trương, kế hoạch, mục tiêu cho phù hợp. Nói một cách chi tiết, khi đưa
ra phương pháp học tập cho bản thân, mỗi sinh viên phải xem xét phương pháp
học tập đó phù hợp với thể trạng, sức khỏe, tâm đặc điểm nhân thì
mới đưa ra một phương pháp học tập phù hợp, đúng đắn, đem lại hiệu quả cao.
Không nên áp dụng rập khuôn phương pháp học tập của bạn cho bản thân mình
sẽ không đem lại kết quả như mong muốn. Khi đưa ra kế hoạch học tập cho thời
gian tới, sinh viên phải xét đến điều kiện thực tế như: thời gian, sức khỏe, tài
chính…để đưa ra một kế hoạch phù hợp, khả năng thực hiện. Chẳng hạn để
có thể nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ sinh viên cần phải xét thời gian nào
phù hợp có thể học, trường nào mức học phí phù hợp với điều kiện tài chính
của bản thân, phương tiện đi học có phù hợp với địa điểm học… Khi đưa ra mục
tiêu phấn đấu, sinh viên phải đánh giá đúng khả năng của bản thân cũng như
những điều kiện liên quan để đưa ra mục tiêu phù hợp với bản thân.Tránh đưa ra
mục tiêu quá thấp sẽ không kích thích được sự cố gắng, không cải thiện được sự
hiểu biết. Cũng không nên đưa ra mục tiêu quá cao, không khả năng thực
hiện sẽ dễ gây tâm chán nản. Ngoài ra, sinh viên còn phải biết sử dụng lực
lượng vật chất để thực hiện đường lối, chính sách, kế hoạch, mục tiêu…đã đề ra
vì vật chất là sở để hiện thực hóa ý thức. Đểthể học tập, nghiên cứu sinh
9
viên phải sách, vở, tài liệu, bút, phương tiện đi lại… Để thể tồn tại sinh
viên phải được đáp ứng các nhu cầu cơ bản như: ăn, mặc, nhà ở.
b) Phát huy tính năng động chủ quan
Là sinh viên chúng ta cần phát huy được tính năng động chủ quan trong việc học
tập của bản thân, thể hiện qua những mặt sau:
Thứ nht, sinh viên phải tôn trọng tri thức khoa học làm chủ được tri thức
khách quan: Sinh viên phải ra sức học tập, nghiên cứu tri thức khoa học để làm
giàu thêm kho tàng tri thức của bản thân, không chỉ xem trọng tri thức chuyên
ngành mà phải quan tâm cả những môn khoa học cơ bản, vì khoa học bản
tiền đề, cơ sở để sinh viên tiếp xúc với tri thức chuyên ngành hiệu quả hơn. Bên
cạnh đó cầntinh thần ham học hỏi, tham gia những cuộc thi nghiên cứu khoa
học do trường tổ chức để kích thích óc sáng tạo của bản thân cống hiến
những ý tưởng hay. Ngoài ra, sinh viên còn phải biết truyền vào quần
chúng đểtrở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, phổ biến tri thức khoa
học cho mọi người cùng biết bằng cách tham gia chiến dịch tình nguyện đến
những vùng cao, miền núi để dạy học cho các em nhỏ hay tổ chức học nhóm để
giúp đỡ nhau trong học tập.
