Phân tích và đánh giá cơ chế kiểm soát quyền lực ở Việt Nam | Đề giữa kỳ chính trị học

Lý luận về quyền lực. Các chủ thể của quyền lực chính trị và các phương thức thực thi quyền lực chính trị. Cơ chế thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam. Các phương thức thực thi quyền lực chính trị. Các chủ thể của quyền lực chính trị. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC
******
BÀI GIỮA KỲ
MÔN: CHÍNH TRỊ HỌC
ĐỀ: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC Ở VIỆT NAM
Họ và tên: Trần Quỳnh Trang
Lớp: Xuất bản điện tử K41
MSV: 2158020076
HÀ NỘI – 2023
MỞ ĐẦU
1. Tính tất yếu của đề tài
Kiểm soát quyền lực chính trị việc làm tất yếu nhằm bảo đảm các
chủ thể kiểm soát các đối tượng được kiểm soát hoạt động đúng vị thế,
chức năng nhiệm vụ của mình được Hiến định, theo pháp luật Cương
lĩnh, đường lối chính trị của Đảng. đâu quyền lực thì đó yêu cầu
kiểm soát quyền lực với vai trò như một công cụ điều tiết, bảo đảm cho quyền
lực được sử dụng hợp lý, hiệu quả; không bị lạm dụng, sử dụng sai mục đích,
dẫn đến hậu quả tiêu cực. Trong lĩnh vực chính trị, vấn đề kiểm soát quyền
lực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan đến lợi ích sống còn của một dân
tộc, sự bền vững của một quốc gia, sự tồn vong của một chế độ, đặc biệt
trước tình hình đất nước đang ngày càng phát triển, đổi mới về mọi mặt theo
xu hướng mở cửa, hội nhập thế giới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tổng kết
thực tiễn vấn đề kiểm soát quyền lực chính trị nước ta hiện nay một
nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài tiểu luận nhằm phân tích đưa ra
đánh giá về cơ chế kiểm soát quyền lực ở Việt Nam
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Bài tiểu luận nhiệm vụ làm đặc điểm, vai trò chế thực thi
quyền lực ở Việt Nam. Từ đó đưa ra đánh giá và phương hướng hoàn thiện cơ
chế kiểm soát quyền lực của đất nước trước tình hình hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài quyền lực chính trị quá trình tổ
chức, thực thi và kiểm soát quyền lực của các cơ quan Nhà nươc ở nước ta
3.2. Phạm vi nghiên cứu
2
Phạm vi nghiên cứu nằm trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị
nước ta trong bối cảnh hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước thực thi quyền lực nhà
nước, về công tác kiểm tra, kiểm soát
Vận dụng lý luận về tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước
Các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tổ chức hoạt
động của các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà
nước
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài tiểu luận sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh,
kết hợp các phương pháp logic và dựa vào những nguồn tài liệu chính thống,
đáng tin cậy để làm rõ đề tài cần nghiên cứu.
5. Ý nghĩa và lí luận thực tiễn
Trên cơ sở mô tả và đánh giá thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước,
bài tiểu luận đưa ra một số giải pháp hoàn thiện chế kiểm soát quyền lực
chính trị ở Việt Nam hiện nay
6. Kết cấu của tiểu luận
3
NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
1.1. Lý luận về quyền lực
Quyền lực là mối quan hệ diễn ra phổ biến trong đời sống hội. Mọi
tổ chức, kể cả tổ chức phi chính trị đều thể coi một tổ chức quyền lực
với phương thức hoạt động riêng (bao gồm cách thức ra quyết định thi
hành quyết định). Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về quyền lực, nhưng tựu
chung lại, các quan điểm đưa ra đều hướng đến quan điểm: Quyền lực là năng
lực của một chủ thể, buộc chủ thể khác phải hành động theo ý chí của mình.
* Phân loại dựa trên các lĩnh vực của đời sống xã hội
Quyền lực chính trị: quyền lực này đảm bảo mọi người trong hội
sống với nhau trong hòa bình, trật tự và an toàn. Vai trò quan trọng của quyền
lực chính trị tạo ra hệ thống luật pháp, hệ thống chính sách của một quốc
gia. Vai trò này được thực hiện trong tất cả các hệ thống chính trị.
Quyền lực kinh tế: quyền lực của những người nắm giữ các liệu
sản xuất của hội khả năng đem lại lợi nhuận. Khi nói tới quyền lực
kinh tế, chủ thể nổi bật là quyền lực của các tập đoàn kinh tế, các công ty lớn
và quyền lực của các tập đoàn tài chính, bảo hiểm...
Quyền lực xã hội: là năng lực của một chủ thể tác động đến quan điểm,
thái độ, hành vi của người khác. Chủ thể của quyền lực hội có thể một
cá nhân, một nhóm xã hội hay một tổ chức, một cộng đồng. Quyền lực xã hội
bao trùm các quan hệ xã hội: từ quan hệ giai cấp, gia đình, thân tộc, bạn bè,...
Quyền lực văn hóa: bắt nguồn từ việc kiểm soát, thao túng tri thức,
hình ảnh, biểu tượng, giá trị, chuẩn mực văn hóa nói chung. Quyền lực văn
hóa thực hiện sự cưỡng ép về mặt tâm lý, làm cho các đối tượng chịu sự chi
phối phải hành động theo cách thức mà chủ thể mong muốn.
1.2. Quyền lực chính trị
Trong các nghiên cứu về chính trị, khái niệm quyền lực chính trị được
hiểu theo nhiều cách thức khác nhau tùy theo cách tiếp cận, nhưng tựu chung
4
lại thể đưa ra định nghĩa về quyền lực chính trị như sau: Quyền lực chính
trị năng lực của một chủ thể chính trị (giai cấp, lực lượng hội...) trong
việc áp đặt mục tiêu chính trị của mình đổi vởỉ các chủ thể khác trong xã hội
nhằm hiện thực hóa lợi ích của bản thân.
Những đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị
Thứ nhất, tính tất yếu khách quan. Quyền lực xuất hiện từ nhu cầu của
hoạt động sản xuất, phân công lao động hội. hội vận động, phát triển
đến trình độ nhất định dẫn đến phân hóa giai cấp và tất yếu nhà nước ra đời để
điều hòa các mâu thuẫn giai cấp. Quyền lực chính trị ra đời dựa trên sở
khách quan hoạt động của giai cấp nhà nước để duy trì ổn định trật tự
phát triển xã hội.
Thứ hai, tính giai cấp. Quyền lực chính trị chỉ hình thành trong hội
đã phân chia giai cấp xuất hiện nhà nước. Thực chất của quyền lực chính
trị nhằm thiết lập, duy trì trật tự, bảo vệ phát triển các lợi ích, căn
bản và trước hết là lợi ích kinh tế cho giai cấp nắm quyền trong xã hội có giai
cấp.
Thứ ba, tính chính đáng. Muốn đảm bảo quyền lực chính trị được thực
thi một cách hiệu quả, cần nhận được sự chấp thuận của người bị mệnh lệnh
chi phối, tức quyền lực chính trị phải tính chính đáng. Tính chính đáng
được xây dựng trên sở niềm tin của người dân đối với chính quyền, thừa
nhận rằng chính quyền đó xứng đáng được cầm quyền.
1.3. Các chủ thể của quyền lực chính trị các phương thức thực thi
quyền lực chính trị
1.3.1. Các chủ thể của quyền lực chính trị
Chủ thể của quyền lực chính trị hết sức đa dạng trong đời sống chính
trị; đó thể các giai cấp, các lực lượng, các tổ chức nhân mục
tiêu chính trị, khả năng trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình
giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị.
5
Các giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị trong
một hệ thống sản xuất hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ
đối với liệu sản xuất phân công lao động, về vai trò trong tổ chức lao
động xã hộicũng như khác nhau về cách thức phân phối của cải. Mỗi giai cấp
trong hội đều sở hữu những nguồn lực mức độ khác nhau để tiến hành
cuộc đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Các đảng chính trị tổ chức chính trị của những người cùng mục
tiêu hoặc mối quan tâm về chính trị, được lập ra để giành quyền lực thông qua
cuộc đấu tranh cách mạng hoặc quá trình tranh cử trong các cuộc bầu cử.
Theo quan điểm mác xít, đảng chính trị bộ phận tiên tiến nhất, tổ chức
của một giai cấp hay một tầng lớp xã hội nào đó. Các đảng chính trị tham gia
vào cấu quyền lực nhà nước chủ yếu bằng con đường bầu cử gây ảnh
hưởng đến quá trình hoạch định chính sách.
Nhà nước trung tâm của đời sống chính trị bởi tất cả những hoạt
động chính trị nói chung, thực hiện các lợi ích chính trị nói riêng đều xoay
quanh nhà nước thông qua nhà nước. thiết chế đại diện cho quyền lực
công, bộ máy nhà nước chính là thiết chế để thực thi quyền lực nhà nước. Để
quyền lực nhà nước được thực thi hiệu quả, bộ máy nhà nước được tổ chức từ
trung ương xuống địa phương, được trang bị những thẩm quyền chính thức và
công cụ cưỡng chế cần thiết để thực hiện chức năng của mình.
