lOMoARcPSD| 58097008
1
ĐỖ THỊ CẨM GIANG - K214142062
Đề 1: Bằng lý luận và thực ễn, hãy phân ch và chứng minh ĐCSVN ra đời ngày 3/2/1930 là tất yếu
khách quan? Quan điểm của anh (chị) như thế nào về ý kiến cho rằng VN cần thực hiện chế độ đa
Đảng lãnh đạo? Vì sao?
1. Đảng CSVN ra đời ngày 3/2/1930 là tất yếu khách quan:
- Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX - XX tác động đến sự ra đời của ĐCSVN:
+ CNTB đã chuyển từ gđ tự do cạnh tranh sang gđ độc quyền (CNĐQ), ến hành chiến tranh xâm lược
và áp bức các dân tộc thuộc địa. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và CNĐQ ngày càng gay gắt, do
đó vấn đề chống ĐQ GPDT một vấn đề cấp thiết chỉ Đảng của giai cấp sản mới thực hiện
được sứ mệnh lịch sử này.
+ Năm 1917, CMT10 Nga thắng lợi đã làm biến đổi sâu sắc nh hình thế giới (thắng lợi của CMT10 đã
biến học thuyết Mác thành hiện thực, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng vô sản đối với phong trào
đấu tranh GPDT, từ đó cổ phong trào đấu tranh cách mạng của gc sản trên toàn thế giới, mở ra
một thời đại mới với mô hình cách mạng mới là mô hình CMVS.
+ Tháng 3/1919, Quốc tế cộng sản thành lập đã tạo điều kiện thuận lợi cho ĐCSVN ra đời: Thứ nhất,
Quốc tế III định hướng về con đường cứu nước, GPDT; giúp đỡ, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi
truyền bá CN Mác-Lênin vào VN, thành lập ĐCSVN. Thứ 2, Quốc tế III đã đào tạo và bồi dưỡng cho cách
mạng VN nhiều cán bưu trở thành những lãnh tụ chân chính của cách mạng VN. Thông qua việc
phân công đào tạo trong công tác thực ễn và qua các trường lớp của Quốc tế III (Trường Quốc tế
Lênin, Trường Lao động cộng sản Phương Đông) nhiều chiến sĩ cộng sản VN đã trưởng thành trở thành
các lãnh tụ chính trị xuất sắc của Đảng ta: HCM, Trần Phú, Huy Tập, Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh
Khai... Nhờ được đào tạo bản hệ thống Đảng ta bước trưởng thành vững chắc v
luận. Thứ ba, Quốc tế III đã chỉ đạo kịp thời đối với Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
+ CN Mác-Lênin thể truyền vào VN đã chỉ ra con đường đấu tranh cho GCCN và nhân dân toàn
thế gii đã tạo đk cho ĐCSVN ra đời (kết hợp CN Mác + phong trào công nhân + phong trào thế giới).
Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có nhiều biến đổi sâu sắc mà qua đó một mặt đặt ra
yêu cầu ĐCSVN phải ra đời, mặt khác đồng thời tạo ra điều kiện, ền đề cho phép ĐCSVN ra đời. Cho
nên ĐCSVN ra đời là khách quan.
- Tình hình trong nước tác động đến sự ra đời của ĐCSVN:
+ Chính sách thống trị của thực dân Pháp:
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược VN và từng bước thiết lập bộy thống trị, khiến nước
ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuc địa, dân ta là vong quốc , Tquốc ta
bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm
cho xã hội VN có nhiều thay đổi.
Vchính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trthực dân, tước bỏ quyền lực đối nội,
đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn,...
Vkinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn
bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên,...
lOMoARcPSD| 58097008
2
Vvăn hóa, thực dân Pháp ến hành chính sách ngu dân, khuyến khích văn hóa độc hại,
xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa VN và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.
+ Những chuyển biến của xã hội VN:
VKinh tế: Bước đầu du nhập QHSX TB (từ 1 xã hội phong kiến nền kinh tế ch đạo
nông nghiệp đến xuất hiện các nhà máy, xí nghiệp đưa người nông dân thành công nhân)
Vhội: Tính chất hội VN thay đổi từ hội phong kiến độc lập sang xã hội thuộc địa
nửa phong kiến nên XH VN sự phân hóa sâu sắc, xuất hiện nhiều giai cấp mới (địa chủ,
nông dân, ểu tư sản, tư sản, công nhân) trong đó GCCN là giai cấp lãnh đạo cách mạng VN
nhưng khi chưa có Đảng thì giai cấp này không thể thực hiện sứ mệnh lịch sử GPDT nên cần
thiết phải có sự hình thành ĐCS để đưa ra những đường lối đúng đắn giúp giai cấp này thực
hiện sứ mệnh của mình.
Mâu thuẫn xã hội: 2 mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn dân tộc (mâu thuẫn giữa dân tộc VN
TD Pháp) và mâu thuẫn giai cấp (mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ).
Các phong trào yêu nước trước khi có Đảng
* Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa các phong trào đấu tranh của
nhândân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực
lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại.
* Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương đã chấm dứt với
sự thtbại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nông dân
Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi.
* Phong trào u nước theo khuynh hướng dân chủ sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh,Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh
đạo cũng bị thất bại,…
Cách mạng VN chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã
chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tưởng phong kiến htưởng sản đã bế tắc. Cách
mạng VN lâm vào nh trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử
đặt ra là phải m mt con đường cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi
của dân tộc, của nhân dân, đủ uy n năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi
đến thành công.
2. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị mọi điều kiện để thành lập Đảng
- Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành đã quyết chí ra đi m đường cứu nước với hành trang duy
nhất làlòng yêu nước. Sau khi m thấy con đường CMVS, Người đã ch cực chuẩn bị các điều kiện về
chính trị, tưởng tổ chức cho việc thành lập Đảng để ến tới việc hiện thực hóa con đường cu
c.
- Qua nhiều năm bôn ba ớc ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với CN Mác-Lênin m ra
conđường cách mạng đúng đắn-con đường CMVS. Người khẳng định: “Muốn cứu nước GPDT, không
con đường nào khác con đường CMVS”. Tđó, Người đã ch cực chuẩn bị các điều kiện vchính trị,
tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập ĐCS.
lOMoARcPSD| 58097008
3
- Vtư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bản chất tội ác của CN đế quốc, thực dân, tập hp
lựclượng và tuyên truyền con đường CMVS. Người sáng lập tờ báo “Le Paria” (Người Cùng khổ) và viết
nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư n quốc tế…
- Vchính trị: Nguyễn Ái Quốc ch cực truyền bá CN Mác-Lênin vào trongớc. Người đã phác
thảonhững vấn đề cơ bản về đường li cứu nước đúng đắn của cách mạng VN, thể hiện tập trung trong
tác phẩm “Đường Kách mệnh”.
- Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính đảng vô
sảncủa GCCN VN. Đóhuấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người ến hành ở Quảng
Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá CN Mác-Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc
thành lập Hội VN Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng.
ĐCSVN ra đời là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử CMVN. Sự kiện lịch sử vĩ đại ấy đã chấm dứt sự
khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo phong trào yêu nước VN đầu thế kỷ XX, đáp
ứng khát vọng GPDT của nhân dân VN, là nền tảng vững chắc cho dân tộc VNếp nối trên con đường
độc lập dân tộc và CNXH.
3. Quan điểm về VN cần thực hiện chế độ đa Đảng hay không?
Hiện nay, VN, ĐCSVN không phủ nhận quá trình đa dạng hoá sự phát triển của XH, chủ trương phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài) dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với đa dạng hóa hình thức sở hữu (sở
hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp),... Tuy nhiên, VN không chấp nhận
đa nguyên, đa đảng, còn bởi vì, đa nguyên, đa đảng còn là thủ đoạn thâm hiểm trong chiến lược “diễn
biến hòa bình” của CN đế quốc và các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng VN.
- Thnht, chế độ đa nguyên, đa đảng đã sớm xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII. CN đa nguyên
phủ định nh thống nhất của thế giới, cường điệu cái riêng; phủ nhận sự phân chia xã hội thành giai
cấp, phủ nhận đấu tranh giai cấp; chủ trương xây dựng một cơ chế quản lý xã hội theo nguyên tắc đa
lực lượng, đa đảng phái và các tổ chức đảng phái này quan hệ với nhau theo nguyên tắc hiệp thương.
Vì vậy, đây là một học thuyết phi mác xít. Nếu áp dụng quan điểm này vào CNXH sẽ dẫn tới hạ thp
vai trò và nguy cơ phủ định vai trò lãnh đạo của ĐCS. Như thế, CN đa nguyên là sản phẩm của giai cấp
tư sản với thế giới quan phi khoa học, trái với CN Mác-Lênin. Trong khi đó, ĐCSVN đã, đang và sẽ vẫn
mãi xác định lấy CN Mác-Lênin, tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động
của Đảng. Chính điều đó đã, đang và sẽ mãi bảo đảm cho ĐCSVN - Đảng chính trị duy nhất tồn tại,
vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Do vậy, ở VN không cần sự tồn tại của CN
đa nguyên - một thứ cơ sở lý luận cho việc thực hiện chế độ đa đảng.
- Thứ hai, thực ễn lịch sử CMVN cho thấy, sự lãnh đạo của ĐCSVN là sự lựa chọn tất yếu của
lịch sử; là ý nguyện của nhân dân VN. Phong trào CMVS ở VN đã hướng theo CN Mác-Lênin, do NAQ
truyền bá và phát triển mạnh mẽ. Trải qua quá trình được chuẩn bị chín muồi về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, ngày 3-2-1930, ĐCSVN ra đời và đã khẳng định lấy “CN Lênin làm cốt. Đây là một tất yếu
lịch sử, chấm dứt thời kỳ CMVN khủng hoảng về đường lối, mở ra một thời đại mới cho lịch sử dân
tộc.
+ Trong thời kỳ 1930 - 1945, lịch sử VN đã chứng minh, chỉ có ĐCSVN chứ không cần thêm bất cứ một
tổ chức, đảng phái chính trị nào khác lãnh đạo cách mạng VN. Thắng lợi của công cuộc đấu tranh giành
lOMoARcPSD| 58097008
4
chính quyền mà đỉnh cao là CMT8 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước VN Dân chủ Cộng hoà, đã m
ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, đó chính là công lao to lớn của ĐCSVN.
+ Trong những năm 1945-1946, bối cảnh nh hình chính trVN diễn biến phức tạp, ngoài ĐCSVN tồn
tại một số đảng phái đối lập như VN Quốc dân đảng, VN Cách mạng đồng minh hội..., nhưng trên thực
tế, chỉ có duy nhất ĐCSVN lãnh đạo cách mạng. Các đảng phái, tổ chức đối lập thời kỳ này đã không vì
lợi ích quốc gia, dân tộc mà âm mưu phá hoại cách mạng, xóa bỏ chính quyền cách mạng non trẻ, nên
bị chính lịch sử và nhân dân ta loại bỏ.
+ Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp đế quốc Mỹ (1945-1975), ĐCSVN lực lượng chính
trị duy nhất lãnh đạo cách mạng VN. Trong thời kỳ này, cũng tồn tại hai đảng khác là Đảng Dân chủ VN
Đảng hội VN. Tuy nhiên, cả hai đảng này chưa bao giờ đối lập với ĐCSVN, đu ủng hộ, thừa
nhận vai trò lãnh đạo của ĐCSVN sau này hoàn toàn tự nguyện giải tán. Cũng trong thời gian y,
còn có những đảng phái thân Pháp, thân Mđối lập với ĐCSVN, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc
lợi ích của nhân dân lao động, nên cũng đã bị chính nhân dân ta đấu tranh loại bỏ.
+ Tsau năm 1975 đến nay, nền chính trị nhất nguyên, với vai trò lãnh đạo của ĐCSVN ngày càng được
củng cố, phát triển toàn diện, đã một lần nữa khẳng định nh tất yếu khách quan. Chính thực ễn này
đã khẳng định, ở VN hiện nay không cần đa đảng và cũng đúng với nhận định của đồng chí Nguyễn Phú
Trng: “Ở VN chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ”.
- Một trong những luận điệu tuyên truyền được các thế lực thù địch tập trung tung hô, cổ suý
nhiềunhất ở VN hiện nay là đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để “có dân chủ và phát triển”.Tn thực
tế, thể chế nhất nguyên một đảng lãnh đạo hoàn toàn không đồng nghĩa với mất dân chủ, kém phát
triển và dân chủ, phát triển không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng. Trên thế giới hiện nay, có không
ít những nước đa đảng, nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển nhất; ngược
lại, cũng có những nước chỉ một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ vẫn được bảo đảm, kinh tế - hội
phát triển, đời sống nhân dân sung túc. Điều đó minh chứng là: đa nguyên, đa đảng không phải là cứu
cánh cho dân chủ và sự phát triển, đúng như đồng chí Nguyễn Phú Trng đã khẳng định: “Không phải
có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn”.
- y nhìn sang một số ớc bản hiện nay, nhất nước Mỹ với sự tồn tại hai chính đảng
ảngDân chủ và Đảng Cộng hòa) thay nhau cầm quyền. Tuy bề ngoài là chế độ đa đảng đối lập, nhưng
xét về bản chất chỉ một đảng của giai cấp sản. Vì thế, Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hòa nắm
quyn, cũng đều là đảng của gc tư sản, đại diện cho lợi ích của gc tư sản. Dẫn đến ở Mỹ, bên cạnh “một
xã hội” với những người cuộc sống xa hoa, hào nhoáng thì vẫn còn tồn tại “một hội” hoàn toàn
khác hẳn, gồm hàng chục triệu người phải sống trong sbất công, thất nghiệp, đói nghèo, bệnh tật,
không có quyền dân chủ...
Như vậy, thực chất luận điểm “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” mang nặng nh chất mị dân, hết
sức nguy hiểm, bởi rất dễ gây nên sự ngnhận, nhất là đối với những người có nhận thức hạn chế. T
đó, có thể gây nên sự mơ hồ, lẫn lộn, dẫn tới sự dao động v tư tưởng, gây nên sự phân tâm trong XH;
làm suy giảm và mất dần niềm n của nhân dân về vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với cách mạng VN.
Cũng từ những luận điểm này, đã hướng đến việc xóa bỏ nền dân chủ XHCN, thiết lập nền dân chủ
sản; nguy y nên những khó khăn trong quá trình phát triển của xã hội VN, nhất làm cho chính
tr- XH mất ổn định, kinh tế suy giảm, văn hoá đạo đức xuống cấp, các mâu thuẫn xung đột xã hi
lOMoARcPSD| 58097008
5
sẽ gia tăng, phá vỡ khối đoàn kết dân tộc... Để không để xảy ra những hậu quả tai hại đó, VN hiện
nay, nhất thiết không cần không thể chấp nhận đa đảng đối lập ncác thế lực thù địch mong muốn.
ĐỀ 2: Phân ch chứng minh làm rõ thắng lợi cách mạng tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình
lãnh đạo, chỉ đạo của ĐCSVN? Phê phán quan điểm cho rằng thắng lợi cách mạng tháng Tám ăn
may.
1. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của
ĐCSVN
a. Đảng đề ra đường lối chống đế quốc và chống phong kiến đúng đắn
Khi chiến tranh thế giới bùng nổ (tháng 9/1939), Đảng ta đã mau lẹ chuyển hướng về chđạo chiến
lược, đặt nhiệm vụ GPDT lên hàng đầu. Tchthấy hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến
phải gắn liền với nhau, Đảng ta đã ến lên một bước, nhận rõ thêm rằng trong hai nhiệm vụ chiến lược
ấy thì nhiệm vụ chống đế quốc nhiệm vụ chyếu nhất (điều này lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận
thấy xác định ngay từ ngày đầu thành lập Đảng 3/2/1930 nhưng không được Quốc tế Cộng sản
Đảng ta tán thành). Nhnhận thức chủ trương đúng đắn đó, Đảng đã tập hợp được thêm các lực
lượng dân tộc mà cao trào cách mạng 1930-1931 trước đây chưa tập hợp được; các lực lượng tập hợp
nhau lại trong một mặt trận dân tộc thống nhất, dưới sự lãnh đạo của GCCN, trên nền tảng khối liên
minh công - nông.
Đế quốc tăng cường khủng bố, Đảng ta đã biết mau lẹ chuyển từ hoạt động công khai và nửa công khai
sang hoạt động mật hoàn toàn, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, dựa vào nông thôn y
dựng căn cứ địa cách mạng, mật chuẩn lực lượng, vận động quần chúng đấu tranh chính trị khi
có điều kiện thì đấu tranh vũ trang, đánh du kích. Đồng thời hết sức coi trng vai trò của thành thị, y
cơ sở CM và phát triển phong trào CM thành thị, kết hợp chặt chẽ pt CM ở thành thị với phong trào
CM ở nông thôn.
b. Đảng đã dự đoán đúng thời cơ và hành động chính xác, kịp thời khi thời cơ xuất hiện
Đến tháng 8/1945, nhdự đoán đúng nh hình đúng thời cơ, VN nh thế khách quan cùng
thuận lợi xuất hiện. Thực hiện lời cam kết Hội nghị Yalta, ngày 8/8/1945, Liên tuyên chiến với Nhật,
quân đội Liên Xô tấn công đội quân Quan Đông nh nhuệ nhất gm hơn 1 triệu quân của Nhật ở Đông
Bắc Trung Quốc. Bên cạnh việc quân đội Liên ến đánh quân đội Nhật thì Mỹ ném hai quả bom
nguyên tử xuống Hiroshima ngày (6/8/1945) Nagasaki ngày (9/8/1945). Tớc sức mạnh của đồng
minh, ngày 11/8/1945 Chính phủ Nhật gửi thông điệp cho Liên , Mỹ các nước Đồng minh chấp
nhận đầu hàng điều kiện. Đúng ndự đoán của lãnh tụ HCM thì đây hội nghìn năm có một
để nhân dân ta thực hiện tổng khởi nghĩa.
