lOMoARcPSD| 61184739
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA/ VIỆN: NGÂN HÀNG- TÀI CHÍNH
__________
BÀI TẬP LỚN
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Đề 1: Phân tích về tình cảnh người công nhân ở thế kỷ 19 trong cuốn sách “Tình
cảnh giai cấp Công nhân Anh” của Ăngghen. Nêu suy nghĩ của anh chị về học
thuyết Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân của Mác và ý nghĩa của nó ngày
nay.
Họ và tên: Bùi Gia Bảo
Lớp: CNXHKH_35
Mã SV: 11218850
lOMoARcPSD| 61184739
Hà Nội – 2022
I. Phân tích về tình cảnh người công nhân thế kỷ 19 trong cuốn sách “Tình cảnh
giai cấp Công nhân Anh” của Ăngghen.
1. Giới thiệu về tác phẩm “Tình cảnh giai cấp Công nhân Anh” của Ăngghen.
- Cuốn sách “Tình cảnh giai cấp Công nhân Anh” được viết ở Barmen từ
tháng Chín 1844 đến tháng Ba 1845. Trong thời gian ở Anh (tháng Mười một
1842 đến tháng Tám 1844), Engels đã chú ý nghiên cứu điều kiện sinh hoạt
của giai cấpsản Anh, dự định trình bày vấn đề này trong một chương trình
của một tác phẩm về lịch sử hội ớc Anh. Nhưng để làm sáng tỏ vai t
đặc biệt của giai cấp vô sản trong xã hội tư sản, Người đã dành riêng hẳn một
tác phẩm nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân Anh. Cuốn sách xuất bản
lần đầu bằng tiếng Đức Leipzig năm 1845. Bản in lần thứ hai bằng tiếng Đức
ra mắt năm 1892. Trong thời gian này, bản dịch ra tiếng Anh được tác githừa
nhận cũng xuất bản hai lần (ở New York năm 1887 và London năm 1892).
Trong khi chuẩn bị cho những lần tái bản cuốn sách của mình, Engels đã không
đưa vào cuốn sách một sửa đổi căn bản nào. Nhưng trong "Phụ lục cho bản in
ở Mỹ" (1887) mà hầu như toàn bộ được đưa vào lời tựa bản tiếng Anh và bản
tiếng Đức xuất bản năm 1892, Người thấy cần phải nói với bạn đọc rằng không
nên coi "Tình cảnh giai cấp công nhân Anh" là một tác phẩm Marxist già dặn.
Sau đó Engels giải thích tại sao điều dđoán của mình năm 1845 về cuộc cách
mạng xã hội sắp nổ ra ở Anh không được chứng thực: Người cho rằng sự suy
yếu của phong trào Hiến chương từ sau năm 1848 thắng lợi tạm thời của
chủ nghĩa cơ hội trong phong trào công nhân Anh có quan hệ trực tiếp với địa
vị lũng đoạn công nghiệp của Anh trên thị trường thế giới, tin chắc rằng
"chủ nghĩa xã hội sẽ lại xuất hiện ở Anh" một khi Anh mất đi địa vị lũng đoạn
của mình.
lOMoARcPSD| 61184739
- Tác phẩm này cũng chính là bức thư mà Ăngghen tặng cho các giai cấp
laođộng ở Anh. Ông muốn trình bày cho mọi người thấy một bức tranh trung
thức về tình cảnh, về những nỗi khổ đau, và những đấu tranh, những hy vọng
và khao khát của những người lao động Anh. “Tình cảnh giai cấp công nhân”
là cơ sở thực tế và xuất phát điểm của mọi phong trào xã hội hiện tại, bởi
là đỉnh cao gay gắt và rõ rệt nhất ca những tai họa xã hội. Chủ nghĩa cộng
sản của công nhân Pháp Đức là sản phẩm trực tiếp, còn chủ nghĩa Fourier
chủ nghĩa hội Anh cũng như chủ nghĩa cộng sản của giai cấp sản trí
thức ở Đức là sản phẩm gián tiếp của . Cho nên để có một cơ sở vững chắc,
một mặt cho những lý luận xã hội chủ nghĩa, mặt khác cho những kiến giải v
quyền tồn tại của những luận ấy, để chấm dứt mọi điều tưởng bịa đặt,
thì việc nghiên cứu những điều kiện sinh sống của giai cấp vô sản là một điều
hoàn toàn cần thiết. Song chỉ Đại Britain chính tại nước Anh, những
điều kiện sinh sống của giai cấp vô sản mới có được hình thức điển hình toàn
vẹn của nó; và đồng thời cũng chỉ có ở nước Anh, những tư liệu cần thiết mới
được thu thập khá đầy đủ, và được các cuộc điều tra chính thức xác nhận, đáp
ứng yêu cầu trình bày tường tận vấn đề.
2. Tình cảnh người công nhân ở thế kỉ XIX.
* Trong lao động.
- Sau khi những phát minh về việc sử dụng các công cụ chạy bằng hơi
nước,các khu công nghiệp đã phụ thuộc dần vào máy móc thay thế sức lao
động của những người công nhận. Dẫn đến việc người công nhân ngày càng
thiếu đi việc làm. Kết hợp với nền sản xuất công nghiệp ngày càng phát triển
và những bước tiến của nền kinh tế tư bản, giai cấp tư sản tăng cường bốc lột
lao dộng hơn. Khiến họnhững người lao đng đã bần cùng nay ngày càng bần
cùng hơn. Luật lao động thời đó chưa chluật công xưởng ngặt nghèo
lOMoARcPSD| 61184739
lố bịch, giai cấp sản bóc lột người công nhân bằng cách quy định giờ làm
việc từ 14 - 18 giờ mỗi ngày mà đồng lương trả h rất ít ỏi. Do đó, các nhà áy
thường không bảo đả về độ an toàn và tai nạn đã đến thương tích xảy ra nhiều
với người công nhân. Điều kiện làm việc của những người công nhân chưa
được bảo đảm kết hợp với quy định giờ lao động khắc, nhiều công nhân
phải làm việc trong môi trường ô nhiễm nặng như nóng, bụi, ồn,…. Làm cho
sức khỏe của những người công nhân suy yếu gây ra những bệnh nghề nghiệp.
Đồng lương trả rất ít và số tiền đó gần như không thể nuôi sống cả họ gia
đình. Do đó trong thời gian này nhiều người không thể mua nổi thức ăn
phải chịu phán quyết ghê sợ của sự “chết đói”. Sự đói ăn kéo dài đã gây ra
những bệnh nan y và làm cho số người chết tăng lên. i đói đã làm cho
thể họ- những người lao động suy yếu đến nỗi trong những hoàn cảnh khác
đáng lẽ có thể vượt qua được dễ dàng, thì lại dẫn đến những bệnh nặng và cái
chết.
- Ngoài người trường thành bị bóc lột, giai cấp tư sản còn bóc lột cả sức
laođộng của trẻ em. Trong nền công nghiệp dệt kim, Trẻ em thì chuyên đánh
ống chỉ và khâu viền, ốm đau thường xuyên c người rất yếu. Từ 6-8 tuổi,
chúng đã phải làm mỗi ngày 10-12 giờ, trong những phòng nhỏ hẹp, ngột ngạt.
