















Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -----***----- TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Đề tài:
Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ đó, làm rõ vai trò của người lao động trong cách mạng 4.0. Họ và tên : Chu Ngọc Châu Anh
Mã sinh viên : 11210286 Lớp tín chỉ
: Triết học Mác – Lênin_Tài chính doanh nghiệp CLC 63E_AEP(121)_08 Giảng viên
: TS. Nghiêm Thị Châu Giang
HÀ NỘI, THÁNG 04/2022 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................3
NỘI DUNG ...............................................................................................................4 I.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 4
1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất ................ 4
a. Khái quát chung ............................................................................................................................. 4
b. Khái niệm phương thức sản xuất ................................................................................................... 4
c. Khái niệm lực lượng sản xuất ........................................................................................................ 4
d. Khái niệm quan hệ sản xuất ........................................................................................................... 6
TIỂU KẾT: ..................................................................................................................................... 6
2. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và mối quan hệ sản xuất ........... 7
a. Là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản
xuất .............................................................................................................................................. 7
b. Là mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hoá thành các mặt đối lập và phát sinh
mâu thuẫn ...................................................................................................................................... 9
TIỂU KẾT: ................................................................................................................................... 10
II. Vai trò của người lao động trong cách mạng 4.0 ......................................................... 11
1. Khái quát chung .......................................................................................................... 11
2. Tính đúng đắn trong quan điểm về vai trò của nhân tố người lao động trong lực
lượng sản xuất ..................................................................................................................... 11
a. Vai trò của người lao động trong quá trình sản xuất vật chất .................................................... 11
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động ....................................................................... 11
3. Cách mạng 4.0 ............................................................................................................. 12
4. Vai trò của người lao động trong cách mạng 4.0 ..................................................... 13
a. Vai trò của người lao động trong Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư ....................................... 13
b. Con người cần làm gì trong thời đại 4.0? ................................................................................... 14
TIỂU KẾT: ................................................................................................................................... 14
KẾT LUẬN .............................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................16
1. Sách .................................................................................................................................. 16
2. Tài liệu mạng ................................................................................................................... 16 2 MỞ ĐẦU
Đối với nền văn minh nhân loại, lịch sử phát triển và tiến hoá của loài người đã có
những bước ngoặt lớn gắn liền, song hành mật thiết, tác động qua lại với một hoạt động
được coi là đặc trưng của con người hay của xã hội loài người – sản xuất. Mà trong đó, sản
xuất của cải vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Triết gia Phriđơrich
Ăngghen – một trong hai người sáng lập chủ nghĩa cộng sản khẳng định, “Điểm khác biệt
căn bản giữa xã hội loài người và xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm
trong khi con người lại sản xuất”. Như vậy, ta thấy được rằng hoạt động sản xuất không
chỉ đơn thuần mang tính khách quan hay tính xã hội mà còn góp phần thể hiện tính lịch sử,
tính sáng tạo của con người. Dưới cách diễn đạt khác, rõ ràng “sản xuất” ở đây đóng vai
trò chìa khoá then chốt, là nhân tố quyết định sự tồn tại và là động lực hình thành, biến đổi,
phát triển của xã hội. Hoạt động “sản xuất” này được quyết định hoàn toàn bởi đường lối
phát triển đúng đắn của lực lượng sản xuất. Bởi vậy, việc am tường về quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là vô cùng quan trọng.
Hơn hết, hiện nay, nhân loại đang bước những bước chân đầu tiên qua ngưỡng cửa
kỷ nguyên mới – Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư hay Công nghiệp 4.0. Trong bài phát
biểu mở đầu phiên đối thoại tại Diễn đàn cấp cao năm 2018, đương nhiệm Chủ tịch nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc từng nhấn mạnh,“Cách mạng
Công nghiệp 4.0 là cơ hội để dân tộc Việt Nam thực hiện khát vọng phồn vinh kinh tế”.
Nền công nghiệp 4.0 đã đem lại cho kinh tế Việt Nam những vận hội và lựa chọn chưa
từng có. Sоng, bên cạnh những cơ hội tích cực đó, vẫn còn rất nhiều thách thức mà Việt
Nаm рhải đương đầu. Làn sóng đổi mới của khoa học công nghệ với tốc độ nhanh như vũ
bão khiến máy móc thông minh dần thay thế sức lao động con người trong những hệ thống
sản xuất thủ công. Vậy người lao động giờ đây đóng vai trò như thế nào giữa cơn lốc thay
đổi đầy ngoạn mục này và liệu“khát vọng phồn vinh kinh tế” có được hiện thực hoá hay
không phụ thuộc hoàn toàn vào chính đường lối của Đảng và cách vận dụng chúng trong
thực tiễn. Do đó, từng công dân Việt Nam đã – đang – sẽ gia nhập vào lực lượng lao động
cần nhận thức sâu sắc vai trò của mình trong mắt xích của nền kinh tế nói riêng và toàn xã
hội nói chung trong Cách mạng 4.0 nhằm thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn mình” vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Với tư cách là một tân sinh viên đại học, em mong muốn tìm hiểu thêm Triết học
Mác – Lênin; cụ thể hơn là về đề tài mà em đã lựa chọn: “Phân tích quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó, làm rõ vai trò của
người lao động trong cách mạng 4.0.”. Những hiểu biết của bản thân em về đề tài trên sẽ
được lý giải rõ ràng hơn trong phần nội dung.
