-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó làm rõ vai trò của người lao động trong Cách mạng 4.0 - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó làm rõ vai trò của người lao động trong Cách mạng 4.0 - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:





















Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE ~~~~~0~~~~~ TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ BÀI: Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ đó làm rõ vai trò của người lao động trong Cách mạng 4.0! Họ và tên : Lê Thu Trang MSSV : 11215787 Lớp chuyên ngành :
Tài chính doanh nghiệp CLC 63E Lớp tín chỉ :
Triết học CLC 63E_AEP(121)_08 Giáo viên hướng dẫn :
TS. Nghiêm Thị Châu Giang Hà Nội, 05/04/2022 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Giáo trình Triết học Mác – Lênin” (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên
lý luận chính trị), Bộ Giáo dục và đào tạo, NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2021.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, trang 32, trang 749.
3. Giáo trình Triết học Mác – Lê nin, (Dùng trong các trường Đại học cao
đẳng), Bộ Giáo dục và đào tạo, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, 2008.
4. Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải phù hợp với thực tiễn
Việt Nam, Lê Hữu Nghĩa, Bài trích, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Số 7/2014, trang 63 – 69.
5. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong đặc trưng kinh tế của Chủ
nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng, Trần Văn Phòng, Lý luận Chính trị –
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Số 9/2013, trang 32-37.
6. Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Lê Văn Dương, Triết học,
Viện Triết học, Số 1/2002, trang 5 – 9. MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................1
2. Mục đích của đề tài.........................................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu................................................................................2
PHẦN 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT................................................................................3
1. Khái niệm của quan hệ sản xuất......................................................................3
2. Khái niệm của lực lượng sản xuất...................................................................4
3. Khái niệm của phương thức sản xuất..............................................................5
PHẦN 2. PHÂN TÍCH QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT................................6
1. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi
quan hệ sản xuất..........................................................................................................6
2. Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển
của lực lượng sản xuất.................................................................................................7
PHẦN 3. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀO QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM..............................................................................................9
1. Sự vận dụng sai lầm trước năm 1986..............................................................9
2. Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay............................................10
2.1. Thực trạng lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay...........................10
2.2. Thực trạng các quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay........................11
2.3. Kết luận về sự vận dụng này...............................................................12
PHẦN 4. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỂ TIẾP TỤC VẬN DỤNG QUY
LUẬT NÀY..............................................................................................................13
1. Phương hướng phát triển lực lượng sản xuất................................................13
2. Phương hướng hoàn thiện các quan hệ sản xuất...........................................13
PHẦN 5. VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁCH MẠNG 4.0.....14
KẾT LUẬN..............................................................................................................17 LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
C.Mác đã khẳng định: “Đứa trẻ nào cũng biết rằng bất kể dân tộc nào cũng sẽ
diệt vong, nếu như nó ngừng lao động, không phải một năm, mà chỉ mấy tuần thôi”.
Khẳng định ấy đã cho ta thấy được tầm quan trọng của lao động. Tuy nhiên, không
phải cách lao động nào cũng là đúng, mà để phát triển (hay ít nhất là không bị diệt
vong), thì dân tộc ấy phải tìm được cách lao động phù hợp. Phù hợp ở đây chính là
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là một quy luật phổ biến và có tác động mạnh mẽ đến cuộc sống của con người.
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ thống nhất và chặt chẽ. Đó
là mối quan hệ tương tác giữa hai bộ phận cấu thành trong một chỉnh thể của
phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời, chi phối, tác động qua lại lẫn
nhau một cách biện chứng, tạo nên quy luật về sự phù hợp – quy luật cơ bản tất yếu
của sự vận động phát triển xã hội. Trong đó, quan hệ sản xuất là hình thái xã hội của
sự tồn tại, phát triển của phương thức sản xuất còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất.
Khi quan hệ sản xuất vận động và phát triển, thì lực lượng sản xuất cũng thay
đổi để phù hợp hơn. Ngược lại, lực lượng sản xuất cũng có tính độc lập tương đương
và tác động sự phát triển của quan hệ sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nó là động lực thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Ngược lại, khi quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc tiên tiến hơn
trình độ lao động lúc bấy giờ sẽ gây ra sự trì trệ, kìm hãm quá trình sản xuất. Quy
luật này là điều kiện tất yếu cho sự phát triển của kinh tế – xã hội. Do vậy việc
nghiên cứu quy luật này là vô cùng quan trọng. 1
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây chúng ta đã không có
được sự nhận thức đúng đắn về quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất. Cơ chế quan liêu, bao cấp đã bóp méo các yếu tốc của quan hệ
sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất, kết quả của sự không phù hợp giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất đã làm cho mâu thuẫn giữa chúng trở nên gay gắt.
