



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61432759
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN: NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH _____ _____ BÀI TẬP LỚN
Môn: Triết học Mác Lê-nin BÀI TẬP LỚN
PHÂN TÍCH QUY LUẬT NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ PHÂN TÍ T CH HA Y Q ĐỔ UY I VỀ C LUẬT H N ẤT HỮ VÀ NG NGƯ THA Ợ Y C ĐỔLẠI I . VỀ TỪ ĐÓ RÚT LƯ RA ỢNG Ý N D G ẪN H Đ ĨA PHƯ ẾN SỰ ƠN TH G A Y PH Đ Á Ổ P I LUẬ VỀ C N H TR ẤT ON VÀ G NGƯỢC L NG ẠI. T ÀNH HỌC Ừ ĐÓ RÚT CỦA RA Ý EM NGHĨA PHƯƠNG
PHÁP LUẬN TRONG NGÀNH HỌC CỦA EM. Họ tên: Đỗ Thu Hương Lớp: 64 G – TCNH MSV: 11222663
Hà Nội, năm 2023 lOMoAR cPSD| 61432759 MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU:..............................................................................................................2
B. NỘI DUNG:..........................................................................................................3
1. Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược
lại:.....................................................................................................................3
1.1. Giới thiệu về quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại:........................................................................................3
1.2. Khái niệm “Chất”:.....................................................................................3
1.3. Khái niệm “Lượng”:..................................................................................5
1.4. Nội dung quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại:........................................................................................7
1.5. Ý nghĩa phương pháp luận:.......................................................................10
2. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật đối với ngành học của em:...............11
2.1. Sự khác biệt giữa việc học THPT và học Đại học:...................................11
2.2 Giới thiệu về trường đại học Kinh tế Quốc dân:........................................12
2.3. Giới thiệu về ngành Tài chính Ngân hàng:...............................................13
2.4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật đối với ngành học Tài chính –
Ngân hàng:..................................................................................................13
C. LỜI KẾT: .............................................................................................................19
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO: ...................................................................................20 A.MỞ ĐẦU:
V.I Lênin từng viết: “Khái niệm quy luật là một trong những giai đoạn của sự
nhân thức của con người về tính thống nhất và về liên hệ, về sự phụ thuộc lẫn nhau
và tính chỉnh thể của quá trình thế giới.“ Theo dòng chảy lịch sử và phát triển của
loài người, con người thông qua lao động đã dần dần nhận thức được tính trật tự và
mối liên hệ có tính lặp đi lặp lại của các hiện tượng của tự nhiên và xã hội, từ đó lOMoAR cPSD| 61432759
hình thành nên khái niệm “quy luật”. Quy luật là “mối liên hệ phổ biến, khách quan,
bản chất, bền vững, tất yếu giữa các đối tượng và nhất định tác động khi có các điều kiện phù hợp.”
Quy luật luôn mang tính khách quan, luôn tồn tại trong thực tiễn, diễn ra mà
không cần có sự nhận thức hay tư duy của con người, đồng nghĩa với việc con người
dẫu có nhận ra quy luật cũng không có cách nào tác động hay làm thay đổi những
quy luật khách quan này. Nhận thức được tính khách quan của quy luật, con người
tích cực vận dụng những quy luật vào trong thực tiễn đời sống xã hội, nếu không
thể tác động đến chúng, làm biến dạng chúng, thì con người có thể vận dụng chúng,
dựa trên chúng để làm thay đổi tự nhiên và xã hội. Quy luật chuyển hóa từ những
thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại là một trong ba quy
luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, chỉ ra mối liên hệ giữa lượng và chất, từ
đó chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển.
Với tri thức còn hạn chế, em đã lựa chọn đề tài “Phân tích Quy luật chuyển
hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, từ đó
liên hệ với ngành học của em” với mong muốn đem lại nhận thức cho bản thân dẫn
đến hành động thực tiễn từ việc áp dụng quy luật vào đời sống.
Em mong sẽ nhận được những lời nhận xét, góp ý từ thầy cô để hoàn thiện
bản thân hơn trên con đường học tập. Em xin chân thành cảm ơn! B.NỘI DUNG
1. Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại:
1.1. Giới thiệu về quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay
đổi về chất và ngược lại:
Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất là một trong
ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Vị trí của quy luật: Quy luật này
chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi lOMoAR cPSD| 61432759
về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích lũy những thay đổi về lượng đạt
đến ngưỡng nhất định. Việc nhận thức quy luật này có ý nghĩa sâu sắc và to lớn
trong thực tiễn mỗi khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng. Nếu nhận thức
không đúng quy luật này, con người dễ bị dẫn đến hiện tượng “tả khuynh” hoặc
“hữu khuynh”. “Tả khuynh” có thể hiểu là tư tưởng chủ quan nóng vội, muốn đốt
cháy giai đoạn, muốn sớm có sự thay đổi về lượng nhưng lại không tính đến việc
tích lũy về chất. “Hữu khuynh” là tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện
“bước nhảy” (sự thay đổi về chất) khi đã có sự tích lũy đủ về lượng. Vậy nên, để có
thể thành công trong đời sống, xã hội, ta cần có nhận thức sâu sắc và đầy đủ về quy
luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, tránh
tuyệt đối cả tư tưởng “tả khuynh” lẫn “hữu khuynh”.