Rất nhiều trẻ bị công việc làm cho yếu ớt đến nỗi khống làm nổi những công
việc bình thường nhất. Còn ít tuổi mà đã phải đeo kính, vì bị cận thị. Ngoài ra
còn có knhiều trẻ có triệu chứng nhạc tràng. Trong các xưởng đăng ten, hại
cho sức khỏe nhất là công việc của lace-runner, rút chỉ từ những tấm đăng-ten
đó công việc phần lớn của các bảy tuổi, thậm chí 4-5 tuổi. Phải chăm c
nhìn xem, trong đường thuê đăng-ten chằng chịt, sợi nào đó cần dùng kim
khều ra. Việc đó đặc biệt hại mắt, nhất là khi thường phải làm liên tục 14-16
giờ. Như vậy, trong trường hợp tốt nhất họ cũng bị cận thị nặng. Còn trong
lOMoARcPSD| 61184739
trường hợp xấu nhất rất thường thấy, thì họ mù vĩnh viễn do đục thủy tinh thể.
Ngoài ra, thường phải làm việc thế i, nên trẻ lớn lên thì thể rất
yếu, ngực lép, và vì tiêu hóa không tt mà bị tràng nhạc, các em nữ rất thường
bị rối loạn chức năng của cơ quan sinh dục, cột sống cong vẹo cũng phổ biến.
Những chuyên gia y tế làm chứng rằng : sức khỏe của tất cả trem chuyên sản
xuất đăng-ten đã bị tổn hại nặng nề. Bệnh tật chúng thường bị suy nhược
toàn thân, hay bị ngất, đau đầu, hai bên sườn, lưng, thắt lưng, tim đập mạnh,
nôn ọe, chán ăn, cột sống cong vẹo, tràng nhạc, lao phổi.
* Trong sinh hoạt
- hội hiện đại đã kéo quảng đại quần chúng nghèo khổ về những thành
phốlớn. Từ đó làm cho lượng dân c thành phố tăng đột biến. bản
thân sự tập trung dân vào các thành phố lớn đã hậu quả cực kỳ tai hại
như không khí London không bao giờ có thể trong sạch, nhiều Ôxy như
một vùng nông thôn; hai triệu rưởi lồng ngực và hai mươi lăm vạn lò bếp, tập
trung trên ba bốn dặm vuông, tiêu phí một lượng Ôxy rất lớn; chúng rất khó
được bổ sung, cách kiến trúc thành phố tự đã khiến việc thông gió rất
khó khăn. Khí Carbonic do hô hấp đốt than sinh ra, vì khá nặng, nên lưu lại
giữa nhà, còn luồng khí chính thì lướt qua trên nóc. Phổi của những người
sống trong các nhà đó không nhận đủ lượng Ôxy cần thiết, nên thể chất và trí
óc mệt mỏi, sức sống giảm sút. Vì vậy, dân cư những thành phố lớn, dù rất ít
mắc bệnh cấp tính, nhất là bệnh viêm các loại, so với người nông thôn sống
trong không khí trong lành, sạch sẽ, nhưng phần lớn họ đều mắc bệnh kinh
niên. Nếu việc sống trong các thành phố lớn tự đã ảnh hưởng xấu đến
sức khoẻ, thì ảnh hưởng tai hại đó của không khí ô uế trong các khu lao động
- nơi, như ta đã thấy, tập trung mọi yếu tố làm cho bầu không khí càng bị uế
tạp - sẽ phải to lớn biết chừng nào. nông thôn, không khí tdo lưu thông
lOMoARcPSD| 61184739
trên mọi phía, nếu có một hố nước thối ở ngay gần nhà, có lẽ cũng không hại
như thế; nhưng giữa thành phố lớn, trong các phố và các sân bốn phía
đều bị xây chắn, và bị cắt đứt mọi dòng không khí trong lành, thì tình hình lại
khác. Cặn động thực vật bốc lên những khí rất hại cho sức khoẻ, không
có lối thoát tự do, nên các khí ấy tất phải đầu độc bầu không khí. Như vậy thì
rác rưởi vũng tù trong các khu lao động của những thành phố lớn bao giờ
cũng gây hậu quả tai hại nhất cho vệ sinh chung, vì chính chúng bốc ra những
khí độc hại; những hơi bốc lên từ dòng nước bẩn cũng vậy.
- Ngoài ra các chủ nhà máy và doanh nhân giàu đã xây dựng nên những
dãynhà tồi tàn và rẻ tiền cho người lao động. Người ta tước đoạt mọi phương
tiện givệ sinh; kể cnước, vì muốn đặt ống dẫn nước thì phải trả tiền, còn
nước ng thì đã bẩn đến mức không dùng được. Người ta buộc họ phải vứt
ngay ra ngoài đường phố mọi thứ rác rưởi, cặn bã, nước bẩn, cả những thứ bẩn
thỉu nhất làm cho người ta lộn mửa, vì mi phương tiện để vứt bỏ tất cả những
thứ đó cũng bị tước đoạt; vậy người ta buộc họ phải đầu độc chính nơi của
mình. Thế vẫn chưa đủ. Mọi thứ tai hại đổ lên đầu kẻ nghèo. dân thành phố
nói chung đã rất chen chúc, nhưng chính họ lại buộc phải sống chật chội
hơn. Phải hít thở không khí ô uế ngoài phố cũng chưa đủ, họ còn bị nhét hàng
người vào một gian phòng, không khí họ hít thở ban đêm trở nên hoàn
toàn ngột ngạt. Người ta cho họ trong những phòng ẩm thấp, những nhà hầm
nước thấm tdưới lên, những tầng sát mái nước dội ttrên xuống. Người ta
xây cho họ những căn nhà uế khí không lối thoát. Người ta cho họ
những áo quần xấu, rách tả tơi, bở bục; những thức ăn tồi tệ, làm giả khó
tiêu.
=> Do phải sống trong điều kiện khó khăn, bẩn thỉu như thế nên nó đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc lây lan các bệnh như thương hàn, dịch tả, đậu mùa,…. Kết
lOMoARcPSD| 61184739
hợp với luật công xưởng quy định rất ít ngày nghỉ ốm, đã khiến cho thể những
người lao động ngày càng chết dần chết mòn vì bệnh tật.