Điều đó khiến cho nền kinh tế Việt Nam phải ở trong tình trạng khủng hoảng, trì trệ một thời gian dài.
Chính vì vậy, việc đưa nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ tác động
qua lại lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có ý nghĩa vô cùng to
lớn, đặc biệt là trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở
Việt Nam hiện nay. Từ những lí do trên, em đã chọn đề tài: “Phân tích quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó làm rõ vai
trò của người lao động trong Cách mạng 4.0!”
2. Mục đích của đề tài
Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, và từ đó làm rõ vai trò của người lao động trong Cách mang 4.0.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong tiểu luận này, phương pháp em sử dụng để trình bày là: phương pháp
logic và lịch sử, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp trừu tượng hoá,… 2
PHẦN 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Khái niệm của quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản
xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội (sản xuất và tái sản xuất xã
hội). Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên, tác
động vào giới tự nhiên, mà còn có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau. Hơn nữa,
chỉ có trong quan hệ tác động lẫn nhau thì con người mới có sự tác động vào tự
nhiên và mới có sản xuất.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, do con người tạo ra, nhưng
nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con
người với con người trên ba mặt chủ yếu: Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất
(việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội), quan hệ về tổ chức quản lý quá
trình sản xuất (việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động với
nhau), quan hệ về phân phối lưu thông (việc phân phối và lưu thông sản phẩm trong xã hội).
Các mặt trên của quan hệ sản xuất có mỗi quan hệ mật thiết, tác động qua lại
lẫn nhau. Trong đó, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ
cơ bản, đặc trưng cho từng quan hệ sản xuất trong từng xã hội, giữ vai trò quyết định
các mặt còn lại. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất thì
giai cấp đó là giai cấp thống trị; giai cấp ấy đứng ra tổ chức, quản lý sản xuất và sẽ
quyết định tính chất, hình thức phân phối, cũng như quy mô thu nhập. Ngược lại,
giai cấp, tầng lớp nào không có tư liệu sản xuất thì sẽ là giai cấp, tầng lớp bị thống
trị, bị bóc lột vì buộc phải làm thuê và bị bóc lột dưới nhiều hính thức khác nhau.
Tuy vậy, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối lưu thông cũng trực
tiếp tác động ngược lại quan hệ sản xuất thông qua quá trình sản xuất, việc tổ chức,
điều khiển quá trình sản xuất. Bằng cách đó, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá 3
trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và
nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và
quản lý không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu. Vậy
nên đồng thời quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có thể tác động trở lại
quan hệ sở hữu theo hai hướng tích cực và tiêu cực.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích thích trực
tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao
động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
Quan hệ sản xuất trong tính hiện thực của nó không phải là những quan hệ ý
chí, pháp lý mà là quan hệ kinh tế được biểu diễn thành các phạm trù, quy luật kinh
tế. Mặc dù mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con
người, nhưng sự thay đổi của các kiểu quan hệ sản xuất lại phụ thuộc vào tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất.
2. Khái niệm của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất
định, ở một thời kỳ nhất định, biểu hiện mối quan hệ tác động giữa con người với
thế giới tự nhiên trong quá trình sản xuất, biểu hiện trình độ sản xuất của con người
và năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thuộc
về người lao động, (như năng lực, kỹ năng, tri thức,… của người lao động) cùng các
tư liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ
trợ của quá trình sản xuất,…). Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất
của các quá trình sản xuất.
Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố giữ
vai trò quyết định và bao giờ cũng là lực lượng sản xuất cơ bản, quyết định nhất của
xã hội. Bởi vì, suy đến cùng thì các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của 4
con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc
vào trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao động.
Mặt khác, trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản
ánh rõ nhất trình độ của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người
chinh phục giới tự nhiên.
Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản tất yếu tạo thành nội dung vật chất của
quá trình sản xuất; không một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra thiếu một trong
hai nhân tố người lao động và tư liệu sản xuất. Thế nhưng chỉ có lực lượng sản xuất
vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực được mà cần phải có những quan
hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức xã hội của quá trình sản xuất ấy.