Lúc này, thời cơ đã đến. Thời cơ xuất hiện trong những ngày tháng 8/1945 không chỉ có ở VN mà còn ở
nhiều nước Đông Nam châu Á bquân đội Nhật chiếm đóng. Các nước này tuy có điều kiện khách quan
thuận lợi giống như VN, nhưng không chớp được thời cơ khởi nghĩa hoặc kịp thời phát động tổng
khởi nghĩa nhưng thành quả thu được không nhiều, vì lực lượng chưa được chuẩn bị đầy đủ, Đảng ên
phong chưa nắm được quyền lãnh đạo cách mạng… Chỉ có duy nhất VN từ khi Đảng thành lập năm
1930 đến năm 1945, đảng từng bước chuẩn blực lượng, sẵn sàng chờ thi đến kịp thời chp
thời cơ, lãnh đạo nhân dân Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
lOMoARcPSD| 58097008
6
c. Đảng đã lựa chọn đúng hình thức, phương pháp đấu tranh, phát huy đến mức tối đa sức mạnh
tổng hợp của cách mạng, giành thắng lợi một cách nhanh gọn.
Lựa chọn đúng thời cơ, lại còn phải sự chđạo và có phương pháp đúng mới mới có thể giành
được thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa. Tư tưởng chỉ đạo và phương pháp mà Đảng ta lựa chọn trong
Tổng khởi nghĩa là:
- Vchtrương, đường lối: Đảng ta đã có sự điều chỉnh về đường lối chiến lược và sách lược p
hợp.Tviệc ến hành song song hai nhiệm vụ cách mạng là phản đế và phản phong, đến việc xác định
nhiệm vụ trước mắt là GPDT. Thực hiện chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang,
ến từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa với phương pháp đấu tranh phù hợp, chuyển từ đấu
tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực ếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay
sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp…
- Vy dựng lực lượng chính trị: Đảng ta xác định lực lượng chính trị quần chúng vai trò rất
quantrọng trong sự nghiệp cách mạng. Đảng ta đã chú trng xây dựng lực lượng chính trị, cử nhiều
thanh niên ưu tú đi học tập, đào tạo tại các trường của Quốc tế Cộng sản để sau này về c nắm giữ
các chức vụ chchốt trong Đảng, trong các tổ chức cách mạng, truyền CN Mác-Lênin vào trong
ớc, trang bị lý luận cách mạng cho các tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó, Đảng đã thành lập một số tổ
chức quần chúng để lập nên khối đại đoàn kết toàn dân đứng lên làm cách mạng cứu nước.
- Về xây dựng lực lượng vũ trang: Đảng chủ trương xây dựng lực lượng trang và xác định đây
làlực lượng nòng cốt, trực ếp tham gia chiến đấu. Do lực lượng trang phát triển còn nhỏ lẻ, chưa
có tổ chức, Đảng ta đã từng bước thành lập các đội du kích. HNTW 8 (tháng 5/1941) đã ra nghị quyết
thành lập các đội tự vệ cứu quốc. Khi phong trào cách mạng phát triển, với chủ trương xây dựng lực
lượng trang ba thứ quân, nhằm đẩy mạnh hình thức đấu tranh quân sự, tháng 12 năm 1944, HCM
ra Chỉ thị thành lập Đội VN tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng nòng cốt cho các tổ chức vũ trang
đánh giặc. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu bước khởi đầu công cuộc xây dựng và phát triển
quân đội cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Vy dựng căn cứ địa cách mạng: Đảng ta đã tổ chức xây dựng các căn cứ địa cách mạng để
tậphợp, xây dựng các tổ chức, lực lượng cách mạng và huấn luyện lực lượng này để chuẩn bị cho khởi
nghĩa. Hội nghị TW7 của Đảng (11/1940) chủ trương thành lập các căn cứ du kích, lấy Bắc Sơn Võ
Nhai làm trung tâm. Cuối 1940, Cao Bằng được lựa chọn để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đến Hội
nghị TW8 (5/1941) vừa duy trì phát triển các căn cứ du kích Bắc Sơn, Võ Nhai, đồng thời mở rộng
căn cứ địa Cao Bằng, hình thành một vùng căn cứ địa Việt Bắc Đây thực sự là những nơi trọng yếu chỉ
đạo quá trình xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, những trung tâm đầu não lãnh đạo lực
lượng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc.
- Vxác định, lựa chọn thời khởi nghĩa: Việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi
nghĩađúng lúc thể hiện cụ thtrong chỉ th“Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” tháng
3/945 của Ban Thường vụ TW Đảng, bản Quân lệnh số 1 của Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm
13/8/1945. Với sự chuẩn bchu đáo, đầy đủ mọi yếu tố biết chọn đúng thời sức mạnh của
nhân dân ta được nhân lên gấp bội, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám 1945 của dân
tộc đã thắng lợi to lớn, triệt để, khai sinh ra nước VN dân chủ cộng hoà.
lOMoARcPSD| 58097008
7
- Vnguyên tắc hành động: Tập trung, thống nhất, kịp thời”; “Chính trị quân sự phối kết
hợp”;“Làm tan rã nh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh”.
Tư tưởng chđạo nói trên của Đảng còn được quán triệt thể hin sự chđộng, năng động, sáng
tạo của các Đảng bộ địa phương diễn biến của Tổng khởi nghĩa trong cả ớc, nhất là những địa
phương êu biểu, trọng yếu như Nội, Huế, Sài Gòn, đặc biệt th đô nội. Sự chđạo của
Đảng về hình thức, về nguyên tắc về thời gian khởi nghĩa đã đưa lại kết qunhân dân ta giành
được chính quyền trước khi quân Đồng Minh vào Đông dương.
d. Đảng đã thực hiện sách lược khôn khéo đối vi Nht trong khi ến hành Tổng khởi nghĩa
Ttháng 9/1940, khi Nhật nhảy vào Đông Dương, Đảng ta xác định Nhật kthù chủ yếu, cần phải
đánh đổ. Nhưng lúc này, Nhật đã đầu hàng Liên Xô và Đồng Minh, nh thần quân đội Nhật hoang mang
cao độ, Đảng đã thực hiện một sách lược khôn khéo: “ Đối với quân đội Nhật, chúng ta sẽ rất ôn hòa,
tránh tất cả những sự xô xát vô ích, bất lợi cho cả đôi bên, đồng thời chúng ta có thdùng ngoại giao
làm cho Nhật hiểu rõ nh thế, tán thành cách mạng VN”.
Trong thực tế, lực lượng khởi nghĩa do Đảng chỉ đạo đã không đánh quân Nhật, mà dựa vào sức mạnh
của cách mạng để thuyết phục và vô hiệu hóa lực lượng của chúng, làm cho chúng không can thiệp vào
công việc giành chính quyền của nhân dân ta. Đối với những nơi xảy ra xát, ta dựa vào sức mạnh bạo
lực của quần chúng và dùng đàm phán, buộc Nhật phải nhượng bộ. Nhờ đó, đã tránh được đổ máu và
tổn thất trong quá trình ến hành khởi nghĩa.
2. Phê phán quan điểm thắng lợi cách mạng tháng Tám là “ăn may
Hằng năm, vào dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, các thế lực thù địch, phản động
bằng mọi âm mưu, thủ đoạn, với nhiều hình thức đã bóp méo sthật, xuyên tạc lịch sử, phủ nhn
thành qucách mạng của dân tộc. Các thế lực đó cho rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công không phải do sự lãnh đạo tài nh của ĐCSVN, đứng đầu Chủ tịch HCM, không phải sức
mạnh đoàn kết của toàn dân tộc đứng lên làm cách mạng mà là nhờ một sự “may mắn” của hoàn cnh
lịch sử. Thậm chí, còn trắng trợn vu cáo, xuyên tạc lịch sử rằng “dù không có ĐCS, nhiều thuộc địa vẫn
giành được độc lập mà ít tốn xương máu. Sự hao tổn xương máu là do ĐCSVN gây ra”.
Những luận điệu thiếu khách quan, sai sự thật, xuyên tạc lịch sử đó của là nhằm hạ thấp uy n, vai trò
lãnh đạo của ĐCSVN và Chủ tịch HCM, hạ thấp, xem nhẹ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
xem nhẹ vai trò và giá trị thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, từ đó làm cho nhân dân ta mất niềm n
vào Đảng chế độ. Do đó, chúng ta cần tỉnh táo nhận diện, nâng cao nh thần cảnh giác, sức đề kháng
để tăng cường đấu tranh phản bác các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là kỳ ch vĩ đại có một không hai trong lịch sử VN thế kỷ
XX, không phải là một cuộc cách mạng vội vàng, ngẫu nhiên, ăn may” như các thế lực thù địch, phản
động xuyên tạc, bóp méo. Để được thành quả đó, toàn dân tộc VN, dưới sự lãnh đạo tài nh của
ĐCSVN, đứng đầu là Chủ tịch HCM đã phải nỗ lực, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, kể cả sự hy sinh,
mất mát cho việc chuẩn bị mọi mặt trong suốt 15 năm kể từ khi Đảng ta ra đời. Đảng có đường lối cách
mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, đoàn kết thống nhất, nằm đúng thời cơ, chỉ đạo kiện
quyết, khôn khéo, biết tạo nên sức mạnh tổng hợp để áp đảo kẻ thù quyết tâm lãnh đạo quần chúng
khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám 1945.
lOMoARcPSD| 58097008
8
Tnhững vấn đề trên, một lần nữa khẳng định, CMT8 năm 1945 thành công kết quả tổng hợp của
nhiều yếu tố. Ngoài bối cảnh thế giới có những chuyển biến mau lẹ, thuận lợi thì yếu tố chquan vẫn
cơ bản, quyết định. Đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là Chtịch HCM. Cách mạng
Tháng Tám nổ ra thành ng minh chứng hùng hồn khẳng định, Đảng ta đã nghiên cứu vận
dụng CN Mác-Lênin một cách linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện c thể của đất nước, nh thế cách mạng
để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, lựa chọn phương pháp cách mạng phợp. Cách mạng Tháng
Tám thắng lợi hoàn toàn không phải là một sự “ăn may” mà là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh
lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh của nhân dân VN dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch HCM.
Cuộc cách mạng vĩ đại đó là một biểu tượng của nh thần quật cường “đem sức ta mà giải phóng cho
ta”, đó là sự kết nh và tỏa sáng của sức mạnh nội lực VN.
Bên cạnh đó, Cách mạng Tháng Tám diễn ra dưới hình thức tổng khởi nghĩa nhưng hầu như không
đổ máu. Đó là do Đảng ta đã lãnh đạo sử dụng bạo lực cách mạng một cách hợp lý, bao gồm cả bạo lực
chính trị và bạo lực trang, kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị của toàn dân tộc lực ợng
vũ trang cách mạng, giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, trong đó đấu tranh chính trị là chủ
yếu, làm nền cho đấu tranh trang. Chính lực lượng chính trị của quần chúng, của toàn dân kết hợp
với lực lượng vũ trang cách mạng, trong đó lực lượng chính trị đóng vai trò quyết định chủ yếu đã tạo
nên sức mạnh to lớn của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, làm nên cuộc cách mạng ít đổ
máu. ĐCSVN và toàn thể dân tộc VN xứng đáng được hưởng thành quả trọng đại đó.
Những luận điệu xuyên tạc các thế lực thù địch, phản động nêu ra đối với cách mạng tháng Tám
không gì khác vẫn là nhằm phủ nhận những thành quả, ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại, sức sống mãnh
liệt của cuộc cách mạng và xa hơn là phủ nhn vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sức mạnh của khối
đại đoàn kết dân tộc, từ đó phủ nhn toàn bsự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân ta dưới dự lãnh
đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng. Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám không
thphnhận. Vì vậy, mọi mưu toan chống phá, sự suy diễn chủ quan, xuyên tạc, vu cáo về cuc cách
mạng này đều không có giá trị.
Đề 3: Phân ch làm chủ trương, biện pháp của Đảng để gi vững chính quyền cách mạng trong
thời kỳ 1945-1946? Vì sao tổ chức bầu cử Quốc hội ngày 6/1/1946 được coi là một biện pháp để gi
vững chính quyền?
1. Chủ trương, biện pháp của đảng để gi vững chính quyền cách mạng trong thời kỳ 1945-1946.
1.1. Chủ trương
Trước nh hình mới, TW Đảng Chủ tịch HCM đã sáng suốt phân ch nh hình, dự đoán chiều hướng
phát triển của xu thế cách mạng thế giới và thế mạnh mới của đất nước, đề ra chủ trương, chính sách,
giải pháp, nhằm ra sức giữ vững chính quyền, bảo vệ. nền độc lập tự do vừa giành được. Ngày
25/11/1945, Ban Chấp hành TW ra Chỉ th“Kháng chiến kiến quốc”. Đây là một n kiện quan trọng của
Đảng ở giai đoạn này, và đặt du ấn đầu ên về tư duy chính trcủa Đảng cầm quyền. Chthđã đánh
giá nh hình thế giới trong nước, chỉ ra những thuận lợi cơ bản và những thách thức to lớn của cách
mạng nước ta.
Vchỉ đạo chiến lược: Ban Chấp hành TW Đảng xác định: Tính chất của “cuộc Cách mạng Đông Dương
lúc này vẫn cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng đó chưa hoàn thành nước ta
lOMoARcPSD| 58097008
9
chưa được độc lập hoàn toàn. Do đó, khẩu hiệu của ta lúc này vẫn "Dân tộc trên hết, Tquốc trên
hết".
Về xác định kẻ thù: Phân ch âm mưu của đế quc chống lại Đông Dương, TW chỉ rõ “Kẻ thù chính ca
ta lúc này thực dân Pháp xâm ợc, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. vậy, cần phải
"lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược"; mở rộng mặt trận Việt Minh để thu
hút các tầng lớp nhân dân; thống nhất mặt trận VN - Mianma - Lào; kiên quyết giành độc lập - tự do -
hạnh phúc cho dân tộc.
VPhương hướng nhiệm vụ: Chỉ thKháng chiến kiến quốc nêu ra nhiệm vụ chyếu của toàn dân ta
lúc y "củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống
cho nhân dân”.
1.2. Biện pháp
Nhằm củng cchính quyền còn non trẻ của nhà nước ta, ngày 25/11/1945, Ban chấp hành TW ra Chỉ
thị Kháng chiến kiến quốc. Chỉ thnhận định nh hình thế giới và trong nước, chỉ rõ những chủ trương
nhất định và trong mỗi chủ trươngnhững nhiệm vụ để cụ thhóa. Trong đó, đối với từng nhiệm vụ,
Đảng cũng đưa ra một số biện pháp cụ thể.
- Nhiệm vụ thnhất: Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói
Nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng ndẫn đến ngày ng chậm phát
triển cuộc sống nhân dân ngày càng khốn khó. Thêm vào đó, nạn đói năm 1945 làm 2 triệu người
chết, ếp đó là lũ lụt, hạn hán kéo dài làm 50% ruộng đất bị bỏ hoang khiến sản xuất nông nghiệp đình
đốn. Tài chính kiệt quệ, kho bạc trống rỗng, Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay bản Pháp.
Nhằm giải quyết nh trạng trên, Đảng đã đề ra một số biện pháp như sau:
+ Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi của các giới đồng bào, lập quỹ cứu tế, lập kho thóc cứu tế, tổ chc
“bữa cháo cầm hơi”…Động viên thanh niên nam, nữ tchức thành các đoàn “cứu đói”, và các đội quân
để trồng trọt khai khẩn, lấy lương cho dân nghèo, hay quyên góp cho các qucứu tế, tổ chức ếp tế,
mua gạo nhà giàu bán cho nhà nghèo theo giá hạ, chở gạo từ chthừa sang chỗ thiếu.
+ Trong phiên họp đầu ên ngày 3/9-/945, Hội đồng Chính phcách mạng lâm thời đã bàn vbiện pháp
chống đói. Nhiều biện pháp như tổ chức lạc quyên, lập “Hũ gạo cứu đói”, tổ chức “Ngày đồng tâm” để
góp gạo cứu đói: không dùng gạo, ngô, khoai sắn nấu rượu…
+ Biện pháp bản, lâu dài tăng gia sản xuất. Theo đó, các phong trào đấu tranh tăng gia sản xut
dấy lên ở khắp mọi địa phương. Đi cùng với tăng gia sản xuất còn thực hành ết kiệm bằng cách lập
hũ gạo ết kiệm, tổ chức “Tuần lễ vàng, ến hành gây qu“Độc lập”, quỹ “Đảm phụ quốc phòng.
+ Chính phủ cách mạng ra Sắc lệnh số 11, thực hiện chính sách giảm 25% kết hợp với bãi bỏ thuế
thân và các thứ thuế vô lý khác của chế độ cũ.
+ Tịch thu ruộng đất từ tay đế quốc và Việt gian chia lại cho nông dân canh tác.
+ Xây dựng lại ngân khố quốc gia, phát hành đồng giấy bạc VN.