Thứ hai, sinh viên cần nhận thức đúng vai trò trách nhiệm của mình đối với
sự phồn thịnh phát triển của đất nước trong tương lai, tích lũy tri thức, nâng
cao trình độ nhằm mục đích nắm các thành tựu khoa học, làm chủ được tri
thức khoa học, từ đó vận dụng sáng tạo vào đời sống cũng như trong quá trình
học tập. Trong quá trình học tập, đối với sinh viên cần phát huy tích cực hơn về
tính năng động chủ quan, chủ động trong mọi hoạt động, thể hiện được khả năng
linh động của bản thân, tu dưỡng đạo đức, tự tin. Để “phát huy tính năng động
chủ quan” không chỉ sinh viên tất cả mọi người cần chống các thái độ thụ
động, trông chờ, lại vào hoàn cảnh khác quan hạ thấp vai trò của “tính
năng động chủ quan” của con người trong hoạt động thực tiễn. Nếu rơi vào chủ
nghĩa siêu hình, chủ nghĩa duy vật tầm thường, tuyệt đối hóa vật chất, coi
thường tưởng, tri thức rơi vào thực dụng hưởng thụ v.v. đó, th nhận
thức sai trái và thất bại khi phản ánh sai vai trò của thề giới khách quan. Khi con
người với ý thức của mình xác định được các biện pháp để thực hiện tổ chức các
hoạt động thực tiễn. Kết quả bằng sự nỗ lực ý chí mạnh mẽ của mình, con
người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Ở đây ý thức, tư tưởng có thể quyết
định làm cho con người hoạt động đúng thành công khi phản ánh đúng đắn,
sâu sắc thế giới khách quan, đó sở quan trọng cho việc xác định mục
tiêu, phương hướng biện pháp chính trong sự nghiệp hoàn thiện bản thân
10
góp phần phát triển đất nước. Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của
ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách
quan; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ
lại, ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay.
KẾT LUẬN
Vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó là cái trước
ý thức, nhưng ý thức lại tác động trở lại vật chất. Mối quan hệ tác động qua lại
này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chúng ta
nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chínhchỗ nâng cao năng lực nhận
thức các quy luật khách quan vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt
động thực tiễn của con người.
Trong quá trình làm bài, em còn gặp phải nhiều sai sót, mong nhận được sự bổ
khuyết từ phía thầy giáo phụ trách bộ môn Triết Học Mác- Lênin để em có điều
kiện hoàn thiện hiểu biết về cả luận thực tiễn, rút kinh nghiệm cho những
bài làm tiếp theo. Em xin chân thành cảm ơn !
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin (dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý
luận chính trị). NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội - 2021
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1995.
12

Preview text:

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân …...0O0….. BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Đề tài số 3
Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ với thực tiễn
Họ và tên sinh viên: Đào Thanh Xuân Mã sinh viên: 11227028 Lớp: Kinh doanh số EBDB Khóa 4 GĐ: 2022-2026 Hà Nội - 12/2022 1 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................3
NỘI DUNG...........................................................................................................4
1. Cơ sở lý luận chung của quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức ..........................................................................................4 a) Phạm trù vật
chất..........................................................................................4 b) Phạm trù ý
thức…........................................................................................5
2. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức........6
a) Vật chất quyết định ý thức...........................................................................6
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất......................7
3.Ý nghĩa phương pháp luận chung....................................................................8 4.Liên hệ thực
tiễn...............................................................................................8
KẾT LUẬN.........................................................................................................11
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................12 2 MỞ ĐẦU
Cho đến ngày nay, Triết học Mác-Lênin luôn là một trong những thành tựu vĩ
đại nhất của tư tưởng triết học nhân loại và là hình tức phát triển cao nhất của
các hình thức triết học trong lịch sử. Triết học Mác-Lênin trang bị cho con người
hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học;
giúp con người phát triển tư duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy
luật… Đảng ta rất coi trọng nền tư tưởng đó và đã khẳng định trong Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động”. Nghĩa là,
chúng ta phải vận dụng sáng tạo các quan điểm, lập trường và các phương pháp
của chủ nghĩa Mác- Lênin để có thể xác định và đưa ra được những đường lối,
chính sách sao cho phù hợp nhất với tình hình nước ta. Thực tế cũng đã và đang
khẳng định điều đó là sáng suốt khi trong công cuộc đổi mới, phát triển đất
nước, Việt Nam ngày càng khảng định được vai trò và vị thế của mình trên
trường quốc tế. Kết quả đó là nhờ sự nỗ lực không mệt mỏi, sự chung sức đồng
lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì thế, việc kế thừa và phát huy những tư
tưởng của Triết học Mác- Lenin là thiết yếu để vận dụng nó vào mối quan
hệ giữ kinh tế và chính trị của đất nước,
giúp cho công cuộc xây dựng nền kinh tế nước ta ngày càng giàu mạnh.
