lOMoARcPSD| 61601492
Câu 1a: phân tích luận điểm của hcm : bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Leenin
1. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều”:
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác: HCM nghiên cứu những chủ nghĩa
- Xuất phát từ con đường phong Kiến: hệ tư tưởng Cần Vương “đưa vua quay lại ngai ng,
khôi phục lại chế độ phong kiến độc lập”
+ Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1887-1913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo là một cuộc đấu
tranh tự phát của nông dân với tất cả những đặc điểm vốn gắn liền với bất cứ một
phong trào nông dân nào khi chưa bắt gặp sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến Hồ Chí Minh
nhận xét: “còn mang nặng cốt cách phong kiến”
- Xuất phát từ con đường dân chủ tư sản, đưa Việt Nam theo chủ nghĩa tư bản:
+ Phan Châu Trinh thực hiện Phong trào Duy Tân với chủ trương cải cách đất nước, khẩu
hiệu “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Để thực hiện chủ trương ấy, Phan Châu Trinh
đã đề nghị nhà nước “bảo hộ” Pháp tiến hành cải cách. Hồ Chí Minh nhận xét “đến xin giặc
rủ lòng thương”
2. “Chủ nghĩa Lê-nin chủ nghĩa chân chính: - Xuất phát từ quan niệm của CN Mac Lêninvề
chế, động lực tồn tại phát triển của hội bản bóc lột giá trị thặng dư: Mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng hội hóa cao với chế độ chiếm hữu nhân
bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuấtGiải phóng giai cấp tiền đề giải phóng dân tộc
HCM khẳng định giai cấp và dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ, nhưng tùy từng thời kỳ để
giải quyết đúng đắn mối quan hệ này “Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.”
2. “Chủ nghĩa Lê-nin chủ nghĩa chắc chắn”: - Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Xuất phát từ
thế giới quan duy vật phương pháp luận biện chứng đã giải thích hội tự nhiên
duy trên cơ sở khoa học Giúp nhận thức đúng đắn về sự vật hiện tượng
Hồ Chí Minh khẳng định “Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng”
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Xuất phát từ giải sự tiến hóa của hội loài người bằng sự
phát triển của trình độ sản xuất. Trình độ sản xuất thay đổi khiến quan hệ sản xuất cũng thay
đổi dẫn đến những mối quan hệ hội thích ứng với những quan hsản xuất đó cùng với
những ởng nảy sinh ra từ những quan hệ hội đó cũng thay đổi kéo theo sự thay đổi
hệ thống pháp lý và chính trị.
Giải thích quy luật vận động và sự phát triển của xã hội với tư cách một chỉnh thể.
3. “Chủ nghĩa Lê-nin là chủ nghĩa cách mạng” - Xuất phát từ học thuyết về hình thái kinh tế
hội về sự chuyển biến từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác: Giải
quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng => Một hình thái kinh tế - hội mới ra đời Chủ nghĩa bản diệt vong
chủ nghĩa xã hội ra đời là một tất yếu - Lênin là người đưa chủ nghĩa xã hội từ lí luận thành
thực tiễn thông qua sự thành công của Cách mạng tháng Mười Nga. - HCM đã lựa chọn con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì Độc lập dân tộc là
lOMoARcPSD| 61601492
điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội chnghĩa hội sở bảo đảm vững
chắc cho độc lập dân tộc
Phù hợp với xu thế thời đại: Cách mạng hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành
công => Mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội trên
phạm vi toàn thế giới Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ
nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.”
5. Tính đúng đắn Về mặt lí luận: - Hiện nay, Đảng nhà nước ta vẫn lựa chọn con đường độc
lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân
toàn quân ta là kiên định vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa hội…” (Đại hội XIII) Tuy nhiên
đứng trước sự sụp đổ của Liên Xô Đông Âu cùng với sự biến động của thế giới về toàn cầu
hóa: Chúng ta phải vận dụng, bổ sung g, phát triển sáng tạo chủ nghĩa MacLeenin o điều
kiện thực tiễn Việt Nam “Chúng ta không hề coi luận của Mác như một cái đã xong
xuôi hẳn bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng luận đó chỉ đặt nền móng cho
môn khoa học những người hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt,
nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”
- Phân tích chính sách về xây dựng chủ nghĩa hội tại Việt Nam: + Đảng Cộng sản Việt
Nam coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như công cụ, phương tiện y dựng
chủ nghĩa hội, hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội
Việt Nam. + Trong nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa Việt Nam nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tư nhân một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong
huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển; là động lực chủ yếu giải phóng sức sản xuất.
Trải qua 36 năm đổi mới, hình kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa Việt
Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc của Đảng Cộng sản
Việt Nam. + Tuy vậy, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể là: Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về
kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa diễn ra chậm. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế
còn chậm, chưa bền vững. Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải,
lãng phí, chưa công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao. + Để hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể
chế phát triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, cần tập trung vào những
nội dung sau: Thứ nhất, thống nhất nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường
định hướng hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa
hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá đlên chủ nghĩa hội” Thứ hai,
tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung
tháo gỡ các điểm nghẽn.
Câu 1b: giá trị của luận điểm trên với việc kiên định vận dụng sáng tạo chủ nghĩa mác nin vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
lOMoARcPSD| 61601492
Giá trị luận điểm của Hồ Chí Minh vchủ nga Lênin đối với sự kiên định vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin trong xây dựng, bảo vệ Tquốc Việt Nam
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh đã khẳng định mt
luận điểm nổi ếng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Luận điểm này ra đời trong bối cảnh Người m được con
đường cứu nước sau khi nghiên cứu Luận cương của V.I. Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Nó thể hin
niềm n mãnh liệt của Hồ Chí Minh rằng chnghĩa Mác-Lênin chính là ngọn cờ tư tưởng đúng đắn và cách
mạng nhất để soi đường cho cách mạng Việt Nam. Gần một thế kỷ đã trôi qua, giá trị của luận điểm y vn
vẹn nguyên nh thời sự, đặc biệt đối với yêu cầu kiên định vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
trong sự nghiệp y dựng và bảo vệ Tquốc Việt Nam hiện nay.
Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của chủ nghĩa Lênin đối với cách mạng Việt Nam
Luận điểm trên được Hồ Chí Minh đúc kết từ trải nghiệm lịch sử nghiên cứu luận sâu sắc. Trước khi
đến với chủ nghĩa Lênin, Người đã khảo nghiệm nhiều trào lưu cứu nước đương thời (duy tân, cải lương,
dân chủ sản, phong kiến...) nhưng tất cả đều thất bại hoặc bộc lộ hạn chế. Chỉ đến khi đọc “Sơ thảo
Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin (7/1920), Nguyễn Ái Quốc mới m ra chân lý: con
đường giải phóng dân tộc muốn triệt để phải gắn liền với cách mạng sản. Người đã cảm động, phấn
khởi, sáng tỏ, n tưởng biết bao” và xúc động thốt lên: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần
thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Tnhận thức bước ngoặt đó, Người khẳng định
chắc chắn rằng giữa muôn vàn học thuyết, chủ nghĩa Lênin chính là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất, là con đường đúng đắn cho dân tộc thuộc địa như Việt Nam đi tới độc lập, tự do.
Khẳng định của Hồ Chí Minh không hề cảm nh chủ quan mà xuất phát từ thực ễn cách mạng. Chủ nga
Mác-Lênin với nh chất khoa học và cách mạng khi truyền bá vào Việt Nam đã chấm dứt khủng hoảng về
đường lối cứu nước, mở ra con đường mới cho cách mạng Việt Nam. Nhờ ánh sáng của chủ nghĩa Lênin,
cách mạng Việt Nam m được phương hướng chiến lược rõ ràng, đoàn kết được lực lượng dưới cờ Đảng
Cộng sản, vượt qua mọi khuynh ớng sai lầm trước đó. Hồ Chí Minh chủ nghĩa Lênin như “cẩm nang
thần kỳ, “kim chỉ nam”, và “mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Rõ ràng, với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Lênin là nền tảng tư tưởng vững
chắc nhất để đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng.
Kiên định nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin – điều kiện ên quyết để thành công
Trước hết, giá trị nổi bật của luận điểm Hồ Chí Minh là nhấn mạnh sự cần thiết phải kiên định chủ nghĩa
Mác-Lênin như một nền tảng tư tưởng không thể lay chuyển. Ngay trong “Đường Kách mệnh”, Người đã
chrõ: “Đảng muốn vững thì phải chủ nghĩa làm cốt... Đảng không chủ nghĩa ng như người
không trí khôn, tàu không bàn ch nam”. Chủ nghĩa Hồ Chí Minh đề cập chính chủ nghĩa
MácLênin bộ óc, linh hồn của Đảng. Việc kiên định chnghĩa Mác-Lênin giúp Đảng giữ vững phương
ớng cách mạng, như con tàu la bàn chđường giữa biển khơi. Đây điều kiện ên quyết để cách
mạng thành công, bởi nhờ đó toàn Đảng, toàn dân thống nhất ý chí và hành động trên một nền tảng
tư tưởng chung.
Lịch sử đã chứng minh giá trị của sự kiên định ấy. Dưới ngọn cờ Mác-Lênin, nhân dân ta đã làm nên Cách
mạng Tháng Tám 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng như giành thắng lợi
lOMoARcPSD| 61601492
trong các cuộc kháng chiến bảo vệ Tquốc về sau. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh Đảng ta phải xem
chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho mọi hành động. Trong mọi giai đoạn, Người
“luôn kiên định, vững vàng với chủ nghĩa Mác-Lênin”, coi đó là yếu tố sống còn quyết định sự tồn vong của
Đảng chế độ. Ngày nay, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin còn đồng nghĩa với việc kiên định con đường độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Sự nhất quán tư tưởng này
tạo nên sức mạnh đoàn kết dân tộc, niềm n vững chắc của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, là cơ sở
để ợt qua mọi khó khăn, thách thức trong công cuộc đổi mới đất nước.
Hơn nữa, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin còn khí tưởng để chúng ta đấu tranh chống lại những
quan điểm sai trái, thù địch. Hồ Chí Minh nêu gương về nh thần kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng ấy:
suốt cuộc đời, Người “kiên quyết đấu tranh với những ởng phi mác-xít để bảo vệ chnghĩa MácLênin”.
Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch luôn m cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hòng
làm suy yếu niềm n vào con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, bài học kiên định mà luận điểm của Bác nêu
ra vẫn giữ nguyên giá trị, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên và người dân phải vững vàng lập trưng, tuyệt
đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ như vậy mới to sức đề kháng
trước mọi luận điệu xuyên tạc, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng và con đường phát triển đã
chn.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực ễn Việt Nam
Bên cạnh sự kiên định, Hồ Chí Minh đồng thời nhấn mạnh phải vận dụng chnghĩa Mác-Lênin một cách
sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Giá trị của luận điểm chủ nghĩa chân chính nhất... là
chnghĩa Lênin” không phải chrập khuôn giáo điều, chxem chủ nghĩa Lênin như kim chỉ nam
linh hoạt để hành động. Chính Người từng phê phán mạnh mẽ hai khuynh hướng sai lầm: chủ nghĩa giáo
điu” (máy móc rập khuôn kinh nghiệm nước khác) và chủ nghĩa xét li” (phủ nhận những nguyên lý
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin). Hồ Chí Minh quán triệt lời dạy của Ph. Ăng-ghen rằng “học thuyết của Mác
là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều”, do đó phải không ngừng phát triển hơn nữa
về mọi mặt nếu không muốn lạc hậu. Người yêu cầu học tập kinh nghiệm quốc tế nhưng “không thể áp
dụng một cách máy móc”, phải “áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo” cho phù hợp thực ễn
Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã thực hành nhuần nhuyễn tư duy sáng tạo đó. Người
vận dụng lý luận Mác-Lênin về cách mạng vô sản để đề ra đường lối cách mạng giải phóng dân tộc thuc
địa một cách độc đáo. Chẳng hạn, kế thừa quan điểm của Lênin về khnăng các nước thuộc địa ến thẳng
lên chủ nghĩa hội, Hồ Chí Minh phát triển thành tưởng “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội” mục êu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Ngay từ năm 1927, Người đã dự báo cách mạng
thuộc địa có thnổ ra thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, thắng lợi của cách mạng thuộc
địa sẽ góp phần thúc đẩy cách mạng thế gii. Đây một sáng tạo luận quan trọng, phù hợp với hoàn
cảnh Việt Nam và đã được thực ễn kiểm chứng bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Sau khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh ếp tục vận dụng linh hoạt chnghĩa Mác-Lênin trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Người chủ trương bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩaViệt Nam, đi lên chủ nghĩa xã
hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bằng cách phát huy nội lực dân tộc và sự giúp đỡ của quốc tế. Đồng
thời, Người luôn căn dặn phải tổng kết kinh nghiệm của Đảng, phân ch đúng đặc điểm của nước ta để
phát triển luận, tránh sao chép hình một cách máy móc. Chính nhờ phương pháp duy độc lập,
lOMoARcPSD| 61601492
sáng tạo ấy Đảng ta đã có những chủ trương đúng đắn qua các giai đoạn, từ cải cách ruộng đất, hợp
tác hóa đến Đổi mới 1986 định hướng kinh tế thtrường hội chủ nghĩa sau này. Tất cả đều thể
hiện nh thần vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin: giữ vững mục êu lâu dài nhưng linh hoạt trong
ớc đi, giải pháp cụ thtrước biến chuyển của hoàn cảnh. Như vậy, giá trị cốt lõi của luận điểm Hồ Chí
Minh nằm chỗ: khẳng định chnghĩa Lênin kim chỉ nam đúng đắn, đồng thời gợi mở rằng chúng ta
phải không ngừng sáng tạo, phát triển lý luận đó trong thực ễn để đạt hiệu quả cao nhất.
Xây dựng và bảo vệ Tquc trên nền tảng kiên định, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
Luận điểm của Hồ Chí Minh ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tquốc Việt Nam cả
trong lịch sử lẫn hiện tại. Nhkiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng sáng tạo tư tưởng đó, cách mạng
Việt Nam đã giành được những thắng lợi đại: giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước từng bước
y dựng chủ nghĩa xã hội. Đến hôm nay, trong công cuộc đổi mới hội nhập quốc tế, Đảng ta ếp tục
khẳng định phải kiên định, vận dụng phát triển sáng tạo chnghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong bối cảnh mới. Đó chính là cơ sở để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn
diện, đồng bộ, đưa đất nước phát triển vững vàng và bảo vệ vững chắc Tquốc trước mọi thách thức.
Vmặt xây dựng đất nước, kiên định nền tảng Mác-Lênin giúp chúng ta giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong phát triển kinh tế hội. Mọi đường lối, chính sách từ phát triển kinh tế thtrường, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa cho đến y dựng văn hóa, con người đều được soi đường bởi mục êu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhờ kiên định mục êu và
ởng đó, đất nước ta tránh được những sai lầm chệch hướng, đồng thời tạo đồng thuận xã hội cao trong
quá trình đổi mới. Mặt khác, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin đòi hỏi chúng ta không ngừng bổ
sung, phát triển các chủ trương, giải pháp mới phù hợp với thực ễn Việt Nam. Thực tế công cuộc đổi mới
hơn 35 năm qua cho thấy Đảng ta đã dám đổi mới duy, điều chỉnh đường lối một cách sáng tạo (như
chấp nhận kinh tế nhiều thành phần, hội nhập kinh tế thế giới nhưng giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước...). Những sáng tạo đó dựa trên nền tảng lý luận Mác-Lênin về vai trò quần chúng nhân dân, về
phát triển lực lượng sản xuất phù hợp quan hệ sản xuất, v.v., qua đó tạo ra động lực mạnh mẽ cho phát
triển đất nước.
Về mặt bảo vệ Tquốc, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin là chỗ dựa nh thần vững chắc để toàn dân
tộc đoàn kết trước mọi kẻ t. Tư tưởng cách mạng, độc lập tự do của chủ nghĩa Mác-Lênin đã hun
đúc ý chí kiên cường của nhân dân ta trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Ngày nay, trong
bối cảnh nh hình quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch ếp tục chống phá
bằng chiến lược diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự chuyển hóa” nội bộ, thì việc giữ vững trận địa
tưởng Mác-Lênin càng trở nên htrọng. Luận điểm của Hồ Chí Minh nhắc nhở chúng ta vừa phi
kiên định lập trường, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, vừa phi
không ngừng nâng cao trí tuệ, sáng tạo trong phương pháp đấu tranh. Bảo vệ Tquốc ngày nay
không chỉ là bảo vệ lãnh thổ còn là bảo vệ nền tảng tư ởng của Đảng, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần giá trị lun
điểm của Bác: tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin vận dụng sáng tạo vào công việc
của mình. Đó chính chìa khóa để givững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng an ninh
nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong nh hình mới.
lOMoARcPSD| 61601492
Câu 2a: Phân tích tính sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất nhà nước
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất nhà nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước được hình thành từ:
Chủ nghĩa Mác – Lênin (về nguồn gốc, bản chất, chức năng và vai trò của nhà nước vô sản).
Giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam, đặc biệttưởng “dân gốc”, tinh thần yêu nước, nhân
nghĩa và trọng dân.
Tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là tưởng dân chủ, pháp quyền phương Tây sự tham khảo
kinh nghiệm các mô hình nhà nước trên thế giới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam và kinh nghiệm thực tiễn Hồ CMinh tích lũy được trong quá
trình hoạt động cách mạng.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất nhà nước
Hồ Chí Minh kế thừa lý luận nhà nước vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin nhưng phát triển theo hướng sáng
tạo, phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Tính sáng tạo thể hiện ở các nội dung sau:
2.1. Nhà nước là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”.
Nhà nước không phải một công cụ thống trị thuần túy như trong hình chuyên chính sản
cứng nhắc, mà là một “nhà nước của dân, do dân và vì dân”cách diễn đạt sáng tạo, dễ hiểu và
mang tính khai sáng.
Đây điểm đổi mới so với duy “chuyên chính sản” đơn thuần chuyển trọng tâm từ nhà nước
của giai cấp sang nhà nước phục vụ toàn dân.
2.2. Nhà nước của dân – do dân – vì dân
Hồ Chí Minh cụ thể hóa bản chất nhà nước qua ba phương diện:
Của dân: Mọi quyền lực trong nhà nước và xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao.
Do dân: Dân bầu ra, dân tổ chức nên, nhà nước không thể đứng ngoài hoặc đứng trên nhân dân.
Vì dân: Nhà nước hoạt động vì lợi ích nhân dân, không vì bất kỳ nhóm lợi ích nào khác.
→ Đây là tư tưởng giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện bản chất dân chủ và nhân văn sâu sắc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.3. Nhà nước pháp quyền, đạo đức và văn minh
Hồ Chí Minh sớm đề cao vai trò của pháp luậtkỷ cương nhà nước: “Quốc có quốc pháp, gia có
gia quy”.
lOMoARcPSD| 61601492
Bên cạnh đó, Người cũng khẳng định: nhà nước phải một nnước đạo đức, cán bộ phải “công
bộc” chứ không phải “quan cách mạng”.
Như vậy, Người tích hợp các yếu tố pháp quyền hiện đại với tưởng đạo đức truyền thống
phương Đông để xây dựng mô hình nhà nước mới – đây là điểm sáng tạo đặc sắc.
2.4. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa lãnh đạo của Đảng – quản của Nhà nước – làm chủ của
nhân dân
Hồ Chí Minh xác định Đảng là người lãnh đạo, Nhà nước là người quản , còn Nhân dân là người
làm chủ.
Sự phân công vai trò rõ ràng này là sự kế thừa và phát triển sáng tạo so với lý luận Mác – Lênin về
chuyên chính vô sản.
3. Đánh giá về tính sáng tạo
Phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam: Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, Hồ Chí Minh đề
xuất mô hình nhà nước dân chủ nhân dân, gần gũi, dễ hiểu, dễ thực hiện.
Kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng phương Đông – phương Tây.
Tạo cơ sở tư tưởng cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
4. Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất nhà nước thể hiện sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
Lênin, giàu tính thực tiễn nhân văn. hình “nhà nước của dân, do dân, dân” không chỉ đóng
góp cho lý luận nhà nước kiểu mới, mà còn là kim chỉ nam trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam hiện nay.
Câu 6: Tại sao Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng sản"? Thực tiễn cách mạng Việt Nam thế
giới hiện nay đã chứng minh luận điểm này như thế nào?ý nghĩa cảu luận điểm đó
*) Quan điểm của Hồ Chí Minh "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản 1. hồ Chí Minh nghiên cứu phong trào yêu nước Việt
Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Phong trào Cần Vương (1885 - 1896) do Hàm Nghi Tôn Thất Thuyết phát động, mđầu
bằng cuộc tiến công trại lính Pháp cạnh kinh thành Huế (năm 1885). Việc không thành,
Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương.
Mặc sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất
lOMoARcPSD| 61601492
Bắc Kỳ Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành
Đinh ng Tráng (1886 - 1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883 - 1892) Hương
Khê của Phan Đình Phùng (1885 - 1896). Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa
nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913. Thất bại của
phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ ởng phong kiến và khuynh hướng
thiết lập nhà nước phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch
sử đặt ra. Phong trào Cần Vương tan rã, các sĩ phu, các nhà yêu nước lúc bấy giờ đều tập
trung suy nghĩ về nguyên nhân mất nước, con đường cứu nước để giải phóng dân tộc.
* Đầu thế kỷ XX, mặc dù giai cấp tư sản Việt Nam chưa ra đời nhưng hệ tư tưởng tư sản đã
ảnh hưởng đến Việt Nam. Các trí thức phong kiến tiếp thu hệ tưởng này làm khí
chống Pháp, dấy lên phong trào yêu nước sôi nổi với hai xu hướng bạo động và cải cách.