- Nhiệm vụ thứ hai: Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ
Hậu quả của chính sách ngu dân mà thực dân Pháp để lại sau hơn 80 năm đô hộ ớc ta đó là hơn 90%
người VN mù chữ. “Ngu dân” là một trong những chính sách thâm độc mà chế độ thực dân sử dụng để
cai trị nhân dân VN. Chúng không muốn cho dân ta biết chữ để dễ bề lừa dối, bóc lột và đàn áp. Để xóa
lOMoARcPSD| 58097008
10
nạn mù chữ, sau Cách mạng tháng Tám, chủ tịch HCM đã kịp thời phát động một chiến dịch chống nạn
chữ trong toàn dân, đồng thời y dựng một chương trình hành động thiết thực nhằm tổ chức lại
nền giáo dục nước nhà.
+ Tchức bình dân học vụ, ch cực bài trừ nạn mù chữ, mở các trường đại học và trung học, cải cách
việc học theo nh thần mới.
+ Bài trừ cách dạy học nhồi nhét, cổ động văn hoá cứu quốc, kiến thiết nền văn hoá mới theo ba nguyên
tắc: khoa học hoá, đại chúng hóa, dân tộc hoá.
+ Xây dựng đạo đức mới với nội dung “cần - kim - liêm - chính”
+ Bài trừ các tệ nạn xã hội cũ như: cờ bạc, rượu chè, hủ tục….ra khỏi đời sống xã hội.
- Nhiệm vụ thứ ba: Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền
+ Vnội chính: xúc ến việc bầu cử Quốc hội, thành lập Chính phủ chính thức, soạn thảo và ban hành
Hiến pháp, thực hiện các công tác để củng cố chính quyền nhân dân.
+ Về quân sự:
Một là, động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu
dài.
Đảng ta luôn ý thức sâu sắc rng: cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Trong đường lối,
chủ trương, chính sách, cũng như trong hoạt động thực ễn, Đảng đã bằng mọi cách làm cho nhân
dân thấy được việc bảo vnền độc lập dân tộc, bảo vệ chính quyn cách mạng là quyền lợi và trách
nhiệm, là ý chí và nh cảm của mỗi người để nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng một cách tự
giác.
Tháng 9/1945, Chính phra lời hiệu triệu toàn dân: “Hãy ủng hộ phong trào đấu tranh oanh liệt của
đồng bào Nam Bộ”.
Tháng 10/1945, HCM ra “Lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ. Ghi nhận biểu dương nh thần chiến đấu
kiên cường bất khuất của quân dân Nam Bộ, tháng 2/1946, thay mặt Chính phủ, Chủ tịch HCM đã
tặng đồng bào Nam Bộ danh hiệu vẻ vang:Thành đồng Tquốc”.
Đảng Chủ tịch HCM thông qua “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” Chỉ thToàn dân kháng chiến”
khơi dậy lòng u nước truyền thống đoàn kết, khẳng định sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết
toàn dân đồng lòng kháng chiến.
Hai là, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh.
Trước sự chống phá quyết liệt của thù trong, giặc ngoài, Đảng đã đề ra đường lối trang toàn dân, y
dựng lực lượng vũ trang từ lực lượng chính trị của quần chúng, khẩn trương xây dựng lực lượng Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân đủ mạnh, thực sự trở thành lực lượng chính trị trung thành của Đảng,
công cụ bạo lực sắc bén, giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập, tự do của Tquc.
Thực hiện chủ trương đó, khắp nơi trên đất nước ta, phong trào luyện tập quân sự, m sắm vũ khí diễn
ra sôi nổi. Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, những chi đội giải phóng quân lần lượt ra đời, đến cuối năm 1945 đã
phát triển lên 40 chi đội với 50.000 người.
+ Tháng 9/1945, Bộ Tổng Tham mưu và ngành Quân giới được thành lập.
lOMoARcPSD| 58097008
11
+ Tháng 11/1945, Quân giải phóng VN được đổi thành Vquốc đoàn (đội quân chính quy của Nhà nước
VN Dân chủ Cộng hòa), phát triển thành Quân đội Quốc gia VN vào tháng 6/1946.
+ Tháng 12/1945, Ủy ban Kháng chiến miền Nam ra đời, trực ếp chỉ đạo quân và dân miền Nam kháng
chiến, chống âm mưu tái xâm lược của thực dân Pháp.
+ Tháng 1/1946, TW Quân ủy được thành lập để giúp TW Đảng lãnh đạo công tác quân sự, đồng chí Võ
Nguyên Giáp được cử làm Bí thư. Sau TW Quân ủy, các cấp ủy đảng trong bộ đội chủ lực khu cũng lần
lượt được tổ chức, xây dựng chi bộ, đẩy mạnh phát triển đảng viên các đơn vị Lực lượng trang.
Đến cuối năm 1946, bộ đội tập trung tăng lên hơn 80.000 người, trong đó 8.000 đảng viên, lực lượng
bán vũ trang phát triển gần 1 triệu người.
Cùng với y dựng lực lượng quân đội, lực lượng công an nhân dân được xây dựng và củng c. Với việc
thành lập và duy trì hoạt động hiệu quả của Sở Liêm phóng Bắc Bộ, các đội danh dự trừ gian, Ban trinh
sát diệt ác đã kịp thời ngăn chặn, trừng trị các phần tử phản cách mạng, ra mặt chống đối chính quyn
nhân dân. Ở Trung Bộ thành lập các sở Trinh sát, ở Nam Bộ là Quốc gia tự vệ cuc.
Cùng với việc xây dựng về tổ chức biên chế, công tác huấn luyện quân sự cho lực lượng vũ trang được
coi trọng. Thực hiện chủ trương trên, các trường đào tạo cán bquân sự được thành lập như các
Trường Quân chính Bắc Sơn, Võ bTrần Quốc Tuấn, Lục quân Quảng Ngãi, cùng các trường quân chính
của các khu.
Xây dựng lực lượng trang chuẩn bcho toàn quốc kháng chiến một trong những thành tựu nổi
bật, thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng và Chủ tịch HCM. Các lực lượng trang ta, nhất là bộ đội
chủ lực phát triển cả về quân số và quy mô tổ chức biên chế; đồng thời, bước đầu được huấn luyện về
kỹ thuật, chiến thuật. Dù mới được xây dựng, trang bị còn thô sơ, lạc hậu và thiếu thốn, kinh nghiệm
chiến đấu chưa nhiều, nhưng lực lượng trang ta có nh thần chiến đấu cao làm nòng cốt cho toàn
dân kháng chiến, quyết tâm bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc mới giành được.
+ Vngoại giao: Kiên trì nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”, thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu
"Hoa - Việt thân thiện" đối với quân đội Tưởng Giới Thạch "Độc lập vchính trị, nhân nhượng về
kinh tế" đối với Pháp.
Đối với thực dân Pháp:
Đảng ta xác định, đây kẻ thù chủ yếu của dân tộc, nên ngay từ khi chúng theo chân quân Anh vào
miền Nam, lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam đã ch cực chiến đấu, kiên quyết ngăn chặn các
đợt ến công mở rộng vùng lấn chiếm của địch. Tuy nhiên, đtránh một cuộc chiến tranh nra sớm
trong bối cảnh chính quyền cách mạng vẫn còn đang trong giai đoạn “trứng nước”, Đảng ta đã kịp thời
đề ra quyết sách “hòa để ến” với Pháp. Triển khai quyết sách ấy, thông qua các biện pháp ngoại giao,
Chính phủ ta đã kết với Pháp hai văn kiện hết sức quan trọng Hiệp định bộ 6/3 Tạm ước
14/9.
Ta nhân nhượng với Pháp một số điu kiện để kéo dài thời gian hòa hoãn, củng cố chuẩn bị lực
lượng, nhưng không thỏa hiệp các vấn đề nguyên tắc về độc lập thống nhất quốc gia. “Hòa” với Pháp
để dành thời gian, bảo toàn thực lực biện pháp “biến thời gian thành lực lượng vật chấtphục vụ
cho kháng chiến chống Pháp lâu dài sau này.
Đối với quân Tưởng:
lOMoARcPSD| 58097008
12
ới danh nghĩa quân Đồng minh vào miền Bắc VN đgiải giáp quân đội Nhật, nhưng lại không giấu
giếm ý định “Diệt Cộng, cầm Hồ”, Đảng đã chủ trương giao thiệp “Hoa - Vit thân thiện”, tránh xung
đột, hòa hoãn với chính quyền Trung Hoa dân quốc, nhân nhượng nhiều yêu sách về chính trị kinh
tế đối với đội quân Trung Hoa dân quốc và thế lực tay sai của chúng. Tuy nhiên, khi bản “Hiệp ước Pháp
- Hoa” được kết, Đảng Chtịch HCM đã kịp thời nắm thời cơ, chuyển hóa linh hoạt sang thực
hiện đường lối “hòa với Pháp” để mau chóng “đuổi” gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc vớc,
tránh được hiểm họa cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù.
Đối với Quốc tế:
Phương châm hòa hiếu, “thêm bạn bớt thù” đã hình thành và trở thành nguyên tắc của ngoại giao VN.
Chính phủ với người đứng đầu là Chủ tịch HCM đã triệt để khai thác cam kết của các nước Đồng minh
nêu ra trong chiến tranh, đặc biệt là quyền độc lập, tự quyết và bình đẳng giữa các dân tộc, ến hành
nhiều giao thiệp ngoại giao qua thư, công hàm… với người đứng đầu Chính phủ các nước lớn như: Mỹ,
Anh, Liên , Trung Quốc, Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc… thông báo về sự ra đời của nước VN
tranh thsự ủng hộ của quốc tế. Các hoạt động ngoại giao của Người đã góp phần tranh thủ Mỹ
“trung lập”, tạo thuận lợi để hòa hoãn cũng như kiềm chế lực lượng của Tưởng và Pháp ở VN.
Đảng ta đã khéo léo trong việc phân loại đối phương triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa họ, có đối
sách phù hợp vi từng đối tượng, đưa ra những chính sách ngoại giao hết sức linh hoạt, sáng tạo trong
xử lý các nh huống, nhờ đó đã phát huy vai trò và nh ên phong trong bảo vệ nền độc lập và chính
quyn cách mạng non tr.
2. Vì sao tổ chc bầu cử Quốc hội 6/1/1946 được coi là một biện pháp đgiữ vững chính quyền?
Tchức bầu cử Quốc hội 6/1/1946 được coi một biện pháp để givững chính quyền bởi những
do sau đây:
Khẳng định địa vị pháp lý của VN trên trường quốc tế
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, sự ra đời của nước VN Dân chủ Cộng hòa là mốc son chói
lọi trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của nước ta, đưa VN ớc sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc
lập gắn liền với CNXH. Để nền độc lập nay được duy trì lâu dài, một công việc quan trọng, cần thiết phải
thực hiện càng sớm càng tốt bầu ra Quốc hội để quy định Hiến pháp cho nước VN nhằm củng cố,
tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc xây dựng củng cố chính quyền cách mạng về mọi mặt: chính
trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, hội, ngoại giao, kháng chiến đi đôi với kiến quốc, chống giặc ngoại xâm
gắn liền với chống giặc đói và giặc dốt và phải thực hiện quyền dân chủ cho nhân dân.
Trong Tun ngôn Độc lập khai sinh nước VN Dân chủ Cộng Hòa, Chủ tịch HCM đã khẳng định với toàn
thnhân dân trong nước thế giới rằng: “Nước VN quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã
trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả nh thần và lực lượng, nh
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Tuy nhiên, trên thực tế ớc ta chưa được bất
kỳ quốc gia nào trên thế gii công nhận về mặt pháp . Hơn nữa, sau Cách mạng tháng Tám nước ta
rơi vào nh thế “nghìn cân treo sợi tóc” do chế độ thực dân - phong kiến gây ra, bao gồm nạn đói, nạn
dốt nguy một cuộc chiến tranh xâm lược mới do các kẻ thù bên ngoài ến hành cùng lúc,
sự hậu thuẫn của các thế lực phản động trong nước.
Chính vì vậy, việc ến hành cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội để quy định Hiến pháp cho nước ta, bầu
ra Chính phủ chính thức bảo vệ, phát triển những thành qucủa Cách mạng tháng Tám vừa giành
lOMoARcPSD| 58097008
13
được là một nhiệm vụ quan trọng, cần phải ến hành sớm ngay sau ngày Nhà nước Dân chủ Cộng hòa
thành lập. vừa củng cố, tăng cường chính quyền vững mạnh, thực hiện quyền dân chủ cho nhân
dân trong nước, vừa căn cứ để thế giới thấy được nh hợp pháp, hợp hiến, dân chủ của Nhà nước
VN Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của dân, do dân và vì dân, được nhân dân giao phó trọng trách điều
hành đất nước và t chức kháng chiến kiến quốc, giải quyết các quan hệ VN trên trường quốc tế.
Thực hiện quyền dân chủ cho nhân dân
Sự thành công của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội ngày 6/1/1946 còn khẳng định được niềm n tuyệt
đối của Đảng Chủ tịch HCM vào nh thần yêu nước của nhân dân ta. Không chỉ vậy, đó cũng
chính sự biểu thị của khát vọng dân chcủa nhân dân sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc VN.
Bởi hoàn cảnh diễn ra cuộc Tổng tuyển cử hết sức khó khăn: ớc ta đang trong nh thế “ngàn cân
treo sợi tóc” sau Cách mạng tháng Tám, thêm vào đó nhân dân ta vừa mới thoát khỏi thân phận nô lệ,
bị áp bức, bóc lột hàng nghìn năm phong kiến trăm năm thuộc địa. Trong bối cảnh bề bộn, nguy
hiểm, éo le và khó khăn chồng chất khó khăn như vậy mà Đảng ta và Bác Hồ vẫn quyết định ến hành
cuộc Tổng tuyển cử. Đây một quyết định cùng táo bạo nhưng kịp thời nhạy bén. Vì càng để
chậm trễ thì nh hình sẽ càng phức tạp hơn, hội để cuộc Tổng tuyển cử ến hành rất khó. Tuy nhiên
đây không phải quyết định mạo hiểm xuất phát từ bản nh chính trị sắc bén, khoa học và từ
thực ễn sâu sắc của Đảng và của Bác. Đảng và Bác một lòng n tưởng tuyệt đối vào truyền thống yêu
ớc của nhân dân, sức mạnh chiến đấu chống giặc của nhân dân mỗi khi giặc xâm lược; n vào bn
lĩnh chính trị và sự sáng suốt của nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ y dựng một chế độ mới. Ngoài
ra, qua cuộc Tổng tuyển cử 6/1/1946 mối liên hệ giữa chính quyền với nhân dân chặt chẽ hơn, tạo ra
sức mạnh đoàn kết của một dân tộc. Thông qua cuộc Tổng tuyển cử nhân dân thực hiện quyền tự do,
dân chủ của mình, nhân dân dịp chọn người đại diện chân chính xứng đáng để thực hiện trọng
trách của đất nước. Đồng thời, Tổng tuyển cử 6/1/1946 cơ hội để chính quyền tạo niềm n trong
nhân dân, xóa bỏ những nghi ngờ trong nhân dân đối với chính quyền.
Củng cố và tăng cường chính quyền vững mạnh
Bất kỳ một quốc gia nào cũng cần quan đại diện cho nhân dân để thực hiện những nhiệm vụ quan
trọng, chung cho toàn dân và hthống pháp luật để nhân dân dựa vào đó mà ứng xử, hành động phù
hợp, không gây tổn hại đến người khác, ổn định trật tự hội. Nếu không có hthống pháp luật, đất
ớc đó không thể nào ổn định và phát triển được bởi không có căn cứ, chế tài nào để nhân dân tuân
theo, ai cũng có thể làm việc mình thích mà không màng đến người khác thì xã hội sẽ ri loạn, đặc biệt
là những người có tư tưởng chống phá chính quyền, làm sụp đổ chính quyền, như vậy chính quyền suy
yếu đất nước dsụp đổ. Và VN cũng không ngoại lệ, thế nên mục đích của cuộc Tổng tuyển cử
6/1/1946 là thành lập Quốc hội, Quốc hội đề cử ra một Chính phủ chính thức và ban hành cho dân tộc
VN một bản Hiến pháp. Hiến pháp chính là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của quốc gia, có vai trò quan
trọng trong hthống pháp luật đời sống chính trị của nước ta sở pháp để y dựng
hoàn thiện hthống pháp luật riêng cho đất nước. Dựa vào Hiến pháp, nhân dân thực hiện quyền
nghĩa vụ ng dân của mình, tránh những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến người khác. Đó cũng chính
cơ sở cho việc tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước. Hiến pháp quy định hthống các tổ chc
quyền hạn của các quan đó. Thông qua Hiến pháp, chính quyền được xây dựng và củng cố về mọi
mặt, ổn định trật tự hội, ngăn chặn những hành vi gây nguy cơ làm sụp đổ chính quyền, rối loạn trật
tự xã hội. Có Chính phủ, có Hiến pháp thì VN mới duy trì và ngày càng phát triển vững mạnh được.
lOMoARcPSD| 58097008
14
Cuộc thắng lợi Tổng tuyển cử đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng VN, mở ra triển
vọng của một thời kỳ mới, thời kỳ đất nước ta một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một bản
Hiến pháp ến bộ một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp để đại
diện cho nhân dân VN về đối nội đối ngoại. Thắng lợi của Tổng tuyển cử, nChủ tịch HCM đã nói
trong Kỳ họp thứ Nhất của Quốc hội đầu ên, là kết quả của sự hy sinh, tranh đấu của tổ ên ta, nó là
kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào VN ta, sự đoàn kết của toàn thể
đồng bào không kể già trẻ, lớn bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi VN đoàn kết
chặt chẽ thành một khối hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tquc.
ĐỀ 4: Phân ch làm nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp trong giai đoạn 1945-
1954? Ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp?