Vì ý nghĩa như vậy, với tư cách là một sinh viên đại học và cũng
là thế hệ tương lai của đất nước, em quyết định đi sâu vào tìm
hiểu Triết học Mác-Lenin cụ thể với đề tài "Phân tích quan niệm
duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ
đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn.”
3 NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận chung của quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức

a) Phạm trù vật chất
Khi nói về vị trí phạm trù vật chất, đó là phạm trù cơ bản và nền tảng của chủ
nghĩa duy vật nói chung, chủ nghĩa duy vật biê p
n chứng nói riêng. Trước C. Mác
đã có rất nhiều quan niệm về phạm trù vật chất. Tuy nhiên, những quan niệm đó
dù đã góp phần tạo ra phương pháp luận đúng cho sự phát triển của nhâ p n thức
khoa học và thực tiễn cải tạo thế giới, song vẫn còn tồn tại những hạn chế. Và
điều đó càng được bộc lộ rõ trước bánh xe phát triển của khoa học tự nhiên hiê p n
đại và nhu cầu phát triển của khoa học xã hô p i.
Để đưa ra một quan niệm thực sự khoa học về vật chất, Lênin đã đặc biệt chú
trọng vào tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này. Kế thừa những tư
tưởng của C. Mác và Ph. Angghen, trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và Chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán
” của mình, Lênin đã đưa ra một phương pháp mới
để định nghĩa vật chất với tư cách là một phạm trù triết học và bằng cách đối lập
với phạm trù ý thức trên phương diện nhận thức luận cơ bản:
“Vât cht là phm tr tri!t h"c, d ng đ% ch& th'c ti khách quan, đư*c đem li
cho con ngư-i trong c.m giác, đư*c c.m giác của ch/ng ta ch0p li, ch1p li,
ph.n ánh và t2n ti không lệ thuô c vào c.m giác”

Theo định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất, cần phân biệt phạm trù triết học vật
chất với những biểu hiện cụ thể của nó. Với tư cách là một phạm trù triết học,
tức là phạm trù rộng nhất, khái quát nhất, vật chất phản ánh cái chung, vô hạn,
không sinh ra cũng không mất đi; còn các sự vật hiện tượng xung quanh ta là
dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên đều có giới hạn, có sinh ra, có mất đi và
có thể chuyển hóa thành cái khác. Vì thế, không thể đồng nhất vật chất với dạng
biểu hiện cụ thể của thế giới vật chất.