+ Đại diện tiêu biểu cho xu hướng bạo động Phan Bội Châu. Với lòng yêu nước
sâu sắc, Phan Bội Châu chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp thành lập một chính phủ
quân chủ lập hiến. Ông chủ trương dùng phương pháp bạo động đánh đuổi thực dân Pháp
để khôi phục độc lập dân tộc dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp. Năm 1908, trước yêu
cầu của thực dân Pháp, Chính phủ Nhật đã trục xuất những người Việt Nam yêu nước ra
khỏi Nhật Bản. Phong trào Đông Du tan rã. Năm 1911, cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc
thành công, lật đổ nền quân chủ Mãn Thanh lập ra Nhà ớc Trung Hoa Dân quốc, Phan
Bội Châu đã chuyển lập trường từ chủ nghĩa quân chủ sang chủ nghĩa dân chủ. Ông tuyên
bố giải tán Duy Tân hội và thành lập Việt Nam Quang Phục hội, nhằm mục đích đánh đuổi
giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân quốc Việt Nam. Để
đạt được những mục tiêu trên, Phan Bội Châu đã chủ trương đấu tranh bằng phương pháp
bạo động trang giành chính quyền. Chủ trương trên của Phan Bội Châu bước đầu đạt
được một số kết quả như: cuộc bạo động của đội Quyến, đội Phấn, ấm Võ vùng Nghệ -
Tĩnh, ném bom vào khách sạn của Pháp ở Hà Nội, ám sát Tuần phủ Thái Bình, cuộc khởi
nghĩa Thái Nguyên... Tuy nhiên, chủ trương bạo động giành chính quyền của Phan Bội
Châu không diễn ra theo ý muốn, cuối ng dẫn đến kết cục thất bại trước sự đàn áp của
thực dân Pháp. Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh viết: “Ám sát là làm liều,
và kết quả ít, vì giết thằng này còn thằng khác, giết sao cho hết? ch mênh thì phải đoàn
kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ 5,
7 người giết 2, 3 anh vua, 9, 10 anh quan mà được”.
+ Đại diện cho xu hướng cải lương, cải cách là Phan Châu Trinh. Phan Châu Trinh
đã phê phán gay gắt sự lạc hậu, tính trì trê, yếu hèn của Nhà nước quân chủ phong kiến
Viêt Nam. Ông cho rằng trình độ của Nhân dân Viêt Nam lúc đó còn rất thấp nên muốn
làm cách mạng thì trước hết phải khai dân trí (khai trí cho dân) nâng cao quyền tự do
dân chủ. Nhưng quyền hành lại nằm trong tay các vua quan, vì vậy phải đánh đổ vua quan
thì mới khai được dân trí. Do đó, phải tiến nh đấu tranh bằng con đường cải lương, đòi
quyền tự do dân sinh, dân chủ, tạm thời dựa vào Pháp để đánh đổ giai cấp địa chủ phong
kiến. Đây một cách nhận thức không đúng cả về phương hướng phương pháp đấu
tranh, vì đặc trưng cơ bản của xã hội Việt Nam lúc này là xã hội thuộc địa. Thực dân Pháp
một bphận địa chủ, phong kiến tay sai câu kết với nhau để bóc lột nhân dân. Sự ngộ
lOMoARcPSD| 61601492
nhận về bản chất kẻ thù nguyên nhân trực tiếp dẫn đến phương pháp đấu tranh không
đúng của ông. Đau xót trước cảnh dân tộc mất độc lập, nhân dân lệ, nhiệt thành với công
cuộc chấn hưng dân tộc, nhưng Phan Châu Trinh không thấy được nguồn gốc của việc mất
nước, của sự lạc hậu là do chủ nghĩa thực dân Pháp gây ra.
+ Trong những năm 20 của thế kỷ XX, một số nhân trí thức yêu ớc đã những
hoạt động công cuộc giải phóng dân tộc, trong đó đáng chú ý những hoạt động của
Huỳnh Thúc Kháng. Đặc điểm nổi bật trong những hoạt động của Huỳnh Thúc Kháng
vận động công khai nhằm chấn hưng dân tộc. Ông cho rằng con đường cách mạng công
khai, hợp pháp là con đường có nhiều khả năng dẫn đến thành công. Tuy nhiên, sau đó ông
đã nhận ra rằng nghị trường sản con đường cách mạng hợp pháp công khai ông
theo đuổi chỉ là ảo tưởng.
-> Như vậy, con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản cũng
bị thất bại và không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra lúc bấy giờ.
Nguyên nhân thất bại của phong trào yêu nước Việt Nam giữa thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
đã thể hiện sự khủng hoảng về đường lối cách mạng, về lực lượng lãnh đạo có đủ khả năng
đáp ứng yêu cầu của lịch sử, đặc biệt trong đó phải nói đến sự bế tắc về phương pháp đấu
tranh của các sĩ phu, văn thân yêu nước đương thời.
Từ những bài học thực tiễn của các phong trào yêu nước Việt Nam sở quan
trọng để hình thành một duy cách mạng mới Hồ Chí Minh. Đó phải m một con
đường cứu nước mới khác với con đường cứu nước của các vị cách mạng tiền bối. Chính
vậy, Người đã quyết định đi ra nước ngoài để tìm con đường cứu nước, giành độc lập
cho dân tộc, mang lại hạnh phúc, ấm no cho Nhân dân.
2. Hồ Chí Minh nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới
* Nghiên cứu cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Mỹ, Hồ Chí Minh đối chiếu thể chế chính
trị của nước Mỹ với cuộc sống của các giai cấp, dân tộc thuộc nhiều màu da khác nhau,
Người đi đến kết luận: “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng
ng nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ
là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi”. Nghiên cứu
cuộc cách mạng Pháp năm 1789, Hồ Chí Minh đã học được nhiều kinh nghiệm quý, nâng
cao tầm hiểu biết về vai trò của các giai cấp trong cách mạng tư sản, về tổ chức, tinh thần,
ý chí cách mạng của quần chúng. Nhưng Người thấy rằng, “Cách mệnh Pháp cũng như
cách mệnh Mỹ, nghĩa cách mệnh bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng cộng hòa
và dân chủ, kỳ thực trong thì tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách
mệnh đã 4 lần rồi, nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới
hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”.
* Nghiên cứu cách mạng Nga, đặc biệt Cách mạng Tháng Mười (năm 1917), Hồ C
Minh nhận thấy đó là một cuộc cách mạng giai cấp, đồng thời là một cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, nằm trong dòng chảy liên tục của quá trình giải phóng con người. Nó làm
lOMoARcPSD| 61601492
cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào
giải phóng dân tộc các nước thuộc địa phương Đông có quan hệ mật thiết với nhau trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Người viết: “Cách mạng Tháng
Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay. Cách
mạng Tháng Mười đã mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc”. Xét về bản chất Cách mạng Tháng Mười như một sự nổi trội, vượt xa
và khác hẳn các cuộc cách mạng xã hội từng diễn ra trong lịch sử trước đó, vì: “Trong thế
giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân
chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do bình đẳng giả
dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được
vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa
làm cách mệnh để đập đổ9 tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”.
3. Hồ Chí Minh nghiên cứu lý luận và lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
* Sau khi đọc được Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của V.I. Lênin đăng trên báo Nhân đạo (L’Humanité) trong hai số" ngày 16 17/7/1920, một
tờ báo của cánh tả Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không con đường nào khác con đường cách mạng sản’&. Người kể lại rằng bản
Luận ơng những chữ khó hiểu, nhưng “tôi đọc đi đọc lại dần dần tôi hiểu ý nghĩa của
nó một cách sâu sắc. Bản Luận cương làm cho tôi cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng”
Người nhận thấy “đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Từ
đó, Người đã một sự lựa chọn: “tán thành Quốc tế thứ ba hoàn toàn tin theo Lênin”. Cả
một quá trình phấn đấu, suy nghĩ vvận mệnh đất nước, rút kinh nghiệm, khảo sát trong nhiều
năm tháng về con đường giải phóng dân tộc, học tập luận, tham gia đấu tranh chính trị, vào
Đảng Xã hội, sát cánh với giai cấp công nhân và trí thức cách mạng Pháp, với những đồng bào
yêu nước của mình trên đất Pháp, những tiền đề quan trọng chuẩn bị cho Hồ Chí Minh gặp
gỡ tiếp nhận những quan điểm của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa. Người đã
thêm những nhận thức mới, sáng hơn về ch mạng thuộc địa, về con đường giải phóng các
dân tộc khỏi gông cùm nô lệ, con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho Nhân dân -
> Chính Luận cương của V.I. Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong sự phát triển nhận
thức, ởng của Hồ Chí Minh. phù hợp đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài
bão được ấp ủ từ lâu, nay trở thành hiện thực.
-> Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng luận cách mạng không ngừng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã sự sáng tạo trong việc vạch ra phương
hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong Chánh cương vắt tắt của Đảng, Người
chỉ rõ “chủ trương làm sản dân quyền cách mạng thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”.
lOMoARcPSD| 61601492
4. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới hiện nay
Luận điểm "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng sản" một luận điểm nền tảng của cách mạng giải phóng dân tộc cách mạng hội
chủ nghĩa ở Việt Nam; định hướng phương hướng, đường lối và phương pháp ch mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Ngay khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2 m 1930, trong
“Chánh cương vắn tắt của Đảng”, Đảng đã đề ra quan điểm "làm sản dân quyền cách mạng
thổ địa cách mạng để đi tới hội cộng sản”. Quan điểm này được Đảng ta phát triển trong Luận
cương chính trị tháng 10 năm 1930, đặc biệt là được thể hiện rất rõ trong Đại hội II của Đảng năm
1951, khẳng định cách mạng Việt Nam mang tính chất cách mạng dân tộc, n chủ, nhân dân do
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tiếp tục
khẳng định con đường cách mạng Việt Nam con đường cách mạng sản với việc xác định
nhiệm vụ của cách mạng cả ớc xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ, giàu mạnh, giải phóng miền Nam, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi thống nhất
đất nước, hoàn thành công cuộc giải phóng n tộc, năm 1976, tại Đại hội IV Đảng ta chtrương
đưa cả ớc đi lên chủ nghĩa hội. Trong thời kỳ đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ qđộ lên chủ nghĩa hội năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng tiếp tục
khẳng định con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là đi lên chủ nghĩa xã hội; khẳng định mục
tiêu lớn của thời đại độc lập dân tộc chủ nghĩa hội. hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta xây dựng là một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đạiquan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người cuộc sống ấm no tự do
hạnh phúc, điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phátTriển; Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trên thế giới”. Việc Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
hội vì, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, chỉ chủ nghĩa hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Bằng việc nêu lên luận điểm mang tầm chân lý thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm phong phú
lý luận Mác - Lênin về cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở
nên phổ biến đối với mọi dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người. Trong bài “Giá trị của tưởng Hồ Chí Minh”, nguyên Phó Giám
đốc Học viện Chính trị - Trường Đảng Êtiôpia Têshôm Kêbêđe đã viết: “Những tưởng của Hồ
Chí Minh ảnh hưởng to lớn trong việc khuyến khích cung cấp tri thức cho các lãnh tụ của
giai cấp công nhân các nhà cách mạng Á, Phi Mỹ Latinh giải quyết một cách triệt để vấn
đề dân tộc”.