* Trong quan hệ xã hội
- Dân cũng bị tập trung như bản; điều này cũng nhiên thôi, bởi
trong công nghiệp, con người, người công nhân, chỉ được xem như một loại tư bản,
loại bản này tự nộp mình cho chủ xưởng sử dụng được chủ xưởng trả lợi tức
dưới danh nghĩa tiền lương. Một nghiệp công nghiệp lớn cần nhiều công nhân
cùng làm việc một tòa nhà; những công nhân ấy cần phải sống gần nhau, thậm
chí một công xưởng lớn, họ tạo thành cả một làng. Trong cái chế độ tai tiếng giai
cấp tư sản cầm đầu kết hợp với điều kiện sống tệ hại đã thúc đẩy họ dùng ma túy để
bắt trẻ con nằm yên, và thực tế cách ấy rất phổ biến ở các khu công xưởng. Theo
ý kiến của bác sĩ Johns, phụ trách đăng ký hộ tịch của khu Manchester, thì thói quen
ấy nguyên nhân chủ yếu của những trường hợp chết người chứng co giật, vốn
khá thường gặp. Công việc của phụ nữ công xưởng không tránh khỏi làm tan
gia đình; trong xã hội hiện tại, lấy gia đình làm cơ sở, thì sự tan rã ấy, với vợ chồng
cũng như con cái, đều gây nên những hậu quả tồi tệ nhất, xét về đạo đức. Người mẹ
không có thì giờ chăm sóc con, không thể cho đứa con được hưởng sự âu yếm
bình thường nhất trong mấy năm đầu, lại rất ít khi nhìn thấy con, thì đối với đứa trẻ,
đó không phải là người mẹ thực sự; người mẹ ấy tất yếu sẽ đối xử với con rất dửng
dưng, thiếu tình thương, không chăm sóc, coi con như người lạ. Những đứa trẻ lớn
lên trong những điều kiện đó, sau này sẽ hoàn toàn không biết đến đời sống gia đình;
khi trong gia đình do chính chúng xây dựng, chúng cũng không cảm thấy hương
vị gia đình, vì chúng đã quá quen với cuộc sống cô độc, điều đó tất nhiên sẽ làm cho
gia đình ng nhân càng bị phoại. Trẻ con đi làm cũng một nguyên nhân làm
tan rã gia đình. Khi chúng kiếm được nhiều tiền hơn so với chi phí mà cha mẹ bỏ ra
để nuôi chúng, thì chúng bắt đầu trả cho cha mẹ khoản chi phí ấy, còn lại thì chúng
lOMoARcPSD| 61184739
tự giữ lấy mà tiêu. Việc ấy thường xảy ra khi chúng 14-15 tuổi. Trẻ con ở đây dần tự
lấp, chúng coi cha mẹ như quán trọ nếu không vừa ý thì chúng bỏ đi tìm quán khác.
- Nhiều khi, việc phụ nữ đi làm công xưởng không hoàn toàn phá hoại gia
đình, nhưng làm cho nó đảo ngược. Vợ kiếm tiền nuôi gia đình, chồng ở ntrông
con, quét dọn, nấu nướng. Chuyện đó rất phổ biến, riêng Manchester đã thể
mấy trăm ông chồng nội trợ như vậy. Có thể dễ dàng tưởng tượng sự phẫn nộ chính
đáng của công nhân, trước tình trạng là tất cả quan hệ gia đình đã đảo ngược, trong
khi mọi quan hệ xã hội khác vẫn y nguyên. Nếu gia đình trong xã hội ngày nay đang
ngày càng suy sụp, thì điều đó chỉ chứng minh rằng: sợi dây gắn bó gia đình không
phải tình yêu, lợi ích riêng, ẩn dưới tấm áo công hữu tài sản. Khi con cái
không chỉ trả tiền ăn cho cha mẹ, như trên đã nói, còn phải nuôi cha mẹ thất
nghiệp của chúng, thì cũng xuất hiện những quan hệ y như vậy. Trong "Báo cáo về
lao động công xưởng", bác Hawkins chứng thực rằng loại quan hệ ấy rất thường
gặp, mà ở Manchester thì điều ấy ai cũng biết. Trong những trường hợp khác, người
đàn chủ; còn trong trường hợp này, con gái chính chủ. Huân tước Ashley
trong diễn văn của nh (tại Hạ viện ngày 15 tháng Ba 1844) đã đưa ra một dụ
như thế: một người mắng hai cô con gái của mình vì đã vào tiệm rượu, thì hai cô nói
rằng mình đã chán ngấy việc phải phục tùng rồi: "Thưa ông, ông cút đi cho rảnh,
chúng tôi còn phải nuôi ông nữa kia"; cho rằng mình đáng được hưởng chút gì đó từ
kết quả lao động của mình, hai cô liền bỏ nhà ra đi, để mặc bố mẹ cho số phận. Các
thiếu nữ lớn lên trong công xưởng cũng không khá hơn phụ nữ đã chồng. Một người
con gái làm việc công xưởng từ năm chín tuổi thì tất nhiên không thạo việc nhà,
thế nên tất cả nữ công nhân công xưởng đều hoàn toàn không kinh nghiệm
không biết quản nội trợ. Họ không biết may vá, không biết đan, không biết làm
bếp, không biết giặt giũ; cả những việc gia đình bình thường nhất, họ cũng không
biết, còn việc chăm sóc trẻ em thì họ càng không biết.
lOMoARcPSD| 61184739
- Trong thời gian này, sau khi phải chịu nhiều áp bức bóc lột, các công nhânđứng
lên đấu tranh. Họ đã đấu tranh qua hai hình thức: phạm tội hoặc đấu tranh theo công
liên.
+ Hình thức đầu tiên, thô và ít hiệu quả nhất phạm tội. ng nhân phải sống
nghèo khổ, bần cùng, lại thấy đời sống của kẻ khác khá hơn mình; họ không hiểu sao
mình lao động cho hội nhiều hơn bọn nhà giàu ăn không ngồi rồi, phải chịu
thiếu thốn như thế. do đó họ ăn cắp. Sau một thời gian công nhân đã sớm nhận
ra làm thế thì chẳng ích gì. Việc phạm tội chhành động đơn phương đọc
chống lại chế độ xã hội thời đó với tư cách cá nhân. Mà xã hội có thể dùng mọi sức
mạnh để đối phó và áp đảo kẻ địch đơn độc bằng ưu thế tuyệt đối. Hơn nữa, trộm
cắp hình thức đấu tranh thô ý thức nhất. Thế nên riêng một việc đó không
thế trthành biểu hiện chung của công nhân. Hơn nữa, ngay khi công nhân vừa
giành được thắng lợi chốc lát, thì toàn bộ sức nặng của quyền lực xã hội liền đè lên
những kphạm tội không có gì tự vệ, mặc sức trừng phạt họ, còn máy móc thì lại
vẫn được dùng.
+ Đến năm 1824, công nhân có quyền tự do lập hội, thì mọi ngành lao động đều
thành lập các công liên, với chủ trương công khai là bảo vệ từng công nhân riêng lẻ,
chống sự bạo ngược và nhẫn tâm của giai cấp tư sản. Mục đích của những công liên
ấy là: qui định tiền lương, thương lượng với giới chủ trên cách một lực lượng,
điều chỉnh tiền lương theo lợi nhuận của chủ, tăng lương khi có thể, và giữ một mức
lương bằng nhau cho một nghề mọi nơi. Do đó, họ thường đấu tranh đòi các nhà
bản thực hiện một mức lương chung, tuyên bbãi công với người nào không
chấp nhận mức đó. Hơn nữa, công liên hạn chế việc tuyển thợ học việc, để giữ vững
nhu cầu vnhân công của bọn bản, từ đó giữ vững tiền lương; cố gắng hết sức
chống các thủ đoạn hạ thấp tiền lương của chủ xưởng, như việc dùng máy móc và
lOMoARcPSD| 61184739
công cụ mới,… cuối cùng giúp tiền cho công nhân thất nghiệp. Tuy nhiên đấu
tranh theo công liên hợp pháp đông đảo nhưng không phải lúc nào cũng tác
dụng. Không phải tất cả công nhân đều tham gia công liên, cũng những công nhân
rời khỏi công liên vì lợi ích trước mắt mà chủ xưởng ban cho.
Chính vậy, công liên một tchức lỏng lẻo, đình công từ đó cũng ít tác dụng hơn.