3. Khái niệm của phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người khai thác những của cải vật chất
(tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt) cần thiết cho hoạt động tồn tại và phát triển của
xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương
thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hôi:
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản
xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực
lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. 5
PHẦN 2. PHÂN TÍCH QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT
PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và
làm thay đổi quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,
chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng,
tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự
phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản
xuất, trước hết là công cụ lao động.
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản
xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng lao
động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng
dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất.
Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên
tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động
kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt
đến trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản
xuất có tính chất xã hội hóa.
Sự vận động, phát triển quá trình sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ
sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của 6
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà
trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo ra “địa bàn
đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử
dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động và tư liệu sản xuất, và do đó
lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan
hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở nên không phù hợp với sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất,
kiềm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
2. Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
sự phát triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất
không hoàn toàn thụ động mà cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự
phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất có thể tác động đến lực lượng sản xuất vì nó có quy định
mục đích sản xuất, tác động đến thái độ con người trong lao động sản xuất, đến tổ
chức phản công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ,
… và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn
một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự 7
phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế
bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ quá trình lịch sử nhân loại. Sự thay
thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ
chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản
tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. 8
PHẦN 3. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT
PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT VÀO QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1. Sự vận dụng sai lầm trước năm 1986
Sau khi kháng chiến giành thắng lợi, nước ta phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn trong kinh tế. Nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn trong
một thời gian dài. Lực lượng sản xuất có trình độ thấp kém, công cụ lao động thô sơ,
ít ỏi với hình ảnh quen thuộc là “con trâu đi trước cái cày đi sau”, người lao động
mặc dù cần cù nhưng còn hạn chế về kĩ thuật.
Nông nghiệp bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, công nghiệp kém đa
dạng chủ yếu là thủ công nghiệp và một số ngành công nghiệp nhẹ. Thương nghiệp
kém phát triển, đặc biệc việc giao lưu buôn bán với nước ngoài hết sức hạn hẹp.
Rơi vào tình trạng như vậy là do sự sai lầm trong chính sách của Đảng là nhà
nước ta trong quá trình vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
Đó là đối với những cá thể sản xuất nhỏ không được tư hữu về tư liệu sản
xuất mà trong sản xuất sở hữu công cộng trở chiếm đa số, người lao động bị tách
khỏi tư liệu sản xuất , không được làm chủ quá trình sản xuất, phụ thuộc vào lãnh
đạo hợp tác xã, họ cũng không phải là chủ thể sở hữu thực sự, làm cho kinh tế kém phát triển.
Kinh tế quốc doanh lại được thiết lập tràn lan, mặc dù theo pháp luật thì
người dân là chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra nhưng trên thực
tế thì người lao động chỉ là những người làm công ăn lương, trong khi đó chế độ 9
lương mỗi người lao động được nhận lại vô cùng ít và cũng không phụ thuộc vào
khối lượng sản phẩm làm được.
Vì vậy người lao động mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích,
sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nhưng không ai chịu trách nhiệm, không có cơ
chế ràng buộc trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ với kết quả hoạt động của mình.
Đây là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người có
quyền quyết định phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.
Hiện nay Đảng ta đang tích cực vận dụng quy luật này một cách đúng đắn
hơn để đẩy mạnh kinh tế phát triển.
2. Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Nước ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
từ một nước nông nghiệp lạc hậu, do đó xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ
nghĩa là một quá trình lâu dài và đầy khó khăn. Từ năm 1986 đến nay tình hình kinh
tế nước ta đã có sự biến đổi về lực lượng sản xuất. Cụ thể như sau:
Người lao động nước ta không ngừng được nâng cao về cả chất lượng và số
lượng. Năm 2005, dân số lao động hoạt động kinh tế ở nước ta là 42,53 triệu người,
chiếm 51,2 tổng số dân, mỗi năm nước ta có thêm khoảng 1 triệu lao động. Về chất
lượng lao động, nếu như năm 1996, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo là 12,3%
thì đến năm 2005 là 25%, như vậy số lao động đã qua đào tạo tăng 2,5 lần,
Số lao động có chuyên môn kĩ thuật đang làm việc trong các đơn vị sản xuất
kinh doanh chiếm khoảng 21% so với tổng số lao động trong cả nước. Đội ngũ trí
thức tăng nhanh, chỉ tính riêng số sinh viên cũng đã cho thấy sự tăng nhanh vượt
bậc. Số trí thức có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cũng tăng nhanh. Năm 2008 nước ta có 10
275 trường Trung cấp chuyên nghiệp, 209 trường cao đẳng, 160 trường Đại học và
có tới 27.900 trường phổ thông, 226 trường dân tộc nội trú được mở.