Định nghĩa này của V.I.Lênin bao hàm các nội dung sau đây:
Thứ nht, vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại bên ngoài ý thức và không
lệ thuộc vào ý thức. Với tư cách là một phạm trù triết học, vật chất là kết quả của
sự trừu tượng hóa. Sự trừu tượng này chỉ các đặc tính chung nhất, bản chất nhất 4
mà mọi sự vật, hiện tượng cụ thể nào của vật chất cũng có, đó là tính vật chất -
tính tồn tại khách quan và độc lập với ý thức của loài người. Đặc tính này tiêu
chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Có thể thấy,
trong định nghĩa vật chất của Lênin tồn tại hai khía cạnh đối lập nhưng lại gắn
bó chặt chẽ với nhau: tính trừu tượng và tính cụ thể của vật chất. Nếu chỉ tuyệt
đối hoá tính trừu tượng của phạm trù thì rất dễ sa vào chủ nghĩa duy tâm, nhưng
nếu chỉ nhìn thấy tính cụ thể thì sẽ đồng nhất vật chất với vật thể. Vì vậy, mọi sự
vật, hiện tượng tồn tại trong tự nhiên hay trong xã hội thì đều là tồn tại khách
quan, tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức con người, đều thuộc phạm trù vật chất
và là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
Thứ hai, thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác. Với nội dung này, V.I.LêNin làm rõ mối quan
hê giữa thực tại khách quan và cảm giác rằng thực tại khách quan (tức là vật
chất) là cái có trước ý thức, không phụ thuôc vào ý thức, độc lập với ý thức, còn
cảm giác (tức ý thức) của con người là cái có sau vật chất, được sinh ra từ vật
chất nên phụ thuộc vào vật chất. Vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan
của ý thức, là nguyên nhân phát sinh ra ý thức, không có cái bị phản ánh là vật
chất sẽ không có cái phản ánh là ý thức. Ví dụ, trước khi có sự xuất hiện của con
người trên trái đất, vật chất đã tồn tại từ rất lâu nhưng vì chưa có sự tồn tại của
con người, ý thức cũng chưa xuất hiện và hình thành. Điều này đã chứng tỏ rằng
vật chất tồn tại khách quan và không lệ thuộc vào ý thức.
b) Phạm trù ý thức:
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác- Lênin là một phạm trù song song với
phạm trù vật chất. Theo đó ý thức là đời sống tinh thần của con người, là sự
phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào đầu óc con người; là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Cụ thể:
Ý thức là toàn bộ sản phầm trong hoạt động tinh thần của con người, bao gồm
những yếu tố như tri thức, tình cảm, khát vọng, niềm tin, mơ ước. Tuy nhiên, có
hai yếu tố cơ bản là tri thức và tình cảm trong đó tri thức là quan trọng nhất vì
nó là phương thức tồn tại của ý thức.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được gắn bó chặt chẽ với
thực tiễn xã hội. Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn
lẻ, thụ động của thế giới khách quan. Trái lại, đó là kết quả của quá trình phản
ánh có định hướng , có mục đích rõ rệt. Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa
là ý thức tạo ra vật chất. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo
quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những 5
khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức không đối lập, loại trừ, tách rời sự
phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên cơ sở phản ánh. Phản ánh
và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý thức trong bất cứ trường hợp
nào - cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản
ánh phức tạp, năng động,sáng tạo của não bộ.
Nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan có nghĩa là: ý thức là
hình ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả
về nội dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế
giới khách quan mà nó đã được cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con
người. Theo Mác, ý thức “ chẳng qua ch& là vật cht đư*c di chuy%n vào trong
đầu óc con ngư-i và đư*c c.i bi!n trong đó”
[C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn
tập, NXB. CTQG, HN, 1993, Trang 35]
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ vật chất và ý thức được coi là “vn đề cơ b.n của m"i tri!t h"c,
đặc biệt là tri!t h"c hiện đi”
[C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB. CTQG,
HN, 1995, Trang 403]. Nắm vững phép biện chứng duy vật và luôn theo sát kịp
thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát
đúng đắn về mặt triết học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý thức và
mối quan hệ giữa chúng.
Theo quan điểm của triết học Mác- Lênin: vật cht và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật cht quy!t định ý thức, còn ý thức tác động tích c'c trở
li vật cht.
Ta có thể hiểu vật chất và ý thức có mối quan hệ tác động qua lại
với nhau thông qua hoạt động thực tiễn của con người; trong đó suy đến cùng thì
vật chất giữ vai trò quyết định.
a) Vật chất quyết định ý thức
Vai trò đó vật chất đối với ý thức được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên theo lẽ tự nhiên thì ý thức-
một thuộc tính của con người- cũng là do giới tự nhiên sinh ra. Các thành tựu
của khoa học tự nhiên đã chứng minh rằng, giới tự nhiên có trước con người và
vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập
với ý thức và là nguồn gốc của ý thức. Ý thức con người tồn tại dựa vào vật
chất- bộ não con người- trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận 6
động của vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của vật chất có tư duy là não bộ.