Hơn nữa, đình công công liên cũng bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế thời đó. Ví dụ khi
khủng hoảng thương nghiệp, thì công liên phải tự động hạ mức lương xuống, hoặc
bị giải tán hoàn toàn; hay khi nhu cầu lao động tăng nhiều, tcũng không thể đòi
lương cao hơn mức các nhà tư bản qui định,…
=> Giai cấp công nhân Anh thế kỷ 19 không hề có một chút quyền lực nào cả địa
vị kinh tế lẫn địa vchính trị. Về pháp luật trên thực tế, công nhân lệ của
giai cấp có của, của giai cấp tư sản; họ bị nô lệ đến mức có thể bị bán đi như hàng
hoá, cũng lên giá xuống giá như hàng hoá. Quan hệ giữa công nhân tự do và ch
cũng được pháp luật qui định, nhưng chúng không được tuân thủ, vì không phù hợp
với tập tục, cũng như với lợi ích của chủ. Đó là chế độ nô lệ có tính đạo đức giả,
tồi hơn chế độ lệ . con đường duy nhất để thoát khỏi tình trạng này chính
là đấu tranh.
II. Suy nghĩ về sứ mệnh học thuyết lịch sử của giai cấp công nhân của Mác và
ý nghĩa của nó.
1. Nội dung của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại biểu
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương
thức sản xuất tương lai, do vậy, về mặt khách quan nó là giai cấp có sứ mệnh lịch sử
lOMoARcPSD| 61184739
lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ bản chủ nghĩa, xóa bỏ mọi
chế độ áp bức bóc lột và xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa. Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân cần phải trải qua hai bước:
Bước thứ nhất: “… giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trịvà “Giai cấp
sản chiếm lấy chính quyền nhà nước”: : Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, giai
cấp công nhân sứ mệnh lịch sử đấu tranh giành chính quyền về tay mình
nhân dân lao động.
Bước thứ hai: “… giai cấp vô sản dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt
lấy toàn bộ bản trong tay giai cấp sản để tập trung tất cả những công cụ sản xuất
vào trong tay nhà nước” tiến hành tổ chức xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa.
Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau: giai cấp công nhân không thực hiện
được bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai nhưng bước thứ hai
quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch scủa mình. Để
hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân nhất định phải tập
hợp được các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh nó, tiến nh cuộc đấu tranh
cách mạng xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị và
văn hóa, tư tưởng. Đó là một quá trình lịch sử hết sức lâu dài và khó khăn.
2, Suy nghĩa về học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân của Mác.
Từ những phân tích trên, ta thể thấy giai cấp công nhân phải chịu rất nhiều áp
bức bóc lột. Họ những người lao động không liệu bán sức lao động cho giai
cấp tư sản theo đó phải chịu áp bức, bóc lột giá trị thặng sản xuất. Họ không có
con đường nào khác để kiếm sống ngoài việc tự do để làm giàu cho giai cấp
sản. Trước tình trạng trên, Mác đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới ca giai
cấp công nhân: lực lượng hội vai trò giải phóng thế giới khỏi tình trạng “đen
lOMoARcPSD| 61184739
tối” của chủ nghĩa bản. Học thuyết này đóng vai trò cùng quan trọng, nó đã làm
sáng tỏ vai trò của giai cấp vô sản, đó là đứng lên đấu tranh, xoá bỏ đi ách tư bản và
trở thành giai cấp xây dựng hội chủ nghĩa. Không chỉ vậy, học thuyết này còn
khẳng định vai trò của giai cấp công nhân nòng cốt, lực lượng chủ yếu trong
công cuộc giải phóng thế giới khỏi ách thống trị của bản, chỉ thể giai cấp
công nhân chứ không phải bất cứ giai cấp nào khác, vì chính họ những người
mẫu thuẫn và mong muốn giành quyền lợi trực tiếp đối nghịch với giai cấp tư sản.
3. Ý nghĩa học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân của Mác ngày
nay.
- C.Mác người đầu tiên phát hiện và luận giải tính khách quan tự giác về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại . Theo Ông, giai cấp có năng lực tự
giải phóng sẽ giải phóng nhân loại thoát khỏi ách áp bức bóc lột cuối cùng của
lịch sử: chế độ bóc lột giá trị thặng dư ca phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là
giai cấp công nhân hiện đại. Nội dung ca sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là một
quá trình cách mạng toàn diện để xây dựng một hình thái kinh tế - hội mới trên
các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng. Nó làm xuất hiện hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
- Có thể khẳng định rằng, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân
một học thuyết vgiải phóng phát triển hiện đại do C.Mác, Ph.Ăngghen
V.I.Lênin luận giải một cách khoa học, hệ thống. Đây khí tưởng của các đảng
cộng sản, của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh với ý thức hệ tư sản c
thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội. Chúng ta cần luôn cảnh giác phát hiện và đấu
tranh với những tư tưởng sai lầm, xuyên tạc để bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng
của luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và qua đó, bảo vệ chế độ
hội chủ nghĩa cần được xem là nhiệm vụ thường trực.
lOMoARcPSD| 61184739
- Ngày nay, khi lực lượng sản xuất đang trên đà phát triển mạnh, giai cấp công
nhân không chỉ bao gồm những người lao động chân tay mà còn cả lao động trí óc.
Giai cấp công nhân có sự phát triển về chất lượng để đảm đương được nhiệm vụ của
mình trong điều kiện mới. Giai cấp công nhân đang lớn lên với đội ngũ trí thức của
mình và giai cấp công nhân luôn luôn là người trực tiếp sản xuất, tham gia vào quá
trình tạo ra những giá trị ca cải to lớn cho xã hội.
- Mặc mức sống công nhân cao hơn trước, công nhân được tham gia
quản lý thông qua đại biểu trong hội đồng xí nghiệp theo “chế độ tham dự” và “chế
độ ủy nhiệm”' nhưng hvẫn là người làm thuê bán sức lao động, ý chí của chủ nghĩa
tư bản vẫn là quyền lực chi phối, tầng lớp “nhà quản lý” vẫn chỉ là kẻ phụ thuộc vào
giới chủ. Giai cấp công nhân vẫn luôn là lực lượng sản xuất cơ bản và trực tiếp, vẫn
giai cấp tiên phong trong xã hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không
thể chuyển vào tay một giai cấp hay tầng lớp xã hội nào khác: Những chỉ dẫn cơ bản
về bản chất của giai cấp công nhân mà Mác đưa ra vẫn cơ sở phương pháp luận để
xem xét, phân tích giai cấp công nhân hiện đại trong các quốc gia bản chủ nghĩa
phát triển hay trong những nước đang tiếp tục con đường cách mạng hội chủ nghĩa
và toàn thế giới nói chung. Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động
tạo ra của cải vật chất trong lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật và công nghệ
ngày càng hiện đại. Sản phẩm thặng dư họ làm ra là nguồn gốc chủ yếu cho sự giàu
phát triển của hội. Giai cấp công nhân vừa người lãnh đạo, đồng thời cùng
với nông dân, trí thức các giai cấp, tầng lớp lao động khác họp thành lực lượng
tổng hợp của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- “C.MÁC PH.ĂNG-GHEN TOÀN TẬP”, TẬP 2; NXB Chính trị Quốc gia
"Sự thật", Hà Nội 1995
lOMoARcPSD| 61184739
- Giáo trình “Chủ Nghĩa Hội Khoa Học”, NXB Chính trị Quốc gia "Sự thật"

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61184739
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA/ VIỆN: NGÂN HÀNG- TÀI CHÍNH __________ BÀI TẬP LỚN
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Đề 1: Phân tích về tình cảnh người công nhân ở thế kỷ 19 trong cuốn sách “Tình
cảnh giai cấp Công nhân Anh” của Ăngghen. Nêu suy nghĩ của anh chị về học
thuyết Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân của Mác và ý nghĩa của nó ngày nay.