Mặc dù chất lượng nguồn lao động ngày càng được nâng cao nhưng vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển của đất nước. So với yêu cầu hiện nay lực
lượng lao động có trình độ vẫn còn mỏng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý, công
nhân kỹ thuật lành nghề còn thiếu nhiều, 75% lao động nước ta vẫn là lao động chưa qua đào tạo.
Các loại máy móc, trang thiết bị được sử dụng rộng rãi trong các ngành kinh
tế, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên nhìn chung công cụ lao
động của nước ta vẫn còn lạc hậu so với thế giới. Máy móc phục vụ cho sản xuất
vẫn còn chậm cải tiến, chủng loại máy móc nhìn chung khá nghèo nàn.
Như vậy, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển song ở các trình độ không
đều khiến cho nền kinh tế ước ta mặc dù đã phát triển theo hướng tích cực hơn trước
nhưng vẫn chưa ổn định và còn nhiều hạn chế.
2.2. Thực trạng các quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Trước hết cần khẳng định: quan hệ sản xuất chúng ta thiết lập và xây dựng là
quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường và theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính xác hơn là quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì chúng ta
chưa thực sự có chủ nghĩa xã hội mà mới đang trên đường xây dựng nó.
Sự sở hữu tư liệu sản xuất còn chưa đồng đều trong nhân dân dẫn đến sự
phân hóa giàu nghèo càng trở nên sâu sắc, tạo nên sự phân tầng xã hội về mặt kinh
tế trong đó tầng lớp trên chiếm tỉ trọng lớn tài sản và các ưu thế kinh tế và tầng lớp
dưới chiếm một tỉ trọng nhỏ các tài sản và một phần nhỏ các ưu thế kinh tế.
Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức kinh
doanh đa dạng, phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần
kinh tế gồm kinh tế nhà nước kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản 11
tư nhân , kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tư bản, manh mún của quan hệ sản xuất
phong kiến… được công nhận.
Quan hệ sản xuất được xây dựng và hoàn thiện bao gồm cả quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa đại diện cho định hướng đi lên Chủ nghĩa xã hội trình độ cao, Quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa – thấp hơn…
2.3. Kết luận về sự vận dụng này
Như vậy, trong thời kỳ này, nhà nước ta đã biết áp dụng đúng quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đem lại nhiều tín
hiệu tích cực cho nền kinh tế nước nhà, đó là sự tăng nhanh về năng suất, chất lượng
sản phẩm, khiến cho Tổng sản phẩm trong nước mỗi năm tăng cao, Việt Nam từ một
nước thiếu ăn với nền kinh tế chậm phát triển đã vươn lên thành một nước xuất khẩu
lương thực hàng đầu thế giới cũng như là một nước có nền kinh tế đang phát triển.
Các quan hệ sản xuất ở trình độ khác nhau được thiết lập đa dạng hóa các
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đã từng bước tạo nên sự phù hợp với
trình độ phát triển không đồng đều về mọi yếu tố trong kết cấu của lực lượng sản xuất. 12
PHẦN 4. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỂ TIẾP TỤC VẬN DỤNG QUY LUẬT NÀY
1. Phương hướng phát triển lực lượng sản xuất
Điều đầu tiên mà chúng ta cần thực hiện để tiếp tục vận dụng tốt quy luật này
chính là nâng cao chất lượng, trình độ người lao động bằng cách mở các trường lớp
đào tạo ngành nghề, đầu tư phát triển giáo dục. Tập trung vào việc đào tạo các ngành
nghề có nhu cầu lớn trong xã hội, chú trọng nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho
người lao động. Quan tâm, học hỏi chất lượng đào tạo nước ngoài.
Đồng thời, cải tạo các loại máy móc, dây chuyền sản xuất để nâng cao năng
suất, khối lượng sản phẩm. Nhà nước cần quan tâm đầu tư ứng dụng khoa học – kĩ
thuật vào trong sản xuất cũng như việc nghiên cứu, sáng chế, mua các thiết bị, máy
móc sản xuất hiện đại.