1. Hoàn cảnh lịch sử
Tháng 11-1946, quân Pháp mcuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn,
đổ bộ lên Đà Nẵng y nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta Nội. TW Đảng đã chỉ đạo
m cách liên lạc với phía Pháp để giải quyết vấn đề bằng biện pháp đàm phán, thương lượng.
Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước khí của tự vệ Nội, để cho chúng kiểm soát an ninh
trt tự ở Thủ đô, ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ TW Đảng đã họp Hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc
(Hà Đông) dưới sự chủ trì của HCM để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp
phía Pháp đđàm phán, song không kết quả. Hội nghcho rằng, hành động của Pháp chứng tỏ chúng
cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng hòa hoãn không còn. Hội nghị đã quyết định hạ quyết
tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả ớc chủ động ến ng trước khi thực dân Pháp thực
hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi.
Thuận lợi của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ta chiến
đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc và đánh địch trên đất nước mình nên có chính nghĩa, có
“thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng nhiều khó khăn về chính trị, kinh
tế, quân sự ở trong nước và tại Đông Dương không dễ gì có thể khắc phục được ngay.
Khó khăn của ta tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bbao y bốn phía, chưa được
ớc nào công nhận, giúp đỡ. n quân Pháp lại có khí tối tân, đã chiếm đóng được hai nước
Campuchia, Lào một số nơi Nam Bộ VN, quân đội đứng chân trong các thành thị lớn min
Bắc.
2. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến, xây dựng chế đdân chủ nhân dân Đường
lối kháng chiến của Đảng được hình thành, bổ sung, hoàn chỉnh qua thực ễn
Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trong Chthvề kháng chiến kiến quốc, Đảng đã nhận
định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn
đấu tranh vào chúng.
Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến Nam Bộ, TW Đảng HCM đã chđạo kết hợp đấu tranh
chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam Bộ ra khỏi VN.
Ngày 19-10-1946, Thường vụ TW Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng thư
Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định “không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng
nhất định phải đánh Pháp”‘, Hội nghị đề ra những chtrương, biện pháp cụ thcả về tưởng tổ
lOMoARcPSD| 58097008
15
chức để quân dân cả ớc sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong Chỉ thCông việc khẩn cấp
bây giờ (5-11-1946), HCM đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng
chiến và khẳng định lòng n vào thắng lợi cuối cùng.
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện tập trung trong ba văn kiện lớn được soạn
thảo và công bố ngay trước và sau ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện Toàn dân
kháng chiến của TW Đảng (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của HCM (19-12-1946)
tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh. 3. Nội dung đường lối kháng chiến chống
thực dân Pháp 45-54
Mục đích kháng chiến: Kế tục phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, “Đánh phản
độngthực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
Tính chất kháng chiến: Cuộc kháng chiến của dân tộc ta một cuộc chiến tranh cách mạng
củanhân dân, chiến tranh chính nghĩa, nó nh chất toàn dân, toàn diện và lâu dài”. Đó là cuộc kháng
chiến có nh chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
Phương châm ến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng
chiếntoàn dân, tn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ
ngườigià, người trẻ. Hễ là người VN thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân
là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.
Trongđó:
+ Vchính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể
nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.
+ Vquân sự: Thực hiện trang toàn dân, y dựng lực lượng trang nhân dân, êu diệt địch, giải
phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến ến lên vận động chiến, đánh chính quy.
+ Vkinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp,
thcông nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.
+ Vn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới theo ba nguyên
tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
+ Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù , biểu dương thực lực. “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống
phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận VN độc lập.
Kháng chiến lâu dài (trường kỳ): để chống âm đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian
phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu
hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
Đây phương châm hợp khi bắt đầu vào cuộc kháng chiến, lực lượng ta còn yếu, địch thiện
chiến, mong muốn đánh nhanh thắng nhanh nên ta cần tránh đối đầu trực diện với chúng. Ta kéo dài
cuộc chiến thể y thiệt hại lớn cho địch về chi phí vật chất lẫn nhân lực, trong khi đó ta thêm
thời gian thích ứng, chuẩn bị, đào tạo thêm quân đội,tranh thủ sự ủng hộ của các dân tộc yêu chuộng
hòa bình.
lOMoARcPSD| 58097008
16
Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn phía, chưa được nưc
nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước,
song lúc đó cũng không được ỷ lại.
Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi. Đường lối kháng
của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm
của tổ ên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của CN Mác-Lênin, vừa phù hợp với thc
tế đất nước lúc bấy giờ.
4. Kết quả và ý nghĩa lịch sử
* Kết quả của việc thực hiện đường lối
- Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức, tăng cường sự lãnh
đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền năm cấp được củng cố. Mặt trận Liên hiệp quốc dân
VN (Liên Việt) được thành lập. Khối đại đoàn kết tn dân phát triển lên một bước mới.
- Vquân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã sáu đại đoàn bộ binh, một đại đoàn
côngbinh – pháo binh. Thắng lợi các chiến dịch Trung Du. Đường 18, Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc,
Thượng Lào…đã êu diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và dân cư, mrộng
vùng giải phóng của VN cho cách mạng Lào…. Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 được ghi
vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX
- Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, khi biết n
Phápcó ý định đàm phán, thương ợng với ta, ngày 27-12-1953, Ban thư ra Thông nêu rõ: “lp
trường của nhân dân VN là kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.
* Ý nghĩa lịch sử
Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, y dựng chế độ dân chủ nhân
dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức mc
độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương;
đã làm thất bại âm mưu mở rộng kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại
hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào GPDT trên thế giới, mở rộng địa bàn, ng
thêm lực lượng cho CNXH cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách
thống trị của CN thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực phân Pháp.
5. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm *
Nguyên nhân thắng lợi:
sự lãnh đạo vững ng của Đảng với đường lối kháng chiến đúng đắn đã huy động được
sứcmạnh tn dân đánh giặc; có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi
chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân dân được giữ vững, củng cố lớn
mạnh,làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc VN, Lào, Campuchia cùng chống
mộtkẻ thù chung; đồng thời có sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Trung Quốc, Liên Xô, các nước XHCN, các
dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới, k cả nhân dân ến bộ Pháp.
lOMoARcPSD| 58097008
17
* Bài học kinh nghiệm:
Trải qua quá trình lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến kiến quốc, Đảng ta đã ch lũy được nhiều kinh
nghiệm quý báu:
Thnhất, đề ra đường lối đúng đắn quán triệt sâu rộng đường lối đó cho toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân thực hiện, đó đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài dựa
vào sức mình là chính.
Thhai, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến và xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho CNXH.
Thba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương ny
càng vững mạnh để có ềm lực mọi mặt đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
Thứ tư, tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo.
Phân ch một trong các bài học kinh nghiệm của cách mạng tháng Tám năm 1945. Vận dụng bài học
kinh nghiệm đó trong bối cảnh VN thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những thắng lợi nổi bật và vĩ đại nhất của
cách mạng VN trong thế kỷ XX, mốc son chói lọi trong lịch sử ngàn năm của dân tộc ta. Đó chính
thắng lợi của trí tuệ, bản lĩnh và nh thần đấu tranh quật cường của toàn thể dân tộc VN dưới sự lãnh
đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thắng lợi đó đã đlại nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu mãi mãi soi sáng cho cách mạng VN trên con đường đổi mới, xây dựng bảo vệ T
quốc VN xã hội chủ nghĩa.
Trong đó bài học về y dựng lực lượng: trên cơ sở khối liên minh công nông, cần khơi dậy nh thần
dân tộc trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Thấm nhuần và phát triển sáng tạo luận điểm của
Chnghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng Nhân dân trong lịch sử, cách mạng sự nghiệp của
Nhân dân và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, ngay từ khi mới thành lập và lãnh đạo Nhân
dân đấu tranh cách mạng, Đảng đã rất chú trọng việc y dựng mặt trận dân tộc thống nhất. Tnăm
1930 đến năm 1941, qua nhiều chặng đường thể nghiệm xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, đặc
biệt với sự ra đời của mặt trận Việt Minh (năm 1941) đã đảm bảo cho khối đại đoàn kết dân tộc được
tạo dựng vững chắc và sâu rộng. . Việt Minh một điển hình thành công của Đảng về huy động lực
lượng toàn dân tộc lên trận địa cách mạng, đưa cả dân tộc vùng dậy trong cao trào kháng Nhật, cứu
ớc, ến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Theo cách dùng từ của V.I Lênin trong tác phẩm Tổng
kết một cuộc tranh luận về quyền tự quyết, thì đómột khởi nghĩa dân tộc”. Với chủ trương đúng đắn
“liên hiệp hết thảy các tầng lớp Nhân dân, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị nào, giai
cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành độc lập...”1, cùng phương thức tchc
đa dạng, phong phú, mặt trận Việt Minh đã tr thành hạt nhân quy tụ, tập hợp các giai cấp, tầng lớp
Nhân dân đứng vào hàng ngũ của mình để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân
Pháp và phát xít Nhật, giành chính quyền về tay Nhân dân.
Có thể nói, về thực chất, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước của VN hiện nay là một cuộc cách mạng về
kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hoá và mang ý nghĩa chính trị cực kỳ sâu sắc. Chỉ đi theo con đường
cách mạng này, VN mới có thể thoát khỏi nghèo đói và tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên
thế gii. Nhận thức rõ sự nghiệp CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các thành phần kinh
tế. Đảng ta đã nhận định, đó là “một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực
lOMoARcPSD| 58097008
18
đời sống xã hội, đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều trí tuệ, sức người, sức của. Chỉ có huy động sức mạnh
và khả năng sáng tạo to lớn của toàn dân, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý, điều hành
có hiệu lực và hiệu quả của Nhà nước thì mới bảo đảm thắng lợi”.
hội để cuộc cách mạng này đi tới thành công chính là những thành quả phát triển khoa học, kỹ thuật
và công nghệ thế giới, các quan hệ kinh tế toàn cầu và sự giao lưu trên nhiều bình diện của cuộc sống.
Đó là điều kiện cần, thậm chí rất cần, nhưng chưa phải là đủ để VN có “những bước nhảy vọt” trong s
nghiệp CNH, HĐH. Để có “những bước ến nhảy vọt, chúng ta còn phải cần đến sức mạnh của cả dân
tộc với nh thần đại đoàn kết toàn dân; ý chí độc lập tự chkhông chịu thua kém bạn của con
người VN; nguồn lực lao động dồi dào căn bản sự lựa chọn đường lối phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản VN.
Thành quả ến bộ nhân loại đã được trong thế giới hiện đại những yếu tố quan trọng, ảnh
ởng đến sự phát triển của VN, song chúng chthphát huy được tác dụng đối vi sự nghiệp CNH,
HĐH ớc ta hiện nay khi những yếu tố đó được chuyển hoá thành những yếu tố nội sinh, nội lực.
Sự chuyển hóa đó phụ thuộc phần lớn vào khả năng của chủ thể ếp nhận, tức là khả năng độc lập, tự
chủ về nh thần (trí lực) và vật chất.
Nếu trong đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh gọi các thế lực ngoại xâm, phản dân, hại nước là
giặc”, thì trong điều kiện xây dựng đất nước, Người xem sự dốt nát, kém cỏi “không sánh được với các
ờng quốc năm châu” cũng giặc. Với quan niệm này, Người kêu gọi nhân dân ta ra sức học tập,
không ngừng nâng cao trình đvăn hđthâm nhập và ếp thu trình độ tri thức nhân loại. Theo
Người, nh thần yêu nước, đoàn kết toàn dân đến đâu, nếu khoảng cách tri thức của một dân
tộc bị tụt hậu quá xa với tri thức hiện đại của toàn nhân loại thì dân tộc đó còn lâu mới thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu. tri thức, trình độ khoa học, kỹ thuật ên ến mới thể thực hiện được
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Mặt khác, nhờ có tri thức, con người mới nhận rõ bản thân mình đang
trình độ nào trong chỉnh thể văn minh nhân loại, để biết lo, biết phấn đấu sao cho không bị tụt hậu
bằng chính nội lực của mình.
Chính vì vậy, để khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự nghiệp CNH, HĐH, chúng ta cần phải
những chủ thsáng tạo và ứng dụng hiệu quả các thành qucủa động lực đó. đây, chúng tôi muốn
đề cập đến con người với tư cách là nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
một nước có dân số hơn tám mươi triệu người với mặt bằng trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật
khá cao so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, song để sử dụng nó một cách hiệu quả cho
sự phát triển bền vững tVN cần phải chiến lược phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý. Không
con đường nào khác, đchiến lược y được thực hiện, ngoài sự nghiệp giáo dục đào tạo theo
hai hướng bản là: một mặt, nâng cao mặt bằng dân trí bằng phổ cập giáo dục cho toàn xã hội mt
cách toàn diện; mặt khác, phát triển giáo dục bậc cao đlàm chủ tri thức của thời đại mới. Mặc
nguồn nhân lực của VN được xem là dồi dào về mặt số lượng, song chất lượng lao động chưa thể đáp
ứng được yêu cầu của một hội công nghiệp. Một số ớc công nghiệp mới (NICs) cần lao động
tay nghề cao khi đến thị trường lao động VN đành chịu bó tay, mặc dù xuất khẩu lao động tại thời điểm
hiện nay, khi nền công nghiệp nước nhà chưa phát triển, là giải pháp cần thiết để giải quyết vấn đề xã
hội bức xúc việc làm. Cho nên, nhiệm vụ cấp bách hiện nay của sự nghiệp giáo dục - đào tạo là làm
thế nào để khắc phục sự mất cân đối trong giáo dục, để cơ cấu, trình độ hiện của người lao động
lOMoARcPSD| 58097008
19
phù hợp với cơ cấu ngành nghề đang có xu hướng phát triển mạnh ở trong nước cũng như nhu cầu thị
trường lao động ở ớc ngoài.
Như vậy, thể nói kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, đẩy mạnh CNH, HĐH với cách
đường lối phát triển trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng ta
đã lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn.
Kết luận:
Đường lối cách mạng chính một trong những yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc cách
mạng. sở để dẫn dắt cuộc cách mạng đi đến thành quả cui cùng. Một đường lối cách mạng
đúng đắn kết hợp với việc thực hiện triệt để sẽ dẫn tới một cuộc cách mạng thành công và ngược lại,
một đường lối cách mạng chưa xác định chính xác những vấn đề chính của cách mạng thì sẽ dẫn tới
một cuộc cách mạng không đạt kết quả như mong đợi. Đảng ta đã căn cứ vào những điều kiện cụ th
của đất nước ta, vận dụng sáng tạo nguyên lý của CN Mác -Lênin để vạch ra đường lối cách mạng đúng
đắn, sáng tạo, đưa kháng chiến đến thắng lợi vẻ vang. thể nói, Đường lối kháng chiến chống Pháp
Đảng ta chính là kết nh của trí tuệ con người, thể hiện năng lực lãnh đạo vững vàng của Đảng ta.
góp phần khẳng định ĐCSVN hoàn toàn xứng đáng với vai trò lãnh đạo dân tộc VN.
Đề 5: Phân ch làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa hai chiến lược cách mạng, ch mạng XHCN
miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giai đoạn 1954-1975?
Tư tưởng HCM về sự kết hợp, gắn bó hữu giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: GPDT và CMVS
không phải chỉ là chứng minh cho sự đúng đắn của CN Mác-Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và
có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực ễn đấu tranhlãnh đạo cách mạng VN, luôn bám sát đặc
điểm thực ễn VN tham khảo kinh nghiệm các nước khác, HCM đã những giải pháp đúng đắn,
sáng tạo, đáp ng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng luận của CN Mác-
Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng GPDT trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt để nhất định phải đi theo
quđạo và là một bộ phận khăng khít của CMVS. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân
dân, nòng cốt liên minh ng nông, do chính Đảng của GCCN lãnh đạo. HCM nhận thức rất rõ, nếu
chđưa vào lực lượng của riêng GCCN, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, theo
Người, chỉ có phát động c dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu thuẫn địa chủ nông
dân, mâu thuẫn sản - sản) không tách rời cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược.giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc
lập dân tộc lên trên hết. ''Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho
toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu quyền lợi của bộ
phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích GCCN đòi hỏi trước
hết phải GPDT''. đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết
theo lập trường GCCN, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh.
Ba là, cách mạng GPDT CMVS chính quốc như ''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự
liên minh giữa sản chính quốc với sản nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới
thắng lợi. Cách mạng GPDT ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào CMVS ở chính quốc,
có thể và phải chủ động ến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp
lOMoARcPSD| 58097008
20
phần ch cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và
sáng tạo của HCM. Đáng ếc là có lúc quan điểm này của HCM không được một số người, trong đó có
một vài người của Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận.
Bốn là, sau khi GPDT khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc địa, dân tộc vừa được giải
phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độy phải tự mình m tòi con đường, phương thc
riêng phù hợp với nh hình đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức,
ớc đi, biện pháp của nước khác.
Trong thực ễn công cuộc y dựng CNXH bảo vệ Tquốc XHCN hiện nay, việc vận dụng phát triển
sáng tạo tưởng HCM về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc vấn đề giai cấp càng có ý
nghĩa cực kỳ quan trng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các
nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh
vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được nh đến đầy đủ kết hợp hài hoà,
sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau
đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu qucả về phương điện nhận thức luận cũng như trong
hoạt động thực ễn về vấn đề này.
Đề 6: Chiến tranh đơn phương, chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, VN hóa chiến tranh?