Do lượng kiến thức còn non trẻ, bài viết của em sẽ không tránh khỏi nhiều điểm hạn
chế, thiếu sót, em hi vọng nhận được sự góp ý của quý thầy cô và bạn đọc. Em xin chân thành cảm ơn. 3 NỘI DUNG
I. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
a. Khái quát chung
Từ thời điểm sơ khai nhất, hoạt động sản xuất trong mọi thời kỳ đều được sinh ra bởi
sự hội tụ của nhiều yếu tố. Các yếu tố này đã được phân loại, bóc tách xuyên suốt quá trình
sản xuất. Điều đó góp phần lý giải nguyên nhân của nhiều hiện tượng, sự việc trong đời
sống sản xuất. Từ đó, các yếu tố ấy trở thành những điểm mốc cơ sở giúp con người tìm ra
đường lối phát triển nhằm tối đa hoá hoạt động sản xuất. Sự kết hợp của những nhân tố
trên tạo thành lực lượng sản xuất.
Khi xem xét kĩ càng về hoạt động sản xuất, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra con người
là một yếu tố then chốt. Việc này khiến mối quan hệ giữa con người với con người trải dài
dọc theo hoạt động sản xuất – tái sản xuất cũng ảnh hưởng mạnh mẽ tới toàn bộ quá trình.
b. Khái niệm phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quy trình sản xuất vật chất
ở từng giai đoạn nhất định của lịch sử.
Phương thức sản xuất đóng vai trò quy định đặc điểm, tính chất của từng chế độ xã
hội. Khi phương thức sản xuất thay đổi thì xã hội cũng thay đổi theo.
Ví dụ: Trong xã hội phong kiến Việt Nam, phương thức sản xuất chủ chốt là nông
nghiệp, tập trung khai thác sức người. Do đó, hiệu quả lao động không cao dẫn đến sự phân
chia giai cấp: địa chủ và nông dân; tạo nên mâu thuẫn giữa các giai cấp khi địa chủ lợi
dụng, bóc lột sức lao động của nông dân lao động.
Phương thức sản xuất được cấu thành bởi hai mặt: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
c. Khái niệm lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là tổng hợp tất cả các yếu tố vật chất, tinh thần tạo thành sức
mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên bằng khả năng
chinh phục thế giới tự nhiên của con người. 4
Lực lượng sản xuất được tạo nên bởi hai nhân tố: Người lao động và tư liệu sản xuất.
Chỉ khi nào có sự thống nhất giữa tư liệu sản xuất và người lao động thì mới là lực lượng sản xuất.
Ví dụ: Người nông dân đứng cạnh chiếc máy cày đã chết thì đó chưa phải là lực lượng
sản xuất. Vì chiếc máy cày đã mất đi khả năng sử dụng không được tính là tư liệu sản xuất,
không thuộc lực lượng sản xuất.
- Người lao động
Người lao động là việc con người biết sáng tạo, sử dụng công cụ lao động để sản xuất
ra những vật phẩm phục vụ nhu cầu trong đời sống. Con người là chủ thể chính của quá
trình sản xuất, lao động. Đây nhân tố quan trọng nhất, vì suy đến cùng, tư liệu sản xuất là
sản phẩm lao động của con người, hiệu quả sử dụng tư liệu sản xuất do con người quyết
định và trình độ của tư liệu sản xuất cũng do con người quyết định.
Khi sản xuất vật chất, con người tích luỹ kinh nghiệm, phát minh và sáng chế nhiều
sản phẩm, công cụ nhằm nâng cao năng suất. Đây là một trong các nguyên nhân góp phần
cải thiện trí tuệ con người qua các giai đoạn lịch sử. Vì vậy, nói rằng lực lượng sản xuất là
nhân tố vừa mang tính sáng tạo, vừa có tính lịch sử là bởi trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất phản ánh trình độ chinh phục thế giới tự nhiên của con người.
- Tư liệu sản xuất
Bên cạnh đó, tư liệu sản xuất là nhân tố quan trọng không kém, là cái mà người lao
động – con người sử dụng trong quá trình lao động sản xuất.
Tư liệu sản xuất gồm: Tư liệu lao động và đối tượng lao động.
• Tư liệu lao động là cái mà con người sáng tạo ra.
Gồm: Phương tiện lao động và công cụ lao động.
Ø Phương tiện lao động (hệ thống cơ sở vật chất, nhà xưởng, kho bãi, thiết bị, …)
Ø Công cụ lao động tác dụng trực tiếp vào đối tượng lao động, quy
định trực tiếp vào năng suất lao động.
Công cụ lao động được xem như yếu tố động và cách mạng, luôn
được cải tiến, phát triển và là thước đo cho trình độ chinh phục tự nhiên của con người.
Công cụ lao động là một tiêu chuẩn để đánh giá, phân biệt, so sánh
sự phát triển giữa các thời đại, giai đoạn lịch sử khác nhau. 5
Ví dụ: Người nông dân cày ruộng bằng con trâu trên một mảnh
ruộng thì công cụ lao động của người nông dân là con trâu.