1.2. Khái niệm “Chất”:
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự
vật, hiện tượng là nó chứ không phải là cái khác ( Giúp trả lời câu hỏi sự vật, hiện
tượng đó là gì? Giúp phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác). Ví dụ, khi ta phát
biểu về các chất: màu đỏ, vị cay, nhỏ, đầu chót nhọn như mũi khoan,... ta có thể
nhận ra ta đang phát biểu đến những chất của quả ớt, những chất đó giúp phân biệt
quả ớt với các loại quả khác.
Đặc điểm cơ bản của chất là nó thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật,
hiện tượng; nghĩa là khi nó chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất
của nó vẫn còn chưa thay đổi. Đặc điểm này có nghĩa là chất có thay đổi, nhưng
thay đổi khá chậm, mang tính ổn định, tương đối. Ta lấy ví dụ như: Chất của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hiện nay, nước ta là một nước đang
phát triển, trong tương lai nhà nước đang cố gắng để đưa Việt Nam trở thành đất
nước “phát triển”, và chất “đang phát triển” này mang tính ổn định, tương đối của lOMoAR cPSD| 61432759
Việt Nam trong thời điểm hiện nay và trong tương lai, ổn định trong một quá trình dài.
Ngoài ra, mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua
nhiều giai đoạn, trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Trong từng giai đoạn,
mỗi sự vật, hiện tượng lại có những biểu hiện khác nhau về chất. Trong tự nhiên,
con người khi sinh ra, trong giai đoạn đầu tiên của cuộc đời, con người mang chất
trẻ sơ sinh (ngủ nhiều, chưa biết nói, hay khóc), theo thời gian, con người mang
chất thanh thiếu niên (đi học, có sự thay đổi về vóc dáng, tính cách), khi đến giai
đoạn trưởng thành, con người có chất người trưởng thành (đi làm, chín chắn hơn),
và khi về già, con người mang chất người cao tuổi ( thể trạng yếu hơn, trí nhớ không
còn minh mẫn nữa). Như vậy, với mỗi giai đoạn của cuộc đời, con người lại có
những biểu hiện khác nhau về chất.
Như vậy, mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất mà có nhiều chất khác
nhau. Đặc điểm này ta có thể dễ dàng bắt gặp trong thực tiễn và được thực tiễn
chứng minh, vì mỗi sự vật có muôn vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính lại có một phức
hợp những đặc trưng về chất của mình, khiến mỗi thuộc tính ấy lại trở thành một chất.
Chất của một sự vật, hiện tượng được thể hiện qua thuộc tính của nó. Trong
đó có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản, nhưng chỉ thuộc tính cơ bản
mới tạo nên chất, bởi đó là loại chất mà nếu mất đi, sự vật cũng mất đi. Chất căn
bản sẽ quy định sự tồn tại, phát triển hay tiêu vong của sự vật. Tuy nhiên sự phân
chia để phân biệt giữa hai thuộc chất cơ bản và thuộc chất cơ bản chỉ mang tính
tương đối. Ranh giới giữa thuộc chất cơ bản và thuộc chất không cơ bản là vô
cùng mong manh, bởi trong thực tiễn, có những chất là thuộc chất cơ bản của
một sự vật, hiện tượng, nhưng đối với sự vật, hiện tượng khác thì chỉ là thuộc
chất không cơ bản. Ví dụ, khi ta so sánh con người với những loài động vật khác, lOMoAR cPSD| 61432759
ta nhắc đến chất cơ bản của con người là ngôn ngữ, lao động, .... Những thuộc
chất cơ bản ấy làm nên chất của con người, nhằm so sánh con người với những
loài động vật khác. Tuy nhiên, khi ta đặt mối quan hệ so sánh con người với con
người, ta không thể lấy ngôn ngữ, lao động làm chất để so sánh, bởi ngôn ngữ,
lao động không phải là những thuộc chất cơ bản để phân biệt giữa con người với
con người, vậy trong trường hợp này, ngôn ngữ, lao động không còn là thuộc
chất cơ bản của con người nữa, mà thuộc chất cơ bản phải là đạo đức, tính cách,
ngoại hình, vân tay,...để so sánh, phân biệt giữa con người với con người.