So sánh sự khác nhau giữa chiến tranh đặc biệt và VN hóa chiến tranh?
Chiến tranh đặc biệt VN hóa chiến tranh
Giống nhau Đều loại hình chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, nằm trong chiến lược toàn cầu
phản cách mạng của Mỹ những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đều chung mục tiêu chống phá cách mạng miền Nam, biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
Đều sự tham gia chi phối của tiền của, khí cố vấn quân sự
Mỹ.
Đều bị thất bại.
Về lực lượng Lực lượng chủ lực là quân đội Sài Quân Gòn,đội tay sai là chủ yếu, có sự phối
sự hỗ trợ của cố vấn quân sự Mhợỹ.p về không quân, hậu cần của Mĩ
do cố vấn Mỹ chỉ huy.
Về phạm vi – quy mô Miền Nam Toàn Đông Dương
Về âm mưu của Mỹ “dùng người Việt đánh người Việt– ”“Dùng người Việt đánh người Việt”
- Kế hoạch Stalay Taylor + Giovà “Dnxonùng người Đông Dương đánh
Macnamara người Đông Dương”.
Tận dụng xương máu của người Việt
thay cho quân Mỹ.
Về thủ đoạn của Mỹ - Kế hoạch Stalay Taylor + Gio– Tănnxong cường xây dựng quân đội Sài
Macnamara Gòn làm lực lượng chiến đấu chủ yếu
- “Ấp chiến lược”, “trực thăng trên cvận”,hiến trường, quân Mỹ rút dần
về “thiết xa vận” nước, thực hiện “dùng người Việt đánh
người Việt”.
- Mở các cuộc hành quân càng quét

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58097008 1
ĐỖ THỊ CẨM GIANG - K214142062
Đề 1: Bằng lý luận và thực tiễn, hãy phân tích và chứng minh ĐCSVN ra đời ngày 3/2/1930 là tất yếu
khách quan? Quan điểm của anh (chị) như thế nào về ý kiến cho rằng VN cần thực hiện chế độ đa
Đảng lãnh đạo? Vì sao?

1. Đảng CSVN ra đời ngày 3/2/1930 là tất yếu khách quan:
- Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX - XX tác động đến sự ra đời của ĐCSVN:
+ CNTB đã chuyển từ gđ tự do cạnh tranh sang gđ độc quyền (CNĐQ), tiến hành chiến tranh xâm lược
và áp bức các dân tộc thuộc địa. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và CNĐQ ngày càng gay gắt, do
đó vấn đề chống ĐQ GPDT là một vấn đề cấp thiết và chỉ có Đảng của giai cấp vô sản mới thực hiện
được sứ mệnh lịch sử này.
+ Năm 1917, CMT10 Nga thắng lợi đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới (thắng lợi của CMT10 đã
biến học thuyết Mác thành hiện thực, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng vô sản đối với phong trào
đấu tranh GPDT, từ đó cổ vũ phong trào đấu tranh cách mạng của gc vô sản trên toàn thế giới, mở ra
một thời đại mới với mô hình cách mạng mới là mô hình CMVS.
+ Tháng 3/1919, Quốc tế cộng sản thành lập đã tạo điều kiện thuận lợi cho ĐCSVN ra đời: Thứ nhất,
Quốc tế III định hướng về con đường cứu nước, GPDT; giúp đỡ, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi
truyền bá CN Mác-Lênin vào VN, thành lập ĐCSVN. Thứ 2, Quốc tế III đã đào tạo và bồi dưỡng cho cách
mạng VN nhiều cán bộ ưu tú trở thành những lãnh tụ chân chính của cách mạng VN. Thông qua việc
phân công và đào tạo trong công tác thực tiễn và qua các trường lớp của Quốc tế III (Trường Quốc tế
Lênin, Trường Lao động cộng sản Phương Đông) nhiều chiến sĩ cộng sản VN đã trưởng thành trở thành
các lãnh tụ chính trị xuất sắc của Đảng ta: HCM, Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh
Khai... Nhờ được đào tạo cơ bản và có hệ thống mà Đảng ta có bước trưởng thành vững chắc về lý
luận. Thứ ba, Quốc tế III đã chỉ đạo kịp thời đối với Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
+ CN Mác-Lênin có thể truyền bá vào VN đã chỉ ra con đường đấu tranh cho GCCN và nhân dân toàn
thế giới đã tạo đk cho ĐCSVN ra đời (kết hợp CN Mác + phong trào công nhân + phong trào thế giới).
➩ Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có nhiều biến đổi sâu sắc mà qua đó một mặt đặt ra
yêu cầu ĐCSVN phải ra đời, mặt khác đồng thời tạo ra điều kiện, tiền đề cho phép ĐCSVN ra đời. Cho
nên ĐCSVN ra đời là khách quan.
- Tình hình trong nước tác động đến sự ra đời của ĐCSVN:
+ Chính sách thống trị của thực dân Pháp:
● Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược VN và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, khiến nước
ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta
bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm
cho xã hội VN có nhiều thay đổi.
● Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội,
đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn,...
● Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn
bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên,... lOMoAR cPSD| 58097008 2
● Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, khuyến khích văn hóa độc hại,
xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa VN và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.
+ Những chuyển biến của xã hội VN:
● Về Kinh tế: Bước đầu du nhập QHSX TB (từ 1 xã hội phong kiến có nền kinh tế chủ đạo là
nông nghiệp đến xuất hiện các nhà máy, xí nghiệp đưa người nông dân thành công nhân)
● Về Xã hội: Tính chất xã hội VN thay đổi từ xã hội phong kiến độc lập sang xã hội thuộc địa
nửa phong kiến nên XH VN có sự phân hóa sâu sắc, xuất hiện nhiều giai cấp mới (địa chủ,
nông dân, tiểu tư sản, tư sản, công nhân) trong đó GCCN là giai cấp lãnh đạo cách mạng VN
nhưng khi chưa có Đảng thì giai cấp này không thể thực hiện sứ mệnh lịch sử GPDT nên cần
thiết phải có sự hình thành ĐCS để đưa ra những đường lối đúng đắn giúp giai cấp này thực
hiện sứ mệnh của mình.
● Mâu thuẫn xã hội: 2 mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn dân tộc (mâu thuẫn giữa dân tộc VN và
TD Pháp) và mâu thuẫn giai cấp (mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ).
● Các phong trào yêu nước trước khi có Đảng *
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh của
nhândân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực
lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. *
Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương đã chấm dứt với
sự thấtbại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nông dân
Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi. *
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh,Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh
đạo cũng bị thất bại,…
⇨ Cách mạng VN chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
→ Sự thất bại của các phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã
chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách
mạng VN lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử
đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi
của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
2. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị mọi điều kiện để thành lập Đảng -
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước với hành trang duy
nhất làlòng yêu nước. Sau khi tìm thấy con đường CMVS, Người đã tích cực chuẩn bị các điều kiện về
chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng để tiến tới việc hiện thực hóa con đường cứu nước. -
Qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với CN Mác-Lênin và tìm ra
conđường cách mạng đúng đắn-con đường CMVS. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và GPDT, không
có con đường nào khác con đường CMVS”. Từ đó, Người đã tích cực chuẩn bị các điều kiện về chính trị,
tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập ĐCS. lOMoAR cPSD| 58097008 3 -
Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bản chất và tội ác của CN đế quốc, thực dân, tập hợp
lựclượng và tuyên truyền con đường CMVS. Người sáng lập tờ báo “Le Paria” (Người Cùng khổ) và viết
nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế… -
Về chính trị: Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá CN Mác-Lênin vào trong nước. Người đã phác
thảonhững vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng VN, thể hiện tập trung trong
tác phẩm “Đường Kách mệnh”. -
Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính đảng vô
sảncủa GCCN VN. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng
Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá CN Mác-Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc
thành lập Hội VN Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng.
⇨ ĐCSVN ra đời là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử CMVN. Sự kiện lịch sử vĩ đại ấy đã chấm dứt sự
khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo phong trào yêu nước VN đầu thế kỷ XX, đáp
ứng khát vọng GPDT của nhân dân VN, là nền tảng vững chắc cho dân tộc VN tiếp nối trên con đường
độc lập dân tộc và CNXH.
3. Quan điểm về VN cần thực hiện chế độ đa Đảng hay không?
Hiện nay, ở VN, ĐCSVN không phủ nhận quá trình đa dạng hoá sự phát triển của XH, chủ trương phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài) dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với đa dạng hóa hình thức sở hữu (sở
hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp),... Tuy nhiên, VN không chấp nhận
đa nguyên, đa đảng, còn bởi vì, đa nguyên, đa đảng còn là thủ đoạn thâm hiểm trong chiến lược “diễn
biến hòa bình” của CN đế quốc và các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng VN. -
Thứ nhất, chế độ đa nguyên, đa đảng đã sớm xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII. CN đa nguyên
phủ định tính thống nhất của thế giới, cường điệu cái riêng; phủ nhận sự phân chia xã hội thành giai
cấp, phủ nhận đấu tranh giai cấp; chủ trương xây dựng một cơ chế quản lý xã hội theo nguyên tắc đa
lực lượng, đa đảng phái và các tổ chức đảng phái này quan hệ với nhau theo nguyên tắc hiệp thương.
Vì vậy, đây là một học thuyết phi mác xít. Nếu áp dụng quan điểm này vào CNXH sẽ dẫn tới hạ thấp
vai trò và nguy cơ phủ định vai trò lãnh đạo của ĐCS. Như thế, CN đa nguyên là sản phẩm của giai cấp
tư sản với thế giới quan phi khoa học, trái với CN Mác-Lênin. Trong khi đó, ĐCSVN đã, đang và sẽ vẫn
mãi xác định lấy CN Mác-Lênin, tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động
của Đảng. Chính điều đó đã, đang và sẽ mãi bảo đảm cho ĐCSVN - Đảng chính trị duy nhất tồn tại,
vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Do vậy, ở VN không cần sự tồn tại của CN
đa nguyên - một thứ cơ sở lý luận cho việc thực hiện chế độ đa đảng. -
Thứ hai, thực tiễn lịch sử CMVN cho thấy, sự lãnh đạo của ĐCSVN là sự lựa chọn tất yếu của
lịch sử; là ý nguyện của nhân dân VN. Phong trào CMVS ở VN đã hướng theo CN Mác-Lênin, do NAQ
truyền bá và phát triển mạnh mẽ. Trải qua quá trình được chuẩn bị chín muồi về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, ngày 3-2-1930, ĐCSVN ra đời và đã khẳng định lấy “CN Lênin làm cốt”. Đây là một tất yếu
lịch sử, chấm dứt thời kỳ CMVN khủng hoảng về đường lối, mở ra một thời đại mới cho lịch sử dân tộc.
+ Trong thời kỳ 1930 - 1945, lịch sử VN đã chứng minh, chỉ có ĐCSVN chứ không cần thêm bất cứ một
tổ chức, đảng phái chính trị nào khác lãnh đạo cách mạng VN. Thắng lợi của công cuộc đấu tranh giành lOMoAR cPSD| 58097008 4
chính quyền mà đỉnh cao là CMT8 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước VN Dân chủ Cộng hoà, đã mở
ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, đó chính là công lao to lớn của ĐCSVN.
+ Trong những năm 1945-1946, bối cảnh tình hình chính trị VN diễn biến phức tạp, ngoài ĐCSVN tồn
tại một số đảng phái đối lập như VN Quốc dân đảng, VN Cách mạng đồng minh hội..., nhưng trên thực
tế, chỉ có duy nhất ĐCSVN lãnh đạo cách mạng. Các đảng phái, tổ chức đối lập thời kỳ này đã không vì
lợi ích quốc gia, dân tộc mà âm mưu phá hoại cách mạng, xóa bỏ chính quyền cách mạng non trẻ, nên
bị chính lịch sử và nhân dân ta loại bỏ.
+ Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975), ĐCSVN là lực lượng chính
trị duy nhất lãnh đạo cách mạng VN. Trong thời kỳ này, cũng tồn tại hai đảng khác là Đảng Dân chủ VN
và Đảng Xã hội VN. Tuy nhiên, cả hai đảng này chưa bao giờ đối lập với ĐCSVN, mà đều ủng hộ, thừa
nhận vai trò lãnh đạo của ĐCSVN và sau này hoàn toàn tự nguyện giải tán. Cũng trong thời gian này,
còn có những đảng phái thân Pháp, thân Mỹ đối lập với ĐCSVN, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc và
lợi ích của nhân dân lao động, nên cũng đã bị chính nhân dân ta đấu tranh loại bỏ.
+ Từ sau năm 1975 đến nay, nền chính trị nhất nguyên, với vai trò lãnh đạo của ĐCSVN ngày càng được
củng cố, phát triển toàn diện, đã một lần nữa khẳng định tính tất yếu khách quan. Chính thực tiễn này
đã khẳng định, ở VN hiện nay không cần đa đảng và cũng đúng với nhận định của đồng chí Nguyễn Phú
Trọng: “Ở VN chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ”. -
Một trong những luận điệu tuyên truyền được các thế lực thù địch tập trung tung hô, cổ suý
nhiềunhất ở VN hiện nay là đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để “có dân chủ và phát triển”.Trên thực
tế, thể chế nhất nguyên một đảng lãnh đạo hoàn toàn không đồng nghĩa với mất dân chủ, kém phát
triển và dân chủ, phát triển không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng. Trên thế giới hiện nay, có không
ít những nước đa đảng, nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển nhất; ngược
lại, cũng có những nước chỉ một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ vẫn được bảo đảm, kinh tế - xã hội
phát triển, đời sống nhân dân sung túc. Điều đó minh chứng là: đa nguyên, đa đảng không phải là cứu
cánh cho dân chủ và sự phát triển, đúng như đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Không phải
có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn”. -
Hãy nhìn sang một số nước tư bản hiện nay, nhất là nước Mỹ với sự tồn tại hai chính đảng
(ĐảngDân chủ và Đảng Cộng hòa) thay nhau cầm quyền. Tuy bề ngoài là chế độ đa đảng đối lập, nhưng
xét về bản chất chỉ là một đảng của giai cấp tư sản. Vì thế, dù Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hòa nắm
quyền, cũng đều là đảng của gc tư sản, đại diện cho lợi ích của gc tư sản. Dẫn đến ở Mỹ, bên cạnh “một
xã hội” với những người có cuộc sống xa hoa, hào nhoáng thì vẫn còn tồn tại “một xã hội” hoàn toàn
khác hẳn, gồm hàng chục triệu người phải sống trong sự bất công, thất nghiệp, đói nghèo, bệnh tật,
không có quyền dân chủ...
Như vậy, thực chất luận điểm “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” mang nặng tính chất mị dân, hết
sức nguy hiểm, bởi rất dễ gây nên sự ngộ nhận, nhất là đối với những người có nhận thức hạn chế. Từ
đó, có thể gây nên sự mơ hồ, lẫn lộn, dẫn tới sự dao động về tư tưởng, gây nên sự phân tâm trong XH;
làm suy giảm và mất dần niềm tin của nhân dân về vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với cách mạng VN.
Cũng từ những luận điểm này, đã hướng đến việc xóa bỏ nền dân chủ XHCN, thiết lập nền dân chủ tư
sản; nguy cơ gây nên những khó khăn trong quá trình phát triển của xã hội VN, nhất là làm cho chính
trị - XH mất ổn định, kinh tế suy giảm, văn hoá đạo đức xuống cấp, các mâu thuẫn và xung đột xã hội lOMoAR cPSD| 58097008 5
sẽ gia tăng, phá vỡ khối đoàn kết dân tộc... Để không để xảy ra những hậu quả tai hại đó, ở VN hiện
nay, nhất thiết không cần và không thể chấp nhận đa đảng đối lập như các thế lực thù địch mong muốn.
ĐỀ 2: Phân tích chứng minh làm rõ thắng lợi cách mạng tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình
lãnh đạo, chỉ đạo của ĐCSVN? Phê phán quan điểm cho rằng thắng lợi cách mạng tháng Tám là ăn may.
1. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của ĐCSVN
a. Đảng đề ra đường lối chống đế quốc và chống phong kiến đúng đắn
Khi chiến tranh thế giới bùng nổ (tháng 9/1939), Đảng ta đã mau lẹ chuyển hướng về chỉ đạo chiến
lược, đặt nhiệm vụ GPDT lên hàng đầu. Từ chỗ thấy hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến
phải gắn liền với nhau, Đảng ta đã tiến lên một bước, nhận rõ thêm rằng trong hai nhiệm vụ chiến lược
ấy thì nhiệm vụ chống đế quốc là nhiệm vụ chủ yếu nhất (điều này lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận
thấy và xác định ngay từ ngày đầu thành lập Đảng 3/2/1930 nhưng không được Quốc tế Cộng sản và
Đảng ta tán thành). Nhờ nhận thức và chủ trương đúng đắn đó, Đảng đã tập hợp được thêm các lực
lượng dân tộc mà cao trào cách mạng 1930-1931 trước đây chưa tập hợp được; các lực lượng tập hợp
nhau lại trong một mặt trận dân tộc thống nhất, dưới sự lãnh đạo của GCCN, trên nền tảng khối liên minh công - nông.