2. Phương hướng hoàn thiện các quan hệ sản xuất
Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy cơ cấu lại nền doanh nghiệp, và
điều chỉnh chiến lược thị trường. Về sở hữu, vẫn sẽ phát triển theo hướng tồn tại
nhiều hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp
luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình
thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, phát
huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường…
Mặc dù quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất đem lại cho ta những lợi ích, hiệu quả lớn trong sự phát triển kinh tế
của đất nước nhưng nếu áp dụng không đúng cách sẽ gây sai lầm. Chính vì vậy
chúng ta cần hiểu biết rõ quy luật để biết áp dụng một cách đúng đắn. 13
PHẦN 5. VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁCH MẠNG 4.0
Cách mạng công nghiệp 4.0, dù còn những cách tiếp cận với quan điểm khác
nhau, đã bắt đầu từ 5-6 năm gần đây, tập trung vào sản xuất thông minh dựa trên các
“trụ cột” - thành tựu đột phá về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ
nano... mà nền tảng là công nghệ số. Công nghệ số đã, đang và sẽ tác động trực tiếp,
sâu rộng tới phương thức sản xuất cũng như người lao động. Nói cách khác, sự lên
ngôi của tự động hóa, trí tuệ nhân tạo (robot, hệ thống máy tính siêu thông minh...)
mang lại những thách thức to lớn và trực diện đối với vai trò của con người nói
chung, vai trò của người lao động nói riêng trong hệ thống sản xuất.
Nhiều nghiên cứu đã đưa ra những dữ liệu, số liệu rất đáng để suy ngẫm:
Chẳng hạn, Giáo sư Klaus Schwab trong cuốn “Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư” đã nêu, hàng triệu người sẽ rơi vào cảnh thất nghiệp, đặc biệt là nhân công
trong ngành vận tải, kế toán, môi giới bất động sản hay bảo hiểm. Khoảng 47% công
việc hiện tại ở Mỹ có thể biến mất vì tự động hóa.
Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới với tiêu đề “Tương lai của việc làm”
(năm 2016) cũng đánh giá quá trình sản xuất sẽ có sự tham gia của trí tuệ nhân tạo
và máy tự học, người máy, công nghệ nano, in 3D, công nghệ gene và công nghệ
sinh trắc học... Sự phát triển của khoa học, công nghệ một mặt tạo ra năng suất cao
hơn nhưng cũng khiến quá trình dịch chuyển lao động, sự biến mất của những vị trí
việc làm cũ diễn ra nhanh hơn. Cạnh tranh lao động không chỉ diễn ra giữa người
với người mà còn diễn ra giữa con người với máy móc (rô bốt, trí tuệ nhân tạo). Ở
góc nhìn hẹp hơn, theo Tổ chức Lao động quốc tế, 2/3 trong số 9,2 triệu lao động
ngành dệt may và da giày tại Đông Nam Á đang bị đe dọa. Trong đó, 86% lao động
các ngành may mặc, da giày của Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề từ làn sóng tự
động hóa, công nghiệp hóa... 14
Cả cơ hội và thách thức cùng mở ra. Cả thuận lợi và khó khăn cùng buộc
người lao động 4.0 phải có quá trình chuẩn bị để thích nghi, chuẩn bị để nắm bắt, tận
dụng cơ hội. Cách mạng công nghiệp 4.0 đang là xu thế tất yếu, diễn ra ở tất cả quốc
gia trên thế giới. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập một cách tích cực, sâu
rộng và sự chuẩn bị một cách chủ động nhằm đón bắt cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 đã được bắt đầu. Cùng với bước xác lập về nhận thức và hành động của Chính
phủ và các bộ, ngành, lĩnh vực, người lao động - để trở thành những lao động 4.0 -
không thể đứng ngoài xu thế tất yếu ấy.
Tuy nhiên, những khó khăn, rào cản có thể nhìn thấy rõ. Việt Nam đang trong
thời kỳ dân số vàng. Song, cơ cấu lao động chưa phù hợp với yêu cầu quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế khi lao động làm việc trong lĩnh vực
nông, lâm, thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn (41,9%). Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã
qua đào tạo năm 2016 mới đạt 20,6%. Tay nghề, thể lực lao động còn hạn chế; kỷ
luật, tác phong công nghiệp chưa cao. Đồng thời, năng suất lao động là vấn đề đáng
lo ngại khi đang thua xa ngay cả lao động các nước trong khu vực như Philippines, Indonesia, Thái Lan...