Hiện nay, tuy cách mạng vô sản thế giới đang đứng trước những thách thức to lớn do sự chống phá
quyết liệt của chủ nghĩa bản; không ít dân tộc gặp khó khăn trong việc chọn định hướng đi lên
chủ nghĩa xã hội do tác động tiêu cực của tình hình sau khi Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa
Đông Âu sụp đổ. Tuy vậy, nhiều ớc ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh vẫn giương ngọn cờ độc lập dân
tộc đi lên chủ nghĩa xã hội dưới nhiều hình thức. Trong khi một số mô hình chủ nghĩa xã hội ở một
lOMoARcPSD| 61601492
số nước Đông Âu sụp đổ, một số mô hình chnghĩa xã hội mới - sản phẩm của quá trình đổi mới
chủ nghĩa hội - như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba với những thành tựu to lớn, khẳng định sức
sống của chủ nghĩa hội đổi mới, trở thành tấm gương sáng để các n tộc khác noi theo. Con
đường đi lên chủ nghĩa hội của các dân tộc có khó khăn, phức tạp, nhưng theo quy luật tiến
hóa của lịch sử, loài người nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa bản đã từng vai trò lịch sử trong các thế kỷ trước, cho hiện nay vẫn n khả
năng tồn tại do biết lợi dụng sự phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ và bóc lột các nước thuộc
thế giới thứ ba, nhưng nó đã bộc lộ những khiếm khuyết và mâu thuẫn nội tại không thể giải quyết;
đã và đang bộc lộ những hạn chế
không thể khắc phục nổi trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc, giai cấp, vấn đề xóa bỏ chế độ
người bóc lột người, chiến tranh, bảo vệ môi trường, bảo đảm công bằng, bình đẳng hội, chăm
lo phát triển con người, giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc. Do bản chất của mình, ngày nay,
chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không từ bỏ chính sách thực dân xâm lược với nhiều biến tướng mới
rất tinh vi và xảo quyệt nhằm bóc lột các nước kém phát triển, chậm phát triển. Những cuộc chiến
tranh và can thiệp quân sự của các nước phương Tây vào các quốc gia độc lập có chủ quyền trong
những thập niên 90 của thế kỷ XX thập niên đầu của thế kỷ XXI, đặc biệt gần đây, cuộc tấn
công quân sự của Liên quân do NATO lãnh đạo chống Libi, cho dù cố che đậy với những lý do gì,
thì về thực chất vẫn các cuộc xâm lược nhằm mục đích phân chia lại thị trường thế giới, giành
giật tài nguyên, môi trường, duy trì hoặc áp đặt ảnh hưởng của họ lên các nước đang lựa chọn con
đường phát triển của dân tộc mình, ngăn cản quá trình vận động, phát triển lên chủ nghĩa hội
của các quốc gia đã giành được độc lập, buộc các quốc gia này phải phụ thuộc vào chủ nghĩa
bản. Bài học lịch sử trong thế kỷ XX thập kỷ đầu của thế kXXI cảnh tỉnh chúng ta rằng, còn
chủ nghĩa bản còn nguy bị xâm lược; độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, sự thống nhất
đất nước còn bđe dọa. Do đó, chnghĩa bản quyết không phải là sự lựa chọn của nhân loại
trong thời đại ngày nay. Chỉ đi theo con đường cách mạngsản, gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc mới được giữ vững, nhân dân lao động mới được giải phóng thực
sự. Đó cũng chính chân thời đại cách đây 100 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lĩnh hội
được ở chủ nghĩa Mác - Lênin trên hành trình đi tìm đường cứu nước, cứu dân của mình.
Câu 4b: Giá trị của luận điểm "Nhà nước của dân, do dân dân" đối với quá trình xây
dựng chính phủ liêm chính hiện nay 1. Giới thiệu luận điểm "Nhà nước của dân, do dân
vì dân"
Luận điểm này một trong những thành tố cốt lõi trong ởng Hồ Chí Minh về bản chất của
nhà nước. Theo đó, nhà nước phải là công cụ của nhân dân, được dân bầu ra hoạt động vì lợi
ích của nhân dân. Nhà nước của dân không chỉ là biểu tượng của quyền làm chủ nhân dân mà còn
là nền tảng để xây dựng chính phủ liêm chính, trong sạch và hiệu quả.
lOMoARcPSD| 61601492
2. Giá trị của luận điểm trong quá trình xây dựng chính phủ liêm chính hiện nay
tưởng “Nhà nước của dân, do dân và dân” có giá trị sâu sắc đối với quá trình y dựng chính
phủ liêm chính ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể, giá trị này thể hiện ở các khía cạnh sau:
2.1. Nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức với nhân dân
Chính phủ liêm chính bắt đầu từ việc các cán bộ, công chức ý thức được rằng họ những
người thực thi quyền lực thay mặt nhân dân, không phải để thống trị hay làm lợi cho
nhóm lợi ích riêng.
Theo tinh thần Hồ Chí Minh, chính quyền phải phục vụ nhân n, và mỗi quyết định của nhà
nước phải vì lợi ích của toàn thể nhân dân chứ không phải của cá nhân, nhóm lợi ích nào.
Giá trị này thúc đẩy cán bộ công chức thực hiện nghiêm túc công việc, tránh tham nhũng, tiêu
cực, và luôn đặt lợi ích quốc gia, nhân dân lên trên lợi ích cá nhân.
2.2. Tăng cường tính minh bạch, công khai trong hoạt động của chính phủ
"Nhà nước của dân" yêu cầu các chính sách hoạt động của chính phủ phải công khai,
minh bạch, dễ dàng kiểm tra và giám sát.
Chính phủ liêm chính chính phủ chế kiểm soát, bảo vệ quyền lợi của công dân
không có sự che giấu, xử lý sai phạm, tham nhũng.
hình này thể hiện trong việc đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản nhà nước, đặc biệt việc minh bạch hóa thủ tục hành chính để người
dân có thể theo dõi và giám sát.
2.3. Tạo sự gắn kết giữa chính quyền và nhân dân
Chính phủ liêm chính sẽ phát triển mạnh khi thực sự công bộccủa nhân dân, nghĩa
là thực hiện tốt công tác lắng nghe và phục vụ nguyện vọng nhân dân.
Điều này tạo ra sự gắn kết bền chặt giữa chính quyền và nhân dân, giúp nhà nước hiểu rõ hơn
về các nhu cầu, mối quan tâm và các vấn đề mà người dân đang phải đối mặt.
Chính phủ có trách nhiệm tổ chức các cuộc tham vấn, đối thoại, đảm bảo tiếng nói của nhân
dân được lắng nghe và bảo vệ trong quá trình ra quyết định chính trị.
lOMoARcPSD| 61601492
2.4. Kiên quyết phòng chống tham nhũng, lãng phí
Chống tham nhũng là một trong những yếu tố quan trọng để xây dựng chính phủ liêm chính.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Lương tâm đạo đức cách mạng nền tảng xây dựng Nhà
nước trong sạch”.
Trong bối cảnh hiện nay, để xây dựng chính phủ liêm chính, cần thực hiện nghiêm túc việc
kiểm tra, giám sát, và xử lý nghiêm khắc các hành vi tham nhũng, lãng phí, bảo vệ tài sản
của Nhà nước và quyền lợi của nhân dân.
Chính phủ cần phải hình mẫu về tính công bằng minh bạch, không chỉ về mặt tổ chức
mà còn trong từng hành động, quyết định cụ thể.
2.5. Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng pháp luật
Một chính phủ liêm chính chính phủ tôn trọng quyền dân chủ của người dân, đặc biệt trong
việc tham gia xây dựng, thực thi pháp luật.
tưởng "Nhà nước của dân" khẳng định rằng nhà nước phải tổ chức các cuộc bầu cử công
bằng, tổ chức các hình thức tham gia của người dân vào quản lý nhà nước như các cuộc
trưng cầu dân ý, hội nghị nhân dân nhằm lấy ý kiến nhân dân về các vấn đề quan trọng.
3. Kết luận
Luận điểm “Nhà nước của dân, do dân dân” của HChí Minh giá trị rất lớn đối với
quá trình xây dựng chính phủ liêm chính hiện nay. không chỉ thúc đẩy sự minh bạch, công
khai trong công tác chính quyền, mà còn đề cao trách nhiệm của từng cán bộ, công chức trong việc
phục vụ nhân dân. Việc thực hiện tốt luận điểm này sẽ nền tảng vững chắc cho việc xây dựng
một chính phủ thực sự trong sạch, có đạo đức và có hiệu quả trong việc phục vụ lợi ích chung của
toàn xã hội.
5. Đảng là đạo đúc, là văn minh. Ý nghĩa đối với nước ta hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản không chỉ dừng lại ở vai trò lãnh đạo mà còn nâng tầm Đảng lên
thành biểu tượng của những giá trị cao quý nhất. Luận điểm “Đảng đạo đức, n minh” chính sự
chắt lọc nh túy về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện tầm nhìn sâu sắc của Người vmt
chính Đảng chân chính.
Đảng là đạo đức
Khi nói Đảng đạo đức, Hồ Chí Minh đã khẳng định bản chất nhân n, trong sáng và vị tha của Đảng,
được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tc.
lOMoARcPSD| 61601492
Mục đích hoạt động của Đảng là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người: Đây
là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Đảng ra đời và hoạt động không vì lợi ích cục bộ của
một nhóm người, một giai cấp, mà vì mục êu cao cả là giành độc lập, tự do cho dân tộc, xóa bỏ áp
bức, bóc lột để xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, nơi con người được giải phóng khỏi mọi
xiềng xích, được phát triển toàn diện. Mục êu này thể hiện đạo đức đại của Đảng đối với dân
tộc và nhân loại.
Đảng luôn trung thành với lợi ích toàn dân tộc vì Đảng không có mục đích riêng, mọi hoạt động
của Đảng đều vì lợi ích nhân dân: Đây là điểm mấu chốt tạo nên sự khác biệt và niềm n của nhân
dân vào Đảng. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tquốc và
nhân dân. Mọi nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng đều phải xuất phát từ nguyện vọng và
phục vụ lợi ích chính đáng của đại đa số nhân dân lao động. Sự gắn bó máu thịt với nhân dân, đặt
lợi ích của nhân dân lên trên hết, là biểu hiện cao nhất của đạo đức cách mạng của Đảng.
Đảng viên luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra sức tu dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu
cho lợi ích của dân, của nước: Đảng tập hợp những người ưu tú, ên phong của giai cấp công
nhân và toàn thể dân tộc. Mỗi đảng viên phải hiện thân của đạo đức cách mạng, gương mẫu
trong mọi mặt công tác và đời sống. Họ phải không ngừng học tập, rèn luyện phẩm chất cần, kiệm,
liêm, chính, chí công tư, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân lợi ích chung của tập thể, của nhân
dân và đất nước. Sự cống hiến quên mình, lòng trung thành tuyệt đối với lý tưởng và nhân dân là
những minh chứng sống động cho đạo đức của Đảng.