Đế quốc tăng cường khủng bố, Đảng ta đã biết mau lẹ chuyển từ hoạt động công khai và nửa công khai
sang hoạt động bí mật hoàn toàn, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, dựa vào nông thôn xây
dựng căn cứ địa cách mạng, bí mật chuẩn lực lượng, vận động quần chúng đấu tranh chính trị và khi
có điều kiện thì đấu tranh vũ trang, đánh du kích. Đồng thời hết sức coi trọng vai trò của thành thị, gây
cơ sở CM và phát triển phong trào CM ở thành thị, kết hợp chặt chẽ pt CM ở thành thị với phong trào CM ở nông thôn.
b. Đảng đã dự đoán đúng thời cơ và hành động chính xác, kịp thời khi thời cơ xuất hiện
Đến tháng 8/1945, nhờ dự đoán đúng tình hình và đúng thời cơ, ở VN tình thế khách quan vô cùng
thuận lợi xuất hiện. Thực hiện lời cam kết ở Hội nghị Yalta, ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật,
quân đội Liên Xô tấn công đội quân Quan Đông tinh nhuệ nhất gồm hơn 1 triệu quân của Nhật ở Đông
Bắc Trung Quốc. Bên cạnh việc quân đội Liên Xô tiến đánh quân đội Nhật thì Mỹ ném hai quả bom
nguyên tử xuống Hiroshima ngày (6/8/1945) và Nagasaki ngày (9/8/1945). Trước sức mạnh của đồng
minh, ngày 11/8/1945 Chính phủ Nhật gửi thông điệp cho Liên Xô, Mỹ và các nước Đồng minh chấp
nhận đầu hàng vô điều kiện. Đúng như dự đoán của lãnh tụ HCM thì đây là cơ hội nghìn năm có một
để nhân dân ta thực hiện tổng khởi nghĩa.
Lúc này, thời cơ đã đến. Thời cơ xuất hiện trong những ngày tháng 8/1945 không chỉ có ở VN mà còn ở
nhiều nước Đông Nam châu Á bị quân đội Nhật chiếm đóng. Các nước này tuy có điều kiện khách quan
thuận lợi giống như ở VN, nhưng không chớp được thời cơ khởi nghĩa hoặc kịp thời phát động tổng
khởi nghĩa nhưng thành quả thu được không nhiều, vì lực lượng chưa được chuẩn bị đầy đủ, Đảng tiên
phong chưa nắm được quyền lãnh đạo cách mạng… Chỉ có duy nhất ở VN từ khi Đảng thành lập năm
1930 đến năm 1945, đảng từng bước chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng chờ thời cơ đến và kịp thời chớp
thời cơ, lãnh đạo nhân dân Tổng khởi nghĩa thắng lợi. lOMoAR cPSD| 58097008 6
c. Đảng đã lựa chọn đúng hình thức, phương pháp đấu tranh, phát huy đến mức tối đa sức mạnh
tổng hợp của cách mạng, giành thắng lợi một cách nhanh gọn.
Lựa chọn đúng thời cơ, lại còn phải có sự chỉ đạo và có phương pháp đúng mới có mới có thể giành
được thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa. Tư tưởng chỉ đạo và phương pháp mà Đảng ta lựa chọn trong Tổng khởi nghĩa là: -
Về chủ trương, đường lối: Đảng ta đã có sự điều chỉnh về đường lối chiến lược và sách lược phù
hợp.Từ việc tiến hành song song hai nhiệm vụ cách mạng là phản đế và phản phong, đến việc xác định
nhiệm vụ trước mắt là GPDT. Thực hiện chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang,
tiến từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa với phương pháp đấu tranh phù hợp, chuyển từ đấu
tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay
sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp… -
Về xây dựng lực lượng chính trị: Đảng ta xác định lực lượng chính trị quần chúng có vai trò rất
quantrọng trong sự nghiệp cách mạng. Đảng ta đã chú trọng xây dựng lực lượng chính trị, cử nhiều
thanh niên ưu tú đi học tập, đào tạo tại các trường của Quốc tế Cộng sản để sau này về nước nắm giữ
các chức vụ chủ chốt trong Đảng, trong các tổ chức cách mạng, truyền bá CN Mác-Lênin vào trong
nước, trang bị lý luận cách mạng cho các tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó, Đảng đã thành lập một số tổ
chức quần chúng để lập nên khối đại đoàn kết toàn dân đứng lên làm cách mạng cứu nước. -
Về xây dựng lực lượng vũ trang: Đảng chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang và xác định đây
làlực lượng nòng cốt, trực tiếp tham gia chiến đấu. Do lực lượng vũ trang phát triển còn nhỏ lẻ, chưa
có tổ chức, Đảng ta đã từng bước thành lập các đội du kích. HNTW 8 (tháng 5/1941) đã ra nghị quyết
thành lập các đội tự vệ cứu quốc. Khi phong trào cách mạng phát triển, với chủ trương xây dựng lực
lượng vũ trang ba thứ quân, nhằm đẩy mạnh hình thức đấu tranh quân sự, tháng 12 năm 1944, HCM
ra Chỉ thị thành lập Đội VN tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng nòng cốt cho các tổ chức vũ trang
đánh giặc. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu bước khởi đầu công cuộc xây dựng và phát triển
quân đội cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. -
Về xây dựng căn cứ địa cách mạng: Đảng ta đã tổ chức xây dựng các căn cứ địa cách mạng để
tậphợp, xây dựng các tổ chức, lực lượng cách mạng và huấn luyện lực lượng này để chuẩn bị cho khởi
nghĩa. Hội nghị TW7 của Đảng (11/1940) chủ trương thành lập các căn cứ du kích, lấy Bắc Sơn – Võ
Nhai làm trung tâm. Cuối 1940, Cao Bằng được lựa chọn để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đến Hội
nghị TW8 (5/1941) vừa duy trì và phát triển các căn cứ du kích Bắc Sơn, Võ Nhai, đồng thời mở rộng
căn cứ địa Cao Bằng, hình thành một vùng căn cứ địa Việt Bắc Đây thực sự là những nơi trọng yếu chỉ
đạo quá trình xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, là những trung tâm đầu não lãnh đạo lực
lượng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc. -
Về xác định, lựa chọn thời cơ khởi nghĩa: Việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi
nghĩađúng lúc thể hiện cụ thể trong chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” tháng
3/945 của Ban Thường vụ TW Đảng, bản Quân lệnh số 1 của Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm
13/8/1945. Với sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ mọi yếu tố và biết chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của
nhân dân ta được nhân lên gấp bội, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám 1945 của dân
tộc đã thắng lợi to lớn, triệt để, khai sinh ra nước VN dân chủ cộng hoà. lOMoAR cPSD| 58097008 7 -
Về nguyên tắc hành động: “Tập trung, thống nhất, kịp thời”; “Chính trị và quân sự phối kết
hợp”;“Làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh”.
Tư tưởng chỉ đạo nói trên của Đảng còn được quán triệt và thể hiện ở sự chủ động, năng động, sáng
tạo của các Đảng bộ địa phương và diễn biến của Tổng khởi nghĩa trong cả nước, nhất là ở những địa
phương tiêu biểu, trọng yếu như ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, đặc biệt là ở thủ đô Hà nội. Sự chỉ đạo của
Đảng về hình thức, về nguyên tắc và về thời gian khởi nghĩa đã đưa lại kết quả là nhân dân ta giành
được chính quyền trước khi quân Đồng Minh vào Đông dương.
d. Đảng đã thực hiện sách lược khôn khéo đối với Nhật trong khi tiến hành Tổng khởi nghĩa
Từ tháng 9/1940, khi Nhật nhảy vào Đông Dương, Đảng ta xác định Nhật là kẻ thù chủ yếu, cần phải
đánh đổ. Nhưng lúc này, Nhật đã đầu hàng Liên Xô và Đồng Minh, tinh thần quân đội Nhật hoang mang
cao độ, Đảng đã thực hiện một sách lược khôn khéo: “ Đối với quân đội Nhật, chúng ta sẽ rất ôn hòa,
tránh tất cả những sự xô xát vô ích, bất lợi cho cả đôi bên, đồng thời chúng ta có thể dùng ngoại giao
làm cho Nhật hiểu rõ tình thế, tán thành cách mạng VN”.
Trong thực tế, lực lượng khởi nghĩa do Đảng chỉ đạo đã không đánh quân Nhật, mà dựa vào sức mạnh
của cách mạng để thuyết phục và vô hiệu hóa lực lượng của chúng, làm cho chúng không can thiệp vào
công việc giành chính quyền của nhân dân ta. Đối với những nơi xảy ra xô xát, ta dựa vào sức mạnh bạo
lực của quần chúng và dùng đàm phán, buộc Nhật phải nhượng bộ. Nhờ đó, đã tránh được đổ máu và
tổn thất trong quá trình tiến hành khởi nghĩa.
2. Phê phán quan điểm thắng lợi cách mạng tháng Tám là “ăn may”
Hằng năm, vào dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, các thế lực thù địch, phản động
bằng mọi âm mưu, thủ đoạn, với nhiều hình thức đã bóp méo sự thật, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận
thành quả cách mạng của dân tộc. Các thế lực đó cho rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công không phải là do sự lãnh đạo tài tình của ĐCSVN, đứng đầu là Chủ tịch HCM, không phải là sức
mạnh đoàn kết của toàn dân tộc đứng lên làm cách mạng mà là nhờ một sự “may mắn” của hoàn cảnh
lịch sử. Thậm chí, còn trắng trợn vu cáo, xuyên tạc lịch sử rằng “dù không có ĐCS, nhiều thuộc địa vẫn
giành được độc lập mà ít tốn xương máu. Sự hao tổn xương máu là do ĐCSVN gây ra”.
Những luận điệu thiếu khách quan, sai sự thật, xuyên tạc lịch sử đó của là nhằm hạ thấp uy tín, vai trò
lãnh đạo của ĐCSVN và Chủ tịch HCM, hạ thấp, xem nhẹ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
xem nhẹ vai trò và giá trị thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, từ đó làm cho nhân dân ta mất niềm tin
vào Đảng và chế độ. Do đó, chúng ta cần tỉnh táo nhận diện, nâng cao tinh thần cảnh giác, sức đề kháng
để tăng cường đấu tranh phản bác các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là kỳ tích vĩ đại có một không hai trong lịch sử VN thế kỷ
XX, không phải là một cuộc cách mạng vội vàng, ngẫu nhiên, “ăn may” như các thế lực thù địch, phản
động xuyên tạc, bóp méo. Để có được thành quả đó, toàn dân tộc VN, dưới sự lãnh đạo tài tình của
ĐCSVN, đứng đầu là Chủ tịch HCM đã phải nỗ lực, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, kể cả sự hy sinh,
mất mát cho việc chuẩn bị mọi mặt trong suốt 15 năm kể từ khi Đảng ta ra đời. Đảng có đường lối cách
mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, đoàn kết thống nhất, nằm đúng thời cơ, chỉ đạo kiện
quyết, khôn khéo, biết tạo nên sức mạnh tổng hợp để áp đảo kẻ thù và quyết tâm lãnh đạo quần chúng
khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám 1945. lOMoAR cPSD| 58097008 8
Từ những vấn đề trên, một lần nữa khẳng định, CMT8 năm 1945 thành công là kết quả tổng hợp của
nhiều yếu tố. Ngoài bối cảnh thế giới có những chuyển biến mau lẹ, thuận lợi thì yếu tố chủ quan vẫn
là cơ bản, quyết định. Đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch HCM. Cách mạng
Tháng Tám nổ ra và thành công là minh chứng hùng hồn khẳng định, Đảng ta đã nghiên cứu và vận
dụng CN Mác-Lênin một cách linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, tình thế cách mạng
để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, lựa chọn phương pháp cách mạng phù hợp. Cách mạng Tháng
Tám thắng lợi hoàn toàn không phải là một sự “ăn may” mà là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh
lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh của nhân dân VN dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch HCM.
Cuộc cách mạng vĩ đại đó là một biểu tượng của tinh thần quật cường “đem sức ta mà giải phóng cho
ta”, đó là sự kết tinh và tỏa sáng của sức mạnh nội lực VN.
Bên cạnh đó, Cách mạng Tháng Tám diễn ra dưới hình thức tổng khởi nghĩa nhưng hầu như không có
đổ máu. Đó là do Đảng ta đã lãnh đạo sử dụng bạo lực cách mạng một cách hợp lý, bao gồm cả bạo lực
chính trị và bạo lực vũ trang, kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị của toàn dân tộc và lực lượng
vũ trang cách mạng, giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, trong đó đấu tranh chính trị là chủ
yếu, làm nền cho đấu tranh vũ trang. Chính lực lượng chính trị của quần chúng, của toàn dân kết hợp
với lực lượng vũ trang cách mạng, trong đó lực lượng chính trị đóng vai trò quyết định chủ yếu đã tạo
nên sức mạnh to lớn của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, làm nên cuộc cách mạng ít đổ
máu. ĐCSVN và toàn thể dân tộc VN xứng đáng được hưởng thành quả trọng đại đó.
Những luận điệu xuyên tạc mà các thế lực thù địch, phản động nêu ra đối với cách mạng tháng Tám
không gì khác vẫn là nhằm phủ nhận những thành quả, ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại, sức sống mãnh
liệt của cuộc cách mạng và xa hơn là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sức mạnh của khối
đại đoàn kết dân tộc, từ đó phủ nhận toàn bộ sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân ta dưới dự lãnh
đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng. Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám là không
thể phủ nhận. Vì vậy, mọi mưu toan chống phá, sự suy diễn chủ quan, xuyên tạc, vu cáo về cuộc cách
mạng này đều không có giá trị.
Đề 3: Phân tích làm rõ chủ trương, biện pháp của Đảng để giữ vững chính quyền cách mạng trong
thời kỳ 1945-1946? Vì sao tổ chức bầu cử Quốc hội ngày 6/1/1946 được coi là một biện pháp để giữ vững chính quyền?
1. Chủ trương, biện pháp của đảng để giữ vững chính quyền cách mạng trong thời kỳ 1945-1946. 1.1. Chủ trương
Trước tình hình mới, TW Đảng và Chủ tịch HCM đã sáng suốt phân tích tình hình, dự đoán chiều hướng
phát triển của xu thế cách mạng thế giới và thế mạnh mới của đất nước, đề ra chủ trương, chính sách,
giải pháp, nhằm ra sức giữ vững chính quyền, bảo vệ. nền độc lập tự do vừa giành được. Ngày
25/11/1945, Ban Chấp hành TW ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”. Đây là một văn kiện quan trọng của
Đảng ở giai đoạn này, và đặt dấu ấn đầu tiên về tư duy chính trị của Đảng cầm quyền. Chỉ thị đã đánh
giá tình hình thế giới và trong nước, chỉ ra những thuận lợi cơ bản và những thách thức to lớn của cách mạng nước ta.
Về chỉ đạo chiến lược: Ban Chấp hành TW Đảng xác định: Tính chất của “cuộc Cách mạng Đông Dương
lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”. Cuộc cách mạng đó chưa hoàn thành vì nước ta lOMoAR cPSD| 58097008 9
chưa được độc lập hoàn toàn. Do đó, khẩu hiệu của ta lúc này vẫn là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết".
Về xác định kẻ thù: Phân tích âm mưu của đế quốc chống lại Đông Dương, TW chỉ rõ “Kẻ thù chính của
ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Vì vậy, cần phải
"lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược"; mở rộng mặt trận Việt Minh để thu
hút các tầng lớp nhân dân; thống nhất mặt trận VN - Mianma - Lào; kiên quyết giành độc lập - tự do - hạnh phúc cho dân tộc.
Về Phương hướng nhiệm vụ: Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc nêu ra nhiệm vụ chủ yếu của toàn dân ta
lúc này là "củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”. 1.2. Biện pháp
Nhằm củng cố chính quyền còn non trẻ của nhà nước ta, ngày 25/11/1945, Ban chấp hành TW ra Chỉ
thị Kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị nhận định tình hình thế giới và trong nước, chỉ rõ những chủ trương
nhất định và trong mỗi chủ trương có những nhiệm vụ để cụ thể hóa. Trong đó, đối với từng nhiệm vụ,
Đảng cũng đưa ra một số biện pháp cụ thể.
- Nhiệm vụ thứ nhất: Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói
Nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề dẫn đến ngày càng chậm phát
triển và cuộc sống nhân dân ngày càng khốn khó. Thêm vào đó, nạn đói năm 1945 làm 2 triệu người
chết, tiếp đó là lũ lụt, hạn hán kéo dài làm 50% ruộng đất bị bỏ hoang khiến sản xuất nông nghiệp đình
đốn. Tài chính kiệt quệ, kho bạc trống rỗng, Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp.
Nhằm giải quyết tình trạng trên, Đảng đã đề ra một số biện pháp như sau:
+ Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi của các giới đồng bào, lập quỹ cứu tế, lập kho thóc cứu tế, tổ chức
“bữa cháo cầm hơi”…Động viên thanh niên nam, nữ tổ chức thành các đoàn “cứu đói”, và các đội quân
để trồng trọt khai khẩn, lấy lương cho dân nghèo, hay quyên góp cho các quỹ cứu tế, tổ chức tiếp tế,
mua gạo nhà giàu bán cho nhà nghèo theo giá hạ, chở gạo từ chỗ thừa sang chỗ thiếu.
+ Trong phiên họp đầu tiên ngày 3/9-/945, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời đã bàn về biện pháp
chống đói. Nhiều biện pháp như tổ chức lạc quyên, lập “Hũ gạo cứu đói”, tổ chức “Ngày đồng tâm” để
góp gạo cứu đói: không dùng gạo, ngô, khoai sắn nấu rượu…
+ Biện pháp cơ bản, lâu dài là tăng gia sản xuất. Theo đó, các phong trào đấu tranh tăng gia sản xuất
dấy lên ở khắp mọi địa phương. Đi cùng với tăng gia sản xuất còn có thực hành tiết kiệm bằng cách lập
hũ gạo tiết kiệm, tổ chức “Tuần lễ vàng”, tiến hành gây quỹ “Độc lập”, quỹ “Đảm phụ quốc phòng”.