Các nhóm lợi ích gồm những người cùng những lợi ích, gắn với
những hoạt động hoặc một đối tượng nào đó. Như vậy, sự tồn tại của các
nhóm lợi ích khách quan. Các nhóm này gắn với nhau, cùng nhau bảo
vệ mở rộng những lợi ích của họ. Các nhóm lợi ích thể là các doanh
nghiệp, các tổ chức công đoàn, các hiệp hội chuyên nghiệp, các nhóm lợi ích
công cộng. Các tổ chức phong trào xã hội sở của các đảng chính trị.
Mặc không chức năng trực tiếp tham gia vào cấu quyền lực nhà
nước, nhưng các tổ chức này không chỉ tập hợp nhu cầu của công dân, mà còn
6
là một kênh để gây ảnh hưởng nhằm tác động đến quá trình thực thi quyền lực
nhà nước.
1.3.2. Các phương thức thực thi quyền lực chính trị
Phương thức thực thi quyền lực chính trị là những cách thứcthông
qua đó một chủ thể quyền lực đạt được mục tiêu mong muốn của mình.
thể kể đến một số phương thức thực thi quyền lực phổ biến sau:
Dùng sức mạnh: phương thức các chủ thể sử dụng quyền lực dựa
trên sức mạnh buộc đối tượng phải phục tùng. Chủ thể sử dụng sức mạnh
trong thực thi quyền lực có thể các giai cấp, các lực lượng hội, các nhà
nước, trong đó chủ yếu là nhà nước. Ở mức độ cao, chủ thể quyền lựcthể
sử dụng sức mạnh bạo lực, sự cưỡng chế (thông qua bộ máy quân đội, cảnh
sát); mức độ thấp, chủ thế quyền lực có thể sự dụng quyền lực hành chính,
thông qua các quyết định của các cơ quan quyền lực công (thông qua đội ngũ
công chức hành chính).
Dùng sự ảnh hưởng: là cách thức chủ thể quyền lực tác động đến nhận
thức, hệ giá trị của đối tượng nhằm làm thay đổi thái độ, hành vi của họ theo
mong muôn của mình. Các phương tiệnchủ thể quyền lực có thể sử dụng
để tác động, gây ảnh hưởng là: tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, nêu
gương... Chủ thể sử dụng ảnh hưởng thể nhà nước, các đảng chính trị,
các tổ chức chính trị - hội hoặc các tổ chức phi chính phủ... Việt Nam,
cùng với quá trình dân chủ hóa hiện nay thì phương thức gây ảnh hưởng,
thuyết phục, nêugương càng trở nên có ý nghĩa trong thực thi quyền lực.
Dùng cơ chế tư vấn, cung cấp thông tin, phương thức này tập trung vào
việc “xây dựng năng lực” cho người dân, cho các đối tượng bị quyền lực chi
phối. Thông qua việc cung cấp thông tin hay sự vấn cho các đối tượng bị
quyền lực chi phối, các chủ thể quyền lực mong muốn nâng cao năng lực lựa
chọn hành động của họ. Chủ thể tiến hành tư vấn, cung cấp thông tin có thể
nhà nước, các đảng chính trị hoặc các tổ chức hội, các tổ chức phi chính
phủ...
7
II. CHẾ THỰC THI QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1. Cơ chế thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam
Trên cơ sở nhận thức về sự cần thiết, nội dung, vai trò, ý nghĩa của vấn
đề kiểm soát quyền lực chính trị trong quá trình lãnh đạo cách mạng, xây
dựng, phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta đã không ngừng xây dựng
hoàn thiện chế, chính sách nhằm kiểm soát quyền lực chính trị dưới các
cấp độ, hình thức khác nhau.
Trong điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng xác định chế tổng thể
quản lý đất nước, quản lý xã hộiĐảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”. Đây cũng đồng thời sự xác định vị trí, vai t các yếu tố
trong hệ thống quyền lực chính trị của đất nước, của chế độ. Trong hệ thống
đó, Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò đảng chính trị duy nhất cầm
quyền, đồng thời cũng là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”,yếu tố
quyền lực chính trị quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định.thế, việc kiểm
soát quyền lực chính trị của Đảng không chỉmột nội dung, giải pháp quan
trọng, góp phần bảo đảm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, đủ năng
lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mà cònđiều kiện hàng đầu bảo đảm cho
sự kiểm soát một cách hiệu quả quyền lực Nhà nước, bảo đảm cho sự bền
vững của chế độ.
Trên thực tế, chế, thể chế kiểm soát quyền lực của Đảng đã được
bao hàm trong các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, được bổ sung,
hoàn thiện trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng từ những bài học cụ
thể rút ra từ thực tế công tác xây dựng Đảng. Do vai trò đặc biệt của Đảng
Cộng sản Việt Nam là lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nên hầu như mọi cơ chế,
chính sách kiểm soát quyền lực trong nội bộ Đảng cũng đồng thời liên quan
đến sự kiểm soát quyền lực chính trị trên phạm vi toàn xã hội. Về cơ bản, việc
kiểm soát quyền lực của Đảng hiện nay được thực hiện theo các chế, thể
chế sau:
8
Thứ nhất các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, như tập trung,
dân chủ; tập thể lãnh đạo - nhân phụ trách; kỷ luật nghiêm minh; nêu cao
tính tiền phong gương mẫu của đảng viên; tự phê bình phê bình; gắn
mật thiết với nhân dân và được nhân dân giám sát; hoạt động trong khuôn khổ
thể chế, pháp luật được thực hiện nghiêm túc. Tùy theo tình hình thực tiễn
yêu cầu của công tác xây dựng Đảng trong mỗi giai đoạn, một số nguyên tắc
về tổ chức, hoạt động của Đảng được triển khai thành những quy định cụ thể,
như Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị, Về một số
việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên ;
Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương,
về Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết Ủy viên Bộ
Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương ,...
Thứ hai đại hội đảng, chế độ bầu cử cấp ủy, ủy ban kiểm tra và chế độ,
sinh hoạt đảng theo định kỳ những chế, chế độ tổ chức, hoạt động của
Đảng, đồng thời cũng chế kiểm soát quyền lực trong Đảng. Mỗi kỳ đại
hội các tổ chức đảng đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng là một lần sàng
lọc, đánh giá lại vai trò, trách nhiệm, tiêu chuẩn cán bộ tham gia cấp ủy. Điều
này ý nghĩa như sự giám sát quyền lực của cấp ủy các đảng viên tham
gia cấp ủy, bảo đảm những tiêu chuẩn, yêu cầu cần đủ để tiếp tục chịu
trách nhiệm trước tổ chức đảng, gánh vác những nhiệm vụ công tác - thực thi
quyền lực chính trị được giao. Đặc biệt, trong những năm qua, các tiêu chuẩn,
quy định về bầu cử trong Đảng được bổ sung, hoàn thiện không ngừng theo
hướng ngày càng phát huy dân chủ, dựa vào nhân dân, mở rộng quyền lựa
chọn trực tiếp của đại hội và của tập thể các tổ chức đảng.
Thứ ba công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy ủy ban kiểm tra,
đảng đối với đảng viên các tổ chức đảng được thực hiện theo những quy
định, quy trình chặt chẽ trong Điều lệ Đảng, những quy định thống nhất của
các tổ chức đảng. Công việc này yếu tố bản bảo đảm tính kỷ luật chặt
chẽ, nghiêm minh trong Đảng, cũng là mộtchế góp phần quan trọng trong
9
việc giám sát quyền lực, bảo đảm sự dân chủ, trong sạch, vững mạnh và năng
lực lãnh đạo trong nội bộ Đảng. Đặc biệt, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định
số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, Về việc kiểm soát quyền lực trong công
tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền , trong đó xác định yêu cầu: “Sử
dụng chế, biện pháp nhằm thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác
cán bộ; phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm các quy
định của Đảng, Nhà nước, nhất các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn,
lạm quyền, lộng quyền hoặc không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và những việc phải làm trên cương vị được giao trong công tác cán
bộ”.
Thứ tổ chức đảng đảng viên của Đảng hoạt động trong khuôn,
khổ Hiến pháp pháp luật, chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình
trước pháp luật như mọi công dân trong xã hội. Cùng với những quy định của
pháp luật, trong Đảng còn những quy định chặt chẽ, nghiêm khắc hơn để
kiểm soát hành vi của đảng viên, bảo đảm sự trong sáng uy tín của Đảng,
như Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 1-11-2011, của Ban Chấp hành Trung
ương, Về những điều đảng viên không được làm ”.
Thứ năm vai trò của nhân dân với tính chất lực lượng giám sát,
tham gia trực tiếp vào công tác xây dựng Đảng. Cương lĩnh năm 2011 (Bổ
sung, phát triển) khẳng định: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân”. Quan điểm ấy của Đảng được hiến
định trong Điều 4, Hiến pháp năm 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn
mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Sự giám sát
tham gia của nhân dân góp phần xây dựng Đảng đó thể hiện tính chất của
Đảng “đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời đội tiên phong
của nhân dân lao động và của toàn dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành cho
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc”. Đồng
10
thời, đó cũng chế giám sát quyền lực thiết thực, cụ thể hiệu quả.
Cơ chế giám sát, phản biện của nhân dân đã được cụ thể hóa trong những quy
định của Đảng, như: Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - hội ban hành theo Quyết định
số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị.
Đối với Nhà nước Việt Nam, kiểm soát quyền lực chính trị được thực
hiện thông qua các cơ chế, thể chế sau đây:
Một là sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các,
quyền lập pháp, hành pháp pháp được chế định trong Hiến pháp hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật. Tại Điều 70, Hiến pháp năm 2013 quy
định, Quốc hội “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp,
luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan
khác do Quốc hội thành lập”.