• Đối tượng lao động bao gồm những vật chất có sẵn trong tự nhiên mà con người đã
tác động và những vật chất được trải qua quá trình lao động sản xuất trở thành sản phẩm.
Ví dụ: Những cái có sẵn trong tự nhiên là đất đai, rừng, biển, khoáng sản, …; những
cái đã qua bàn tay lao động con người là vải, bông, sợi, …
d. Khái niệm quan hệ sản xuất
Tuy lực lượng sản xuất là yếu tố cơ bản trong quá trình sản xuất, nhưng nếu chỉ duy
nhất lực lượng sản xuất đơn lẻ thì chưa thể diễn ra hoạt động sản xuất hoàn chỉnh mà còn
cần có những quan hệ xã hội đóng vai trò là hình thức xã hội.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản
xuất và tái sản xuất).
Quan hệ sản xuất bao gồm ba mối quan hệ kinh tế cơ bản: Quan hệ sở hữu với tư liệu
sản xuất; quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất; quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất.
Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác
động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Trong ba mối quan hệ trên, quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết
định hai mối quan hệ còn lại.
Ngoài ra, quan hệ sản xuất là do con người tự quy định nhưng chúng lại mang tính
chất khách quan, không phụ thuộc vào quyết định chủ quan của bất cứ cá nhân hay tổ chức
nào. Do đó, quan hệ sản xuất là vật chất dưới dạng xã hội. TIỂU KẾT:
Từ đây, ta thấy được rằng, khi xét về phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất chặt chẽ, gắn liền, đan xen nhau.
Sự tác động giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu thị quy luật chung chi
phối sự vận động và phát triển của các nền kinh tế tại mỗi thời điểm lịch sử nói riêng và
toàn bộ lịch sử xã hội của loài người nói chung. 6 2.
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và mối quan hệ sản xuất
a. Là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết
định quan hệ sản xuất
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống
nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản
xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Như đã giải thích, ta biết rằng, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ
bản, tất yếu của quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội trong khi lực
lượng sản xuất lại là nội dung vật chất của quá trình sản xuất. Nếu như lực lượng sản xuất
là khung xương sống của hoạt động sản xuất, quan hệ xã hội chính là những khớp nối những khung xương này.
Trong đời sống hiện thực, không có sự kết hợp các nhân tố của quá trình sản xuất để
tạo ra năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên nào lại có thể diễn ra bên
ngoài những hình thức kinh tế nhất định. Và ngược lại, cũng không có quá trình sản xuất
nào có thể diễn ra trong đời sống hiện thực chỉ với những quan hệ sản xuất không có nội dung vật chất của nó.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống
nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến, diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.
Tương đương với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất cũng đòi hỏi
phải có quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ đó trên cả ba phương diện:
Ø Sở hữu tư liệu sản xuất;
Ø Tổ chức – quản lý quá trình sản xuất;
Ø Phân phối kết quả của quá trình sản xuất.
Chỉ khi đó lực lượng sản xuất mới được duy trì, khai thác – sử dụng và không ngừng
phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội chỉ có thể được duy trì, khai thác
– sử dụng và phát triển trong một hình thức kinh tế - xã hội nhất định.
Biện chứng vốn có giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là khách quan do
quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở từng giai
đoạn lịch sử nhất định. Đó là do thuộc tính khác nhau của lực lượng sản xuất – nội dung
vật chất và quan hệ sản xuất – hình thức xã hội của quá trình lao động sản xuất. Tức là,
chính trình độ của lực lượng sản xuất đã quy định tính chất của lực lượng sản xuất. Điều
này được biểu hiện rõ nét nhất trong sự phân công lao động trong một xã hội.
Trong sự phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, một mặt, quan hệ
sản xuất luôn được quy định bởi lực lượng sản xuất. Mặt khác, bản thân quan hệ sản xuất 7
cũng có tính độc lập thể hiện qua khả năng tác động trở lại với sự vận động của lực
lượng sản xuất.
Sự tác động này có thể diễn ra theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực, thúc đẩy hoặc
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, phụ thuộc vào sự phù hợp hay không phù
hợp trong mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi mối quan hệ này phù hợp với nhau sẽ tạo nên tác dụng tích cực, nền sản xuất phát
triển đúng hướng, quy mô sản xuất được mở rộng, những thành tựu khoa học – công nghệ
được áp dụng nhanh chóng, người lao động hăng hái tham gia sản xuất, lợi ích người lao
động được bảo vệ và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, nếu không phù hợp
sẽ có tác dụng tiêu cực, phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm này chỉ diễn
ra trong những giới hạn, với những điều kiện nhất định.
Sự tác động biện chứng này đã diễn ra như một quy luật chung chi phối toàn bộ sự
vận động và phát triển của xã hội loài người. Nói cách khác, quan hệ sản xuất quy định
mục đích xã hội của nền sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích. Vậy nên quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản
xuất và hiệu quả sản xuất phát triển.