+ Chính phủ cách mạng ra Sắc lệnh số 11, thực hiện chính sách giảm tô 25% kết hợp với bãi bỏ thuế
thân và các thứ thuế vô lý khác của chế độ cũ.
+ Tịch thu ruộng đất từ tay đế quốc và Việt gian chia lại cho nông dân canh tác.
+ Xây dựng lại ngân khố quốc gia, phát hành đồng giấy bạc VN.
- Nhiệm vụ thứ hai: Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ
Hậu quả của chính sách ngu dân mà thực dân Pháp để lại sau hơn 80 năm đô hộ nước ta đó là hơn 90%
người VN mù chữ. “Ngu dân” là một trong những chính sách thâm độc mà chế độ thực dân sử dụng để
cai trị nhân dân VN. Chúng không muốn cho dân ta biết chữ để dễ bề lừa dối, bóc lột và đàn áp. Để xóa lOMoAR cPSD| 58097008 10
nạn mù chữ, sau Cách mạng tháng Tám, chủ tịch HCM đã kịp thời phát động một chiến dịch chống nạn
mù chữ trong toàn dân, đồng thời xây dựng một chương trình hành động thiết thực nhằm tổ chức lại
nền giáo dục nước nhà.
+ Tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở các trường đại học và trung học, cải cách
việc học theo tinh thần mới.
+ Bài trừ cách dạy học nhồi nhét, cổ động văn hoá cứu quốc, kiến thiết nền văn hoá mới theo ba nguyên
tắc: khoa học hoá, đại chúng hóa, dân tộc hoá.
+ Xây dựng đạo đức mới với nội dung “cần - kiệm - liêm - chính”
+ Bài trừ các tệ nạn xã hội cũ như: cờ bạc, rượu chè, hủ tục….ra khỏi đời sống xã hội.
- Nhiệm vụ thứ ba: Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền
+ Về nội chính: xúc tiến việc bầu cử Quốc hội, thành lập Chính phủ chính thức, soạn thảo và ban hành
Hiến pháp, thực hiện các công tác để củng cố chính quyền nhân dân. + Về quân sự:
Một là, động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài.
Đảng ta luôn ý thức sâu sắc rằng: cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Trong đường lối,
chủ trương, chính sách, cũng như trong hoạt động thực tiễn, Đảng đã bằng mọi cách làm cho nhân
dân thấy được việc bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng là quyền lợi và trách
nhiệm, là ý chí và tình cảm của mỗi người để nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng một cách tự giác.
Tháng 9/1945, Chính phủ ra lời hiệu triệu toàn dân: “Hãy ủng hộ phong trào đấu tranh oanh liệt của đồng bào Nam Bộ”.
Tháng 10/1945, HCM ra “Lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ”. Ghi nhận và biểu dương tinh thần chiến đấu
kiên cường bất khuất của quân và dân Nam Bộ, tháng 2/1946, thay mặt Chính phủ, Chủ tịch HCM đã
tặng đồng bào Nam Bộ danh hiệu vẻ vang: “Thành đồng Tổ quốc”.
Đảng và Chủ tịch HCM thông qua “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” và Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”
khơi dậy lòng yêu nước và truyền thống đoàn kết, khẳng định sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết
toàn dân đồng lòng kháng chiến.
Hai là, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh.
Trước sự chống phá quyết liệt của thù trong, giặc ngoài, Đảng đã đề ra đường lối vũ trang toàn dân, xây
dựng lực lượng vũ trang từ lực lượng chính trị của quần chúng, khẩn trương xây dựng lực lượng Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân đủ mạnh, thực sự trở thành lực lượng chính trị trung thành của Đảng,
công cụ bạo lực sắc bén, giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
Thực hiện chủ trương đó, khắp nơi trên đất nước ta, phong trào luyện tập quân sự, tìm sắm vũ khí diễn
ra sôi nổi. Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, những chi đội giải phóng quân lần lượt ra đời, đến cuối năm 1945 đã
phát triển lên 40 chi đội với 50.000 người.
+ Tháng 9/1945, Bộ Tổng Tham mưu và ngành Quân giới được thành lập. lOMoAR cPSD| 58097008 11
+ Tháng 11/1945, Quân giải phóng VN được đổi thành Vệ quốc đoàn (đội quân chính quy của Nhà nước
VN Dân chủ Cộng hòa), phát triển thành Quân đội Quốc gia VN vào tháng 6/1946.
+ Tháng 12/1945, Ủy ban Kháng chiến miền Nam ra đời, trực tiếp chỉ đạo quân và dân miền Nam kháng
chiến, chống âm mưu tái xâm lược của thực dân Pháp.
+ Tháng 1/1946, TW Quân ủy được thành lập để giúp TW Đảng lãnh đạo công tác quân sự, đồng chí Võ
Nguyên Giáp được cử làm Bí thư. Sau TW Quân ủy, các cấp ủy đảng trong bộ đội chủ lực khu cũng lần
lượt được tổ chức, xây dựng chi bộ, đẩy mạnh phát triển đảng viên ở các đơn vị Lực lượng vũ trang.
Đến cuối năm 1946, bộ đội tập trung tăng lên hơn 80.000 người, trong đó có 8.000 đảng viên, lực lượng
bán vũ trang phát triển gần 1 triệu người.
Cùng với xây dựng lực lượng quân đội, lực lượng công an nhân dân được xây dựng và củng cố. Với việc
thành lập và duy trì hoạt động hiệu quả của Sở Liêm phóng Bắc Bộ, các đội danh dự trừ gian, Ban trinh
sát diệt ác đã kịp thời ngăn chặn, trừng trị các phần tử phản cách mạng, ra mặt chống đối chính quyền
nhân dân. Ở Trung Bộ thành lập các sở Trinh sát, ở Nam Bộ là Quốc gia tự vệ cuộc.
Cùng với việc xây dựng về tổ chức biên chế, công tác huấn luyện quân sự cho lực lượng vũ trang được
coi trọng. Thực hiện chủ trương trên, các trường đào tạo cán bộ quân sự được thành lập như các
Trường Quân chính Bắc Sơn, Võ bị Trần Quốc Tuấn, Lục quân Quảng Ngãi, cùng các trường quân chính của các khu.
Xây dựng lực lượng vũ trang chuẩn bị cho toàn quốc kháng chiến là một trong những thành tựu nổi
bật, thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng và Chủ tịch HCM. Các lực lượng vũ trang ta, nhất là bộ đội
chủ lực phát triển cả về quân số và quy mô tổ chức biên chế; đồng thời, bước đầu được huấn luyện về
kỹ thuật, chiến thuật. Dù mới được xây dựng, trang bị còn thô sơ, lạc hậu và thiếu thốn, kinh nghiệm
chiến đấu chưa nhiều, nhưng lực lượng vũ trang ta có tinh thần chiến đấu cao làm nòng cốt cho toàn
dân kháng chiến, quyết tâm bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc mới giành được.
+ Về ngoại giao: Kiên trì nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”, thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu
"Hoa - Việt thân thiện" đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và "Độc lập về chính trị, nhân nhượng về
kinh tế" đối với Pháp.
● Đối với thực dân Pháp:
Đảng ta xác định, đây là kẻ thù chủ yếu của dân tộc, nên ngay từ khi chúng theo chân quân Anh vào
miền Nam, lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam đã tích cực chiến đấu, kiên quyết ngăn chặn các
đợt tiến công mở rộng vùng lấn chiếm của địch. Tuy nhiên, để tránh một cuộc chiến tranh nổ ra sớm
trong bối cảnh chính quyền cách mạng vẫn còn đang trong giai đoạn “trứng nước”, Đảng ta đã kịp thời
đề ra quyết sách “hòa để tiến” với Pháp. Triển khai quyết sách ấy, thông qua các biện pháp ngoại giao,
Chính phủ ta đã ký kết với Pháp hai văn kiện hết sức quan trọng là Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9.
Ta nhân nhượng với Pháp một số điều kiện để kéo dài thời gian hòa hoãn, củng cố và chuẩn bị lực
lượng, nhưng không thỏa hiệp các vấn đề nguyên tắc về độc lập và thống nhất quốc gia. “Hòa” với Pháp
để dành thời gian, bảo toàn thực lực là biện pháp “biến thời gian thành lực lượng vật chất” phục vụ
cho kháng chiến chống Pháp lâu dài sau này.
● Đối với quân Tưởng: lOMoAR cPSD| 58097008 12
Dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào miền Bắc VN để giải giáp quân đội Nhật, nhưng lại không giấu
giếm ý định “Diệt Cộng, cầm Hồ”, Đảng đã chủ trương giao thiệp “Hoa - Việt thân thiện”, tránh xung
đột, hòa hoãn với chính quyền Trung Hoa dân quốc, nhân nhượng nhiều yêu sách về chính trị và kinh
tế đối với đội quân Trung Hoa dân quốc và thế lực tay sai của chúng. Tuy nhiên, khi bản “Hiệp ước Pháp
- Hoa” được ký kết, Đảng và Chủ tịch HCM đã kịp thời nắm thời cơ, chuyển hóa linh hoạt sang thực
hiện đường lối “hòa với Pháp” để mau chóng “đuổi” gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc về nước,
tránh được hiểm họa cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù.
● Đối với Quốc tế:
Phương châm hòa hiếu, “thêm bạn bớt thù” đã hình thành và trở thành nguyên tắc của ngoại giao VN.
Chính phủ với người đứng đầu là Chủ tịch HCM đã triệt để khai thác cam kết của các nước Đồng minh
nêu ra trong chiến tranh, đặc biệt là quyền độc lập, tự quyết và bình đẳng giữa các dân tộc, tiến hành
nhiều giao thiệp ngoại giao qua thư, công hàm… với người đứng đầu Chính phủ các nước lớn như: Mỹ,
Anh, Liên Xô, Trung Quốc, Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc… thông báo về sự ra đời của nước VN
và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Các hoạt động ngoại giao của Người đã góp phần tranh thủ Mỹ
“trung lập”, tạo thuận lợi để hòa hoãn cũng như kiềm chế lực lượng của Tưởng và Pháp ở VN.
Đảng ta đã khéo léo trong việc phân loại đối phương và triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa họ, có đối
sách phù hợp với từng đối tượng, đưa ra những chính sách ngoại giao hết sức linh hoạt, sáng tạo trong
xử lý các tình huống, nhờ đó đã phát huy vai trò và tính tiên phong trong bảo vệ nền độc lập và chính
quyền cách mạng non trẻ.
2. Vì sao tổ chức bầu cử Quốc hội 6/1/1946 được coi là một biện pháp để giữ vững chính quyền?
Tổ chức bầu cử Quốc hội 6/1/1946 được coi là một biện pháp để giữ vững chính quyền bởi những lý do sau đây:
Khẳng định địa vị pháp lý của VN trên trường quốc tế
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, sự ra đời của nước VN Dân chủ Cộng hòa là mốc son chói
lọi trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của nước ta, đưa VN bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc
lập gắn liền với CNXH. Để nền độc lập nay được duy trì lâu dài, một công việc quan trọng, cần thiết phải
thực hiện càng sớm càng tốt là bầu ra Quốc hội để quy định Hiến pháp cho nước VN nhằm củng cố,
tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng về mọi mặt: chính
trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội, ngoại giao, kháng chiến đi đôi với kiến quốc, chống giặc ngoại xâm
gắn liền với chống giặc đói và giặc dốt và phải thực hiện quyền dân chủ cho nhân dân.
Trong Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước VN Dân chủ Cộng Hòa, Chủ tịch HCM đã khẳng định với toàn
thể nhân dân trong nước và thế giới rằng: “Nước VN có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã
trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Tuy nhiên, trên thực tế nước ta chưa được bất
kỳ quốc gia nào trên thế giới công nhận về mặt pháp lý. Hơn nữa, sau Cách mạng tháng Tám nước ta
rơi vào tình thế “nghìn cân treo sợi tóc” do chế độ thực dân - phong kiến gây ra, bao gồm nạn đói, nạn
dốt và có nguy cơ một cuộc chiến tranh xâm lược mới do các kẻ thù bên ngoài tiến hành cùng lúc, có
sự hậu thuẫn của các thế lực phản động trong nước.
Chính vì vậy, việc tiến hành cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội để quy định Hiến pháp cho nước ta, bầu
ra Chính phủ chính thức và bảo vệ, phát triển những thành quả của Cách mạng tháng Tám vừa giành lOMoAR cPSD| 58097008 13
được là một nhiệm vụ quan trọng, cần phải tiến hành sớm ngay sau ngày Nhà nước Dân chủ Cộng hòa
thành lập. Nó vừa củng cố, tăng cường chính quyền vững mạnh, thực hiện quyền dân chủ cho nhân
dân trong nước, vừa là căn cứ để thế giới thấy được tính hợp pháp, hợp hiến, dân chủ của Nhà nước
VN Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của dân, do dân và vì dân, được nhân dân giao phó trọng trách điều
hành đất nước và tổ chức kháng chiến kiến quốc, giải quyết các quan hệ VN trên trường quốc tế.
Thực hiện quyền dân chủ cho nhân dân
Sự thành công của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội ngày 6/1/1946 còn khẳng định được niềm tin tuyệt
đối của Đảng và Chủ tịch HCM vào tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Không chỉ vậy, mà đó cũng
chính là sự biểu thị của khát vọng dân chủ của nhân dân và sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc VN.
Bởi hoàn cảnh diễn ra cuộc Tổng tuyển cử hết sức khó khăn: Nước ta đang trong tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc” sau Cách mạng tháng Tám, thêm vào đó nhân dân ta vừa mới thoát khỏi thân phận nô lệ,
bị áp bức, bóc lột hàng nghìn năm phong kiến và trăm năm thuộc địa. Trong bối cảnh bề bộn, nguy
hiểm, éo le và khó khăn chồng chất khó khăn như vậy mà Đảng ta và Bác Hồ vẫn quyết định tiến hành
cuộc Tổng tuyển cử. Đây là một quyết định vô cùng táo bạo nhưng kịp thời và nhạy bén. Vì càng để
chậm trễ thì tình hình sẽ càng phức tạp hơn, cơ hội để cuộc Tổng tuyển cử tiến hành rất khó. Tuy nhiên
đây không phải là quyết định mạo hiểm vì nó xuất phát từ bản lĩnh chính trị sắc bén, khoa học và từ
thực tiễn sâu sắc của Đảng và của Bác. Đảng và Bác một lòng tin tưởng tuyệt đối vào truyền thống yêu
nước của nhân dân, sức mạnh chiến đấu chống giặc của nhân dân mỗi khi có giặc xâm lược; tin vào bản
lĩnh chính trị và sự sáng suốt của nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ xây dựng một chế độ mới. Ngoài
ra, qua cuộc Tổng tuyển cử 6/1/1946 mối liên hệ giữa chính quyền với nhân dân chặt chẽ hơn, tạo ra
sức mạnh đoàn kết của một dân tộc. Thông qua cuộc Tổng tuyển cử nhân dân thực hiện quyền tự do,
dân chủ của mình, nhân dân có dịp chọn người đại diện chân chính và xứng đáng để thực hiện trọng
trách của đất nước. Đồng thời, Tổng tuyển cử 6/1/1946 là cơ hội để chính quyền tạo niềm tin trong
nhân dân, xóa bỏ những nghi ngờ trong nhân dân đối với chính quyền.
Củng cố và tăng cường chính quyền vững mạnh
Bất kỳ một quốc gia nào cũng cần có cơ quan đại diện cho nhân dân để thực hiện những nhiệm vụ quan
trọng, chung cho toàn dân và hệ thống pháp luật để nhân dân dựa vào đó mà ứng xử, hành động phù
hợp, không gây tổn hại đến người khác, ổn định trật tự xã hội. Nếu không có hệ thống pháp luật, đất
nước đó không thể nào ổn định và phát triển được bởi không có căn cứ, chế tài nào để nhân dân tuân
theo, ai cũng có thể làm việc mình thích mà không màng đến người khác thì xã hội sẽ rối loạn, đặc biệt
là những người có tư tưởng chống phá chính quyền, làm sụp đổ chính quyền, như vậy chính quyền suy
yếu và đất nước dễ sụp đổ. Và VN cũng không ngoại lệ, vì thế nên mục đích của cuộc Tổng tuyển cử
6/1/1946 là thành lập Quốc hội, Quốc hội đề cử ra một Chính phủ chính thức và ban hành cho dân tộc
VN một bản Hiến pháp. Hiến pháp chính là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của quốc gia, có vai trò quan
trọng trong hệ thống pháp luật và đời sống chính trị của nước ta và là cơ sở pháp lý để xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật riêng cho đất nước. Dựa vào Hiến pháp, nhân dân thực hiện quyền và
nghĩa vụ công dân của mình, tránh những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến người khác. Đó cũng chính
là cơ sở cho việc tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước. Hiến pháp quy định hệ thống các tổ chức
và quyền hạn của các cơ quan đó. Thông qua Hiến pháp, chính quyền được xây dựng và củng cố về mọi
mặt, ổn định trật tự xã hội, ngăn chặn những hành vi gây nguy cơ làm sụp đổ chính quyền, rối loạn trật
tự xã hội. Có Chính phủ, có Hiến pháp thì VN mới duy trì và ngày càng phát triển vững mạnh được. lOMoAR cPSD| 58097008 14
Cuộc thắng lợi Tổng tuyển cử đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng VN, mở ra triển
vọng của một thời kỳ mới, thời kỳ đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một bản
Hiến pháp tiến bộ và một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại
diện cho nhân dân VN về đối nội và đối ngoại. Thắng lợi của Tổng tuyển cử, như Chủ tịch HCM đã nói
trong Kỳ họp thứ Nhất của Quốc hội đầu tiên, là kết quả của sự hy sinh, tranh đấu của tổ tiên ta, nó là
kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào VN ta, sự đoàn kết của toàn thể
đồng bào không kể già trẻ, lớn bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi VN đoàn kết
chặt chẽ thành một khối hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc.