Họ và tên: Bùi Gia Bảo Lớp: CNXHKH_35 Mã SV: 11218850 lOMoAR cPSD| 61184739 Hà Nội – 2022
I. Phân tích về tình cảnh người công nhân ở thế kỷ 19 trong cuốn sách “Tình cảnh
giai cấp Công nhân Anh” của Ăngghen.
1. Giới thiệu về tác phẩm “Tình cảnh giai cấp Công nhân Anh” của Ăngghen.
- Cuốn sách “Tình cảnh giai cấp Công nhân Anh” được viết ở Barmen từ
tháng Chín 1844 đến tháng Ba 1845. Trong thời gian ở Anh (tháng Mười một
1842 đến tháng Tám 1844), Engels đã chú ý nghiên cứu điều kiện sinh hoạt
của giai cấp vô sản Anh, dự định trình bày vấn đề này trong một chương trình
của một tác phẩm về lịch sử xã hội nước Anh. Nhưng để làm sáng tỏ vai trò
đặc biệt của giai cấp vô sản trong xã hội tư sản, Người đã dành riêng hẳn một
tác phẩm nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân Anh. Cuốn sách xuất bản
lần đầu bằng tiếng Đức ở Leipzig năm 1845. Bản in lần thứ hai bằng tiếng Đức
ra mắt năm 1892. Trong thời gian này, bản dịch ra tiếng Anh được tác giả thừa
nhận cũng xuất bản hai lần (ở New York năm 1887 và ở London năm 1892).
Trong khi chuẩn bị cho những lần tái bản cuốn sách của mình, Engels đã không
đưa vào cuốn sách một sửa đổi căn bản nào. Nhưng trong "Phụ lục cho bản in
ở Mỹ" (1887) mà hầu như toàn bộ được đưa vào lời tựa bản tiếng Anh và bản
tiếng Đức xuất bản năm 1892, Người thấy cần phải nói với bạn đọc rằng không
nên coi "Tình cảnh giai cấp công nhân Anh" là một tác phẩm Marxist già dặn.
Sau đó Engels giải thích tại sao điều dự đoán của mình năm 1845 về cuộc cách
mạng xã hội sắp nổ ra ở Anh không được chứng thực: Người cho rằng sự suy
yếu của phong trào Hiến chương từ sau năm 1848 và thắng lợi tạm thời của
chủ nghĩa cơ hội trong phong trào công nhân Anh có quan hệ trực tiếp với địa
vị lũng đoạn công nghiệp của Anh trên thị trường thế giới, và tin chắc rằng
"chủ nghĩa xã hội sẽ lại xuất hiện ở Anh" một khi Anh mất đi địa vị lũng đoạn của mình. lOMoAR cPSD| 61184739
- Tác phẩm này cũng chính là bức thư mà Ăngghen tặng cho các giai cấp
laođộng ở Anh. Ông muốn trình bày cho mọi người thấy một bức tranh trung
thức về tình cảnh, về những nỗi khổ đau, và những đấu tranh, những hy vọng
và khao khát của những người lao động Anh. “Tình cảnh giai cấp công nhân”
là cơ sở thực tế và là xuất phát điểm của mọi phong trào xã hội hiện tại, bởi vì
nó là đỉnh cao gay gắt và rõ rệt nhất của những tai họa xã hội. Chủ nghĩa cộng
sản của công nhân Pháp và Đức là sản phẩm trực tiếp, còn chủ nghĩa Fourier
và chủ nghĩa xã hội Anh cũng như chủ nghĩa cộng sản của giai cấp tư sản trí
thức ở Đức là sản phẩm gián tiếp của nó. Cho nên để có một cơ sở vững chắc,
một mặt cho những lý luận xã hội chủ nghĩa, mặt khác cho những kiến giải về
quyền tồn tại của những lý luận ấy, để chấm dứt mọi điều mơ tưởng và bịa đặt,
thì việc nghiên cứu những điều kiện sinh sống của giai cấp vô sản là một điều
hoàn toàn cần thiết. Song chỉ ở Đại Britain và ở chính tại nước Anh, những
điều kiện sinh sống của giai cấp vô sản mới có được hình thức điển hình toàn
vẹn của nó; và đồng thời cũng chỉ có ở nước Anh, những tư liệu cần thiết mới
được thu thập khá đầy đủ, và được các cuộc điều tra chính thức xác nhận, đáp
ứng yêu cầu trình bày tường tận vấn đề.
2. Tình cảnh người công nhân ở thế kỉ XIX. * Trong lao động.
- Sau khi có những phát minh về việc sử dụng các công cụ chạy bằng hơi
nước,các khu công nghiệp đã phụ thuộc dần vào máy móc thay thế sức lao
động của những người công nhận. Dẫn đến việc người công nhân ngày càng
thiếu đi việc làm. Kết hợp với nền sản xuất công nghiệp ngày càng phát triển
và những bước tiến của nền kinh tế tư bản, giai cấp tư sản tăng cường bốc lột
lao dộng hơn. Khiến họnhững người lao động đã bần cùng nay ngày càng bần
cùng hơn. Luật lao động thời đó chưa có mà chỉ có luật công xưởng ngặt nghèo lOMoAR cPSD| 61184739
và lố bịch, giai cấp tư sản bóc lột người công nhân bằng cách quy định giờ làm
việc từ 14 - 18 giờ mỗi ngày mà đồng lương trả họ rất ít ỏi. Do đó, các nhà áy
thường không bảo đả về độ an toàn và tai nạn đã đến thương tích xảy ra nhiều
với người công nhân. Điều kiện làm việc của những người công nhân chưa
được bảo đảm kết hợp với quy định giờ lao động hà khắc, nhiều công nhân
phải làm việc trong môi trường ô nhiễm nặng như nóng, bụi, ồn,…. Làm cho
sức khỏe của những người công nhân suy yếu gây ra những bệnh nghề nghiệp.
Đồng lương trả rất ít và số tiền đó gần như không thể nuôi sống cả họ và gia
đình. Do đó trong thời gian này nhiều người không thể mua nổi thức ăn và
phải chịu phán quyết ghê sợ của sự “chết đói”. Sự đói ăn kéo dài đã gây ra
những bệnh nan y và làm cho số người chết tăng lên. Cái đói đã làm cho cơ
thể họ- những người lao động suy yếu đến nỗi trong những hoàn cảnh khác
đáng lẽ có thể vượt qua được dễ dàng, thì lại dẫn đến những bệnh nặng và cái chết.
- Ngoài người trường thành bị bóc lột, giai cấp tư sản còn bóc lột cả sức
laođộng của trẻ em. Trong nền công nghiệp dệt kim, Trẻ em thì chuyên đánh
ống chỉ và khâu viền, ốm đau thường xuyên và vóc người rất yếu. Từ 6-8 tuổi,
chúng đã phải làm mỗi ngày 10-12 giờ, trong những phòng nhỏ hẹp, ngột ngạt.