Chất của sự vật, hiện tượng không những được quy định bởi những yếu tố
tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố trở thành, nghĩa là
bởi yếu tố sự vật. Trong một tập thể nhất định nếu phương thức liên kết giữa các
cá nhân biến đổi thì tập thể đó có thể trở nên vững mạnh hoặc sẽ trở thành yếu
kém, nghĩa là chất của tập thể biến đổi. Từ đó có thể thấy sự thay đổi về chất
của sự vật phụ thuộc cả vào sự thay đổi các yếu tố cấu thành sự vật lẫn sự thay
đổi phương thức liên kết các yếu tố ấy.
1.3. Khái niệm “Lượng”:
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố thể hiện ở số lượng các
thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động
và phát triển của sự vật , hiện tượng. Lượng còn biểu hiện ở kích thước dài hay
ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ
vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt.... Chẳng hạn như, để làm nên
một chiếc bánh ngọt, ta cần lượng bột nhất định là 500 gram, lượng đường nhất
định là 20 gram, lượng nước nhất định là 700ml nước,...
Đặc điểm cơ bản của lượng là tính khách quan vì nó là một dạng biểu hiện
của vật chất, chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong một
không gian nhất định. Lượng là cái vốn có của sự vật, song lượng chưa làm cho lOMoAR cPSD| 61432759
sự vật là nó, chưa làm cho nó khác với những cái khác. Vậy nên, lượng tồn tại
cùng với chất của sự vật và cũng có tính khách quan như chất của sự vật.
Trong sự vật, hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau; có lượng là yếu tố
quy định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện
tượng; hiện tượng, sự vật càng phức tạp thì lượng của chúng cũng càng phức tạp
theo. Xét đến trong thực tiễn và xã hội, đa số lượng có thể cân đo đong đếm
được (Ví dụ như: dân số của thế giới là 8 tỷ người, trong bình có 450ml nước,
vận tốc của chiếc xe máy đang di chuyển trên đường trên một giây ...), tuy nhiên,
trong một số trường hợp của xã hội và nhất là trong tư duy, lượng khó có thể đo
được bằng số liệu hay một con số cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được bằng năng
lực trừu tượng hóa. (Ví dụ: lượng kiến thức mà một người có thể tiếp thu được
sau 12 năm đi học, lượng tình cảm một người dành cho cha mẹ và gia đình của
họ, trình độ dân trí của một người, ý thức tham gia các hoạt động thiện nguyện
của xã hội là cao hay thấp...)
Mối quan hệ giữa lượng và chất chỉ mang tính chất tương đối, tùy trong từng
mối quan hệ mà xác định được đâu là lượng đâu là chất. Trong mối quan hệ này
có thể là lượng, nhưng xét đến một mối quan hệ khác lại là chất. Chẳng hạn,
trong một tiểu đoàn có nhiều chiến sĩ giỏi, trong mối quan hệ này, nhiều binh sĩ
giỏi chính là lượng, nhưng nhiều binh sĩ giỏi đó sẽ làm nên một tiểu đoàn xuất
sắc, xét đến mối quan hệ này, nhiều binh sĩ giỏi lại là chất của một tiểu đoàn.
Đặc điểm này cho thấy rằng là dù số lượng cụ thể quy định thuần túy về lượng,
song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự vật, hiện tượng.
1.4. Quy luật sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại:
a. Những khái niệm liên quan: lOMoAR cPSD| 61432759
Khái niệm Độ: Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy
định lẫn nhau giữa chất với lượng, là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà
trong đó sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; khiến cho sự vật,
hiện tượng vẫn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.
Khái niệm Điểm nút: Điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đạt tới
chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất
mới, thời điểm mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy, gọi là điểm nút.
Khái niệm Bước nhảy: Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển
hóa cơ bản về chất của sự vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây
ra, là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng. Bước nhảy kết thúc một giai
đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự
vật, hiện tượng. Tùy vào sự vật, hiện tượng, tùy vào mâu thuẫn vốn có của chúng
và vào điều kiện, trong đó diễn ra sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà có
nhiều hình thức bước nhảy.
Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật, có thể phân chia
thành bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần. Bước nhảy đột biến là bước nhảy
được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu
cơ bản của sự vật. Chẳng hạn, khối lượng Uranium 235(Ur 235)được tăng đến khối
lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát. Bước nhảy dần dần là
bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần dần những nhân
tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi. Bước nhảy dần dần
khác với sự thay đổi dần dần về lượng của sự vật. Bước nhảy dần dần là sự chuyển
hoá dần dần từ chất này sang chất khác còn sự thay đổi dần dần về lượng là sự tích
luỹ liên tục về lượng để đến một giới hạn nhất định sẽ chuyển hoá về chất. Ví dụ
quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần dần.Vì là một quá trình lOMoAR cPSD| 61432759
phức tạp, trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận của
sự vật ấy. Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, có bước nhảy toàn bộ và
bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ
các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi
chất của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật. Ví dụ như trong hiện thực, các
sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ
phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng
ta đang thực hiện những bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị,
lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tinh thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Khi lượng biến đổi đến điểm nút thì
diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay thế cho chất cũ, sự vật mới ra đời thay thế
cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới này tiếp tục biến đổi đến điểm nút mới
lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như vậy, quá trình vận động, phát triển của sự vật diễn
ra theo cách thức từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất một
cách vô tận. Đó là quá trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính
gián đoạn, nhảy vọt trong sự vận động, phát triển.