Đảng là văn minh
Luận điểm Đảng văn minh không chnói về sự phát triển về trí tuệ còn sự ến bộ về tầm vóc, phong
cách lãnh đạo và quan hệ quốc tế của Đảng, phản ánh quy luật phát triển tất yếu của lịch sử.
Đảng êu biểu cho ơng tâm, trí tuvà danh dự của dân tộc: Đảng không chỉ đại diện cho sức
mạnh vật chất mà còn là biểu tượng cho những giá trị nh thần cao đẹp nhất của dân tộc. Lương
tâm của Đảng thể hin ở sự công tâm, nhân ái, vì con người; trí tuệ của Đảng thể hin khnăng
nhận thức quy luật khách quan, đưa ra đường lối đúng đắn, khoa học; danh dự của Đảng sự
trong sạch, kiên cường, bất khuất, luôn giữ vững khí ết cách mạng, không chịu khuất phục trước
mọi khó khăn, thử thách.
Đảng ra đời là một tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển văn minh ến bộ của dân tộc nhân
loi: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Điều này p hợp với xu thế phát triển của thời đại,
khi các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giành độc lập, tự do, ến lên chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh
đạo của Đảng nhân tố quyết định đưa Việt Nam từ một nước thuộc địa phong kiến trthành
một quốc gia độc lập, có vị thế trên trường quốc tế, là minh chứng cho sự văn minh,ến bộ.
Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử nhân dân giao phó: Để xứng đáng là
người lãnh đạo, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu. Sự trong sạch, vững mạnh của Đảng thể hin ở nh thần tự phê bình phê bình,
lOMoARcPSD| 61601492
kiên quyết chống lại các tệ nạn tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống trong nội bộ. Chỉ khi Đảng
trong sạch, vững mạnh mới thể hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử nhân dân n tưởng
giao phó, đưa đất nước ến lên.
Đảng cầm quyền hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp pháp lut: Tính văn minh của Đảng còn
thhin việc Đảng lãnh đạo Nhà nước và hội bằng pháp luật, không nằm ngoài pháp luật. Đảng
tôn trọng và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều được thể chế
hóa thành pháp luật của Nhà nước để quản lý xã hội. Đây là một nguyên tắc cơ bản của Nhà nước
pháp quyền, thể hiện sự văn minh, dân chủ trong hoạt động của Đảng và Nhà nước.
Đảng viên là những chiến sĩ ên phong, gương mẫu trong công tác và cuộc sống hàng ngày:
Đảng viên không chỉ là người lãnh đạo về tư tưởng mà còn phải là tấm gương sáng về hành động.
Trong công tác, họ phải là những người ên phong, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Trong cuộc sống hàng ngày, họ phải giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống giản dị, trong sạch, gần gũi
nhân dân, làm cho lời nói đi đôi với việc làm để nhân dân noi theo.
Đảng quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển
của các dân tộc trên thế gii: Tính văn minh của Đảng còn được thể hiện qua đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thành
viên ch cực trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đấu tranh cho công , ến bộ hội, góp
phần vào hòa bình và ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Tóm lại, luận điểm ảng đạo đức, văn minh" của Chủ tịch Hồ Chí Minh một sự khái quát sâu sắc
về bản chất, vai trò và trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó không chỉ là sự khẳng định giá trị lịch
sử mà còn là kim chỉ nam cho công tác y dựng Đảng hiện nay, đảm bảo Đảng luôn trong sạch, vững mạnh,
xứng đáng với niềm n của nhân dân và là đội ên phong đưa đất nước Việt Nam phát triển bền vững.
Luận điểm “Đảng là đạo đức, là văn minh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị đặc biệt quan trọng, là kim
chỉ nam cho công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh toàn Đảng đang
nỗ lực thực hiện các Nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
1. Nền tảng vững chắc cho công tác xây dựng Đảng về đạo đức
Chống suy thoái tưởng chính trị, đạo đức, lối sống: Trong bối cảnh kinh tế thtrường hội
nhập quốc tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Luận điểm "Đảng là đạo đức" trở thành tấm
gương, chuẩn mực để soi rọi, răn đe, đấu tranh kiên quyết với các biểu hiện êu cực y.
nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn rèn luyện phẩm chất cách mạng, đặt lợi ích của Đảng,
của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, giữ vững sự trong sạch, liêm khiết.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên gương mẫu: Yêu cầu "Đảng viên luôn thấm nhuần đạo đức
cách mạng, ra sức tu dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước" là đòi hỏi
lOMoARcPSD| 61601492
cốt yếu để xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự "người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân". Điều này đặc biệt quan trọng trong việc đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ lãnh
đạo chủ chốt các cấp, tạo sức lan tỏa trong toàn Đảng và xã hội.
Củng cố niềm n của nhân dân vào Đảng: Khi Đảng thực sự đạo đức, với đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong sạch, tận tụy, không có đặc quyền đặc lợi, thì niềm n của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng sẽ được củng cố vững chắc. Đây yếu tố sống còn đảm bảo sự tồn tại phát triển của Đảng,
bởi lẽ "Dân n thì Đảng sống, dân ghét thì Đảng chết".
2. Định hướng cho công tác xây dựng Đảng về văn hóa, phương pháp lãnh đạo
Nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng: ảng là văn minh" đòi hỏi Đảng phải không
ngừng nâng cao trí tuệ, năng lực dbáo, khả năng hoạch định đường lối, chủ trương đúng đắn,
phù hợp với quy luật khách quan và thực ễn đất nước. Điều này có ý nghĩa sống còn trong
bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế sâu rộng, đòi hỏi Đảng phải tầm nhìn
chiến lược, khả năng thích ứng và dẫn dắt đất nước vượt qua mọi thách thức.
Hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp pháp luật: Việc "Đảng cầm quyền hoạt động trong khuôn
khHiến pháp pháp luật" một giá trị văn minh đặc biệt quan trọng trong Nhà ớc pháp
quyn xã hội chủ nghĩa hiện nay. đòi hỏi Đảng phải lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương,
thông qua các tổ chức, cán bộ, đảng viên của mình để thực hiện theo Hiến pháp pháp luật, không
can thiệp trái quy định vào hoạt động của các cơ quan nhà nước, tạo lập một môi trường pháp
công bằng, minh bạch.
Phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội: ảng là văn minh" còn thể hin việc Đảng phải là
tổ chức ên phong về dân chủ. Dân chủ trong Đảng (tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình) là
nguyên tắc sống còn để Đảng phát triển. Đồng thời, Đảng phải ngọn cờ dẫn dắt, phát huy dân
chtrong xã hội, tạo điều kiện để nhân dân tham gia rộng rãi vào quá trình y dựng giám sát
Nhà nước, phản ánh đúng bản chất "của dân, do dân, vì dân".
Thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng: ảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động vì hòa bình,
hữu nghị, hợp tác cùng phát triển của các dân tộc trên thế giới" yêu cầu để Đảng ếp tục nâng
cao vị thế và uy n của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc xây dựng
quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, đóng góp vào các vấn đề chung của nhân loại là
biểu hiện của một chính Đảng văn minh, có trách nhiệm.
3. Là mục êu và động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước
Góp phần xây dựng hội phồn vinh, hạnh phúc: Khi Đảng thực sự đạo đức văn minh, mi
hoạt động của Đảng đều hướng tới mục êu cao nhất là mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân, y dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây chính là mục êu cuối cùng
động lực to lớn để toàn Đảng, toàn dân phấn đấu.
Tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước: Một Đảng trong sạch, vững mạnh về đạo đức
văn minh sẽ là nhân tố quyết định sức mạnh tổng hợp của đất nước, đảm bảo sự ổn định chính trị
- xã hội, tạo ền đề cho sự phát triển kinh tế nhanh bền vững, nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế.
lOMoARcPSD| 61601492
Tóm lại, luận điểm ảng là đạo đức, là văn minh" của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là bản chất lý luận
mà còn là yêu cầu thực ễn cấp bách trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Việc kiên
trì học tập, quán triệt và thực hiện sâu sắc tưởng này là chìa khóa để Đảng ta ếp tục giữ vững vai trò
lãnh đạo, xứng đáng với niềm n của nhân dân, đưa đất nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
lOMoARcPSD| 61601492
1. Ý nghĩa của luận điểm đối với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam
- Những thắng lợi ý nghĩa lịch sử đại của cách mạng Việt Nam như: Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, những thắng lợi trong 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam
1945 - 1975 thắng lợi của chiến lược giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh theo con đường cách
mạng vô sản, con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ thực tiễn hơn 35 năm thực hiện đường
lối đổi mới toàn diện đất nước cho thấy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Cũng từ chính thực tiễn đó, cho
phép chúng ta khẳng định con đường mà Hồ Chí Minh lựa chọn hoàn toàn phù hợp với thực
tiễn Việt Nam. Nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, một hệ tư tưởng có giá trị, một học thuyết giải
phóng phát triển dân tộc, dưới sự nh đạo của Đảng, Nhân dân Việt Nam sẽ vượt qua mọi
khó khăn, trở ngại, kiên trì mục tiêu xây dựng Viêt Nam thành một xã hội dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới.
- Hiện nay, tình hình thế giới trong nước có cả thuận lợi, thời khó khăn, thách thức đan
xen, nhưng Việt Nam vẫn vượt qua và đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, cơ đồ, tiềm
lực, vị thế uy tín của Việt Nam không ngừng tăng n, được sự thành công đó chính
chúng ta kiên định tính đảng trong quá trình phát triển. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nêu quan
điểm: “Kiên định và vận dụng, phát triển ng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa hội; kiên định đường lối đổi mới của của
Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đây là quan điểm có tính nguyên tắc, bất di
bất dịch, thể hiện bản lĩnh vững vàng của Đảng, cốt lõi của quan điểm này kết hợp khoa học sự
kiên định trước sau như một nền tảng tư tưởng, mục tiêu lý tưởng, đường lối đổi mới và nguyên tắc
xây dựng Đảng với tinh thần không ngừng đổi mới sáng tạo trên cơ sở tuân theo các quy luật khách
quan, kế thừa tinh hoa văn hóa, truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và những
kinh nghiệm thành công của quốc tế phợp với điều kiện Việt Nam. Kiên định nhưng không cứng
nhắc, bảo thủ, giáo điều dẫn đến trì trệ; đổi mới sáng tạo nhưng không cực đoan, duy ý chí, mạo
hiểm, dẫn đến đổ vỡ. Kiên định một cách ng tạo, sáng tạo trên sở kiên định, hướng đến mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đại hội XII của Đảng: “Trong quá trình
đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh; kế thừa
và phát huy tinh hoa văn hoá nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”. Đại
hội XIII của Đảng tiếp tục yêu cầu nắm vững xử tốt những mối quan hệ lớn, phản ánh quy
luật mang tính biện chứng, trong đó, đề cập đến mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Phân tích tính tất yếu và những quan điểm của Hồ Chí Minh về chnghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?
lOMoARcPSD| 61601492
1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh
- Nghiên cứu sự phát triển của hội loài người, đặc biệt trên sở phân tích mâu thuẫn bản
của chủ nghĩa bản - mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng mang tính chất hội hóa,
trong khi quan hệ sản xuất lại dựa trên chế độ chiếm
hữu nhân bản chủ nghĩa về liệu sản xuất, C. Mác (1818 - 1883) Ph. Ăngghen (1820
1895) đã phát hiện ra xu thế phát triển của hội loài người thông qua những kiến giải kinh tế,
chính trị, xã hội. Đó là xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ bị thay thế bởi một xã hội mới mà các ông
gọi hội cộng sản chủ nghĩa, trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người”.