Do đó nếu không có vật chất thì ý thức không thể tồn tại và phát triển.
Vật chất quyết định nội dung của của ý thức.
Ý thức là “hình ảnh” của thế giới khách quan cho nên nội dung của nó là kết quả
của sự phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn.
Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực
mạnh mẽ quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của tư duy và ý thức của con người.
Vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Trên cơ sở hoạt động thực tiễn, ý thức con người là sự phản ảnh một cách tự
giác, tích cực và sáng tạo thế giới khách quan. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ,
xem xét thế giới vật chất là những sự vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy
vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là thế giới con người với các hoạt động
thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con
người- là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức.
Ví dụ, thời kì dịch bệnh khó khăn (thực tại khách quan) đã tác động đến các
doanh nghiệp, nhưng bản thân lãnh đạo, nhân viên trong doanh nghiệp đó có sự
năng động, sáng tạo nên đã biến nguy cơ thành cơ hội và tạo ra động lực phát triển cho doanh nghiệp.
Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Con người- sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển thì dĩ nhiên, ý thức- một
hình thức phản ánh não bộ cũng phát triển về nội dung và hình thức phản ánh
của nó. Xã hội ngày càng văn minh, khoa học ngày càng phát triển thì ý thức
cũng phát triển theo. Biểu hiện thực tế nhất đó chính là sự ảnh hưởng của kinh tế
đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống văn hóa, tinh thần của con
người. Sự phát triển của kinh tế quy định sự phát triển của văn hóa, đời sống vật
chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nht, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức cũng có “đời
sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng không phụ thuộc máy móc
vào vật chất. Do đó, ý thức có thể thay đổi nhanh hay chậm hơn so với hiện
thực. Thông thường ý thức thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất. 7
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người, còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện
thực. Con người dựa trên tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết quy luật
khách quan, từ đó đề ra các phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực
hiện thắng lợi các mục tiêu đã xác định.
Thứ ba, ý thức có thể chỉ đạo hoạt động của con người, quyết định hoạt động
của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Sự tác động trở lại của ý
thức luôn diễn ra theo hai chiều hướng. Khi phản ánh đúng hiện thực, nó có thể
giúp hình thành nên những lý luận, định hướng đúng đắn, góp phần khia thác
tiềm năng con người, từ đó sức mạnh vật chất sẽ được tăng lên gấp bội. Ngược
lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lệch hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng lớn. Nhất là trong
bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa hiện tại thì vai trò của tri thức khia học, tư
tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn lại càng vô cùng quan trọng.
3. Ý nghĩa phương pháp luận chung
Dựa vào mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác – Leenin, có
thể rút ra nguyên tắc phương pháp luận như sau: Trong tất cả các hoạt động thực
tiễn và nhận thức, khi giải quyết vấn đề bất kì, phải tôn trọng tính khách quan
kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan.
Nói một cách cụ thể, vì vật chất quyết định ý thức nên phải lấy thực tế khách
quan, những điều kiện tiền đề vật chất hiện có làm căn cứ cho mọi hoạt động,
phải tôn trọng và hành động theo quy luât khách quan để tránh hậu quả khôn
lường. Nhận thức sự vật, hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh thái độ chủ
quan, nóng vội, định kiến và thiếu trung thực. V. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh
rằng: “Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan , nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế,
lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí”.
Mặt khác, vì ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng động
chủ quan, đặc biệt là phát huy vai trò của nhân tố con người, phát huy mọi phẩm
chất và năng lực của chủ thể, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, thiếu tính
sáng tạo. Tôn trọng tri thức khoa học, tích cực học tập làm chủ tri thức khoa học
và ứng dụng tri thức khoa học vào đời sống. Bên cạnh đó, cần truyền bá tri thức
khoa học vào quần chúng để nó trở thành niềm tin, định hướng cho con người hành động.