b. Quy luật sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại:
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất
và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện
chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển hóa về chất của sự vật,
hiện tượng. Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự
thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự
thay đổi về chất. Giới hạn đó được gọi là Độ. Trong giới hạn của độ, sự vật hiện
tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật hiện tượng khác. Sự biến đổi
của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi lượng thay đổi
đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới hạn đó được lOMoAR cPSD| 61432759
gọi là Điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện
nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là Bước nhảy trong
quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc
một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời đó cũng là điểm khởi đầu cho một
giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự
vật. Trong thế giới luôn luôn diễn ra qúa trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến
bước nhảy về chất, tạo ra một đường nút vô tận, thể hiện cách thức vận động và
phát triển của sự vật từ thấp đến cao. Ph.Ăngghen khái quát tính tất yếu này: “Những
thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định sẽ chuyển hóa thành những
sự khác nhau về chất”.
Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ nhưng cũng
mang trong mình tính mâu thuẫn vốn có trong sự vật. Lượng thì thường xuyên biến
đổi còn chất có xu thế ổn định. Do đó, khi lượng phát triển đến một mức độ nhất
định nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ, yêu cầu tất yếu là phải thay đổi chất cũ, mở
ra một độ mới cho sự phát triển của lượng. Sự chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, điễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong một điều kiện nhất định đáp ứng được sự biến đổi về lượng, một sự
vật, hiện tượng sẽ có sự biến đổi về lượng, đến một mức độ nhất định, nó sẽ phá vỡ
chất cũ. Lúc này mâu thuẫn giữa lượng và chất được giải quyết, chất mới được hình
thành với một lượng mới. Tuy nhiên bản chất của lượng là vận động nên nó sẽ
không đứng yên mà sẽ tiếp tục vận động đến một thời điểm nào đó nó sẽ làm phá
vỡ chất hiện tại. Quá trình vận động giữa hai mặt Lượng và chất tác động với nhau
qua hai mặt: Chúng tạo nên sự vận động liên tục và không dừng lại. Lượng sẽ biến
đổi dần dần và tạo nên chất mới, hay nói cách khác, lượng biến đổi dần dần và tạo
nên bước nhảy vọt. Sau đó chúng tiếp tục biến đổi dần và tạo nên bước nhảy vọt lOMoAR cPSD| 61432759
tiếp theo. Xét đến cùng thì nội dung quy luật lượng chất là bất cứ một sự vật, hiện
tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
Sự biến đổi này của lượng sẽ tạo nên sự mâu thuẫn giữa lượng và chất. Khi
chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động trở lại
lượng của sự vật trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
Tóm lại: “Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi
dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về
chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi
của lượng mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến đổi.
1.5. Ý nghĩa phương pháp luận:
Thứ nhất, xét đến cùng, bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có cả chất và
lượng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau,
do đó, trong nhận thức và thực tiễn cần coi trọng cả hai chỉ tiêu về phương diện chất
và lượng để nhận thức một cách toàn diện về sự vật. Phương pháp này giúp ta tránh
được tư tưởng “tả khuynh” chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn”
muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
Thứ hai, vì những thay đổi về lượng có khả năng tất yếu dẫn đến những thay
đổi về chất của sự vật và ngược lại, do đó, trong nhận thức và thực tiễn tùy theo
mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự vật.
Thứ ba, tuy quy luật có tính khách quan, nhưng quy luật xã hội chỉ diễn ra
thông qua hoạt động có ý thức của con người, vì vậy trong hoạt động thực tiễn,
không những cần xác định quy mô nhịp điệu bước nhảy một cách khách quan, khoa
học, chống giáo điều, rập khuôn, mà còn phải có quyết tâm và nghị lực để thực hiện lOMoAR cPSD| 61432759
bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi, chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện bước
nhảy khi điều kiện cho phép, chuyển thay đổi mang tính tiến hóa thành thay đổi mang tính cách mạng.
Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó,
phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó
trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
2. Ý nghĩa phương pháp luận đối với ngành học của em:
2.1. Sự khác nhau về việc học THPT và học ĐH:
Trước tiên, ta xét đến thời gian học: nếu như ở chương trình cấp bậc THPT,
một môn học kéo dài tới 1 năm thì ở đại học, một môn học chỉ kéo dài từ 2 tới 3
tháng, thậm chí là ngắn hơn. Ta có thể thấy rõ ràng rằng, thời gian học ngắn đi đồng
nghĩa với việc khối lượng kiến thức tăng lên rõ rệt, khiến cho sinh viên, đặc biệt là
năm nhất dễ dàng bị “ngợp” bởi khối lượng kiến thức phải nạp khổng lồ trong một
khoảng thời gian ngắn. Không chỉ chênh lệch về lượng kiến thức mà còn có sự đa
dạng về kiến thức ở bậc đại học và trung học phổ thông. Sinh viên đại học cần phải
tự học, tự nghiên cứu, tham gia vào nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình, hoạt động
ngoại khóa,.. để làm những bài tập lớn yêu cầu làm việc nhóm cao. Chính những
thay đổi về lượng kiến thức, thời gian và cách học đã khiến nhiều tân sinh viên khó
thích nghi với môi trường học tập và giáo dục mới. Ý thức tự giác là yếu tố quan
trọng nhất bởi giảng viên ở cấp bậc Đại học chỉ giảng dạy những kiến thức trọng
tâm, giải đáp thắc mắc từ sinh viên chứ không “cầm tay uốn nắn”, sát sao từng bước
như giáo viên ở cấp bậc THPT, như vậy tinh thần tự học sẽ được phát huy rõ rệt.
Có thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá trình biến
đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy mà mỗi sinh viên cần phải thích nghi, thay lOMoAR cPSD| 61432759
đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với môi trường đại học để đạt được những thành
tích cao trong quá trình học tập và nghiên cứu của mình.
2.2. Giới thiệu về trường Đại học Kinh tế Quốc dân:
Trường đại học Kinh tế quốc dân có tên tiếng Anh là National Economics
University (viết tắt là NEU), được thành lập vào tháng 1 năm 1956. Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân hiện đang đào tạo 33 ngành với 80 chương trình đào tạo, trong
đó có 8 chương trình đào tạo bằng Tiếng Anh, 3 chương trình Tiên tiến; 10 chương
trình Chất lượng cao; 5 chương trình định hướng ứng dụng (POHE) và hơn 20
chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài. Các ngành và chương trình đào tạo
của Trường gần như bao trùm toàn bộ các lĩnh vực của nền kinh tế. Đến nay, trải
qua hơn 60 năm xây dựng và phát triển, Trường luôn giữ vững vị trí là một trong
những trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh hàng đầu Việt Nam.
2.3. Giới thiệu về ngành Tài chính – Ngân hàng:
Việt Nam là nền kinh tế có thể được xếp vào nhóm có hệ thống tài chính dựa
vào ngân hàng (bank-based financial system). Một số số liệu ước tính cho thấy, 70%
vốn của thị trường tài chính và 75-80% vốn của doanh nghiệp là vốn tín dụng ngân
hàng. Trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng mạnh như hiện nay, tài chính ngân
hàng là ngành nghề rất cần thiết với hầu hết các doanh nghiệp, cơ quan vì nó liên
quan đến các dịch vụ luân chuyển tiền tệ, ngành tài chính ngân hàng còn đóng vai
trò định hướng chiến lược chính sách tiền tệ. Tựu chung lại, ngành tài chính ngân
hàng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế bền vững. Nhận
thức được điều đó, em đã lựa chọn ngành học này tại Viện Ngân hàng – Tài chính
trường Đại học Kinh tế quốc dân. Viện Ngân hàng – Tài chính là đơn vị đầu tiên và
duy nhất trong suốt một thời gian dài tại Việt Nam được phép đào tạo cán bộ Ngân
hàng – Tài chính có trình độ đại học và trên đại học kể từ ngày thành lập 1956. Suốt lOMoAR cPSD| 61432759
65 năm hình thành và phát triển, viện Ngân hàng – Tài chính thuộc đại học Kinh tế
Quốc dân luôn vững vàng là đơn vị hàng đầu trong lĩnh vực giảng dạy các chuyên
ngành trong lĩnh vực này, đặc biệt là chuyên ngành Tài chính – Ngân hàng, Chuyên
ngành bao gồm các hoạt động đến các dịch vụ giao dịch, luân chuyển tiền tệ thông
qua ngân hàng, các công ty tài chính và các công cụ tài chính do ngân hàng phát
hàng trong nội địa và quốc tế. Ngành này là một ngành khá rộng và bao gồm nhiều
lĩnh vực nhỏ và chuyên sâu như ngân hàng, tài chính bảo hiểm, tài chính thuế, tài
chính doanh nghiệp, kinh tế học tài chính,…
2.4. Ý nghĩa phương pháp luận đối với ngành học Tài chính – Ngân hàng:
Muốn thành công phải tích lũy kiến thức từng ngày, từng giờ, từng phút
một cách chính xác, đầy đủ.