- Trong những điều kiện lịch sử mới, V.I. Lênin đã phát triển tư tưởng cách mạng không ngừng của
C. Mác và Ph. Ăngghen, luận chứng một cách toàn diện khả năng đi tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa của các dân tộc thuộc địa, nền kinh tế lạc hậu, kém phát
triển. Trên nền lý luận chung đó, Hồ Chí Minh đã lĩnh hội những vấn đề mấu chốt, cần thiết nhất
cho nhân dân mình, n tộc mình. Người khẳng định, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sự vận
động khách quan của lịch sử, là một quá trình của sự thay thế lần lượt các phương thức sản xuất.
Tinh thần của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội được Hồ Chí Minh diễn giải một cách
giản lược, hết sức dễ hiểu. Người viết: “Từ cộng sản nguyên thuỷ đến chế độ lệ, đến chế độ
phong kiến, đến chế đbản, đến chủ nghĩa hội (cộng sản) - nói chung thì loài người phát
triển theo quy luật nhất định như vậy”. Người chỉ rõ: “Cách sản xuất và sức sản xuất phát triển và
biến đổi mãi, do đó mà tư tưởng của người, chế độ xã hội v.v.. cũng phát triển và biến đổi. Chúng
ta đều biết từ đời xưa đến đời nay, cách sản xuất từ chỗ dùng cành cây, búa đá phát triển dần đến
máy móc, sức điện, sức nguyên tử. Chế độ hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thuỷ đến
chế độ lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ bản chủ nghĩa ngày nay gần một nửa loài
người đang tiến lên chế độ hội chnghĩa chế độ cộng sản chnghĩa. Sự phát triển tiến
bộ đó không ai ngăn cản được”. Xã hội loài người phát triển theo xu hướng đi lên, các hội trước
tạo tiền đề để hội sau bước lên một hình thái cao hơn về chất lượng. Nếu chế độ bản chủ
nghĩa tất yếu ra đời từ chế độ phong kiến thì chính chủ nghĩa bản cũng sẽ xác lập các tiền đề
khách quan để tự phủ định chính nó. Theo Hồ Chí Minh, lôgíc phát triển hội cho thấy đã đến
lúc chủ nghĩa bản mở đường cho sự ra đời một chế độ hội mới - hội chủ nghĩa. Người
khẳng định: “Không có lực lượng gì ngăn trở được mặt trời mọc.
Không có lực lượng gì ngăn trở được lịch sử loài người tiến lên. Cũng không có lực lượng gì ngăn
trở được chủ nghĩa xã hội phát triển”.
- Theo Hồ Chí Minh, chỉ có đi theo con đường cách mạng vô sản, con đường cách mạng xã hội chủ
nghĩa thì mới có độc lập thật sự triệt để: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân
tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải
phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn
toàn”. Do đó, Người xác định: “Con đường tiến tới xã hội chủ nghĩa của các dân tộc là con đường

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601492
Câu 1a: phân tích luận điểm của hcm : bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Leenin
1. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều”:
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác: HCM nghiên cứu những chủ nghĩa
- Xuất phát từ con đường phong Kiến: hệ tư tưởng Cần Vương “đưa vua quay lại ngai vàng,
khôi phục lại chế độ phong kiến độc lập”
+ Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1887-1913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo là một cuộc đấu
tranh tự phát của nông dân với tất cả những đặc điểm vốn có và gắn liền với bất cứ một
phong trào nông dân nào khi chưa bắt gặp sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến  Hồ Chí Minh
nhận xét: “còn mang nặng cốt cách phong kiến”
- Xuất phát từ con đường dân chủ tư sản, đưa Việt Nam theo chủ nghĩa tư bản:
+ Phan Châu Trinh thực hiện Phong trào Duy Tân với chủ trương cải cách đất nước, khẩu
hiệu “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Để thực hiện chủ trương ấy, Phan Châu Trinh
đã đề nghị nhà nước “bảo hộ” Pháp tiến hành cải cách. Hồ Chí Minh nhận xét “đến xin giặc rủ lòng thương”
2. “Chủ nghĩa Lê-nin là chủ nghĩa chân chính: - Xuất phát từ quan niệm của CN Mac Lêninvề
cơ chế, động lực tồn tại và phát triển của xã hội tư bản là bóc lột giá trị thặng dư: Mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuấtGiải phóng giai cấp là tiền đề giải phóng dân tộc 
HCM khẳng định giai cấp và dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ, nhưng tùy từng thời kỳ để
giải quyết đúng đắn mối quan hệ này “Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.”
2. “Chủ nghĩa Lê-nin là chủ nghĩa chắc chắn”: - Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Xuất phát từ
thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng đã giải thích xã hội tự nhiên và tư
duy trên cơ sở khoa học  Giúp nhận thức đúng đắn về sự vật hiện tượng
Hồ Chí Minh khẳng định “Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng”
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Xuất phát từ lý giải sự tiến hóa của xã hội loài người bằng sự
phát triển của trình độ sản xuất. Trình độ sản xuất thay đổi khiến quan hệ sản xuất cũng thay
đổi dẫn đến những mối quan hệ xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó cùng với
những tư tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ xã hội đó cũng thay đổi kéo theo sự thay đổi
hệ thống pháp lý và chính trị.
Giải thích quy luật vận động và sự phát triển của xã hội với tư cách một chỉnh thể.
3. “Chủ nghĩa Lê-nin là chủ nghĩa cách mạng” - Xuất phát từ học thuyết về hình thái kinh tế xã
hội về sự chuyển biến từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác: Giải
quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng => Một hình thái kinh tế - xã hội mới ra đời  Chủ nghĩa tư bản diệt vong và
chủ nghĩa xã hội ra đời là một tất yếu - Lênin là người đưa chủ nghĩa xã hội từ lí luận thành
thực tiễn thông qua sự thành công của Cách mạng tháng Mười Nga. - HCM đã lựa chọn con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì  Độc lập dân tộc là lOMoAR cPSD| 61601492
điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững
chắc cho độc lập dân tộc
 Phù hợp với xu thế thời đại: Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành
công => Mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới  Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ
nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.”
5. Tính đúng đắn Về mặt lí luận: - Hiện nay, Đảng nhà nước ta vẫn lựa chọn con đường độc
lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân ta là kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội…” (Đại hội XIII) Tuy nhiên
đứng trước sự sụp đổ của Liên Xô Đông Âu cùng với sự biến động của thế giới về toàn cầu
hóa: Chúng ta phải vận dụng, bổ sung g, phát triển sáng tạo chủ nghĩa MacLeenin vào điều
kiện thực tiễn ở Việt Nam “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong
xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho
môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt,
nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”
- Phân tích chính sách về xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam: + Đảng Cộng sản Việt
Nam coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như công cụ, phương tiện xây dựng
chủ nghĩa xã hội, là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. + Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong
huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển; là động lực chủ yếu giải phóng sức sản xuất.
Trải qua 36 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc của Đảng Cộng sản
Việt Nam. + Tuy vậy, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể là: Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra chậm. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế
còn chậm, chưa bền vững. Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải,
lãng phí, chưa công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao. + Để hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể
chế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần tập trung vào những
nội dung sau: Thứ nhất, thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” Thứ hai,
tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung
tháo gỡ các điểm nghẽn.
Câu 1b: giá trị của luận điểm trên với việc kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa mác lê nin vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc lOMoAR cPSD| 61601492
Giá trị luận điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Lênin đối với sự kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã khẳng định một
luận điểm nổi tiếng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”
. Luận điểm này ra đời trong bối cảnh Người tìm được con
đường cứu nước sau khi nghiên cứu Luận cương của V.I. Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Nó thể hiện
niềm tin mãnh liệt của Hồ Chí Minh rằng chủ nghĩa Mác-Lênin chính là ngọn cờ tư tưởng đúng đắn và cách
mạng nhất để soi đường cho cách mạng Việt Nam. Gần một thế kỷ đã trôi qua, giá trị của luận điểm ấy vẫn
vẹn nguyên tính thời sự, đặc biệt đối với yêu cầu kiên địnhvận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay.
Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của chủ nghĩa Lênin đối với cách mạng Việt Nam
Luận điểm trên được Hồ Chí Minh đúc kết từ trải nghiệm lịch sử và nghiên cứu lý luận sâu sắc. Trước khi
đến với chủ nghĩa Lênin, Người đã khảo nghiệm nhiều trào lưu cứu nước đương thời (duy tân, cải lương,
dân chủ tư sản, phong kiến...) nhưng tất cả đều thất bại hoặc bộc lộ hạn chế. Chỉ đến khi đọc “Sơ thảo
Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin (7/1920), Nguyễn Ái Quốc mới tìm ra chân lý: con
đường giải phóng dân tộc muốn triệt để phải gắn liền với cách mạng vô sản. Người đã “cảm động, phấn
khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao” và xúc động thốt lên: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần
thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”
. Từ nhận thức bước ngoặt đó, Người khẳng định
chắc chắn rằng giữa muôn vàn học thuyết, chủ nghĩa Lênin chính là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất
, là con đường đúng đắn cho dân tộc thuộc địa như Việt Nam đi tới độc lập, tự do.
Khẳng định của Hồ Chí Minh không hề cảm tính chủ quan mà xuất phát từ thực tiễn cách mạng. Chủ nghĩa
Mác-Lênin với tính chất khoa học và cách mạng khi truyền bá vào Việt Nam đã chấm dứt khủng hoảng về
đường lối cứu nước, mở ra con đường mới cho cách mạng Việt Nam. Nhờ có ánh sáng của chủ nghĩa Lênin,
cách mạng Việt Nam tìm được phương hướng chiến lược rõ ràng, đoàn kết được lực lượng dưới cờ Đảng
Cộng sản, vượt qua mọi khuynh hướng sai lầm trước đó. Hồ Chí Minh ví chủ nghĩa Lênin như “cẩm nang
thần kỳ”, “kim chỉ nam”, và “mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”
. Rõ ràng, với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Lênin là nền tảng tư tưởng vững
chắc nhất để đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng.