4. Liên hệ thực tiễn trong việc học tập của sinh viên để phát triển bản thân
và góp phần phát triển đất nước.
8
a) Tôn trọng tính khách quan
Hiểu được nội dung của nguyên tắc tôn trọng khách quan sinh viên phải biết vận
dụng vào trong quá trình học tập của bản thân để đạt kết quả cao trong học tập.
Trước tiên, trong nhận thức sinh viên phải phản ánh trung thực nội dung bản
chất của sự vật, hiện tượng. Không được lấy ý kiến chủ quan, định kiến của
mình áp đặt cho sự vật, hiện tượng. Cụ thể là, phấp hành nghiêm chỉnh nội quy
nhà trường vì nội quy giành cho sinh viên trong nhà trường là tiêu chuẩn đánh
giá về tác phong, đạo đức mà mỗi người sinh viên phải có. Không nên có tư
tưởng cá nhân là nội quy nhà trường rườm rà, làm ảnh hưởng không tốt đến việc
học, đến thời gian cá nhân mà không thực hiện theo thì sẽ dẫn đến hậu quả
không tốt. Khi đề bạt, tranh cử ban cán sự lớp đầu năm học phải đảm bảo tính
công bằng, đánh giá trung thực năng lực của từng cá nhân để bổ nhiệm vào vị trí
phù hợp dẫn dắt tập thể lớp đi lên. Không nên vì định kiến cá nhân mà đánh giá
không trung thực thì sẽ ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thi đua của tập thể. Bên
cạnh đó, sinh viên phải trung thực trong các kì kiểm tra, thi hết môn. Sinh viên
phải tích cực ôn luyện và làm bài bằng kiến thức của mình. Không nên có hành
vi quay cóp, chép bài của bạn vì dù điểm cao đó cũng không phải số đi ểm bạn
đạt được, không phản ánh đúng lượng kiến thức bạn có.
Bên cạnh đó, sinh viên phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở để đưa ra đường
lối, chủ trương, kế hoạch, mục tiêu cho phù hợp. Nói một cách chi tiết, khi đưa
ra phương pháp học tập cho bản thân, mỗi sinh viên phải xem xét phương pháp
học tập đó có phù hợp với thể trạng, sức khỏe, tâm lý và đặc điểm cá nhân thì
mới đưa ra một phương pháp học tập phù hợp, đúng đắn, đem lại hiệu quả cao.
Không nên áp dụng rập khuôn phương pháp học tập của bạn cho bản thân mình
sẽ không đem lại kết quả như mong muốn. Khi đưa ra kế hoạch học tập cho thời
gian tới, sinh viên phải xét đến điều kiện thực tế như: thời gian, sức khỏe, tài
chính…để đưa ra một kế hoạch phù hợp, có khả năng thực hiện. Chẳng hạn để
có thể nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ sinh viên cần phải xét thời gian nào
phù hợp có thể học, trường nào có mức học phí phù hợp với điều kiện tài chính
của bản thân, phương tiện đi học có phù hợp với địa điểm học… Khi đưa ra mục
tiêu phấn đấu, sinh viên phải đánh giá đúng khả năng của bản thân cũng như
những điều kiện liên quan để đưa ra mục tiêu phù hợp với bản thân.Tránh đưa ra
mục tiêu quá thấp sẽ không kích thích được sự cố gắng, không cải thiện được sự
hiểu biết. Cũng không nên đưa ra mục tiêu quá cao, không có khả năng thực
hiện sẽ dễ gây tâm lý chán nản. Ngoài ra, sinh viên còn phải biết sử dụng lực
lượng vật chất để thực hiện đường lối, chính sách, kế hoạch, mục tiêu…đã đề ra
vì vật chất là cơ sở để hiện thực hóa ý thức. Để có thể học tập, nghiên cứu sinh 9
viên phải có sách, vở, tài liệu, bút, phương tiện đi lại… Để có thể tồn tại sinh
viên phải được đáp ứng các nhu cầu cơ bản như: ăn, mặc, nhà ở.