Hai kiểm soát quyền lực bằng các chế định về bầu cử, bổ nhiệm,,
miễn nhiệm theo nhiệm kỳ hoặc không theo nhiệm kỳ theo quy định của pháp
luật. Bầu cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm vừa phương thức tổ chức bộ máy nhà
nước, bảo đảm việc lựa chọn đúng người, đúng việc, vừa là uy tín của cán bộ,
tổ chức và ý chí, nguyện vọng của nhân dân và tập thể tổ chức. Đồng thời, đó
cũng phương thức để kiểm soát quyền lực chính trị, bảo đảm quyền lực
được thực thi đúng đắn, hiệu quả, ngăn chặn, đề phòng sự lạm dụng quyền lực
mục đích nhân hoặc hạn chế hiệu quả sử dụng quyền lực hạn chế về
năng lực.
Ba kiểm soát quyền lực bằng Hiến pháp, hệ thống văn bản quy,
phạm pháp luật chế độ pháp, bảo đảm cho các tổ chức, nhân hoạt
động theo đúng các quy định của Hiến pháp pháp luật. Một khi các chế
định trong Hiến pháp, pháp luật và pháp chế nói chung đúng đắn, công bằng,
thì việc thực thi nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật các chế độ pháp
11
cũng chính điều kiện để bảo đảm quyền lực chính trị được sử dụng đúng
đắn, không bị lạm dụng hoặc sử dụng sai mục đích.
Bốn kiểm soát quyền lực chính trị bằng việc thực hiện vai trò làm,
chủ, sự giám sát, phản biện của nhân dân một cách trực tiếp hoặc thông qua
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -hội. Cũng như đối với tổ chức
đảng và đảng viên, các cơ quan, tổ chức nhà nước và các cá nhân nắm giữ các
trọng trách trong bộ máy nhà nước phải chịu sự giám sát, kiểm soát của nhân
dân. Theo các quy định của pháp luật, người dân quyền kiểm soát, giám
sát, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của mình đối với các quan, tổ chức
các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong việc thi hành công vụ.
Quản lý nhà nước có được là do nhân dân ủy quyền cho Nhà nước, nên
nhân dân giám sát quyền lực đó là điều hiển nhiên. Và trong mối quan hệ này,
nhân dân chủ thể, người ủy quyền cho Nhà nước, như vậy, quản nhà
nước là quyền lực của nhân dân, là công cụ thực thi quyền lực của nhân dân.
Quản nhà nước chủ yếu sử dụng các chính sách, pháp luật để điều
chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân với nhau, giữa
các quan nhà nước nhằm điều tiết về quyền, lợi ích, trật tự hội mục
đích cuối cùng bảo vệ các quyền tự do, dân chủ lợi ích chính đáng của
nhân dân. Nhân dân quyền điều chỉnh quản nhà nước, từ bộ máy, nhân
sự cho đến những chính sách, pháp luật bằng sự phản biện, giám sát dưới
nhiều hình thức khác nhau như: bằng bầu cử người đại diện hay bãi nhiệm,
thay thế đại diện của mình; bằng sự kiến nghị, yêu cầu phản hồi; bằng chính
kiến qua trưng cầu dân ý; bằng các cơ quan ngôn luận hay các hình thức khác
để thể hiện quan điểm, suy nghĩ và thái độ của mình. Nói cách khác, nhân dân
quyền giám sát trở lại chủ thể quản nhà nước bằng sức mạnh của các
chế định pháp luật.
Như vậy, các chế, thể chế kiểm soát quyền lực trong nội bộ Đảng,
Nhà nước hay trong toàn xã hội đều gắn liền, đan xen hoặc bao hàm trong các
nguyên tắc, chế độ tổ chức hoạt động của các thành tố tạo thành hệ thống
12
chính trị nước ta. Trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ, các cơ chế, thể chế kiểm soát quyền lực của mỗi thành t
trong hệ thống chính trị của nước ta phần lớn đều liên quan hoặc đồng thời tác
động đến các thành tố khác. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước,
nhất trong thời kỳ đổi mới, các chế, thể chế về kiểm soát quyền lực
chính trị nước ta không ngừng được hoàn thiện, được chế định ngày càng
đầy đủ trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật tác động tích
cực đến quá trình xây dựng Đảng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh.
2.2. Thực tiễn cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị ở Việt Nam
Trên sở tiến bộ trong nhận thức luận thể chế kiểm soát quyền
lực như trên, thực tiễn kiểm soát quyền lực trong bộ máy đảng, nhà nước cho
thấy một số điểm mới sau:
Thứ nhất, công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng thật sự
được đẩy mạnh từ trung ương tới địa phương, vừa khẩn trương, nghiêm túc,
công khai, toàn diện vừa trọng tâm, trọng điểm. Ban Chấp hành Trung
ương khóa XII đã thành lập nhiều đoàn kiểm tra do các Ủy viên Bộ Chính trị,
Ủy viên Ban thư dẫn đầu kiểm tra theo chuyên đề tại nhiều địa phương.
Các kết luận kỳ họp của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, của Ban Chỉ đạo
Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong những năm gần đây
được xã hội đón chờ và rất hoan nghênh vì không ít cá nhân kể cả ủy viên Bộ
Chính trị, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương vi phạm Điều lệ các quy
định của Đảng, vi phạm pháp luật, mắc khuyết điểm trong thực hiện nhiệm vụ
trong đạo đức, lối sống đã bị kiểm tra chịu hình thức kỷ luật nghiêm
khắc của Đảng. Điều đó cũng có tác dụng cảnh báo, răn đe đối với các cấp ủy
đảng, cá nhân lãnh đạo cơ quan, cấp ủy ở các bộ, ngành, địa phương.
Thứ hai, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội các khóa XIII, XIV
đã tăng cường mạnh mẽ hơn các hoạt động giám sát tối cao. Nhiều chủ
trương, chiến lược, quy hoạch quốc gia.... do Chính phủ trình được Quốc hội
13
dành nhiều thời gian thảo luận trước khi thông qua. Việc tăng thẩm quyền cho
Thủ tướng khi cần thiết (thí dụ trong việc đối phó với đại dịch Covid -19)
được Quốc hội thảo luận và ban hành thành nghị quyết. Các phiên chất vấn tại
kỳ họp Quốc hội đối với Chính phủ, tại kỳ họp của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đối với các bộ, ngành về các chính sách và thực hiện chính sách, pháp luật
đã diễn ra thường xuyên hơn sâu sát hơn. Các cuộc giám sát của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội tại địa phương, bộ ngành theo chuyên đề được thực hiện
nhiều hơn kỹ càng, thực chất hơn. Hoạt động giám sát như vậy đã giúp
Chính phủ, Thủ tướng, các bộ trưởng các quan của Chính phủ thận
trọng hơn, thực hiện đúng thẩm quyền, nhiệm vụ của mình.
Thứ ba, từ sau Đại hội XI, XII của Đảng, phần lớn các tỉnh, thành phố
và quận, huyện đã thực hiện nhất thể chức danh Bí thư cấp ủy và Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, thực tiễn cho thấy hiệu quả tốt. Theo đó, trênsở của Hiến
pháp, Luật Tổ chức chính quyền địa phương Điều lệ Đảng, thư đồng
thời Chủ tịch Hội đồng nhân dân đã nhiều thẩm quyền hình thức để
kiểm soát quyền lực đối với người đứng đầu quan hành chính, góp phần
ngăn chặn từ sớm những sai phạm thể xảy ra từ phía quan người
đứng đầu cơ quan hành pháp ở địa phương.
Thứ tư, trong việc kiểm tra, thi hành kỷ luật cán bộ, đã sự kết hợp
đồng bộ kịp thời giữa trách nhiệm chính trị với trách nhiệm pháp lý, giữa
kỷ luật của Đảng và kỷ luật của Nhà nước. Nhiều cán bộ, công chức cấp cao,
kể cả đang hoặc nguyên là thứ trưởng, bộ trưởng, bí thư hoặc chủ tịch ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố, đang hoặc nguyên ủy viên Trung ương Đảng
sau khi bị kỷ luật về đảng, sẽ ngay lập tức chịu kỷ luật hành chính và nếu
dấu hiệu vi phạm pháp luật thì thể bị khởi tố, truy tố, xét xử chịu hình
phạt tương xứng theo luật. Ngược lại, người nào khuyết điểm, sai phạm
phải chịu trách nhiệm hành chính hoặc hình sự thì ngay sau đó phải chịu một
hình thức kỷ luật tương xứng về Đảng. Sự đồng bộ, kịp thời đó thể hiện cụ
14
thể, ràng nguyên tắc Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền
phát huy dân chủ ở nước ta, được dư luận xã hội rất đồng tình, hoan nghênh.
Thực tiễn kiểm soát quyền lực từ phía hội cũng điểm mới từ
khi có Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoạt động giám sát và phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở cả trung ương
địa phương đã ngày càng được thực hiện một cách nền nếp, bài bản hơn,
chất lượng và hiệu quả hơn, góp phần quan trọng vào phát huy dân chủ, kiểm
soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong phạm vi cả nước.