Rất nhiều trẻ bị công việc làm cho yếu ớt đến nỗi khống làm nổi những công
việc bình thường nhất. Còn ít tuổi mà đã phải đeo kính, vì bị cận thị. Ngoài ra
còn có khá nhiều trẻ có triệu chứng nhạc tràng. Trong các xưởng đăng ten, hại
cho sức khỏe nhất là công việc của lace-runner, rút chỉ từ những tấm đăng-ten
đó là công việc phần lớn của các bé bảy tuổi, thậm chí 4-5 tuổi. Phải chăm chú
nhìn xem, trong đường thuê đăng-ten chằng chịt, sợi nào đó cần dùng kim
khều ra. Việc đó đặc biệt hại mắt, nhất là khi thường phải làm liên tục 14-16
giờ. Như vậy, trong trường hợp tốt nhất họ cũng bị cận thị nặng. Còn trong lOMoAR cPSD| 61184739
trường hợp xấu nhất rất thường thấy, thì họ mù vĩnh viễn do đục thủy tinh thể.
Ngoài ra, vì thường phải làm việc ở tư thế cúi, nên trẻ lớn lên thì cơ thể rất
yếu, ngực lép, và vì tiêu hóa không tốt mà bị tràng nhạc, các em nữ rất thường
bị rối loạn chức năng của cơ quan sinh dục, cột sống cong vẹo cũng phổ biến.
Những chuyên gia y tế làm chứng rằng : sức khỏe của tất cả trẻ em chuyên sản
xuất đăng-ten đã bị tổn hại nặng nề. Bệnh tật mà chúng thường bị là suy nhược
toàn thân, hay bị ngất, đau ở đầu, hai bên sườn, lưng, thắt lưng, tim đập mạnh,
nôn ọe, chán ăn, cột sống cong vẹo, tràng nhạc, lao phổi. * Trong sinh hoạt
- Xã hội hiện đại đã kéo quảng đại quần chúng nghèo khổ về những thành
phốlớn. Từ đó làm cho lượng dân cư ở các thành phố tăng đột biến. Mà bản
thân sự tập trung dân cư vào các thành phố lớn đã có hậu quả cực kỳ tai hại
như không khí ở London không bao giờ có thể trong sạch, nhiều Ôxy như ở
một vùng nông thôn; hai triệu rưởi lồng ngực và hai mươi lăm vạn lò bếp, tập
trung trên ba bốn dặm vuông, tiêu phí một lượng Ôxy rất lớn; chúng rất khó
được bổ sung, vì cách kiến trúc thành phố tự nó đã khiến việc thông gió rất
khó khăn. Khí Carbonic do hô hấp và đốt than sinh ra, vì khá nặng, nên lưu lại
giữa nhà, còn luồng khí chính thì lướt qua trên nóc. Phổi của những người
sống trong các nhà đó không nhận đủ lượng Ôxy cần thiết, nên thể chất và trí
óc mệt mỏi, sức sống giảm sút. Vì vậy, dân cư những thành phố lớn, dù rất ít
mắc bệnh cấp tính, nhất là bệnh viêm các loại, so với người nông thôn sống
trong không khí trong lành, sạch sẽ, nhưng phần lớn họ đều mắc bệnh kinh
niên. Nếu việc sống trong các thành phố lớn tự nó đã có ảnh hưởng xấu đến
sức khoẻ, thì ảnh hưởng tai hại đó của không khí ô uế trong các khu lao động
- là nơi, như ta đã thấy, tập trung mọi yếu tố làm cho bầu không khí càng bị uế
tạp - sẽ phải to lớn biết chừng nào. Ở nông thôn, không khí tự do lưu thông lOMoAR cPSD| 61184739
trên mọi phía, nếu có một hố nước thối ở ngay gần nhà, có lẽ cũng không hại
như thế; nhưng ở giữa thành phố lớn, trong các phố và các sân mà bốn phía
đều bị xây chắn, và bị cắt đứt mọi dòng không khí trong lành, thì tình hình lại
khác. Cặn bã động thực vật bốc lên những khí rất hại cho sức khoẻ, và vì không
có lối thoát tự do, nên các khí ấy tất phải đầu độc bầu không khí. Như vậy thì
rác rưởi và vũng tù trong các khu lao động của những thành phố lớn bao giờ
cũng gây hậu quả tai hại nhất cho vệ sinh chung, vì chính chúng bốc ra những
khí độc hại; những hơi bốc lên từ dòng nước bẩn cũng vậy.
- Ngoài ra các chủ nhà máy và doanh nhân giàu có đã xây dựng nên những
dãynhà tồi tàn và rẻ tiền cho người lao động. Người ta tước đoạt mọi phương
tiện giữ vệ sinh; kể cả nước, vì muốn đặt ống dẫn nước thì phải trả tiền, còn
nước sông thì đã bẩn đến mức không dùng được. Người ta buộc họ phải vứt
ngay ra ngoài đường phố mọi thứ rác rưởi, cặn bã, nước bẩn, cả những thứ bẩn
thỉu nhất làm cho người ta lộn mửa, vì mọi phương tiện để vứt bỏ tất cả những
thứ đó cũng bị tước đoạt; vậy là người ta buộc họ phải đầu độc chính nơi ở của
mình. Thế vẫn chưa đủ. Mọi thứ tai hại đổ lên đầu kẻ nghèo. Cư dân thành phố
nói chung đã ở rất chen chúc, nhưng chính họ lại buộc phải sống chật chội
hơn. Phải hít thở không khí ô uế ngoài phố cũng chưa đủ, họ còn bị nhét hàng
tá người vào một gian phòng, và không khí họ hít thở ban đêm trở nên hoàn
toàn ngột ngạt. Người ta cho họ ở trong những phòng ẩm thấp, những nhà hầm
nước thấm từ dưới lên, những tầng sát mái nước dội từ trên xuống. Người ta
xây cho họ những căn nhà mà uế khí không có lối thoát. Người ta cho họ
những áo quần xấu, rách tả tơi, bở bục; những thức ăn tồi tệ, làm giả và khó tiêu.