Trên khía cạnh đối lập còn lại, nếu như quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ
lực lượng sản xuất thì sẽ trở thành một trở ngại lớn, cản trở hành lang phát triển của toàn
bộ lực lượng sản xuất. Trong đó, trình độ lực lượng sản xuất ở đây chính là trình độ của
công cụ lao động; trình độ của người lao động; trình độ phân công lao động. Vậy cụ thể
khi nào thì quan hệ sản xuất phù hợp hay không phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất?
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất khi quan hệ sản xuất tạo
ra phương thức kết hợp tốt nhất giữa người lao động với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm.
Ví dụ: Nhà máy sản xuất ra nhiều hàng hoá chất lượng tốt với năng suất lao động tăng
lên cùng chiều với thái độ hăng hái lao động của công nhân viên.
Mặt khác, quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất khi quan hệ sản
xuất lạc hậu, lỗi thời so với trình độ lực lượng sản xuất hoặc quan hệ sản xuất vượt quá xa
trình độ lực lượng sản xuất.
Ví dụ: Sự cải tạo mang tính chiến dịch về việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất
diễn ra quá nhanh trong khi chất lượng, trình độ lao động của người lao động mặt bằng
chung chưa thể được cải thiện với tốc độ tương đương để đáp ứng.
Điều này khiến cho mặc dù lực lượng lao động về khía cạnh công cụ lao động có thể
được nâng cao phát triển nhưng người lao động chưa tìm được quan hệ sản xuất phù hợp,
chưa có khả năng chuyên môn hoá cao để tiếp cận các thiết bị, máy móc nhằm nâng cao năng suất. 8
b. Là mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hoá thành các
mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống
nhất có bao hàm khả năng chuyển hoá thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế - xã hội nhất định, lực
lượng sản xuất của xã hội sẽ được bảo tồn, khai thác – sử dụng và phát triển liên tục trong
quá trình sản xuất, tái sản xuất. Chính sự phát triển không ngừng nghỉ của lực lượng sản
xuất qua các trình độ khác nhau đã quy định và làm thay đổi quan hệ sản xuất sao cho phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ấy.
Vì công cụ lao động trong lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn được con người
cải tiến nên khi một phương thức sản xuất mới ra đời, quan hệ sản xuất chưa bắt kịp trình
độ phát triển của lực lượng lao động dẫn đến sự mâu thuẫn trong mối quan hệ này.
Những quan hệ sản xuất này từ chỗ là những hình thức phù hợp và cần thiết cho sự
phát triển của lực lượng sản xuất đã trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển đó.
Lúc này, những đòi hỏi khách quan tạo ra mâu thuẫn và xuất hiện nhu cầu thiết lập lại mối
quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất; nói cách khác là khiến quan hệ sản
xuất cũ dần bị thay thế bởi một quan hệ sản xuất mới.
Ví dụ: Khi lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, công cụ lao động thô sơ là đồ đá, cung
tên,… người lao động chỉ biết săn bắt, hái lượm, nếu muốn duy trì sự tồn tại, con người
buộc phải sống thành bầy đàn, sản xuất theo cộng đồng để bảo đảm sự sống cho nhau. Mối
quan hệ sản xuất này là quan hệ dựa trên chế độ cộng sản nguyên thuỷ.
Sau này, khi loài người bắt đầu biết trồng trọt, chăn nuôi, hoạt động sản xuất được cá
nhân hoá, sản xuất theo hộ gia đình và dần có hàng hoá thặng dư, quan hệ sản xuất tại chế
độ cộng sản nguyên thuỷ không còn phù hợp và tự tan rã bởi sự thay thế của quan hệ sản
xuất mới dựa trên chế độ tư hữu chủ nô.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sự
phù hợp trong mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất là nội dung thường xuyên
biến đổi – động với quan hệ sản xuất là hình thức xã hội ổn định – tĩnh.
Khi lực lượng sản xuất phát triển tới một giai đoạn nhất định, và những quan hệ sản
xuất thay đổi vai trò từ hình thức phát triển của lực lượng sản xuất thành “xiềng xích” của
các lực lượng sản xuất thì sẽ xảy ra những cuộc cách mạng xã hội với mục đích thay đổi phương thức sản xuất.
Dưới sự tác động nội tại của phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất cũ được thay thế
bằng quan hệ sản xuất mới. Đồng nghĩa với việc phương thức sản xuất cũ bị thế chỗ bởi
một phương thức sản xuất khác tiến bộ hơn nhờ những cuộc cách mạng xã hội. 9
Từ đó, quan hệ sản xuất mới phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất
và giúp mối quan hệ giữa chúng tiếp tục được khai thác, thúc đẩy tích cực.
Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình đi từ sự thống nhất đến những khác
biệt và đối lập, xung đột. Từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải được giải quyết
theo nguyên tắc “Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”.
Sự vận động của mâu thuẫn này cũng tuân theo quy luật “Từ những thay đổi về lượng
thành những thay đổi về chất và ngược lại” và quy luật “Phủ định của phủ định” khiến
quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội vừa diễn ra với tính chất tiệm tiến, tuần tự lại
có tính nhảy vọt, kế thừa và vượt qua của nó ở trình độ ngày càng cao.