Báo chí, truyền thông tiếp tục thể hiện vai trò to lớn trong giám sát,
phản biện hội, công cụ quan trọng của Đảng, Nhàớc, nhân dân để
kiểm soát quyền lực đối với mọi tổ chức, cá nhân. Ngược lại, báo chí, truyền
thông cũng được kiểm soát chặt hơn bằng Luật Báo chí (sửa đổi), Luật Xuất
bản, Luật Tiếp cận thông tin, Luật An ninh mạng, bằng Quy hoạch báo chí do
Chính phủ ban hành năm 2019.
III. HOÀN THIỆN CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Những tiến bộ mới trong kiểm soát quyền lực ở Việt Nam thời gian qua
rất đáng kể, song vẫn còn những hạn chế, bất cập. Đại hội XIII của Đảng
nhận định: “Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng Nhà nước vẫn chưa
đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao”. Cùng với đó, là hiện tượng gần
đây nhiều nơi, cán bộ, công chức thẩm quyền không dám làm, không
dám quyết định, không dám chịu trách nhiệm, chẳng hạn trong việc chậm giải
ngân, đấu thầu, tiến độ thực hiện dự án, kế hoạch, chương trình phát triển
kinh tế - hội... đã ảnh hưởng tới việc hoàn thành nhiệm vụ của bộ, ngành,
địa phương. Nhiều ý kiến cho rằng, những quy định mới về kiểm soát quyền
lực cả về mặt đảng nhà nước đã làm hẹp quyền lực của người chức
vụ, khiến ngay cả người tích cực cũng lúng túng. Hơn nữa, thời gian qua, việc
15
kỷ luật nhiều cấp ủy nhân vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong
lãnh đạo, quản đã khiến cho nhiều người co lại, giữ mình, “phòng thân”.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã nhận thấy tình tình này
đưa ra chủ trương xây dựng chế, chính sách khuyến khích, bảo vệ cán bộ
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Chính phủ cũng chỉ đạo Bộ Nội
vụ cụ thể hóa chủ trương này trong đổi mới chính sách đối với công chức,
viên chức.
Trong thực tế, việc kiểm soát quyền lực thời gian qua vẫn chưa chặt
chẽ, hiệu quả chưa cao, thậm chí có lúc, có nơi chưa được kiểm soát, dẫn đến
tha hóa quyền lực, nhất tình trạng lộng quyền, lạm quyền, lợi dụng quyền
lực, quan liêu,... còn diễn ra ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất
là sự tha hóa quyền lực trong công tác cán bộ… Sự tha hóa quyền lực của cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhất là của cán bộ lãnh đạo, quản lý biểu
hiện rất tinh vi theo từng vụ, việc. Lợi dụng tính thiếu công khai, minh bạch,
thiếu chế chế tài kiểm soát quyền lực, một bộ phận cán bộ, đảng viên,
công chức thường lợi dụng kẽ hở trong các quy định của Đảng Nhà nước
để trục lợi. Vì vậy, cần phải tăng cường kiểm soát chặt chẽ quyền lực của cán
bộ, đảng viên, nhất là của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn
vị; tiếp tục hoàn thiện chế kiểm soát quyền lực nhà nước để đẩy mạnh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trong đó tập trung vào một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cần nhận diện các biểu hiện tha hóa quyền lực đối với
từng lĩnh vực, từng vị trí công tác, trước hết của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý.
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chế tài kiểm soát quyền lực theo
nguyên tắc quyền hạn đi đôi với trách nhiệm, mọi quyền lực phải được kiểm
soát chặt chẽ.
Thứ ba, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,
nhất cấp chiến lượcđội ngũ người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và
uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
16
Thứ tư, các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra tăng cường lãnh đạo,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát để nâng cao hiệu lực,
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đối với kiểm soát quyền
lực.
Thứ năm, tập trung thực hiện có chất lượng, hiệu quả Quy định số 114-
QĐ/TW, ngày 11/7/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.
Thứ sáu, kiên quyết xử công minh, chính xác, kịp thời các hành vi
tha hóa quyền lực, tham nhũng, “lợi ích nhóm”.
Thứ bảy, tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về phương thức
cầm quyền việc kiểm soát quyền lực với các đảng cầm quyền một số
quốc gia trên thế giới.
Hầu hết, đảng cầm quyền các nước trên thế giới bộ máy rất tinh
gọn, không bao biện, làm thay chính quyền luôn đề cao dân chủ. Đảng
phải luôn quán triệt thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, lấy tưởng
dân chủ chỉ đạo toàn bộ quá trình hoạt động của Đảng, bảo đảm hoạt động
cầm quyền hiệu quả cầm quyền của Đảng phản ánh lợi ích căn bản của
đông đảo quần chúng nhân dân. Tuần tự thúc đẩy dân chủ trong các khâu bầu
cử, ra quyết sách, quản lý và giám sát. Lấy phát triển dân chủ trong Đảng để
dẫn dắt dân chủ trong chính quyền hội. Đảng lãnh đạo ủng hộ nhân
dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của người dân,
thực hiện toàn diện dân chủ nhân dân, quản đất nước hội trên cơ sở
nghiêm túc tuân theo chế độ và trình tự dân chủ.
Không sự dân chủ trong cầm quyền, sự cầm quyền của Đảng sẽ
không sở vững chắc, Đảng cũng không thể giành được sự ủng hộ lâu
dài của nhân dân. Mặt khác, hầu hết đảng cầm quyền các nước đều “nhất
thể hóa” chức danh đảng với chính quyền và trong quá trình lãnh đạo đều tôn
trọng tuân theo quy luật khách quan; tuân thủ việc cầm quyền theo pháp
luật để qua đó ngăn chặn, đẩy lùi sự tha hóa quyền lực. Tuy nhiên, mỗi nước
17
có thể chế chính trị và điều kiện khác nhau, song trong bối cảnh toàn cầu hóa
và tích cực hội nhập quốc tế, chúng ta có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc
những nội dung tinh hoa về kinh nghiệm kiểm soát quyền lực của đảng cầm
quyền ở các nước trên thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam xu hướng
phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cần thiết.
Thực trạng trên cho thấy mối quan hệ quyền lực giữa Đảng chính
quyền, giữa Đảng hội, giữa tập thể nhân, nhất với người đứng
đầu cấp ủy, chính quyền vẫnnhững quan hệ đòi hỏi phải được thể chế hóa
một cách ràng, cụ thể, đồng thời được nhận thức thực hiện nghiêm túc,
linh hoạt. Suy cho cùng, đó cũng những biểu hiện của mối quan hệ phổ
biến giữa thể chế con người, pháp đạo mọi nền chính trị đều
gặp phải cần được giải quyết một cách phù hợp với văn hóa chính trị
thực tiễn đất nước.
Vì vậy, để giải quyết một cách nhuần nhuyễn, hài hòa mối quan hệ này
sao cho vừa phát huy được vai trò của tập thể, phát huy dân chủ, vừa phát huy
vai trò của cá nhân người lãnh đạo, quản lý, không có cách nào khác, một mặt
cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực cả từ bên trong và từ bên
ngoài Đảng, từ bên trong bên ngoài Nhà nước hệ thống chính trị nói
chung. Mặt khác, tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả
về trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, nhất với
người đứng đầu cấp ủy.
18
KẾT LUẬN
Kiểm soát quyền lực chính trị một yêu cầu cần thiết không thể
tránh khỏi trong mọi hình thức tổ chức chính trị - hội tính dân chủ.