Dễ dàng nhận ra rằng, sự vận động và phát triển của sự vật là điều tất yếu,
kiến thức cũng vậy, luôn được cập nhập, thay đổi, phát triển từng ngày, từng giờ.
Nhận thức được điều đó, ta cần tích lũy kiến thức dần dần về lượng đến một giới
hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Ví dụ: Để có thể tốt nghiệp
được Đại học Kinh tế quốc dân, em cần phải tích lũy đủ số lượng các tín chỉ của
các môn học, tích lũy điểm rèn luyện cũng như thời gian thực tập. Có thể coi học
tập là quá trình tích lũy về lượng, điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy. Do
đó, trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy
về lượng ( tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật. Sinh viên
mỗi ngày đều cần phải đến trường để học tập, tiếp thu những kiến thức mới từ giảng
viên cũng nghiên cứu, tìm tòi qua sách vở để tích lũy kiến thức (lượng). Sinh viên
cần phải rèn luyện tích luỹ kiến thức của sinh viên trong 4 năm trên giảng đường,
từ thầy cô hay các kì thực tập (lượng), sau khi tích lũy đủ lượng, sinh viên sẽ phải
đối mặt qua các kỳ thi, kiểm tra (điểm nút), sinh viên làm bài kiểm tra (bước nhảy), lOMoAR cPSD| 61432759
khi thực hiện bước nhảy thành công nghĩa là sinh viên đã có sự thay đổi về chất (kết quả học tập).
Như vậy, là một sinh viên ngành Tài chính – Ngân hàng, em nhận ra rằng,
học tập là một quá trình học tập và rèn luyện dài, vì vậy, ta phải không ngừng nghỉ
tiếp thu tri thức, kiến thức từng ngày, như một nhà triết học từng nói: “Một trí óc
thông minh không bằng một cây bút chì cùn.”, ta phải thật sự chăm chỉ, nỗ lực,
luyện tập đến có thể tích lũy đủ về lượng (kiến thức, tín chỉ, kinh nghiệm,...) từ đó
làm thay đổi về chất, nghĩa là nâng cao, trau dồi, cải thiện những kinh nghiệm, tri
thức ta đang có, từ đó đạt được thành công. Hơn nữa, với đặc thù ngành đầy biến
động trên thị trường, với những con số thay đổi từng ngày, từng giờ, từng phút, để
trở thành một nhà đầu tư thông thái hay một nhân viên ngân hàng chuyên nghiệp
cũng yêu cầu sinh viên ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường phải học tập, tích lũy
kiến thức mỗi ngày, để bắt kịp mọi xu thế, xu hướng của thị trường.
Sinh viên phải có ý thức tự học và rèn luyện tính tích cực, độc lập, nghiêm
túc, trung thực.
Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng. Nó đòi hỏi con người
phải vận động để theo kịp sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy mà tinh thần tự học
có vai trò vô cùng quan trọng. Học tập trong môi trường đại học, đặc biệt là với
ngành học Tài chính Ngân hàng – một môn học yêu cầu cao về tư duy logic, kĩ năng
tính toán, ta cần phải đề cao tinh thần tự học hơn bao giờ hết. Như người xưa từng
nói: “Có công mài sắt, có ngày nên kim. “, sự nỗ lực chính là thước đo hoàn hảo
nhất cho thành công của mỗi con người. Nỗ lực hàng ngày sẽ đem đến sự tích lũy
tri thức, “tích tiểu thành đại”. Chính vì vậy, việc tự học, tự nghiên cứu trau dồi kiến
thức của mỗi sinh viên là hết sức cần thiết. Trong thực tiễn, có thể áp dụng rất nhiều
phương pháp tự học đúng đắn để có thể đạt được kết quả cao trong những môn học
của ngành Tài chính – Ngân hàng. Chẳng hạn như: tự học trong giáo trình giúp nắm lOMoAR cPSD| 61432759
vững được lý thuyết và các dạng bài tập cơ bản, tự học trong sách tham khảo, tài
liệu trên mạng giúp ta luyện các dạng bài tập khó hơn và nâng cao sự tìm tòi và ham
muốn học tập trong các môn như Toán cho các nhà kinh tế, Kinh tế vi mô,...,tự học
bằng cách tập trung nghe thầy cô giảng bài, viết bài đẩy đủ, vẽ lại bằng sơ đồ tư
duy: giúp ta tiếp thu những mẹo, những cách học bài có hiệu quả của những người
có kinh nghiệm. Tự học khi làm bài tập sẽ nâng cao ý thức tự làm bài tập và giúp ta
nắm chắc kiến thức qua nhiều dạng bài khác nhau, đặc biệt là đối với những môn
liên quan tới Toán học hay chuyên ngành Tài chính Ngân hàng. Tự học thuộc lòng
giúp ta ghi nhớ kiến thức lâu hơn, ta còn có thể áp dụng phương pháp Space
Repetition (ghi nhớ ngắt quãng) đối với các môn như Triết học hay Pháp luật Đại cương.