Mâu thuẫn cùng sự vận động của mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là nội dung cơ bản của “Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất”. Sự tác động của quy luật đó tạo nên động lực với sự vận động,
phát triển của phương thức sản xuất, hoạt động sản xuất vật chất và toàn bộ đời sống xã hội. TIỂU KẾT:
Như vậy, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo tính
tất yếu khách quan với lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định quan hệ sản xuất.
Mối quan hệ này cũng bao hàm khả năng chuyển hoá thành các mặt đối lập, sinh ra
mâu thuẫn tại thời điểm lực lượng sản xuất phát triển tới một giai đoạn nhất định xung đột
với quan hệ sản xuất gây ra mâu thuẫn gay gắt, dẫn đến việc phá vỡ quan hệ sản xuất –
phương thức sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất – phương thức sản xuất mới phù hợp hơn.
Sự thay đổi ấy thường được xảy ra trong xã hội thông qua cách mạng xã hội. Và
chính nhờ vào việc phương thức sản xuất luôn vận động khiến xã hội liên tục được phát
triển từ hình thái này sang một hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. 10 II.
Vai trò của người lao động trong cách mạng 4.0 1. Khái quát chung
Sự phát triển của xã hội bắt nguồn từ việc lực lượng sản xuất tạo ra thặng dư cho xã
hội. Triết học Mác – Lênin đã dựa vào chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu về điều này
và làm rõ mối quan hệ giữa người lao động và tư liệu sản xuất.
Trước sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất, thế giới đã chứng kiến
những bước nhảy vọt của cách mạng khoa học. Có nhiều ý kiến cho rằng công nghệ hiện
đại dần thay thế vị trí trung tâm và vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất.
Dưới lăng kính của Triết học Mác – Lênin, vai trò của nhân tố người lao động lại luôn được
đề cao trong lực lượng sản xuất.
Vậy sau gần hai thế kỷ kể từ khi Triết học Mác – Lênin ra đời, người lao động có
vai trò như thế nào ở thời đại này – thời đại Cách mạng Công nghệ 4.0? 2.
Tính đúng đắn trong quan điểm về vai trò của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất a.
Vai trò của người lao động trong quá trình sản xuất vật chất
Chính trong quá trình lao động, con người đã bộc lộ bản chất của mình và thể hiện
vai trò động lực của sự phát triển sản xuất xã hội. Theo Triết học Mác – Lênin, trong mọi
phương thức sản xuất, con người luôn đứng ở vị trí trung tâm và giữ vai trò quyết định với
công cụ lao động và đối tượng lao động.
Con người tạo ra công cụ lao động, đưa ra kế hoạch, lựa chọn phương pháp và sử
dụng công cụ lao động để tạo ra vật chất. Tư liệu lao động dù có dồi dào và giàu có đến
đâu nếu thiếu đi trí tuệ, bàn tay của con người thì không thể phát huy tác dụng hay trở thành
lực lượng sản xuất của xã hội. Do đó, mọi sự tiến bộ của xã hội tới từ lực lượng sản xuất,
bắt nguồn từ chính người lao động. Nguồn lực của con người là tổng thể yếu tố thuộc về
vật chất, tinh thần, đạo đức, tri thức, địa vị, phẩm chất,… tạo thành năng lực của con người,
của cộng đồng. Năng lực đó khi được phát huy sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Con người là điểm khởi đầu, điểm kết thúc của mọi quá trình lịch sử. b.
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động
Chất lượng lao động bị ảnh hưởng chủ yếu bởi hai nhân tố gồm trình độ nhận
thức và điều kiện sức khoẻ của người lao động.
Trình độ nhận thức của người lao động của con người được quyết định bởi chất
lượng giáo dục và đào tạo – điều đóng vai trò quan trọng nhất trong việc khai thác tiềm
năng người lao động. Tri thức, kiến thức của con người không ngừng được định hướng 11
và trau dồi bởi các yếu tố ngoại cảnh tác động trực tiếp ngay từ khi sinh ra. Những yếu tố
này là môi trường sống, điều kiện sống, hoàn cảnh sống của một cá nhân. Bởi vậy, chất
lượng lao động chỉ được nâng cao khi trình độ nhận thức của toàn xã hội được cải thiện.
Và điều đó, quy trở về, lại đến từ sự tự giáo dục của mỗi cá nhân và sự giáo dục của gia
đình, xã hội với các thế hệ mới.
Điều kiện sức khoẻ cũng là nguyên tố trực tiếp tác động lên chất lượng lao động.
Sức khoẻ con người bao gồm sức khoẻ tinh thần và sức khoẻ thể chất. Chỉ khi hai yếu tố
sức khoẻ này được duy trì ổn định, giúp người lao động luôn ở trạng thái làm việc tốt
nhất, hiệu quả lao động mới được đảm bảo.
Ngoài ra, chất lượng lao động trên thực tế còn bị tác động bởi nhiều yếu tố khác. 3. Cách mạng 4.0
Cách mạng 4.0 được nhắc tới ở đây là một danh từ rút gọn của Cách mạng Công nghiệp
lần thứ tư. Khái niệm này lần đầu được giới thiệu bởi các nhà khoa học Đức năm 2011.