b) Phát huy tính năng động chủ quan
Là sinh viên chúng ta cần phát huy được tính năng động chủ quan trong việc học
tập của bản thân, thể hiện qua những mặt sau:
Thứ nht, sinh viên phải tôn trọng tri thức khoa học và làm chủ được tri thức
khách quan: Sinh viên phải ra sức học tập, nghiên cứu tri thức khoa học để làm
giàu thêm kho tàng tri thức của bản thân, không chỉ xem trọng tri thức chuyên
ngành mà phải quan tâm cả những môn khoa học cơ bản, vì khoa học cơ bản là
tiền đề, cơ sở để sinh viên tiếp xúc với tri thức chuyên ngành hiệu quả hơn. Bên
cạnh đó cần có tinh thần ham học hỏi, tham gia những cuộc thi nghiên cứu khoa
học do trường tổ chức để kích thích óc sáng tạo của bản thân và cống hiến
những ý tưởng hay. Ngoài ra, sinh viên còn phải biết truyền bá nó vào quần
chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, phổ biến tri thức khoa
học cho mọi người cùng biết bằng cách tham gia chiến dịch tình nguyện đến
những vùng cao, miền núi để dạy học cho các em nhỏ hay tổ chức học nhóm để
giúp đỡ nhau trong học tập.
Thứ hai, sinh viên cần nhận thức đúng vai trò và trách nhiệm của mình đối với
sự phồn thịnh và phát triển của đất nước trong tương lai, tích lũy tri thức, nâng
cao trình độ nhằm mục đích nắm rõ các thành tựu khoa học, làm chủ được tri
thức khoa học, từ đó vận dụng sáng tạo vào đời sống cũng như trong quá trình
học tập. Trong quá trình học tập, đối với sinh viên cần phát huy tích cực hơn về
tính năng động chủ quan, chủ động trong mọi hoạt động, thể hiện được khả năng
linh động của bản thân, tu dưỡng đạo đức, tự tin. Để “phát huy tính năng động
chủ quan” không chỉ sinh viên mà tất cả mọi người cần chống các thái độ thụ
động, trông chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh khác quan mà hạ thấp vai trò của “tính
năng động chủ quan” của con người trong hoạt động thực tiễn. Nếu rơi vào chủ
nghĩa siêu hình, chủ nghĩa duy vật tầm thường, tuyệt đối hóa vật chất, coi
thường tư tưởng, tri thức rơi vào thực dụng hưởng thụ v.v. Ở đó, có th ể nhận
thức sai trái và thất bại khi phản ánh sai vai trò của thề giới khách quan. Khi con
người với ý thức của mình xác định được các biện pháp để thực hiện tổ chức các
hoạt động thực tiễn. Kết quả bằng sự nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình, con
người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Ở đây ý thức, tư tưởng có thể quyết
định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng đắn,
sâu sắc thế giới khách quan, vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục
tiêu, phương hướng và biện pháp chính trong sự nghiệp hoàn thiện bản thân và 10
góp phần phát triển đất nước. Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của
ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách
quan; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ
lại, ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay. KẾT LUẬN
Vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó là cái có trước
ý thức, nhưng ý thức lại tác động trở lại vật chất. Mối quan hệ tác động qua lại
này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chúng ta
nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực nhận
thức các quy luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt
động thực tiễn của con người.
Trong quá trình làm bài, em còn gặp phải nhiều sai sót, mong nhận được sự bổ
khuyết từ phía thầy giáo phụ trách bộ môn Triết Học Mác- Lênin để em có điều
kiện hoàn thiện hiểu biết về cả lí luận và thực tiễn, rút kinh nghiệm cho những
bài làm tiếp theo. Em xin chân thành cảm ơn ! 11 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin (dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý
luận chính trị). NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội - 2021
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1995. 12