Trong học tập và làm việc, cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh tuyệt đối tư
tưởng “tả khuynh” nóng vội và tư tưởng “hữu khuynh” bảo thủ, trì trệ.
Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tránh tư tưởng ”tả
khuynh”. Ta luôn phải hiểu rõ rằng, để có thể có một “cây kim”, người ta phải “mài
sắt” qua biết bao nhiêu ngày tháng, việc học cũng vậy, ta phải hoàn thành kiến thức
cơ bản trước, tức đã có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới có thể tiếp tục nghiên
cứu những kiến thức khó hơn. Ví dụ như, khi học đại học, năm nhất ta luôn học
những môn học Đại cương trước, để có kiến thức cơ bản, rồi từ đó tạo nền móng để
học những môn học mang tính chuyên ngành hơn (Tài chính tiền tệ, Thanh toán
quốc tế, Đầu tư tài chính,...).
Áp dụng quy luật thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại
vào chuyên ngành Tài chính – Ngân hàng, ta dễ dàng nhận ra được những bài học
sâu sắc và to lớn trong thực tiễn. Chẳng hạn như, bản thân em có định hướng trở
thành một chuyên viên phân tích và đầu tư tài chính, nếu em có tư tưởng “tả
khuynh”, nóng vội, đốt cháy giai đoạn nghiên cứu về các quỹ tiền tệ, nóng vội trong lOMoAR cPSD| 61432759
việc đánh giá tiềm năng phát triển của một thị trường nào đó để đầu tư lập tức, em
sẽ dễ dàng bị thua lỗ, dẫn đến thất bại, nhưng em cũng cần tránh tư tưởng “hữu
khuynh” trì trệ, tự ti, sợ thất bại dẫn đến việc bỏ lỡ những cơ hội đầu tư có lời.
Trong quá trình học tập, phải liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh
tư tưởng chủ quan.
Bước chân vào được ngôi trường đại học Kinh tế Quốc dân, đặc biệt là ngành
học Tài chính – Ngân hàng đã là một thành tựu đáng để bản thân ta tự hào. Tuy
nhiên, tự hào khác với tự cao, nếu như ta tự cao, ta sẽ rất dễ dẫn đến tư tưởng chủ
quan, “ảo tưởng” rằng bản thân ta giỏi mà quên đi quá trình học tập còn rất dài ở
phía trước. Như Bill Gates từng khẳng định: “Thành ông là một người thầу ᴄ tồi tệ.
Nó quуến rũ những người thông minh ào ý nghĩ rằng họ ѕẽ hẳng bao giờ ᴠ ᴄ thất
bại.” Khi ta phá vỡ một giới hạn lượng, thực hiện bước nhảy để chất cũ biến thành
chất mới, chất mới lại có yêu cầu mới về giới hạn của lượng, ta lại cần tiếp tục phá
bỏ giới hạn mới đó, thực hiện bước nhảy mới để tạo nên sự thay đổi chất mới. Ta
cần phải hiểu rằng, để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần
trang bị cho mình từ những điều đơn giản nhất như kĩ năng giao tiếp, ngôn ngữ,…
cho đến những kiến thức to lớn, thành tựu trong cuộc sống về các lĩnh vực mà mình
đang theo đuổi: Tài chính – Ngân hàng. Lê-nin đã từng nói: “Học, học nữa, học
mãi.”, chính vì vậy, chúng ta vẫn phải tiếp thu những kiến thức chuyên ngành cũng
như kỹ năng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong quá trình liên tục phấn đấu học tập
ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại được thể hiện ở việc sinh viên tích luỹ kiến thức. Áp dụng quy luật lượng
chất, sinh viên liên tục phấn đấu học tập, tìm kiếm những thông tin, mang về những
“lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ. Từ đó, làm biến đổi “chất” tốt hơn, tạo nên các
thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy. Bản thân em khi bước chân vào
trường Đại học, ngoài các bài giảng trên lớp, em còn tự tìm tòi, nghiên cứu ở thư lOMoAR cPSD| 61432759
viện, giáo trình, luận văn, luận án, thầy cô, bạn bè, bắt đầu đọc những trang báo về Tài chính Ngân hàng như
VietnamFinance, tapchinganhang.com.vn,.. xem những chương trình truyền hình
về kinh doanh, tài chính như Shark Tank, The Profit,.. tìm hiểu về các ngân hàng
lớn ở Việt Nam như BIDV, Vietcombank, MB bank,... tích luỹ và học hỏi những kĩ
năng mềm thiết yếu cho mai sau như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng ứng xử, kĩ năng giải
quyết vấn đề của khách hàng. Được tự do trau dồi những “lượng” ở mức tối ưu
nhất, sinh viên luôn đạt được những thứ “chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân,
những học bổng từ các ngân hàng, những vị trí thực tập tốt ở các ngân hàng lớn,
các doanh nghiệp lớn có vốn đầu tư nước ngoài,… và tự tin bước ra đời.