Kiên định nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin – điều kiện tiên quyết để thành công
Trước hết, giá trị nổi bật của luận điểm Hồ Chí Minh là nhấn mạnh sự cần thiết phải kiên định chủ nghĩa
Mác-Lênin như một nền tảng tư tưởng không thể lay chuyển. Ngay trong “Đường Kách mệnh”, Người đã
chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người
không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”
. Chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh đề cập chính là chủ nghĩa
MácLênin – bộ óc, linh hồn của Đảng. Việc kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin giúp Đảng giữ vững phương
hướng cách mạng, như con tàu có la bàn chỉ đường giữa biển khơi. Đây là điều kiện tiên quyết để cách
mạng thành công
, bởi nhờ đó mà toàn Đảng, toàn dân thống nhất ý chí và hành động trên một nền tảng tư tưởng chung.
Lịch sử đã chứng minh giá trị của sự kiên định ấy. Dưới ngọn cờ Mác-Lênin, nhân dân ta đã làm nên Cách
mạng Tháng Tám 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng như giành thắng lợi lOMoAR cPSD| 61601492
trong các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc về sau. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh Đảng ta phải xem
chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Trong mọi giai đoạn, Người
“luôn kiên định, vững vàng với chủ nghĩa Mác-Lênin”, coi đó là yếu tố sống còn quyết định sự tồn vong của
Đảng và chế độ. Ngày nay, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin còn đồng nghĩa với việc kiên định con đường độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Sự nhất quán tư tưởng này
tạo nên sức mạnh đoàn kết dân tộc, niềm tin vững chắc của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, là cơ sở
để vượt qua mọi khó khăn, thách thức trong công cuộc đổi mới đất nước.
Hơn nữa, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin còn là vũ khí tư tưởng để chúng ta đấu tranh chống lại những
quan điểm sai trái, thù địch. Hồ Chí Minh nêu gương về tinh thần kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng ấy:
suốt cuộc đời, Người “kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng phi mác-xít để bảo vệ chủ nghĩa MácLênin”.
Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch luôn tìm cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hòng
làm suy yếu niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, bài học kiên định mà luận điểm của Bác nêu
ra vẫn giữ nguyên giá trị, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên và người dân phải vững vàng lập trường, tuyệt
đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có như vậy mới tạo sức đề kháng
trước mọi luận điệu xuyên tạc, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng và con đường phát triển đã chọn.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam
Bên cạnh sự kiên định, Hồ Chí Minh đồng thời nhấn mạnh phải vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin một cách
sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Giá trị của luận điểm “chủ nghĩa chân chính nhất... là
chủ nghĩa Lênin”
không phải ở chỗ rập khuôn giáo điều, mà ở chỗ xem chủ nghĩa Lênin như kim chỉ nam
linh hoạt để hành động. Chính Người từng phê phán mạnh mẽ hai khuynh hướng sai lầm: “chủ nghĩa giáo
điều”
(máy móc rập khuôn kinh nghiệm nước khác) và “chủ nghĩa xét lại” (phủ nhận những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin). Hồ Chí Minh quán triệt lời dạy của Ph. Ăng-ghen rằng “học thuyết của Mác
là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều”
, do đó phải không ngừng phát triển hơn nữa
về mọi mặt
nếu không muốn lạc hậu. Người yêu cầu học tập kinh nghiệm quốc tế nhưng “không thể áp
dụng một cách máy móc”
, phải “áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo” cho phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã thực hành nhuần nhuyễn tư duy sáng tạo đó. Người
vận dụng lý luận Mác-Lênin về cách mạng vô sản để đề ra đường lối cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa một cách độc đáo. Chẳng hạn, kế thừa quan điểm của Lênin về khả năng các nước thuộc địa tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh phát triển thành tư tưởng “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội”
– mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Ngay từ năm 1927, Người đã dự báo cách mạng ở
thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, và thắng lợi của cách mạng thuộc
địa sẽ góp phần thúc đẩy cách mạng thế giới. Đây là một sáng tạo lý luận quan trọng, phù hợp với hoàn
cảnh Việt Nam và đã được thực tiễn kiểm chứng bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Sau khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh tiếp tục vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác-Lênin trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Người chủ trương bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã
hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bằng cách phát huy nội lực dân tộc và sự giúp đỡ của quốc tế. Đồng
thời, Người luôn căn dặn phải tổng kết kinh nghiệm của Đảng, phân tích đúng đặc điểm của nước ta để
phát triển lý luận, tránh sao chép mô hình một cách máy móc. Chính nhờ phương pháp tư duy độc lập, lOMoAR cPSD| 61601492
sáng tạo ấy mà Đảng ta đã có những chủ trương đúng đắn qua các giai đoạn, từ cải cách ruộng đất, hợp
tác xã hóa đến Đổi mới 1986 và định hướng kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa sau này. Tất cả đều thể
hiện tinh thần vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin: giữ vững mục tiêu lâu dài nhưng linh hoạt trong
bước đi, giải pháp cụ thể trước biến chuyển của hoàn cảnh. Như vậy, giá trị cốt lõi của luận điểm Hồ Chí
Minh nằm ở chỗ: khẳng định chủ nghĩa Lênin là kim chỉ nam đúng đắn, đồng thời gợi mở rằng chúng ta
phải không ngừng sáng tạo, phát triển lý luận đó trong thực tiễn để đạt hiệu quả cao nhất.
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên nền tảng kiên định, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
Luận điểm của Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam cả
trong lịch sử lẫn hiện tại. Nhờ kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng sáng tạo tư tưởng đó, cách mạng
Việt Nam đã giành được những thắng lợi vĩ đại: giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và từng bước
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đến hôm nay, trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng ta tiếp tục
khẳng định phải kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong bối cảnh mới. Đó chính là cơ sở để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn
diện, đồng bộ, đưa đất nước phát triển vững vàng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trước mọi thách thức.
Về mặt xây dựng đất nước, kiên định nền tảng Mác-Lênin giúp chúng ta giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong phát triển kinh tế – xã hội. Mọi đường lối, chính sách từ phát triển kinh tế thị trường, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa cho đến xây dựng văn hóa, con người đều được soi đường bởi mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhờ kiên định mục tiêu và lý
tưởng đó, đất nước ta tránh được những sai lầm chệch hướng, đồng thời tạo đồng thuận xã hội cao trong
quá trình đổi mới. Mặt khác, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin đòi hỏi chúng ta không ngừng bổ
sung, phát triển
các chủ trương, giải pháp mới phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Thực tế công cuộc đổi mới
hơn 35 năm qua cho thấy Đảng ta đã dám đổi mới tư duy, điều chỉnh đường lối một cách sáng tạo (như
chấp nhận kinh tế nhiều thành phần, hội nhập kinh tế thế giới nhưng giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước...). Những sáng tạo đó dựa trên nền tảng lý luận Mác-Lênin về vai trò quần chúng nhân dân, về
phát triển lực lượng sản xuất phù hợp quan hệ sản xuất, v.v., qua đó tạo ra động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước.
Về mặt bảo vệ Tổ quốc, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin là chỗ dựa tinh thần vững chắc để toàn dân
tộc đoàn kết trước mọi kẻ thù. Tư tưởng cách mạng, độc lập tự do của chủ nghĩa Mác-Lênin đã hun
đúc ý chí kiên cường của nhân dân ta trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Ngày nay, trong
bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá
bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự chuyển hóa” nội bộ, thì việc giữ vững trận địa
tư tưởng Mác-Lênin càng trở nên hệ trọng. Luận điểm của Hồ Chí Minh nhắc nhở chúng ta vừa phải
kiên định lập trường, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, vừa phải
không ngừng nâng cao trí tuệ, sáng tạo trong phương pháp đấu tranh. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay
không chỉ là bảo vệ lãnh thổ mà còn là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần giá trị luận
điểm của Bác: tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng sáng tạo vào công việc
của mình. Đó chính là chìa khóa để giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng – an ninh và
nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong tình hình mới. lOMoAR cPSD| 61601492
Câu 2a: Phân tích tính sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất nhà nước
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất nhà nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước được hình thành từ: 
Chủ nghĩa Mác – Lênin (về nguồn gốc, bản chất, chức năng và vai trò của nhà nước vô sản). 
Giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam, đặc biệt là tư tưởng “dân là gốc”, tinh thần yêu nước, nhân nghĩa và trọng dân. 
Tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là tư tưởng dân chủ, pháp quyền phương Tây và sự tham khảo
kinh nghiệm các mô hình nhà nước trên thế giới. 
Thực tiễn cách mạng Việt Nam và kinh nghiệm thực tiễn Hồ Chí Minh tích lũy được trong quá
trình hoạt động cách mạng.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất nhà nước
Hồ Chí Minh kế thừa lý luận nhà nước vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin nhưng phát triển theo hướng sáng
tạo
, phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Tính sáng tạo thể hiện ở các nội dung sau:
2.1. Nhà nước là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. 
Nhà nước không phải là một công cụ thống trị thuần túy như trong mô hình chuyên chính vô sản
cứng nhắc, mà là một “nhà nước của dân, do dân và vì dân” – cách diễn đạt sáng tạo, dễ hiểu và mang tính khai sáng. 
Đây là điểm đổi mới so với tư duy “chuyên chính vô sản” đơn thuần – chuyển trọng tâm từ nhà nước
của giai cấp sang nhà nước phục vụ toàn dân.
2.2. Nhà nước của dân – do dân – vì dân
Hồ Chí Minh cụ thể hóa bản chất nhà nước qua ba phương diện:
Của dân: Mọi quyền lực trong nhà nước và xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao. 
Do dân: Dân bầu ra, dân tổ chức nên, nhà nước không thể đứng ngoài hoặc đứng trên nhân dân. 
Vì dân: Nhà nước hoạt động vì lợi ích nhân dân, không vì bất kỳ nhóm lợi ích nào khác.
→ Đây là tư tưởng có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện bản chất dân chủ và nhân văn sâu sắc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.3. Nhà nước pháp quyền, đạo đức và văn minh
Hồ Chí Minh sớm đề cao vai trò của pháp luậtkỷ cương nhà nước: “Quốc có quốc pháp, gia có gia quy”. lOMoAR cPSD| 61601492 
Bên cạnh đó, Người cũng khẳng định: nhà nước phải là một nhà nước đạo đức, cán bộ phải là “công
bộc” chứ không phải “quan cách mạng”. 
Như vậy, Người tích hợp các yếu tố pháp quyền hiện đại với tư tưởng đạo đức truyền thống
phương Đông
để xây dựng mô hình nhà nước mới – đây là điểm sáng tạo đặc sắc.
2.4. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa lãnh đạo của Đảng – quản lý của Nhà nước – làm chủ của nhân dân
Hồ Chí Minh xác định Đảng là người lãnh đạo, Nhà nước là người quản lý, còn Nhân dân là người làm chủ. 
Sự phân công vai trò rõ ràng này là sự kế thừa và phát triển sáng tạo so với lý luận Mác – Lênin về chuyên chính vô sản.
3. Đánh giá về tính sáng tạo
Phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam: Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, Hồ Chí Minh đề
xuất mô hình nhà nước dân chủ nhân dân, gần gũi, dễ hiểu, dễ thực hiện. 
Kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng phương Đông – phương Tây. 