Trong lĩnh vực chính trị, quyền lực chính trị thường có xu hướng mở rộng
tăng cường vai trò của các chủ thể, điều này đặt ra yêu cầu kiểm soát quyền
lực để ngăn chặn sự lạc quyền lực. Đây là một trong những phương tiện chính
để bảo vệ giá trị dân chủ của tổ chức, đồng thời đảm bảo quyền lực chính trị
thuộc về nhân dân. Trong bối cảnh thể chế chính trị hội chủ nghĩa Việt
Nam, nơi một đảng duy nhất kiểm soát lãnh đạo Nhà nước và hệ thống chính
trị, việc kiểm soát quyền lực chính trị không chỉ điều kiện quan trọng
còn yêu cầu tiên quyết để thực hiện các mục tiêu quốc gia tại từng giai
đoạn, đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Hiện tại, Việt Nam, chế kiểm soát quyền lực nhà nước đã được
xây dựng hệ thống hóa, tuy nhiên, hiệu quả thực tế vẫn còn hạn chế, dẫn
đến những vấn đề như sự lạc quyền lực, tham nhũng, v.v. Điều này làm nổi
lên sự cần thiết của việc tiếp tục xây dựng hoàn thiện chế kiểm soát
quyền lực nhà nước. Các giải pháp cấp thiết cần tập trung vào việc xây dựng
và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà
nước, xác định rõ hơn phạm vi quyền lãnh đạo của Đảng, mở rộng quyền lựa
chọn của người dân trong các cuộc bầu cử, tạo điều kiện thuận lợi để báo chí
tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước, và tiếp tục huy động sự tham gia của
Mặt trận Tổ quốc vào quá trình giám sát quyền lực nhà nước.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình chính trị học đại cương
2. C.T. Ngọc / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 26 (2010)
https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/11126/865/1/B%C3%A0i
%206.%20Chu%20Thi%20Ngoc-OK.pdf
3. GS.TS Tô Lâm, “Một số vấn đề về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, ngày 30/11/2021.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-
story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/mot-so-van-de-ve-xay-
dung-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam
4. PGS, TS. Lưu Văn Quảng, “Bàn về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở
Việt Nam hiện nay”
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/817167/ban-
ve-co-che-kiem-soat-quyen-luc-nha-nuoc-o-viet-nam-hien-nay.aspx#
20
| 1/20

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA CHÍNH TRỊ HỌC ****** BÀI GIỮA KỲ
MÔN: CHÍNH TRỊ HỌC
ĐỀ: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC Ở VIỆT NAM
Họ và tên: Trần Quỳnh Trang
Lớp: Xuất bản điện tử K41 MSV: 2158020076 HÀ NỘI – 2023 MỞ ĐẦU
1. Tính tất yếu của đề tài
Kiểm soát quyền lực chính trị là việc làm tất yếu nhằm bảo đảm các
chủ thể kiểm soát và các đối tượng được kiểm soát hoạt động đúng vị thế,
chức năng và nhiệm vụ của mình được Hiến định, theo pháp luật và Cương
lĩnh, đường lối chính trị của Đảng. Ở đâu có quyền lực thì ở đó có yêu cầu
kiểm soát quyền lực với vai trò như một công cụ điều tiết, bảo đảm cho quyền
lực được sử dụng hợp lý, hiệu quả; không bị lạm dụng, sử dụng sai mục đích,
dẫn đến hậu quả tiêu cực. Trong lĩnh vực chính trị, vấn đề kiểm soát quyền
lực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan đến lợi ích sống còn của một dân
tộc, sự bền vững của một quốc gia, sự tồn vong của một chế độ, đặc biệt là
trước tình hình đất nước đang ngày càng phát triển, đổi mới về mọi mặt theo
xu hướng mở cửa, hội nhập thế giới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tổng kết
thực tiễn vấn đề kiểm soát quyền lực chính trị ở nước ta hiện nay là một
nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài tiểu luận nhằm phân tích và đưa ra
đánh giá về cơ chế kiểm soát quyền lực ở Việt Nam
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Bài tiểu luận có nhiệm vụ làm rõ đặc điểm, vai trò và cơ chế thực thi
quyền lực ở Việt Nam. Từ đó đưa ra đánh giá và phương hướng hoàn thiện cơ
chế kiểm soát quyền lực của đất nước trước tình hình hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quyền lực chính trị và quá trình tổ
chức, thực thi và kiểm soát quyền lực của các cơ quan Nhà nươc ở nước ta
3.2. Phạm vi nghiên cứu 2
Phạm vi nghiên cứu nằm trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở
nước ta trong bối cảnh hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
 Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và thực thi quyền lực nhà
nước, về công tác kiểm tra, kiểm soát
 Vận dụng lý luận về tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước
 Các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài tiểu luận sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh,
kết hợp các phương pháp logic và dựa vào những nguồn tài liệu chính thống,
đáng tin cậy để làm rõ đề tài cần nghiên cứu.
5. Ý nghĩa và lí luận thực tiễn
Trên cơ sở mô tả và đánh giá thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước,
bài tiểu luận đưa ra một số giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực
chính trị ở Việt Nam hiện nay
6. Kết cấu của tiểu luận 3 NỘI DUNG I.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
1.1. Lý luận về quyền lực
Quyền lực là mối quan hệ diễn ra phổ biến trong đời sống xã hội. Mọi
tổ chức, kể cả tổ chức phi chính trị đều có thể coi là một tổ chức quyền lực
với phương thức hoạt động riêng (bao gồm cách thức ra quyết định và thi
hành quyết định). Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về quyền lực, nhưng tựu
chung lại, các quan điểm đưa ra đều hướng đến quan điểm: Quyền lực là năng
lực của một chủ thể, buộc chủ thể khác phải hành động theo ý chí của mình.
* Phân loại dựa trên các lĩnh vực của đời sống xã hội
Quyền lực chính trị: quyền lực này đảm bảo mọi người trong xã hội
sống với nhau trong hòa bình, trật tự và an toàn. Vai trò quan trọng của quyền
lực chính trị là tạo ra hệ thống luật pháp, hệ thống chính sách của một quốc
gia. Vai trò này được thực hiện trong tất cả các hệ thống chính trị.
Quyền lực kinh tế: là quyền lực của những người nắm giữ các tư liệu
sản xuất của xã hội và có khả năng đem lại lợi nhuận. Khi nói tới quyền lực
kinh tế, chủ thể nổi bật là quyền lực của các tập đoàn kinh tế, các công ty lớn
và quyền lực của các tập đoàn tài chính, bảo hiểm...
Quyền lực xã hội: là năng lực của một chủ thể tác động đến quan điểm,
thái độ, hành vi của người khác. Chủ thể của quyền lực xã hội có thể là một
cá nhân, một nhóm xã hội hay một tổ chức, một cộng đồng. Quyền lực xã hội
bao trùm các quan hệ xã hội: từ quan hệ giai cấp, gia đình, thân tộc, bạn bè,...
Quyền lực văn hóa: bắt nguồn từ việc kiểm soát, thao túng tri thức,
hình ảnh, biểu tượng, giá trị, chuẩn mực văn hóa nói chung. Quyền lực văn
hóa thực hiện sự cưỡng ép về mặt tâm lý, làm cho các đối tượng chịu sự chi
phối phải hành động theo cách thức mà chủ thể mong muốn.
1.2. Quyền lực chính trị
Trong các nghiên cứu về chính trị, khái niệm quyền lực chính trị được
hiểu theo nhiều cách thức khác nhau tùy theo cách tiếp cận, nhưng tựu chung 4
lại có thể đưa ra định nghĩa về quyền lực chính trị như sau: Quyền lực chính
trị là năng lực của một chủ thể chính trị (giai cấp, lực lượng xã hội...) trong
việc áp đặt mục tiêu chính trị của mình đổi vởỉ các chủ thể khác trong xã hội
nhằm hiện thực hóa lợi ích của bản thân.
Những đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị
Thứ nhất, tính tất yếu khách quan. Quyền lực xuất hiện từ nhu cầu của
hoạt động sản xuất, phân công lao động xã hội. Xã hội vận động, phát triển
đến trình độ nhất định dẫn đến phân hóa giai cấp và tất yếu nhà nước ra đời để
điều hòa các mâu thuẫn giai cấp. Quyền lực chính trị ra đời dựa trên cơ sở
khách quan hoạt động của giai cấp và nhà nước để duy trì ổn định trật tự và phát triển xã hội.
Thứ hai, tính giai cấp. Quyền lực chính trị chỉ hình thành trong xã hội
đã phân chia giai cấp và xuất hiện nhà nước. Thực chất của quyền lực chính
trị là nhằm thiết lập, duy trì trật tự, bảo vệ và phát triển các lợi ích, mà căn
bản và trước hết là lợi ích kinh tế cho giai cấp nắm quyền trong xã hội có giai cấp.
Thứ ba, tính chính đáng. Muốn đảm bảo quyền lực chính trị được thực
thi một cách hiệu quả, cần nhận được sự chấp thuận của người bị mệnh lệnh
chi phối, tức là quyền lực chính trị phải có tính chính đáng. Tính chính đáng
được xây dựng trên cơ sở niềm tin của người dân đối với chính quyền, thừa
nhận rằng chính quyền đó xứng đáng được cầm quyền.
1.3. Các chủ thể của quyền lực chính trị và các phương thức thực thi
quyền lực chính trị
1.3.1. Các chủ thể của quyền lực chính trị
Chủ thể của quyền lực chính trị hết sức đa dạng trong đời sống chính
trị; đó có thể là các giai cấp, các lực lượng, các tổ chức và cá nhân có mục
tiêu chính trị, có khả năng trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình
giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị. 5
Các giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị trong
một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ
đối với tư liệu sản xuất và phân công lao động, về vai trò trong tổ chức lao
động xã hộicũng như khác nhau về cách thức phân phối của cải. Mỗi giai cấp
trong xã hội đều sở hữu những nguồn lực ở mức độ khác nhau để tiến hành
cuộc đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Các đảng chính trị là tổ chức chính trị của những người có cùng mục
tiêu hoặc mối quan tâm về chính trị, được lập ra để giành quyền lực thông qua
cuộc đấu tranh cách mạng hoặc quá trình tranh cử trong các cuộc bầu cử.
Theo quan điểm mác xít, đảng chính trị là bộ phận tiên tiến nhất, có tổ chức
của một giai cấp hay một tầng lớp xã hội nào đó. Các đảng chính trị tham gia
vào cơ cấu quyền lực nhà nước chủ yếu bằng con đường bầu cử và gây ảnh
hưởng đến quá trình hoạch định chính sách.
Nhà nước là trung tâm của đời sống chính trị bởi tất cả những hoạt
động chính trị nói chung, thực hiện các lợi ích chính trị nói riêng đều xoay
quanh nhà nước và thông qua nhà nước. Là thiết chế đại diện cho quyền lực
công, bộ máy nhà nước chính là thiết chế để thực thi quyền lực nhà nước. Để
quyền lực nhà nước được thực thi hiệu quả, bộ máy nhà nước được tổ chức từ
trung ương xuống địa phương, được trang bị những thẩm quyền chính thức và
công cụ cưỡng chế cần thiết để thực hiện chức năng của mình.