Công nghiệp 4.0 tập trung vào công nghệ kĩ thuật số. Cách mạng 4.0 mang đến sự bùng nổ
công nghệ. Các phát minh liên tục được phát triển, cải thiện với tốc độ khủng khiếp. Nhờ
vậy, các sản phẩm thông minh cũng được đưa vào quy trình sản xuất của vạn vật.
Những năm gần đây, sự chuyển mình mạnh mẽ của khoa học, Internet – mạng lưới
thông tin toàn cầu đã góp phần đưa Công nghiệp 4.0 đi xa hàng trăm năm so với sức tưởng
tượng của con người thế kỷ trước. Ngành công nghiệp này cung cấp cách tiếp cận liên kết
và toàn diện hơn cho hoạt động sản xuất của con người, cho phép con người kiểm soát chặt
chẽ quá trình sản xuất, có thể tận dụng dữ liệu tức thời.
Không chỉ dừng lại ở Internet, một điểm nhấn nổi bật khác trong Cách mạng 4.0 là công
nghệ Trí tuệ nhân tạo AI – lĩnh vực khoa học máy tính tạo ra những cỗ máy thông minh
có khả năng hoạt động và phản ứng như con người ngày càng phổ biến hơn. Máy móc có
năng suất cao hơn con người, lại có năng lực giải quyết vấn đề như con người, khiến việc
sản xuất được tối ưu hoá nguồn lực, tiết kiệm chi phí, dẫn đến năng suất được đẩy lên mức
gần như hiệu quả nhất.
Ví dụ: Tại tất cả các quốc gia trên thế giới hiện nay, công nghệ chuyển tiền qua mạng –
Internet Banking tích hợp nhiều tính năng thông minh – nhận diện vân tay, nhận diện khuôn
mặt để truy cập, … (như tại Việt Nam đã có Techcombank) phổ biến hết sức rộng rãi,
khách hàng không cần phải trải qua nhiều quy trình như cách đây một thập kỷ (gần như bắt
buộc phải tới các quầy giao dịch trực tiếp để rút tiền) để thực hiện trao đổi, mua bán.
Đặc điểm nổi bật nhất trong khoảng thời gian khởi đầu của kỷ nguyên 4.0 là việc máy
móc, thiết bị hiện đại được đưa vào thay thế con người trong các khâu sản xuất vốn từng
được vận hành bởi sức người. Điều này khiến chuỗi cung ứng, hệ thống sản xuất và dịch
vụ đáp ứng được với số lượng lớn, chất lượng cao. 12 4.
Vai trò của người lao động trong cách mạng 4.0
a. Vai trò của người lao động trong Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư
Trước đây, trong thời kỳ sản xuất thủ công, sức lực của người lao động được tận dụng
tối đa trong quá trình sản xuất. Đến thời kỳ sản xuất công nghiệp cơ khí, máy móc thay thế
con người trong một vài khâu sản xuất thủ công trong những dây chuyền đơn giản. Các
hoạt động vẫn dựa vào sức người để vận hành. Thế nhưng, Cách mạng 4.0 đã phát triển
công nghệ hiện đại với những dây chuyền tự động hoá có khả năng thâm nhập vào hầu hết
các lĩnh vực sản xuất cũng như trong đời sống.
Một số ý kiến cho rằng, con người đang mất đi vị thế vốn có trong toàn tiến trình lịch
sử trước đây đối với lực lượng sản xuất trong hoạt động sản xuất. Vậy chỗ đứng nào dành
cho con người khi mà những cỗ máy thông minh đang dần thay thế, thậm chí trong một
tương lai không xa, thay thế hoàn toàn người lao động trong hoạt động sản xuất vốn dĩ
được thực hiện bởi sức người?
Theo lý thuyết “Tính đúng đắn trong quan điểm về vai trò của nhân tố người lao
động trong lực lượng sản xuất” của Triết học Mác – Lênin, con người luôn đứng ở vị trí
trung tâm và giữ vai trò quyết định với công cụ lao động và đối tượng lao động.
Do đó, để lý giải cho nghi vấn trên, về thực chất, dù là thô sơ như cuốc, xẻng,… trong
quá khứ hay khoa học, công nghệ tân tiến như người máy, máy móc dây chuyền tự động,
… hiện nay thì đều là công cụ lao động phục vụ trong quá trình sản xuất.
Tức là, khoa học, kĩ thuật, công nghệ cao cấp đến mấy cũng chỉ là sản phẩm của quá
trình nhận thức, sản phẩm của sự phát triển trí tuệ của nhân loại. Khoa học, công nghệ vẫn
là công cụ phục vụ mục đích sản xuất của con người. Mọi khuynh hướng, tốc độ phát triển
của khoa học, công nghệ đều tới từ quyết định của con người. Nếu không có bàn tay, khối
óc của con người, những cỗ máy hiện đại, công nghệ vượt trội cũng chẳng thể phát triển,
hoạt động, phát huy tác dụng của chúng. Chúng đều phụ thuộc hoàn toàn vào những ý
tưởng do con người nghĩ ra, những chương trình phức tạp mà con người lập trình, những
thông tin do con người cài đặt và những quy trình giám sát chặt chẽ trong khâu vận hành
do con người xây dựng, điều khiển.