=> Do phải sống trong điều kiện khó khăn, bẩn thỉu như thế nên nó đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc lây lan các bệnh như thương hàn, dịch tả, đậu mùa,…. Kết lOMoAR cPSD| 61184739
hợp với luật công xưởng quy định rất ít ngày nghỉ ốm, đã khiến cho cơ thể những
người lao động ngày càng chết dần chết mòn vì bệnh tật. * Trong quan hệ xã hội
- Dân cư cũng bị tập trung như tư bản; điều này cũng là dĩ nhiên thôi, bởi vì
trong công nghiệp, con người, người công nhân, chỉ được xem như một loại tư bản,
loại tư bản này tự nộp mình cho chủ xưởng sử dụng và được chủ xưởng trả lợi tức
dưới danh nghĩa tiền lương. Một xí nghiệp công nghiệp lớn cần nhiều công nhân
cùng làm việc ở một tòa nhà; những công nhân ấy cần phải sống ở gần nhau, thậm
chí ở một công xưởng lớn, họ tạo thành cả một làng. Trong cái chế độ tai tiếng giai
cấp tư sản cầm đầu kết hợp với điều kiện sống tệ hại đã thúc đẩy họ dùng ma túy để
bắt trẻ con nằm yên, và thực tế là cách ấy rất phổ biến ở các khu công xưởng. Theo
ý kiến của bác sĩ Johns, phụ trách đăng ký hộ tịch của khu Manchester, thì thói quen
ấy là nguyên nhân chủ yếu của những trường hợp chết người vì chứng co giật, vốn
khá thường gặp. Công việc của phụ nữ ở công xưởng không tránh khỏi làm tan rã
gia đình; trong xã hội hiện tại, lấy gia đình làm cơ sở, thì sự tan rã ấy, với vợ chồng
cũng như con cái, đều gây nên những hậu quả tồi tệ nhất, xét về đạo đức. Người mẹ
mà không có thì giờ chăm sóc con, không thể cho đứa con được hưởng sự âu yếm
bình thường nhất trong mấy năm đầu, lại rất ít khi nhìn thấy con, thì đối với đứa trẻ,
đó không phải là người mẹ thực sự; người mẹ ấy tất yếu sẽ đối xử với con rất dửng
dưng, thiếu tình thương, không chăm sóc, coi con như người lạ. Những đứa trẻ lớn
lên trong những điều kiện đó, sau này sẽ hoàn toàn không biết đến đời sống gia đình;
khi ở trong gia đình do chính chúng xây dựng, chúng cũng không cảm thấy hương
vị gia đình, vì chúng đã quá quen với cuộc sống cô độc, điều đó tất nhiên sẽ làm cho
gia đình công nhân càng bị phá hoại. Trẻ con đi làm cũng là một nguyên nhân làm
tan rã gia đình. Khi chúng kiếm được nhiều tiền hơn so với chi phí mà cha mẹ bỏ ra
để nuôi chúng, thì chúng bắt đầu trả cho cha mẹ khoản chi phí ấy, còn lại thì chúng lOMoAR cPSD| 61184739
tự giữ lấy mà tiêu. Việc ấy thường xảy ra khi chúng 14-15 tuổi. Trẻ con ở đây dần tự
lấp, chúng coi cha mẹ như quán trọ nếu không vừa ý thì chúng bỏ đi tìm quán khác.
- Nhiều khi, việc phụ nữ đi làm ở công xưởng không hoàn toàn phá hoại gia
đình, nhưng làm cho nó đảo ngược. Vợ kiếm tiền nuôi gia đình, chồng ở nhà trông
con, quét dọn, nấu nướng. Chuyện đó rất phổ biến, riêng Manchester đã có thể có
mấy trăm ông chồng nội trợ như vậy. Có thể dễ dàng tưởng tượng sự phẫn nộ chính
đáng của công nhân, trước tình trạng là tất cả quan hệ gia đình đã đảo ngược, trong
khi mọi quan hệ xã hội khác vẫn y nguyên. Nếu gia đình trong xã hội ngày nay đang
ngày càng suy sụp, thì điều đó chỉ chứng minh rằng: sợi dây gắn bó gia đình không
phải là tình yêu, mà là lợi ích riêng, ẩn dưới tấm áo công hữu tài sản. Khi con cái
không chỉ trả tiền ăn cho cha mẹ, như trên đã nói, mà còn phải nuôi cha mẹ thất
nghiệp của chúng, thì cũng xuất hiện những quan hệ y như vậy. Trong "Báo cáo về
lao động công xưởng", bác sĩ Hawkins chứng thực rằng loại quan hệ ấy rất thường
gặp, mà ở Manchester thì điều ấy ai cũng biết. Trong những trường hợp khác, người
đàn bà là chủ; còn trong trường hợp này, con gái chính là chủ. Huân tước Ashley
trong diễn văn của mình (tại Hạ viện ngày 15 tháng Ba 1844) đã đưa ra một ví dụ
như thế: một người mắng hai cô con gái của mình vì đã vào tiệm rượu, thì hai cô nói
rằng mình đã chán ngấy việc phải phục tùng rồi: "Thưa ông, ông cút đi cho rảnh,
chúng tôi còn phải nuôi ông nữa kia"; cho rằng mình đáng được hưởng chút gì đó từ
kết quả lao động của mình, hai cô liền bỏ nhà ra đi, để mặc bố mẹ cho số phận. Các
thiếu nữ lớn lên trong công xưởng cũng không khá hơn phụ nữ đã có chồng. Một người
con gái làm việc ở công xưởng từ năm chín tuổi thì tất nhiên không thạo việc nhà,
thế nên tất cả nữ công nhân công xưởng đều hoàn toàn không có kinh nghiệm và
không biết quản lí nội trợ. Họ không biết may vá, không biết đan, không biết làm
bếp, không biết giặt giũ; cả những việc gia đình bình thường nhất, họ cũng không
biết, còn việc chăm sóc trẻ em thì họ càng không biết. lOMoAR cPSD| 61184739
- Trong thời gian này, sau khi phải chịu nhiều áp bức bóc lột, các công nhânđứng
lên đấu tranh. Họ đã đấu tranh qua hai hình thức: phạm tội hoặc đấu tranh theo công liên.
+ Hình thức đầu tiên, thô sơ và ít hiệu quả nhất là phạm tội. Công nhân phải sống
nghèo khổ, bần cùng, lại thấy đời sống của kẻ khác khá hơn mình; họ không hiểu sao
mình lao động cho xã hội nhiều hơn bọn nhà giàu ăn không ngồi rồi, mà phải chịu
thiếu thốn như thế. Và do đó họ ăn cắp. Sau một thời gian công nhân đã sớm nhận
ra là làm thế thì chẳng ích gì. Việc phạm tội chỉ là hành động đơn phương đọc mã
chống lại chế độ xã hội thời đó với tư cách cá nhân. Mà xã hội có thể dùng mọi sức
mạnh để đối phó và áp đảo kẻ địch đơn độc bằng ưu thế tuyệt đối. Hơn nữa, trộm
cắp là hình thức đấu tranh thô sơ và vô ý thức nhất. Thế nên riêng một việc đó không
thế trở thành biểu hiện chung của công nhân. Hơn nữa, ngay khi công nhân vừa
giành được thắng lợi chốc lát, thì toàn bộ sức nặng của quyền lực xã hội liền đè lên
những kẻ phạm tội không có gì tự vệ, và mặc sức trừng phạt họ, còn máy móc thì lại vẫn được dùng.
+ Đến năm 1824, công nhân có quyền tự do lập hội, thì mọi ngành lao động đều
thành lập các công liên, với chủ trương công khai là bảo vệ từng công nhân riêng lẻ,
chống sự bạo ngược và nhẫn tâm của giai cấp tư sản. Mục đích của những công liên
ấy là: qui định tiền lương, thương lượng với giới chủ trên tư cách là một lực lượng,
điều chỉnh tiền lương theo lợi nhuận của chủ, tăng lương khi có thể, và giữ một mức
lương bằng nhau cho một nghề ở mọi nơi. Do đó, họ thường đấu tranh đòi các nhà
tư bản thực hiện một mức lương chung, và tuyên bố bãi công với người nào không
chấp nhận mức đó. Hơn nữa, công liên hạn chế việc tuyển thợ học việc, để giữ vững
nhu cầu về nhân công của bọn tư bản, từ đó giữ vững tiền lương; cố gắng hết sức
chống các thủ đoạn hạ thấp tiền lương của chủ xưởng, như việc dùng máy móc và lOMoAR cPSD| 61184739
công cụ mới,… cuối cùng là giúp tiền cho công nhân thất nghiệp. Tuy nhiên đấu
tranh theo công liên hợp pháp và đông đảo nhưng không phải lúc nào cũng có tác
dụng. Không phải tất cả công nhân đều tham gia công liên, cũng có những công nhân
rời khỏi công liên vì lợi ích trước mắt mà chủ xưởng ban cho.