Các nhóm lợi ích gồm những người có cùng những lợi ích, gắn với
những hoạt động hoặc một đối tượng nào đó. Như vậy, sự tồn tại của các
nhóm lợi ích là khách quan. Các nhóm này gắn bó với nhau, cùng nhau bảo
vệ và mở rộng những lợi ích của họ. Các nhóm lợi ích có thể là các doanh
nghiệp, các tổ chức công đoàn, các hiệp hội chuyên nghiệp, các nhóm lợi ích
công cộng. Các tổ chức và phong trào xã hội là cơ sở của các đảng chính trị.
Mặc dù không có chức năng trực tiếp tham gia vào cơ cấu quyền lực nhà
nước, nhưng các tổ chức này không chỉ tập hợp nhu cầu của công dân, mà còn 6
là một kênh để gây ảnh hưởng nhằm tác động đến quá trình thực thi quyền lực nhà nước.
1.3.2. Các phương thức thực thi quyền lực chính trị
Phương thức thực thi quyền lực chính trị là những cách thức mà thông
qua đó một chủ thể quyền lực đạt được mục tiêu mong muốn của mình. Có
thể kể đến một số phương thức thực thi quyền lực phổ biến sau:
Dùng sức mạnh: là phương thức các chủ thể sử dụng quyền lực dựa
trên sức mạnh buộc đối tượng phải phục tùng. Chủ thể sử dụng sức mạnh
trong thực thi quyền lực có thể là các giai cấp, các lực lượng xã hội, các nhà
nước, trong đó chủ yếu là nhà nước. Ở mức độ cao, chủ thể quyền lực có thể
sử dụng sức mạnh bạo lực, sự cưỡng chế (thông qua bộ máy quân đội, cảnh
sát); ở mức độ thấp, chủ thế quyền lực có thể sự dụng quyền lực hành chính,
thông qua các quyết định của các cơ quan quyền lực công (thông qua đội ngũ công chức hành chính).
Dùng sự ảnh hưởng: là cách thức chủ thể quyền lực tác động đến nhận
thức, hệ giá trị của đối tượng nhằm làm thay đổi thái độ, hành vi của họ theo
mong muôn của mình. Các phương tiện mà chủ thể quyền lực có thể sử dụng
để tác động, gây ảnh hưởng là: tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, nêu
gương... Chủ thể sử dụng ảnh hưởng có thể là nhà nước, các đảng chính trị,
các tổ chức chính trị - xã hội hoặc các tổ chức phi chính phủ... Ở Việt Nam,
cùng với quá trình dân chủ hóa hiện nay thì phương thức gây ảnh hưởng,
thuyết phục, nêugương càng trở nên có ý nghĩa trong thực thi quyền lực.
Dùng cơ chế tư vấn, cung cấp thông tin, phương thức này tập trung vào
việc “xây dựng năng lực” cho người dân, cho các đối tượng bị quyền lực chi
phối. Thông qua việc cung cấp thông tin hay sự tư vấn cho các đối tượng bị
quyền lực chi phối, các chủ thể quyền lực mong muốn nâng cao năng lực lựa
chọn hành động của họ. Chủ thể tiến hành tư vấn, cung cấp thông tin có thể là
nhà nước, các đảng chính trị hoặc các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ... 7 II.
CƠ CHẾ THỰC THI QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Cơ chế thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam
Trên cơ sở nhận thức về sự cần thiết, nội dung, vai trò, ý nghĩa của vấn
đề kiểm soát quyền lực chính trị trong quá trình lãnh đạo cách mạng, xây
dựng, phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta đã không ngừng xây dựng và
hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm kiểm soát quyền lực chính trị dưới các
cấp độ, hình thức khác nhau.
Trong điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng xác định cơ chế tổng thể
quản lý đất nước, quản lý xã hội là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”. Đây cũng đồng thời là sự xác định vị trí, vai trò các yếu tố
trong hệ thống quyền lực chính trị của đất nước, của chế độ. Trong hệ thống
đó, Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò là đảng chính trị duy nhất cầm
quyền, đồng thời cũng là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, là yếu tố
quyền lực chính trị quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định. Vì thế, việc kiểm
soát quyền lực chính trị của Đảng không chỉ là một nội dung, giải pháp quan
trọng, góp phần bảo đảm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, đủ năng
lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mà còn là điều kiện hàng đầu bảo đảm cho
sự kiểm soát một cách hiệu quả quyền lực Nhà nước, bảo đảm cho sự bền vững của chế độ.
Trên thực tế, cơ chế, thể chế kiểm soát quyền lực của Đảng đã được
bao hàm trong các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, được bổ sung,
hoàn thiện trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng và từ những bài học cụ
thể rút ra từ thực tế công tác xây dựng Đảng. Do vai trò đặc biệt của Đảng
Cộng sản Việt Nam là lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nên hầu như mọi cơ chế,
chính sách kiểm soát quyền lực trong nội bộ Đảng cũng đồng thời liên quan
đến sự kiểm soát quyền lực chính trị trên phạm vi toàn xã hội. Về cơ bản, việc
kiểm soát quyền lực của Đảng hiện nay được thực hiện theo các cơ chế, thể chế sau: 8 Thứ nhất các ,
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, như tập trung
dân chủ; tập thể lãnh đạo - cá nhân phụ trách; kỷ luật nghiêm minh; nêu cao
tính tiền phong gương mẫu của đảng viên; tự phê bình và phê bình; gắn bó
mật thiết với nhân dân và được nhân dân giám sát; hoạt động trong khuôn khổ
thể chế, pháp luật được thực hiện nghiêm túc. Tùy theo tình hình thực tiễn và
yêu cầu của công tác xây dựng Đảng trong mỗi giai đoạn, một số nguyên tắc
về tổ chức, hoạt động của Đảng được triển khai thành những quy định cụ thể,
như Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị, Về một số
việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên;
Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương,
về Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ
Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương,... Thứ hai đại ,
hội đảng, chế độ bầu cử cấp ủy, ủy ban kiểm tra và chế độ
sinh hoạt đảng theo định kỳ là những cơ chế, chế độ tổ chức, hoạt động của
Đảng, đồng thời cũng là cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng. Mỗi kỳ đại
hội các tổ chức đảng và đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng là một lần sàng
lọc, đánh giá lại vai trò, trách nhiệm, tiêu chuẩn cán bộ tham gia cấp ủy. Điều
này có ý nghĩa như sự giám sát quyền lực của cấp ủy và các đảng viên tham
gia cấp ủy, bảo đảm những tiêu chuẩn, yêu cầu cần và đủ để tiếp tục chịu
trách nhiệm trước tổ chức đảng, gánh vác những nhiệm vụ công tác - thực thi
quyền lực chính trị được giao. Đặc biệt, trong những năm qua, các tiêu chuẩn,
quy định về bầu cử trong Đảng được bổ sung, hoàn thiện không ngừng theo
hướng ngày càng phát huy dân chủ, dựa vào nhân dân, mở rộng quyền lựa
chọn trực tiếp của đại hội và của tập thể các tổ chức đảng.
Thứ ba, công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy và ủy ban kiểm tra
đảng đối với đảng viên và các tổ chức đảng được thực hiện theo những quy
định, quy trình chặt chẽ trong Điều lệ Đảng, những quy định thống nhất của
các tổ chức đảng. Công việc này là yếu tố cơ bản bảo đảm tính kỷ luật chặt
chẽ, nghiêm minh trong Đảng, cũng là một cơ chế góp phần quan trọng trong 9
việc giám sát quyền lực, bảo đảm sự dân chủ, trong sạch, vững mạnh và năng
lực lãnh đạo trong nội bộ Đảng. Đặc biệt, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định
số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, Về việc kiểm soát quyền lực trong công
tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền, trong đó xác định yêu cầu: “Sử
dụng cơ chế, biện pháp nhằm thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác
cán bộ; phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm các quy
định của Đảng, Nhà nước, nhất là các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn,
lạm quyền, lộng quyền hoặc không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và những việc phải làm trên cương vị được giao trong công tác cán bộ”.
Thứ tư, tổ chức đảng và đảng viên của Đảng hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật, chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình
trước pháp luật như mọi công dân trong xã hội. Cùng với những quy định của
pháp luật, trong Đảng còn có những quy định chặt chẽ, nghiêm khắc hơn để
kiểm soát hành vi của đảng viên, bảo đảm sự trong sáng và uy tín của Đảng,
như Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 1-11-2011, của Ban Chấp hành Trung
ương, Về những điều đảng viên không được làm”. Thứ năm vai ,
trò của nhân dân với tính chất là lực lượng giám sát và
tham gia trực tiếp vào công tác xây dựng Đảng. Cương lĩnh năm 2011 (Bổ
sung, phát triển) khẳng định: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân”. Quan điểm ấy của Đảng được hiến
định trong Điều 4, Hiến pháp năm 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó
mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Sự giám sát
và tham gia của nhân dân góp phần xây dựng Đảng đó thể hiện tính chất của
Đảng là “đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của toàn dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành cho
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc”. Đồng 10
thời, đó cũng là cơ chế giám sát quyền lực thiết thực, cụ thể và có hiệu quả.
Cơ chế giám sát, phản biện của nhân dân đã được cụ thể hóa trong những quy
định của Đảng, như: Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội ban hành theo Quyết định
số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị.