Con người giờ đây đóng vai trò duy trì và phát triển khoa học, công nghệ hướng tới
tối ưu hoá tuyệt đối công dụng của những cỗ máy thông minh. Hiểu theo cách khác, ở
thời đại này, con người dần tiến tới việc không trực tiếp tham gia vào công đoạn sản xuất
thủ công, mà nâng lên một cấp độ khác – gián tiếp điều khiển, giám sát, sửa chữa, cải thiện
những máy móc, thiết bị tự động trong quy trình sản xuất vật chất, tạo ra sản phẩm.
Chính vì thế, tuy chúng ta có thể khẳng định công nghệ đã tạo ra cuộc cách mạng vĩ
đại trong tiến trình tiến hoá của nhân loại, cụ thể hơn là sự phát triển của lực lượng sản
xuất trong hoạt động sản xuất vật chất nhưng chắc chắn chúng ta không thể phủ nhận một 13
thực tế hiển nhiên rằng khoa học chưa từng và sẽ không bao giờ có thể trở thành một yếu
tố độc lập, đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. b.
Con người cần làm gì trong thời đại 4.0?
Trong bối cảnh công nghệ phát triển thịnh vượng lúc này, sự kết hợp giữa Internet
và Trí tuệ nhân tạo đã trí tuệ hoá máy móc, biến những cỗ máy vô tri, vô giác có khả năng
phản ứng, phân tích, giải quyết vấn đề như con người, thậm chí với độ chính xác còn tinh
vi hơn rất nhiều so với con người. Thế thì con người phải làm gì ở thời đại này để tiếp tục
sứ mệnh phát triển lực lượng sản xuất, tối đa hoá năng suất và cải thiện hoạt động sản xuất?
Chắc chắn, với sự tham gia của công nghệ, người lao động không còn cần sử dụng
quá nhiều tới sức mạnh cơ bắp như những thời kì trước đây. Thứ ưu tiên hơn cả ở thời
đại này chính là những sản phẩm được kết tinh bởi lao động trí tuệ do con người làm
chủ. Nhờ khoa học, chính những hàng hoá vật chất hiện nay cũng đã thay đổi tỷ trọng về
thành phần của tổng giá trị. Phần lớn, hàng hoá giờ đây không còn phụ thuộc vào yếu tố
đầu vào là nguyên liệu sản xuất hay sức lực con người nữa mà phụ thuộc nhiều hơn vào
hàm lượng tri thức của người lao động.
Điều này nói lên một điểm sáng mới trong quan điểm của Triết học Mác – Lênin
rằng, để thích nghi với nền sản xuất hiện đại, người lao động rất cần tới kiến thức. Và tri
thức con người trở thành yếu tố đầu vào quan trọng nhất trong quá trình vật chất. Giáo
dục tri thức, kích thích sáng tạo cho thế hệ trẻ để nâng cao nền tảng tư duy, nhận thức của
mặt bằng chung trí tuệ nhân loại buộc phải đưa lên thành ưu tiên hàng đầu nhằm thích nghi
tối đa với sự đi lên của hoạt động sản xuất vật chất toàn cầu ngày nay.
Xét theo hai yếu tố chi phối chất lượng lao động mạnh mẽ nhất là Trình độ nhận
thức và Điều kiện sức khoẻ của người lao động, tuy rằng việc giáo dục nhận thức được ưu
tiên để con người tiếp cận, ứng dụng tri thức trong lao động, đời sống, chúng ta cũng đồng
thời phải nâng cao điều kiện sức khoẻ cả về khía cạnh thể xác và tinh thần. Nếu bất cứ yếu
tố nào bị bỏ mặc sẽ dẫn tới sự mất cân bằng và hiệu quả sản xuất sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.
Trên diện rộng, điều này có thể gây ra nhiều vấn đề về thiếu hụt vật chất. TIỂU KẾT:
Trong bất cứ thời đại nào, kể cả thời đại của công nghệ hiện nay thì vẫn có một sự
thật luôn đúng rằng con người vẫn là nhân tố đóng vai trò quyết định sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Dù quan trọng, khoa học – công nghệ vẫn chỉ là công cụ lao động phục vụ
mục đích sản xuất của con người.
Và để tiếp tục phát triển, cải thiện hoạt động sản xuất ở thời đại Cách mạng Công
nghiệp 4.0, con người cần ưu tiên việc trau dồi tri thức, nhận thức, cùng với đó đảm bảo
duy trì điều kiện sức khoẻ ở mức ổn định, lý tưởng để tối đa hiệu quả lao động. 14 KẾT LUẬN
Trong quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, khi xét về phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt
thống nhất chặt chẽ, gắn liền, đan xen nhau. Trong đó, với lực lượng sản xuất, tuy có tích
hợp nhiều yếu tố nhưng Người lao động là nhân tố đóng vai trò then chốt, chìa khoá. Sự
tương tác qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu thị đặc trưng sự phát
triển trong mỗi thời đại xuyên suốt tiến trình lịch sử phát triển của xã hội loài người nói
chung và hoạt động sản xuất nói riêng. Mối quan hệ này là khách quan. Lực lượng sản xuất
quyết định trực tiếp quan hệ sản xuất.