Chính vì vậy, công liên là một tổ chức lỏng lẻo, đình công từ đó cũng ít tác dụng hơn.
Hơn nữa, đình công công liên cũng bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế thời đó. Ví dụ khi
có khủng hoảng thương nghiệp, thì công liên phải tự động hạ mức lương xuống, hoặc
bị giải tán hoàn toàn; hay khi nhu cầu lao động tăng nhiều, thì nó cũng không thể đòi
lương cao hơn mức các nhà tư bản qui định,…
=> Giai cấp công nhân Anh thế kỷ 19 không hề có một chút quyền lực nào ở cả địa
vị kinh tế lẫn địa vị chính trị. Về pháp luật và trên thực tế, công nhân là nô lệ của
giai cấp có của, của giai cấp tư sản; họ bị nô lệ đến mức có thể bị bán đi như hàng
hoá, và cũng lên giá xuống giá như hàng hoá. Quan hệ giữa công nhân tự do và chủ
cũng được pháp luật qui định, nhưng chúng không được tuân thủ, vì không phù hợp
với tập tục, cũng như với lợi ích của chủ. Đó là chế độ nô lệ có tính đạo đức giả, nó
tồi hơn chế độ nô lệ cũ. Và con đường duy nhất để thoát khỏi tình trạng này chính
là đấu tranh.
II. Suy nghĩ về sứ mệnh học thuyết lịch sử của giai cấp công nhân của Mác và ý nghĩa của nó.
1. Nội dung của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại biểu
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương
thức sản xuất tương lai, do vậy, về mặt khách quan nó là giai cấp có sứ mệnh lịch sử lOMoAR cPSD| 61184739
lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ mọi
chế độ áp bức bóc lột và xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa. Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân cần phải trải qua hai bước:
Bước thứ nhất: “… giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị” và “Giai cấp vô
sản chiếm lấy chính quyền nhà nước”: : Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, giai
cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là đấu tranh giành chính quyền về tay mình và nhân dân lao động.
Bước thứ hai: “… giai cấp vô sản dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt
lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công cụ sản xuất
vào trong tay nhà nước” tiến hành tổ chức xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa.
Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau: giai cấp công nhân không thực hiện
được bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai nhưng bước thứ hai
là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Để
hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân nhất định phải tập
hợp được các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh nó, tiến hành cuộc đấu tranh
cách mạng xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị và
văn hóa, tư tưởng. Đó là một quá trình lịch sử hết sức lâu dài và khó khăn.
2, Suy nghĩa về học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân của Mác.
Từ những phân tích trên, ta có thể thấy giai cấp công nhân phải chịu rất nhiều áp
bức bóc lột. Họ những người lao động không có tư liệu bán sức lao động cho giai
cấp tư sản và theo đó phải chịu áp bức, bóc lột giá trị thặng sản xuất. Họ không có
con đường nào khác để kiếm sống ngoài việc tự do dư để làm giàu cho giai cấp tư
sản. Trước tình trạng trên, Mác đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai
cấp công nhân: Là lực lượng xã hội có vai trò giải phóng thế giới khỏi tình trạng “đen lOMoAR cPSD| 61184739
tối” của chủ nghĩa tư bản. Học thuyết này đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó đã làm
sáng tỏ vai trò của giai cấp vô sản, đó là đứng lên đấu tranh, xoá bỏ đi ách tư bản và
trở thành giai cấp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Không chỉ vậy, học thuyết này còn
khẳng định vai trò của giai cấp công nhân là nòng cốt, là lực lượng chủ yếu trong
công cuộc giải phóng thế giới khỏi ách thống trị của tư bản, chỉ có thể là giai cấp
công nhân chứ không phải bất cứ giai cấp nào khác, vì chính họ là những người có
mẫu thuẫn và mong muốn giành quyền lợi trực tiếp đối nghịch với giai cấp tư sản.
3. Ý nghĩa học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân của Mác ngày nay.
- C.Mác là người đầu tiên phát hiện và luận giải tính khách quan và tự giác về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại . Theo Ông, giai cấp có năng lực tự
giải phóng và sẽ giải phóng nhân loại thoát khỏi ách áp bức bóc lột cuối cùng của
lịch sử: chế độ bóc lột giá trị thặng dư của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là
giai cấp công nhân hiện đại. Nội dung của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là một
quá trình cách mạng toàn diện để xây dựng một hình thái kinh tế - xã hội mới trên
các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng. Nó làm xuất hiện hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
- Có thể khẳng định rằng, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân
là một học thuyết về giải phóng và phát triển hiện đại do C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin luận giải một cách khoa học, hệ thống. Đây là vũ khí tư tưởng của các đảng
cộng sản, của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh với ý thức hệ tư sản và các
thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội. Chúng ta cần luôn cảnh giác phát hiện và đấu
tranh với những tư tưởng sai lầm, xuyên tạc để bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng
của lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và qua đó, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa cần được xem là nhiệm vụ thường trực. lOMoAR cPSD| 61184739
- Ngày nay, khi lực lượng sản xuất đang trên đà phát triển mạnh, giai cấp công
nhân không chỉ bao gồm những người lao động chân tay mà còn cả lao động trí óc.
Giai cấp công nhân có sự phát triển về chất lượng để đảm đương được nhiệm vụ của
mình trong điều kiện mới. Giai cấp công nhân đang lớn lên với đội ngũ trí thức của
mình và giai cấp công nhân luôn luôn là người trực tiếp sản xuất, tham gia vào quá
trình tạo ra những giá trị của cải to lớn cho xã hội.
- Mặc dù mức sống công nhân có cao hơn trước, công nhân có được tham gia
quản lý thông qua đại biểu trong hội đồng xí nghiệp theo “chế độ tham dự” và “chế
độ ủy nhiệm”' nhưng họ vẫn là người làm thuê bán sức lao động, ý chí của chủ nghĩa
tư bản vẫn là quyền lực chi phối, tầng lớp “nhà quản lý” vẫn chỉ là kẻ phụ thuộc vào
giới chủ. Giai cấp công nhân vẫn luôn là lực lượng sản xuất cơ bản và trực tiếp, vẫn
là giai cấp tiên phong trong xã hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không
thể chuyển vào tay một giai cấp hay tầng lớp xã hội nào khác: Những chỉ dẫn cơ bản
về bản chất của giai cấp công nhân mà Mác đưa ra vẫn là cơ sở phương pháp luận để
xem xét, phân tích giai cấp công nhân hiện đại trong các quốc gia tư bản chủ nghĩa
phát triển hay trong những nước đang tiếp tục con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa
và toàn thế giới nói chung. Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động
tạo ra của cải vật chất trong lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật và công nghệ
ngày càng hiện đại. Sản phẩm thặng dư họ làm ra là nguồn gốc chủ yếu cho sự giàu
có và phát triển của xã hội. Giai cấp công nhân vừa là người lãnh đạo, đồng thời cùng
với nông dân, trí thức và các giai cấp, tầng lớp lao động khác họp thành lực lượng
tổng hợp của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- “C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN TOÀN TẬP”, TẬP 2; NXB Chính trị Quốc gia "Sự thật", Hà Nội 1995 lOMoAR cPSD| 61184739
- Giáo trình “Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học”, NXB Chính trị Quốc gia "Sự thật"