Đối với Nhà nước Việt Nam, kiểm soát quyền lực chính trị được thực
hiện thông qua các cơ chế, thể chế sau đây:
Một là, sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được chế định trong Hiến pháp và hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật. Tại Điều 70, Hiến pháp năm 2013 quy
định, Quốc hội “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp,
luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan
khác do Quốc hội thành lập”. Hai là kiểm ,
soát quyền lực bằng các chế định về bầu cử, bổ nhiệm,
miễn nhiệm theo nhiệm kỳ hoặc không theo nhiệm kỳ theo quy định của pháp
luật. Bầu cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm vừa là phương thức tổ chức bộ máy nhà
nước, bảo đảm việc lựa chọn đúng người, đúng việc, vừa là uy tín của cán bộ,
tổ chức và ý chí, nguyện vọng của nhân dân và tập thể tổ chức. Đồng thời, đó
cũng là phương thức để kiểm soát quyền lực chính trị, bảo đảm quyền lực
được thực thi đúng đắn, hiệu quả, ngăn chặn, đề phòng sự lạm dụng quyền lực
vì mục đích cá nhân hoặc hạn chế hiệu quả sử dụng quyền lực vì hạn chế về năng lực. Ba là kiểm ,
soát quyền lực bằng Hiến pháp, hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật và chế độ tư pháp, bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân hoạt
động theo đúng các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Một khi các chế
định trong Hiến pháp, pháp luật và pháp chế nói chung đúng đắn, công bằng,
thì việc thực thi nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật và các chế độ tư pháp 11
cũng chính là điều kiện để bảo đảm quyền lực chính trị được sử dụng đúng
đắn, không bị lạm dụng hoặc sử dụng sai mục đích. Bốn là kiểm ,
soát quyền lực chính trị bằng việc thực hiện vai trò làm
chủ, sự giám sát, phản biện của nhân dân một cách trực tiếp hoặc thông qua
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Cũng như đối với tổ chức
đảng và đảng viên, các cơ quan, tổ chức nhà nước và các cá nhân nắm giữ các
trọng trách trong bộ máy nhà nước phải chịu sự giám sát, kiểm soát của nhân
dân. Theo các quy định của pháp luật, người dân có quyền kiểm soát, giám
sát, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của mình đối với các cơ quan, tổ chức và
các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong việc thi hành công vụ.
Quản lý nhà nước có được là do nhân dân ủy quyền cho Nhà nước, nên
nhân dân giám sát quyền lực đó là điều hiển nhiên. Và trong mối quan hệ này,
nhân dân là chủ thể, là người ủy quyền cho Nhà nước, như vậy, quản lý nhà
nước là quyền lực của nhân dân, là công cụ thực thi quyền lực của nhân dân.
Quản lý nhà nước chủ yếu sử dụng các chính sách, pháp luật để điều
chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân với nhau, giữa
các cơ quan nhà nước nhằm điều tiết về quyền, lợi ích, trật tự xã hội và mục
đích cuối cùng là bảo vệ các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng của
nhân dân. Nhân dân có quyền điều chỉnh quản lý nhà nước, từ bộ máy, nhân
sự cho đến những chính sách, pháp luật bằng sự phản biện, giám sát dưới
nhiều hình thức khác nhau như: bằng bầu cử người đại diện hay bãi nhiệm,
thay thế đại diện của mình; bằng sự kiến nghị, yêu cầu phản hồi; bằng chính
kiến qua trưng cầu dân ý; bằng các cơ quan ngôn luận hay các hình thức khác
để thể hiện quan điểm, suy nghĩ và thái độ của mình. Nói cách khác, nhân dân
có quyền giám sát trở lại chủ thể quản lý nhà nước bằng sức mạnh của các chế định pháp luật.
Như vậy, các cơ chế, thể chế kiểm soát quyền lực trong nội bộ Đảng,
Nhà nước hay trong toàn xã hội đều gắn liền, đan xen hoặc bao hàm trong các
nguyên tắc, chế độ tổ chức hoạt động của các thành tố tạo thành hệ thống 12
chính trị ở nước ta. Trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ, các cơ chế, thể chế kiểm soát quyền lực của mỗi thành tố
trong hệ thống chính trị của nước ta phần lớn đều liên quan hoặc đồng thời tác
động đến các thành tố khác. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước,
nhất là trong thời kỳ đổi mới, các cơ chế, thể chế về kiểm soát quyền lực
chính trị ở nước ta không ngừng được hoàn thiện, được chế định ngày càng
đầy đủ trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và có tác động tích
cực đến quá trình xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
2.2. Thực tiễn cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị ở Việt Nam
Trên cơ sở tiến bộ trong nhận thức lý luận và thể chế kiểm soát quyền
lực như trên, thực tiễn kiểm soát quyền lực trong bộ máy đảng, nhà nước cho
thấy một số điểm mới sau:
Thứ nhất, công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng thật sự
được đẩy mạnh từ trung ương tới địa phương, vừa khẩn trương, nghiêm túc,
công khai, toàn diện vừa có trọng tâm, trọng điểm. Ban Chấp hành Trung
ương khóa XII đã thành lập nhiều đoàn kiểm tra do các Ủy viên Bộ Chính trị,
Ủy viên Ban Bí thư dẫn đầu kiểm tra theo chuyên đề tại nhiều địa phương.
Các kết luận kỳ họp của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, của Ban Chỉ đạo
Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong những năm gần đây
được xã hội đón chờ và rất hoan nghênh vì không ít cá nhân kể cả ủy viên Bộ
Chính trị, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương vi phạm Điều lệ và các quy
định của Đảng, vi phạm pháp luật, mắc khuyết điểm trong thực hiện nhiệm vụ
và trong đạo đức, lối sống đã bị kiểm tra và chịu hình thức kỷ luật nghiêm
khắc của Đảng. Điều đó cũng có tác dụng cảnh báo, răn đe đối với các cấp ủy
đảng, cá nhân lãnh đạo cơ quan, cấp ủy ở các bộ, ngành, địa phương.
Thứ hai, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội các khóa XIII, XIV
đã tăng cường mạnh mẽ hơn các hoạt động giám sát tối cao. Nhiều chủ
trương, chiến lược, quy hoạch quốc gia.... do Chính phủ trình được Quốc hội 13
dành nhiều thời gian thảo luận trước khi thông qua. Việc tăng thẩm quyền cho
Thủ tướng khi cần thiết (thí dụ trong việc đối phó với đại dịch Covid -19)
được Quốc hội thảo luận và ban hành thành nghị quyết. Các phiên chất vấn tại
kỳ họp Quốc hội đối với Chính phủ, tại kỳ họp của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đối với các bộ, ngành về các chính sách và thực hiện chính sách, pháp luật
đã diễn ra thường xuyên hơn và sâu sát hơn. Các cuộc giám sát của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội tại địa phương, bộ ngành theo chuyên đề được thực hiện
nhiều hơn và kỹ càng, thực chất hơn. Hoạt động giám sát như vậy đã giúp
Chính phủ, Thủ tướng, các bộ trưởng và các cơ quan của Chính phủ thận
trọng hơn, thực hiện đúng thẩm quyền, nhiệm vụ của mình.
Thứ ba, từ sau Đại hội XI, XII của Đảng, phần lớn các tỉnh, thành phố
và quận, huyện đã thực hiện nhất thể chức danh Bí thư cấp ủy và Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, thực tiễn cho thấy hiệu quả tốt. Theo đó, trên cơ sở của Hiến
pháp, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Điều lệ Đảng, Bí thư đồng
thời là Chủ tịch Hội đồng nhân dân đã có nhiều thẩm quyền và hình thức để
kiểm soát quyền lực đối với người đứng đầu cơ quan hành chính, góp phần
ngăn chặn từ sớm những sai phạm có thể xảy ra từ phía cơ quan và người
đứng đầu cơ quan hành pháp ở địa phương.
Thứ tư, trong việc kiểm tra, thi hành kỷ luật cán bộ, đã có sự kết hợp
đồng bộ và kịp thời giữa trách nhiệm chính trị với trách nhiệm pháp lý, giữa
kỷ luật của Đảng và kỷ luật của Nhà nước. Nhiều cán bộ, công chức cấp cao,
kể cả đang hoặc nguyên là thứ trưởng, bộ trưởng, bí thư hoặc chủ tịch ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố, đang là hoặc nguyên là ủy viên Trung ương Đảng
sau khi bị kỷ luật về đảng, sẽ ngay lập tức chịu kỷ luật hành chính và nếu có
dấu hiệu vi phạm pháp luật thì có thể bị khởi tố, truy tố, xét xử và chịu hình
phạt tương xứng theo luật. Ngược lại, người nào vì khuyết điểm, sai phạm
phải chịu trách nhiệm hành chính hoặc hình sự thì ngay sau đó phải chịu một
hình thức kỷ luật tương xứng về Đảng. Sự đồng bộ, kịp thời đó thể hiện cụ 14
thể, rõ ràng nguyên tắc Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền và
phát huy dân chủ ở nước ta, được dư luận xã hội rất đồng tình, hoan nghênh.
Thực tiễn kiểm soát quyền lực từ phía xã hội cũng có điểm mới là từ
khi có Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoạt động giám sát và phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở cả trung ương
và địa phương đã ngày càng được thực hiện một cách nền nếp, bài bản hơn,
chất lượng và hiệu quả hơn, góp phần quan trọng vào phát huy dân chủ, kiểm
soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong phạm vi cả nước.