ĐỀ 4: Phân tích làm rõ nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp trong giai đoạn 1945-
1954? Ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp?
1. Hoàn cảnh lịch sử
Tháng 11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn,
đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội. TW Đảng đã chỉ đạo
tìm cách liên lạc với phía Pháp để giải quyết vấn đề bằng biện pháp đàm phán, thương lượng.
Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, để cho chúng kiểm soát an ninh
trật tự ở Thủ đô, ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ TW Đảng đã họp Hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc
(Hà Đông) dưới sự chủ trì của HCM để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp
phía Pháp để đàm phán, song không có kết quả. Hội nghị cho rằng, hành động của Pháp chứng tỏ chúng
cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng hòa hoãn không còn. Hội nghị đã quyết định hạ quyết
tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công trước khi thực dân Pháp thực
hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi.
Thuận lợi của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là ta chiến
đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc và đánh địch trên đất nước mình nên có chính nghĩa, có
“thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng có nhiều khó khăn về chính trị, kinh
tế, quân sự ở trong nước và tại Đông Dương không dễ gì có thể khắc phục được ngay.
Khó khăn của ta là tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa được
nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được hai nước
Campuchia, Lào và một số nơi ở Nam Bộ VN, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở miền Bắc.
2. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân Đường
lối kháng chiến của Đảng được hình thành, bổ sung, hoàn chỉnh qua thực tiễn
Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trong Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc, Đảng đã nhận
định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng.
Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, TW Đảng và HCM đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh
chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam Bộ ra khỏi VN.
Ngày 19-10-1946, Thường vụ TW Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng Bí thư
Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định “không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng
nhất định phải đánh Pháp”‘, Hội nghị đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ lOMoAR cPSD| 58097008 15
chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong Chỉ thị Công việc khẩn cấp
bây giờ (5-11-1946), HCM đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng
chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện tập trung trong ba văn kiện lớn được soạn
thảo và công bố ngay trước và sau ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện Toàn dân
kháng chiến của TW Đảng (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của HCM (19-12-1946) và
tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh. 3. Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 45-54
Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, “Đánh phản
độngthực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”. –
Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh cách mạng
củanhân dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài”. Đó là cuộc kháng
chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới. –
Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng
chiếntoàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. –
Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ
ngườigià, người trẻ. Hễ là người VN thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân
là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài. –
Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trongđó:
+ Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể
nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.
+ Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải
phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy.
+ Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp,
thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.
+ Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới theo ba nguyên
tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
+ Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù , biểu dương thực lực. “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống
phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận VN độc lập.
Kháng chiến lâu dài (trường kỳ): Là để chống âm đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian
phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu
hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
⇨ Đây là phương châm hợp lý vì khi bắt đầu vào cuộc kháng chiến, lực lượng ta còn yếu, địch thiện
chiến, mong muốn đánh nhanh thắng nhanh nên ta cần tránh đối đầu trực diện với chúng. Ta kéo dài
cuộc chiến có thể gây thiệt hại lớn cho địch về chi phí vật chất lẫn nhân lực, trong khi đó ta có thêm
thời gian thích ứng, chuẩn bị, đào tạo thêm quân đội,tranh thủ sự ủng hộ của các dân tộc yêu chuộng hòa bình. lOMoAR cPSD| 58097008 16
Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước
nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước,
song lúc đó cũng không được ỷ lại.
Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi. Đường lối kháng
của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm
của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của CN Mác-Lênin, vừa phù hợp với thực
tế đất nước lúc bấy giờ.
4. Kết quả và ý nghĩa lịch sử
* Kết quả của việc thực hiện đường lối -
Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức, tăng cường sự lãnh
đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền năm cấp được củng cố. Mặt trận Liên hiệp quốc dân
VN (Liên Việt) được thành lập. Khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới. -
Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có sáu đại đoàn bộ binh, một đại đoàn
côngbinh – pháo binh. Thắng lợi các chiến dịch Trung Du. Đường 18, Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc,
Thượng Lào…đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và dân cư, mở rộng
vùng giải phóng của VN và cho cách mạng Lào…. Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 được ghi
vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX -
Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, khi biết tin
Phápcó ý định đàm phán, thương lượng với ta, ngày 27-12-1953, Ban Bí thư ra Thông tư nêu rõ: “lập
trường của nhân dân VN là kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng”. * Ý nghĩa lịch sử
Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức
độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương;
đã làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại
hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào GPDT trên thế giới, mở rộng địa bàn, tăng
thêm lực lượng cho CNXH và cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách
thống trị của CN thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực phân Pháp.
5. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm *
Nguyên nhân thắng lợi:
Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng với đường lối kháng chiến đúng đắn đã huy động được
sứcmạnh toàn dân đánh giặc; có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi –
Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng cố và lớn
mạnh,làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới. –
Có sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc VN, Lào, Campuchia cùng chống
mộtkẻ thù chung; đồng thời có sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Trung Quốc, Liên Xô, các nước XHCN, các
dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp. lOMoAR cPSD| 58097008 17
* Bài học kinh nghiệm:
Trải qua quá trình lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến kiến quốc, Đảng ta đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu:
Thứ nhất, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó cho toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân thực hiện, đó là đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là chính.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến và xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho CNXH.
Thứ ba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương ngày
càng vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
Thứ tư, tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo.
Phân tích một trong các bài học kinh nghiệm của cách mạng tháng Tám năm 1945. Vận dụng bài học
kinh nghiệm đó trong bối cảnh VN thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những thắng lợi nổi bật và vĩ đại nhất của
cách mạng VN trong thế kỷ XX, là mốc son chói lọi trong lịch sử ngàn năm của dân tộc ta. Đó chính là
thắng lợi của trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần đấu tranh quật cường của toàn thể dân tộc VN dưới sự lãnh
đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thắng lợi đó đã để lại nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu mãi mãi soi sáng cho cách mạng VN trên con đường đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc VN xã hội chủ nghĩa.
Trong đó có bài học về xây dựng lực lượng: trên cơ sở khối liên minh công nông, cần khơi dậy tinh thần
dân tộc trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Thấm nhuần và phát triển sáng tạo luận điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng Nhân dân trong lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của
Nhân dân và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, ngay từ khi mới thành lập và lãnh đạo Nhân
dân đấu tranh cách mạng, Đảng đã rất chú trọng việc xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất. Từ năm
1930 đến năm 1941, qua nhiều chặng đường thể nghiệm xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, đặc
biệt với sự ra đời của mặt trận Việt Minh (năm 1941) đã đảm bảo cho khối đại đoàn kết dân tộc được
tạo dựng vững chắc và sâu rộng. . Việt Minh là một điển hình thành công của Đảng về huy động lực
lượng toàn dân tộc lên trận địa cách mạng, đưa cả dân tộc vùng dậy trong cao trào kháng Nhật, cứu
nước, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Theo cách dùng từ của V.I Lênin trong tác phẩm Tổng
kết một cuộc tranh luận về quyền tự quyết, thì đó là một khởi nghĩa dân tộc”. Với chủ trương đúng đắn
là “liên hiệp hết thảy các tầng lớp Nhân dân, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị nào, giai
cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành độc lập...”1, cùng phương thức tổ chức
đa dạng, phong phú, mặt trận Việt Minh đã trở thành hạt nhân quy tụ, tập hợp các giai cấp, tầng lớp
Nhân dân đứng vào hàng ngũ của mình để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân
Pháp và phát xít Nhật, giành chính quyền về tay Nhân dân.
Có thể nói, về thực chất, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước của VN hiện nay là một cuộc cách mạng về
kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hoá và mang ý nghĩa chính trị cực kỳ sâu sắc. Chỉ đi theo con đường
cách mạng này, VN mới có thể thoát khỏi nghèo đói và tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên
thế giới. Nhận thức rõ sự nghiệp CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các thành phần kinh
tế. Đảng ta đã nhận định, đó là “một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực lOMoAR cPSD| 58097008 18
đời sống xã hội, đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều trí tuệ, sức người, sức của. Chỉ có huy động sức mạnh
và khả năng sáng tạo to lớn của toàn dân, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý, điều hành
có hiệu lực và hiệu quả của Nhà nước thì mới bảo đảm thắng lợi”.
Cơ hội để cuộc cách mạng này đi tới thành công chính là những thành quả phát triển khoa học, kỹ thuật
và công nghệ thế giới, các quan hệ kinh tế toàn cầu và sự giao lưu trên nhiều bình diện của cuộc sống.
Đó là điều kiện cần, thậm chí rất cần, nhưng chưa phải là đủ để VN có “những bước nhảy vọt” trong sự
nghiệp CNH, HĐH. Để có “những bước tiến nhảy vọt”, chúng ta còn phải cần đến sức mạnh của cả dân
tộc với tinh thần đại đoàn kết toàn dân; ý chí độc lập tự chủ và không chịu thua kém bè bạn của con
người VN; nguồn lực lao động dồi dào và căn bản là sự lựa chọn đường lối phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản VN.
Thành quả tiến bộ mà nhân loại đã có được trong thế giới hiện đại là những yếu tố quan trọng, ảnh
hưởng đến sự phát triển của VN, song chúng chỉ có thể phát huy được tác dụng đối với sự nghiệp CNH,
HĐH ở nước ta hiện nay khi những yếu tố đó được chuyển hoá thành những yếu tố nội sinh, nội lực.
Sự chuyển hóa đó phụ thuộc phần lớn vào khả năng của chủ thể tiếp nhận, tức là khả năng độc lập, tự
chủ về tinh thần (trí lực) và vật chất.
Nếu trong đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh gọi các thế lực ngoại xâm, phản dân, hại nước là
“giặc”, thì trong điều kiện xây dựng đất nước, Người xem sự dốt nát, kém cỏi “không sánh được với các
cường quốc năm châu” cũng là giặc. Với quan niệm này, Người kêu gọi nhân dân ta ra sức học tập,
không ngừng nâng cao trình độ văn hoá để thâm nhập và tiếp thu trình độ tri thức nhân loại. Theo
Người, dù có tinh thần yêu nước, đoàn kết toàn dân đến đâu, nếu khoảng cách tri thức của một dân
tộc bị tụt hậu quá xa với tri thức hiện đại của toàn nhân loại thì dân tộc đó còn lâu mới thoát khỏi
nghèo nàn và lạc hậu. Có tri thức, có trình độ khoa học, kỹ thuật tiên tiến mới có thể thực hiện được
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Mặt khác, nhờ có tri thức, con người mới nhận rõ bản thân mình đang
ở trình độ nào trong chỉnh thể văn minh nhân loại, để biết lo, biết phấn đấu sao cho không bị tụt hậu
bằng chính nội lực của mình.
Chính vì vậy, để khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự nghiệp CNH, HĐH, chúng ta cần phải
có những chủ thể sáng tạo và ứng dụng hiệu quả các thành quả của động lực đó. Ở đây, chúng tôi muốn
đề cập đến con người với tư cách là nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Là một nước có dân số hơn tám mươi triệu người với mặt bằng trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật
khá cao so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, song để sử dụng nó một cách có hiệu quả cho
sự phát triển bền vững thì VN cần phải có chiến lược phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý. Không
có con đường nào khác, để chiến lược này được thực hiện, ngoài sự nghiệp giáo dục và đào tạo theo
hai hướng cơ bản là: một mặt, nâng cao mặt bằng dân trí bằng phổ cập giáo dục cho toàn xã hội một
cách toàn diện; mặt khác, phát triển giáo dục bậc cao để làm chủ tri thức của thời đại mới. Mặc dù
nguồn nhân lực của VN được xem là dồi dào về mặt số lượng, song chất lượng lao động chưa thể đáp
ứng được yêu cầu của một xã hội công nghiệp. Một số nước công nghiệp mới (NICs) cần lao động có
tay nghề cao khi đến thị trường lao động VN đành chịu bó tay, mặc dù xuất khẩu lao động tại thời điểm
hiện nay, khi nền công nghiệp nước nhà chưa phát triển, là giải pháp cần thiết để giải quyết vấn đề xã
hội bức xúc là việc làm. Cho nên, nhiệm vụ cấp bách hiện nay của sự nghiệp giáo dục - đào tạo là làm
thế nào để khắc phục sự mất cân đối trong giáo dục, để cơ cấu, trình độ hiện có của người lao động lOMoAR cPSD| 58097008 19
phù hợp với cơ cấu ngành nghề đang có xu hướng phát triển mạnh ở trong nước cũng như nhu cầu thị
trường lao động ở nước ngoài.
Như vậy, có thể nói kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, đẩy mạnh CNH, HĐH với tư cách
đường lối phát triển trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta
đã lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn. Kết luận:
Đường lối cách mạng chính là một trong những yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc cách
mạng. Nó là cơ sở để dẫn dắt cuộc cách mạng đi đến thành quả cuối cùng. Một đường lối cách mạng
đúng đắn kết hợp với việc thực hiện triệt để sẽ dẫn tới một cuộc cách mạng thành công và ngược lại,
một đường lối cách mạng chưa xác định chính xác những vấn đề chính của cách mạng thì sẽ dẫn tới
một cuộc cách mạng không đạt kết quả như mong đợi. Đảng ta đã căn cứ vào những điều kiện cụ thể
của đất nước ta, vận dụng sáng tạo nguyên lý của CN Mác -Lênin để vạch ra đường lối cách mạng đúng
đắn, sáng tạo, đưa kháng chiến đến thắng lợi vẻ vang. Có thể nói, Đường lối kháng chiến chống Pháp
Đảng ta chính là kết tinh của trí tuệ con người, thể hiện năng lực lãnh đạo vững vàng của Đảng ta. Nó
góp phần khẳng định ĐCSVN hoàn toàn xứng đáng với vai trò lãnh đạo dân tộc VN.
Đề 5: Phân tích làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa hai chiến lược cách mạng, cách mạng XHCN ở
miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giai đoạn 1954-1975?
Tư tưởng HCM về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: GPDT và CMVS
không phải chỉ là chứng minh cho sự đúng đắn của CN Mác-Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và
có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng VN, luôn bám sát đặc
điểm thực tiễn VN và tham khảo kinh nghiệm các nước khác, HCM đã có những giải pháp đúng đắn,
sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của CN Mác-
Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng GPDT trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt để nhất định phải đi theo
quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của CMVS. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân
dân, nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của GCCN lãnh đạo. HCM nhận thức rất rõ, nếu
chỉ đưa vào lực lượng của riêng GCCN, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo
Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu thuẫn địa chủ nông
dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược.
Ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc
lập dân tộc lên trên hết. ''Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho
toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ
phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích GCCN đòi hỏi trước
hết phải GPDT''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết
theo lập trường GCCN, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh.
Ba là, cách mạng GPDT và CMVS ở chính quốc như ''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự
liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới
thắng lợi.
Cách mạng GPDT ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào CMVS ở chính quốc,
mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp lOMoAR cPSD| 58097008 20
phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và
sáng tạo của HCM. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của HCM không được một số người, trong đó có
một vài người của Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận.
Bốn là, sau khi GPDT khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc địa, dân tộc vừa được giải
phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức
riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức,
bước đi, biện pháp của nước khác.

Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc vận dụng và phát triển
sáng tạo tư tưởng HCM về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các
nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh
vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà,
sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau
đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong
hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Đề 6: Chiến tranh đơn phương, chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, VN hóa chiến tranh?
So sánh sự khác nhau giữa chiến tranh đặc biệt và VN hóa chiến tranh? Chiến tranh đặc biệt VN hóa chiến tranh
Giống nhau – Đều là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, nằm trong chiến lược toàn cầu
phản cách mạng của Mỹ những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
– Đều chung mục tiêu là chống phá cách mạng miền Nam, biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
– Đều có sự tham gia và chi phối của tiền của, vũ khí và cố vấn quân sự Mỹ. – Đều bị thất bại. Về lực lượng
Lực lượng chủ lực là quân đội Sài Quân Gòn,đội tay sai là chủ yếu, có sự phối
có sự hỗ trợ của cố vấn quân sự Mhợỹ.p về không quân, hậu cần của Mĩ do cố vấn Mỹ chỉ huy. Về phạm vi – quy mô Miền Nam Toàn Đông Dương Về âm mưu của Mỹ
“dùng người Việt đánh người Việt– ”“Dùng người Việt đánh người Việt”
- Kế hoạch Stalay Taylor + Giovà “Dnxonùng người Đông Dương đánh Macnamara người Đông Dương”.
– Tận dụng xương máu của người Việt thay cho quân Mỹ. Về thủ đoạn của Mỹ
- Kế hoạch Stalay Taylor + Gio– Tănnxong cường xây dựng quân đội Sài Macnamara
Gòn làm lực lượng chiến đấu chủ yếu
- “Ấp chiến lược”, “trực thăng trên cvận”,hiến trường, quân Mỹ rút dần
về “thiết xa vận” nước, thực hiện “dùng người Việt đánh người Việt”.
- Mở các cuộc hành quân càng quét