Đáng chú ý, số lao động có trình độ đại học bị thất nghiệp lên tới gần 200.000
người. Giờ đây, nước ta đã phải xuất khẩu cả những cử nhân, kỹ sư đi làm việc ở
nước ngoài - tín hiệu cho thấy còn có sự không tương thích giữa đào tạo với thị
trường. Trong khi đó, hiệu quả làm việc, năng suất lao động chính là thước đo, là chỉ
số cạnh tranh nhân lực giữa người với người, giữa người với máy móc. Đây cũng là
vấn đề đặt ra không chỉ với đối tượng lao động khu vực doanh nghiệp mà cả những
lao động làm việc trong lĩnh vực hành chính, sự nghiệp khi tình trạng “sáng cắp ô đi
tối cắp về”, "thất nghiệp trá hình" không phải không phổ biến.
Quá trình khởi sự, tích tụ những điều kiện cần thiết để đón bắt cơ hội từ cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 đã được người đứng đầu Chính phủ chỉ rõ. Tại phiên
họp Chính phủ thường kỳ tháng 3/2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh:
Phải tận dụng cơ hội, có giải pháp hạn chế thách thức của cách mạng công nghiệp 15
4.0. Sự chuẩn bị đó phải đến từ toàn xã hội, từng người dân, mọi doanh nghiệp, mọi
cơ quan, các tổ chức. Các bộ, ngành cần triển khai các nhiệm vụ với tinh thần quyết
liệt, chủ động các nội dung liên quan cách mạng công nghiệp 4.0 trong chiến lược
phát triển của bộ, ngành mình.
Có thể thấy, để trở thành lao động 4.0, mỗi người đều có trách nhiệm theo
kịp, đón bắt cách mạng công nghiệp 4.0. Để “chắp cánh” cho người lao động, các bộ
Giáo dục và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội đã và đang nghiên cứu, sẽ
đưa ra được giải pháp cụ thể, phù hợp. Từ đó, mỗi cá nhân người lao động nỗ lực tự
vượt qua chính mình, trước hết là tư duy, tập quán, lề thói tiểu nông, sau đó là tự học
tập, tự trang bị kiến thức, kỹ năng để đáp ứng yêu cầu phát triển mới. Quá trình tự
thân của mỗi cá nhân cũng là quá trình tự thân của mỗi doanh nghiệp, đơn vị, tổ
chức. Bởi lẽ, tự đổi mới, tự nâng cao là yêu cầu tất yếu nhằm tồn tại và phát triển
trong một thế giới mà khoa học - công nghệ đang có những bước tiến như vũ bão.
Tập trung đào tạo, chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập quốc tế là một định hướng trọng tâm trong quá trình phát triển mà Đại hội lần
thứ XII của Đảng đặt ra. Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, định
hướng đó càng rõ tính thời sự. Thực hiện tốt định hướng đó mới có thể có được đội ngũ lao động 4.0.
Đó sẽ là đội ngũ lao động tự khẳng định được vị thế của mình xét về năng lực
cạnh tranh; tự khẳng định được vị thế của mình trong công cuộc phát triển đất nước
cũng như dòng chảy của cuộc cách mạng công nghiệp đang diễn ra. 16 KẾT LUẬN
Trong quá trình nhận thức, con người ngày càng nắm bắt kĩ hơn về cái tất yếu
của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ thống nhất và chặt chẽ, chi
phối, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo nên quy luật về sự phù hợp
– quy luật cơ bản tất yếu của sự vận động phát triển xã hội. Khi quan hệ sản xuất
vận động và phát triển, thì lực lượng sản xuất cũng thay đổi để phù hợp hơn. Ngược
lại, lực lượng sản xuất cũng có tính độc lập tương đương và tác động sự phát triển
của quan hệ sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, nó là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Và ngược lại,
khi quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc tiên tiến hơn trình độ lao động lúc bấy giờ
sẽ gây ra sự trì trệ, kìm hãm quá trình sản xuất.
Trong thời kỳ Cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay, người lao động lại càng
đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Ta cần phải không ngừng học hỏi và thích
nghi với sự tiến bộ khoa học kĩ thuật vượt bậc và nhanh hơn bao giờ hết. Chính phủ
cần tìm ra được quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lao động, và đồng thời nâng
tầm trình độ của người lao động để đuổi kịp với sự phát triển của nền văn minh nhân
loại. Quan trọng hơn cả chính là ý thức của mỗi người trong việc rèn luyện bản thân
và nhận ra được trách nhiệm của mình trong công cuộc đổi mới của thế giới nói
chung và đất nước nói riêng. HẾT 17