Báo chí, truyền thông tiếp tục thể hiện vai trò to lớn trong giám sát,
phản biện xã hội, là công cụ quan trọng của Đảng, Nhà nước, nhân dân để
kiểm soát quyền lực đối với mọi tổ chức, cá nhân. Ngược lại, báo chí, truyền
thông cũng được kiểm soát chặt hơn bằng Luật Báo chí (sửa đổi), Luật Xuất
bản, Luật Tiếp cận thông tin, Luật An ninh mạng, bằng Quy hoạch báo chí do
Chính phủ ban hành năm 2019. III.
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Những tiến bộ mới trong kiểm soát quyền lực ở Việt Nam thời gian qua
là rất đáng kể, song vẫn còn những hạn chế, bất cập. Đại hội XIII của Đảng
nhận định: “Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước vẫn chưa
đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao”. Cùng với đó, là hiện tượng gần
đây ở nhiều nơi, cán bộ, công chức có thẩm quyền không dám làm, không
dám quyết định, không dám chịu trách nhiệm, chẳng hạn trong việc chậm giải
ngân, đấu thầu, tiến độ thực hiện dự án, kế hoạch, chương trình phát triển
kinh tế - xã hội... đã ảnh hưởng tới việc hoàn thành nhiệm vụ của bộ, ngành,
địa phương. Nhiều ý kiến cho rằng, những quy định mới về kiểm soát quyền
lực cả về mặt đảng và nhà nước đã làm bó hẹp quyền lực của người có chức
vụ, khiến ngay cả người tích cực cũng lúng túng. Hơn nữa, thời gian qua, việc 15
kỷ luật nhiều cấp ủy và cá nhân vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong
lãnh đạo, quản lý đã khiến cho nhiều người co lại, giữ mình, “phòng thân”.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã nhận thấy tình tình này và
đưa ra chủ trương xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, bảo vệ cán bộ
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Chính phủ cũng chỉ đạo Bộ Nội
vụ cụ thể hóa chủ trương này trong đổi mới chính sách đối với công chức, viên chức.
Trong thực tế, việc kiểm soát quyền lực thời gian qua vẫn chưa chặt
chẽ, hiệu quả chưa cao, thậm chí có lúc, có nơi chưa được kiểm soát, dẫn đến
tha hóa quyền lực, nhất là tình trạng lộng quyền, lạm quyền, lợi dụng quyền
lực, quan liêu,... còn diễn ra ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất
là sự tha hóa quyền lực trong công tác cán bộ… Sự tha hóa quyền lực của cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhất là của cán bộ lãnh đạo, quản lý biểu
hiện rất tinh vi theo từng vụ, việc. Lợi dụng tính thiếu công khai, minh bạch,
thiếu cơ chế và chế tài kiểm soát quyền lực, một bộ phận cán bộ, đảng viên,
công chức thường lợi dụng kẽ hở trong các quy định của Đảng và Nhà nước
để trục lợi. Vì vậy, cần phải tăng cường kiểm soát chặt chẽ quyền lực của cán
bộ, đảng viên, nhất là của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn
vị; tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước để đẩy mạnh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trong đó tập trung vào một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cần nhận diện rõ các biểu hiện tha hóa quyền lực đối với
từng lĩnh vực, từng vị trí công tác, trước hết là của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chế tài kiểm soát quyền lực theo
nguyên tắc quyền hạn đi đôi với trách nhiệm, mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ.
Thứ ba, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,
nhất là cấp chiến lược và đội ngũ người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và
uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. 16
Thứ tư, các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra tăng cường lãnh đạo,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát để nâng cao hiệu lực,
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đối với kiểm soát quyền lực.
Thứ năm, tập trung thực hiện có chất lượng, hiệu quả Quy định số 114-
QĐ/TW, ngày 11/7/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực và phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.
Thứ sáu, kiên quyết xử lý công minh, chính xác, kịp thời các hành vi
tha hóa quyền lực, tham nhũng, “lợi ích nhóm”.
Thứ bảy, tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về phương thức
cầm quyền và việc kiểm soát quyền lực với các đảng cầm quyền ở một số
quốc gia trên thế giới.
Hầu hết, đảng cầm quyền ở các nước trên thế giới có bộ máy rất tinh
gọn, không bao biện, làm thay chính quyền và luôn đề cao dân chủ. Đảng
phải luôn quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, lấy tư tưởng
dân chủ chỉ đạo toàn bộ quá trình hoạt động của Đảng, bảo đảm hoạt động
cầm quyền và hiệu quả cầm quyền của Đảng phản ánh lợi ích căn bản của
đông đảo quần chúng nhân dân. Tuần tự thúc đẩy dân chủ trong các khâu bầu
cử, ra quyết sách, quản lý và giám sát. Lấy phát triển dân chủ trong Đảng để
dẫn dắt dân chủ trong chính quyền và xã hội. Đảng lãnh đạo và ủng hộ nhân
dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của người dân,
thực hiện toàn diện dân chủ nhân dân, quản lý đất nước và xã hội trên cơ sở
nghiêm túc tuân theo chế độ và trình tự dân chủ.
Không có sự dân chủ trong cầm quyền, sự cầm quyền của Đảng sẽ
không có cơ sở vững chắc, Đảng cũng không thể giành được sự ủng hộ lâu
dài của nhân dân. Mặt khác, hầu hết đảng cầm quyền ở các nước đều “nhất
thể hóa” chức danh đảng với chính quyền và trong quá trình lãnh đạo đều tôn
trọng và tuân theo quy luật khách quan; tuân thủ việc cầm quyền theo pháp
luật để qua đó ngăn chặn, đẩy lùi sự tha hóa quyền lực. Tuy nhiên, mỗi nước 17
có thể chế chính trị và điều kiện khác nhau, song trong bối cảnh toàn cầu hóa
và tích cực hội nhập quốc tế, chúng ta có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc
những nội dung tinh hoa về kinh nghiệm kiểm soát quyền lực của đảng cầm
quyền ở các nước trên thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng
phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cần thiết.
Thực trạng trên cho thấy mối quan hệ quyền lực giữa Đảng và chính
quyền, giữa Đảng và xã hội, giữa tập thể và cá nhân, nhất là với người đứng
đầu cấp ủy, chính quyền vẫn là những quan hệ đòi hỏi phải được thể chế hóa
một cách rõ ràng, cụ thể, đồng thời được nhận thức và thực hiện nghiêm túc,
linh hoạt. Suy cho cùng, đó cũng là những biểu hiện của mối quan hệ phổ
biến giữa thể chế và con người, pháp lý và đạo lý mà mọi nền chính trị đều
gặp phải và cần được giải quyết một cách phù hợp với văn hóa chính trị và thực tiễn đất nước.
Vì vậy, để giải quyết một cách nhuần nhuyễn, hài hòa mối quan hệ này
sao cho vừa phát huy được vai trò của tập thể, phát huy dân chủ, vừa phát huy
vai trò của cá nhân người lãnh đạo, quản lý, không có cách nào khác, một mặt
cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực cả từ bên trong và từ bên
ngoài Đảng, từ bên trong và bên ngoài Nhà nước và hệ thống chính trị nói
chung. Mặt khác, tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả
về trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, nhất là với
người đứng đầu cấp ủy. 18 KẾT LUẬN
Kiểm soát quyền lực chính trị là một yêu cầu cần thiết và không thể
tránh khỏi trong mọi hình thức tổ chức chính trị - xã hội có tính dân chủ.
Trong lĩnh vực chính trị, quyền lực chính trị thường có xu hướng mở rộng và
tăng cường vai trò của các chủ thể, điều này đặt ra yêu cầu kiểm soát quyền
lực để ngăn chặn sự lạc quyền lực. Đây là một trong những phương tiện chính
để bảo vệ giá trị dân chủ của tổ chức, đồng thời đảm bảo quyền lực chính trị
thuộc về nhân dân. Trong bối cảnh thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, nơi một đảng duy nhất kiểm soát lãnh đạo Nhà nước và hệ thống chính
trị, việc kiểm soát quyền lực chính trị không chỉ là điều kiện quan trọng mà
còn là yêu cầu tiên quyết để thực hiện các mục tiêu quốc gia tại từng giai
đoạn, đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Hiện tại, ở Việt Nam, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước đã được
xây dựng và hệ thống hóa, tuy nhiên, hiệu quả thực tế vẫn còn hạn chế, dẫn
đến những vấn đề như sự lạc quyền lực, tham nhũng, v.v. Điều này làm nổi
lên sự cần thiết của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước. Các giải pháp cấp thiết cần tập trung vào việc xây dựng
và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà
nước, xác định rõ hơn phạm vi quyền lãnh đạo của Đảng, mở rộng quyền lựa
chọn của người dân trong các cuộc bầu cử, tạo điều kiện thuận lợi để báo chí
tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước, và tiếp tục huy động sự tham gia của
Mặt trận Tổ quốc vào quá trình giám sát quyền lực nhà nước. 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình chính trị học đại cương
2. C.T. Ngọc / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 26 (2010)
https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/11126/865/1/B%C3%A0i
%206.%20Chu%20Thi%20Ngoc-OK.pdf
3. GS.TS Tô Lâm, “Một số vấn đề về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, ngày 30/11/2021.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-
story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/mot-so-van-de-ve-xay-
dung-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam
4. PGS, TS. Lưu Văn Quảng, “Bàn về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay”
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/817167/ban-
ve-co-che-kiem-soat-quyen-luc-nha-nuoc-o-viet-nam-hien-nay.aspx# 20