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và mối quan hệ sản xuất là một mối
quan hệ biện chứng mà lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, bao gồm khả năng
chuyển hoá thành các mặt đối lập, tạo nên những mâu thuẫn tại từng thời điểm, khi lực
lượng sản xuất tiến đến một giai đoạn nhất định thì sẽ xảy ra xung đột với quan hệ sản xuất
và dẫn tới mối quan hệ đang tồn tại tại thời điểm đó giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất bị phá vỡ và thay thế, đồng nghĩa với việc phương thức sản xuất cũ được thế chỗ
bởi một phương thức sản xuất mới, phù hợp hơn, tối ưu hơn – cái mà có thể giúp con người
thích nghi tối đa với môi trường sống. Sự thay đổi mang tính toàn xã hội này xảy ra thông
qua cách mạng xã hội. Nhờ sự vận động không ngừng nghỉ này mà xã hội không ngừng
phát triển từ hình thái này sang hình thái khác, tạo nên sự đa dạng hình thái kinh tế - xã hội
trong dòng chảy lịch sử.
Dù đã được đặt nền móng và trải qua nhiều giai đoạn thay đổi, phát triển, sau hai thập
kỷ, quan điểm của Triết học Mác – Lênin về vai trò của người lao động vẫn giữ được lập
trường cố định về tính đúng đắn, kể cả ở thời đại mới – Cách mạng Công nghệ lần thứ tư
– Cách mạng 4.0, khi mà khoa học – công nghệ hiện đại xâm nhập mạnh mẽ vào mọi lĩnh
vực sản xuất hàng hoá, vật chất và đời sống sinh hoạt của loài người, với độ bao phủ ở gần
như mọi quốc gia trên thế giới. Tuy khoa học – công nghệ thông minh đã đưa con người đi
tới cuộc đại cách mạng, chúng vẫn chỉ là những công cụ lao động được tạo ra, vận hành
bởi con người, phục vụ mục đích sản xuất của con người, chúng chưa và không bao giờ trở
thành một yếu tố độc lập trong quá trình sản xuất mà luôn phụ thuộc vào bàn tay – khối óc
của con người, sự quyết định của con người.
Trước những bước nhảy vọt liên tiếp của công nghệ trong kỷ nguyên 4.0, sức mạnh
cơ bắp không còn chiếm ưu thế trong quá trình sản xuất, trí tuệ con người mới là thứ được
đặt lên hàng đầu, cân bằng với điều kiện sức khoẻ lý tưởng. Kéo theo đó chính là sự bùng
nổ thông tin trong kho tàng tri thức của nhân loại, yêu cầu các thế hệ mới tiếp thu, học hỏi
để có thể thừa kế những tinh hoa do các thế hệ trước để lại nhằm duy trì, khắc phục, tạo
động lực cho sự phát triển của hoạt động sản xuất, đời sống xã hội.
Để đạt được tới “khát vọng phồn vinh kinh tế” được nhắc tới ở phần mở đầu, Việt
Nam ta cần chú trọng vào giáo dục, nâng cao tri thức, thể chất cho thế hệ cũ, cũng các thế
hệ tiếp nối. Sau cùng, đây chính là chìa khoá mở ra cánh cửa phát triển lâu dài cho đất
nước, thậm chí là toàn nhân loại. 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách
Bộ Giáо dục Đàо tạо > Giáо trình Triết học Mác - Lênin > Hà Nội > 2019
Bộ Giáо dục Đàо tạо > Giáо trình Triết học Mác - Lênin > Hà Nội > 2021 2. Tài liệu mạng
https://baochinhphu.vn/thu-tuong-cmcn-40-la-co-hoi-de-thuc-hien-khat-vong-phon-vinh- 102241656.htm
https://en.wikipedia.org/wiki/Fourth_Industrial_Revolution
http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/gia-tri-cot-loi-cua-chu-nghia-mac-lenin-ve-moi-
quan-he-giua-luc-luong-san-xuat-va-quan-he-san-xuat--phan-1.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_c%E1%BB%A5_lao_%C4%91%E1%BB%9 9ng
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C6%B0%C6%A1ng_th%E1%BB%A9c_s%E1%BA% A3n_xu%E1%BA%A5t
https://www.academia.edu/65907376/THE_LAW_OF_PRODUCTION_RELATIONS_I
S_CONSISTENT_WITH_THE_DEVELOPMENT_LEVEL_OF_THE_PRODUCTIVE_
FORCES_IN_MARXIST_LENINIST_PHILOSOPHY_AND_ITS_APPLICATION_TO
_THE_PROCESS_OF_BUILDING_SOCIALISM_IN_VIETNAM
file:///Users/chungocchauanh/Downloads/sustainability-13-03095-v3.pdf
https://files.eric.ed.gov/fulltext/EJ1318795.pdf
https://lecourrier.vn/la-revolution-industrielle-40-menace-les-travailleurs-non- qualifies/907675.html
https://lvsl.fr/industrie-4-0-le-numerique-au-service-du-profit-pas-des-travailleurs/ 16