Trong thực tiễn, phải có đủ quyết tâm, nghị lực để thực hiện “bước nhảy”
và biết lựa chọn phương pháp phù hợp để thực hiện thay đổi.
Quá trình học tập phải được tích luỹ từ từ, đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ
năng; không được bỏ qua kiến thức cơ bản. Việc bỏ bước trong tích luỹ sẽ dẫn đến
sự không hoàn thiện về độ, việc thực hiện bước nhảy sẽ không thành công và không
thể hình thành chất mới bởi những sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây
nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến nút, độ được hoàn thiện từ sự tích luỹ đầy
đủ về chất. Ví dụ như: Trong việc đăng kí tín chỉ, không vội vã đăng kí thật nhiều
tín chỉ để tốt nghiệp sớm nếu nhận thấy bản thân không có khả năng học được nhiều
môn học cùng một lúc. Bên cạnh, dù rằng sự phát triển và vận động của sự vật, hiện
tượng là việc liên tục thực hiện các bước nhảy, bạn phải chú ý đến độ trong quá
trình thay đổi của lượng, không vội vàng mà bỏ bước. Ngoài ra, cần phải tránh xa
tư tưởng “hữu khuynh”, phải có sự quyết tâm, có nghị lực và đủ sự nỗ lực để thực
hiện bước nhảy. Ví dụ như: Khi nhận thấy bản thân có thể học tập nhiều môn cùng
một lúc, có khả năng tự học cao nhưng lại vì tự ti, lo sợ mình không làm được mà
chỉ đăng kí ít tín chỉ, như vậy, bạn sẽ dễ bị vụt mất đi cơ hội để xét tốt nghiệp sớm.
Bạn phải nhận thức được mối liên kết giữa các yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng để lOMoAR cPSD| 61432759
lựa chọn phương pháp tích luỹ phù hợp, đẩy nhanh tiến độ tích luỹ, kèm theo chất
lượng của độ. Vận dụng được mối liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu rõ bản chất, quy luật
của chất, nâng cao chất lượng của độ. C. LỜI KẾT:
Qua bài tiểu luận trên, ta hiểu được nội dung và đặc biệt nhận ra vai trò quan
trọng của quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất trong thực tiễn. Quy luật đã chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và
phát triển, cùng với đó, quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển.
Việc nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay
đổi về chất giúp cho con người có thể rút ra được ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng cho cả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Từ việc nghiên cứu về quy luật của sự chuyển đổi về lượng dẫn đến chuyển
đổi về chất và ngược có thể rút ra một số kết luận về việc áp dụng phương pháp
luận vào ngành học Tài chính – Ngân hàng như sau:
- Sự thay đổi về chất do thức hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã
thay đổi đến giới hạn, vậy nên muốn thành công phải tích lũy kiến thức về
ngành học từng ngày, từng giờ, từng phút một cách chính xác, đầy đủ.
- Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng, đòi hỏi con người phải
vận động để theo kịp sự phát triển của xã hội, đặc biệt là ngành Tài chính –
Ngân hàng với đặc trưng là thị trường biến động không ngừng. Chính vì vậy,
sinh viên phải có ý thức tự học và rèn luyện tính tích cực, độc lập, nghiêm túc, trung thực.
- Hiểu được quy luật, ta nhận ra rằng trong học tập và làm việc, cần tiến hành
từ dễ đến khó, tránh tuyệt đối tư tưởng “tả khuynh” nóng vội và tư tưởng
“hữu khuynh” bảo thủ, trì trệ.
- Trong quá trình học tập, phải liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan. lOMoAR cPSD| 61432759
- Trong thực tiễn, phải có đủ quyết tâm, nghị lực để thực hiện “bước nhảy” và
biết lựa chọn phương pháp phù hợp để thực hiện thay đổi.
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc Gia Sự thật, Hà Nội-2021.
2. Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”- Bộ Giáo dục và
Đào tạo. 3. Các tài liệu tham khảo khác:
- https://123docz.net/document/2468156-tieu-luan-su-thay-doi-ve-luongdan- den-su-thay-doi-ve-chat.htm
- https://firstreal.com.vn/y-nghia-phuong-phap-luan-cua-quy-luat-luong-chat/
- https://luatminhkhue.vn/y-nghia-phuong-phap-luan-cua-quy-luat- luongchat.aspx