Tạo cơ sở tư tưởng cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. 4. Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất nhà nước thể hiện sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
– Lênin
, giàu tính thực tiễn và nhân văn. Mô hình “nhà nước của dân, do dân, vì dân” không chỉ là đóng
góp cho lý luận nhà nước kiểu mới, mà còn là kim chỉ nam trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
Câu 6: Tại sao Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"? Thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế
giới hiện nay đã chứng minh luận điểm này như thế nào?ý nghĩa cảu luận điểm đó

*) Quan điểm của Hồ Chí Minh "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản 1. hồ Chí Minh nghiên cứu phong trào yêu nước Việt
Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX

Phong trào Cần Vương (1885 - 1896) do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, mở đầu
bằng cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế (năm 1885). Việc không thành,
Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương.
Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở lOMoAR cPSD| 61601492
Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và
Đinh Công Tráng (1886 - 1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883 - 1892) và Hương
Khê của Phan Đình Phùng (1885 - 1896). Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa
nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913. Thất bại của
phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến và khuynh hướng
thiết lập nhà nước phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch
sử đặt ra. Phong trào Cần Vương tan rã, các sĩ phu, các nhà yêu nước lúc bấy giờ đều tập
trung suy nghĩ về nguyên nhân mất nước, con đường cứu nước để giải phóng dân tộc.
* Đầu thế kỷ XX, mặc dù giai cấp tư sản Việt Nam chưa ra đời nhưng hệ tư tưởng tư sản đã
ảnh hưởng đến Việt Nam. Các trí thức phong kiến tiếp thu hệ tư tưởng này làm vũ khí
chống Pháp, dấy lên phong trào yêu nước sôi nổi với hai xu hướng bạo động và cải cách.
+ Đại diện tiêu biểu cho xu hướng bạo động là Phan Bội Châu. Với lòng yêu nước
sâu sắc, Phan Bội Châu chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp và thành lập một chính phủ
quân chủ lập hiến. Ông chủ trương dùng phương pháp bạo động đánh đuổi thực dân Pháp
để khôi phục độc lập dân tộc và dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp. Năm 1908, trước yêu
cầu của thực dân Pháp, Chính phủ Nhật đã trục xuất những người Việt Nam yêu nước ra
khỏi Nhật Bản. Phong trào Đông Du tan rã. Năm 1911, cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc
thành công, lật đổ nền quân chủ Mãn Thanh lập ra Nhà nước Trung Hoa Dân quốc, Phan
Bội Châu đã chuyển lập trường từ chủ nghĩa quân chủ sang chủ nghĩa dân chủ. Ông tuyên
bố giải tán Duy Tân hội và thành lập Việt Nam Quang Phục hội, nhằm mục đích đánh đuổi
giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân quốc Việt Nam. Để
đạt được những mục tiêu trên, Phan Bội Châu đã chủ trương đấu tranh bằng phương pháp
bạo động vũ trang giành chính quyền. Chủ trương trên của Phan Bội Châu bước đầu đạt
được một số kết quả như: cuộc bạo động của đội Quyến, đội Phấn, ấm Võ ở vùng Nghệ -
Tĩnh, ném bom vào khách sạn của Pháp ở Hà Nội, ám sát Tuần phủ ở Thái Bình, cuộc khởi
nghĩa ở Thái Nguyên... Tuy nhiên, chủ trương bạo động giành chính quyền của Phan Bội
Châu không diễn ra theo ý muốn, cuối cùng dẫn đến kết cục thất bại trước sự đàn áp của
thực dân Pháp. Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh viết: “Ám sát là làm liều,
và kết quả ít, vì giết thằng này còn thằng khác, giết sao cho hết? Cách mênh thì phải đoàn
kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ 5,
7 người giết 2, 3 anh vua, 9, 10 anh quan mà được”.
+ Đại diện cho xu hướng cải lương, cải cách là Phan Châu Trinh. Phan Châu Trinh
đã phê phán gay gắt sự lạc hậu, tính trì trê, yếu hèn của Nhà nước quân chủ phong kiến
Viêt Nam. Ông cho rằng trình độ của Nhân dân Viêt Nam lúc đó còn rất thấp nên muốn
làm cách mạng thì trước hết phải khai dân trí (khai trí cho dân) và nâng cao quyền tự do
dân chủ. Nhưng quyền hành lại nằm trong tay các vua quan, vì vậy phải đánh đổ vua quan
thì mới khai được dân trí. Do đó, phải tiến hành đấu tranh bằng con đường cải lương, đòi
quyền tự do dân sinh, dân chủ, tạm thời dựa vào Pháp để đánh đổ giai cấp địa chủ phong
kiến. Đây là một cách nhận thức không đúng cả về phương hướng và phương pháp đấu
tranh, vì đặc trưng cơ bản của xã hội Việt Nam lúc này là xã hội thuộc địa. Thực dân Pháp
và một bộ phận địa chủ, phong kiến tay sai câu kết với nhau để bóc lột nhân dân. Sự ngộ lOMoAR cPSD| 61601492
nhận về bản chất kẻ thù là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến phương pháp đấu tranh không
đúng của ông. Đau xót trước cảnh dân tộc mất độc lập, nhân dân nô lệ, nhiệt thành với công
cuộc chấn hưng dân tộc, nhưng Phan Châu Trinh không thấy được nguồn gốc của việc mất
nước, của sự lạc hậu là do chủ nghĩa thực dân Pháp gây ra.
+ Trong những năm 20 của thế kỷ XX, một số nhân sĩ trí thức yêu nước đã có những
hoạt động vì công cuộc giải phóng dân tộc, trong đó đáng chú ý là những hoạt động của
Huỳnh Thúc Kháng. Đặc điểm nổi bật trong những hoạt động của Huỳnh Thúc Kháng là
vận động công khai nhằm chấn hưng dân tộc. Ông cho rằng con đường cách mạng công
khai, hợp pháp là con đường có nhiều khả năng dẫn đến thành công. Tuy nhiên, sau đó ông
đã nhận ra rằng nghị trường tư sản và con đường cách mạng hợp pháp công khai mà ông
theo đuổi chỉ là ảo tưởng.
-> Như vậy, con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản cũng
bị thất bại và không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra lúc bấy giờ.
Nguyên nhân thất bại của phong trào yêu nước Việt Nam giữa thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
đã thể hiện sự khủng hoảng về đường lối cách mạng, về lực lượng lãnh đạo có đủ khả năng
đáp ứng yêu cầu của lịch sử, đặc biệt trong đó phải nói đến sự bế tắc về phương pháp đấu
tranh của các sĩ phu, văn thân yêu nước đương thời.
Từ những bài học thực tiễn của các phong trào yêu nước Việt Nam là cơ sở quan
trọng để hình thành một tư duy cách mạng mới ở Hồ Chí Minh. Đó là phải tìm một con
đường cứu nước mới khác với con đường cứu nước của các vị cách mạng tiền bối. Chính
vì vậy, Người đã quyết định đi ra nước ngoài để tìm con đường cứu nước, giành độc lập
cho dân tộc, mang lại hạnh phúc, ấm no cho Nhân dân.
2. Hồ Chí Minh nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới
* Nghiên cứu cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Mỹ, Hồ Chí Minh đối chiếu thể chế chính
trị của nước Mỹ với cuộc sống của các giai cấp, dân tộc thuộc nhiều màu da khác nhau,
Người đi đến kết luận: “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng
công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ
là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi”. Nghiên cứu
cuộc cách mạng Pháp năm 1789, Hồ Chí Minh đã học được nhiều kinh nghiệm quý, nâng
cao tầm hiểu biết về vai trò của các giai cấp trong cách mạng tư sản, về tổ chức, tinh thần,
ý chí cách mạng của quần chúng. Nhưng Người thấy rằng, “Cách mệnh Pháp cũng như
cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa
và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách
mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới
hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”.
* Nghiên cứu cách mạng Nga, đặc biệt là Cách mạng Tháng Mười (năm 1917), Hồ Chí
Minh nhận thấy đó là một cuộc cách mạng giai cấp, đồng thời là một cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, nằm trong dòng chảy liên tục của quá trình giải phóng con người. Nó làm lOMoAR cPSD| 61601492
cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông có quan hệ mật thiết với nhau trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Người viết: “Cách mạng Tháng
Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay. Cách
mạng Tháng Mười đã mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc”. Xét về bản chất Cách mạng Tháng Mười như là một sự nổi trội, vượt xa
và khác hẳn các cuộc cách mạng xã hội từng diễn ra trong lịch sử trước đó, vì: “Trong thế
giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân
chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả
dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được
vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa
làm cách mệnh để đập đổ9 tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”.
3. Hồ Chí Minh nghiên cứu lý luận và lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
* Sau khi đọc được Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của V.I. Lênin đăng trên báo Nhân đạo (L’Humanité) trong hai số" ngày 16 và 17/7/1920, một
tờ báo của cánh tả Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản’&. Người kể lại rằng bản
Luận cương có những chữ khó hiểu, nhưng “tôi đọc đi đọc lại và dần dần tôi hiểu ý nghĩa của
nó một cách sâu sắc. Bản Luận cương làm cho tôi cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng” và
Người nhận thấy “đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Từ
đó, Người đã có một sự lựa chọn: “tán thành Quốc tế thứ ba và hoàn toàn tin theo Lênin”. Cả
một quá trình phấn đấu, suy nghĩ về vận mệnh đất nước, rút kinh nghiệm, khảo sát trong nhiều
năm tháng về con đường giải phóng dân tộc, học tập lý luận, tham gia đấu tranh chính trị, vào
Đảng Xã hội, sát cánh với giai cấp công nhân và trí thức cách mạng Pháp, với những đồng bào
yêu nước của mình trên đất Pháp, là những tiền đề quan trọng chuẩn bị cho Hồ Chí Minh gặp
gỡ và tiếp nhận những quan điểm của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Người đã có
thêm những nhận thức mới, sáng rõ hơn về cách mạng thuộc địa, về con đường giải phóng các
dân tộc khỏi gông cùm nô lệ, con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho Nhân dân -
> Chính Luận cương của V.I. Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong sự phát triển nhận
thức, tư tưởng của Hồ Chí Minh. Nó phù hợp và đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài
bão được ấp ủ từ lâu, nay trở thành hiện thực.
-> Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng lý luận cách mạng không ngừng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã có sự sáng tạo trong việc vạch ra phương
hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong Chánh cương vắt tắt của Đảng, Người
chỉ rõ “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. lOMoAR cPSD| 61601492
4. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới hiện nay
Luận điểm "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản" là một luận điểm nền tảng của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam; định hướng phương hướng, đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Ngay khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2 năm 1930, trong
“Chánh cương vắn tắt của Đảng”, Đảng đã đề ra quan điểm "làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Quan điểm này được Đảng ta phát triển trong Luận
cương chính trị tháng 10 năm 1930, đặc biệt là được thể hiện rất rõ trong Đại hội II của Đảng năm
1951, khẳng định cách mạng Việt Nam mang tính chất cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân do
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tiếp tục
khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản với việc xác định
nhiệm vụ của cách mạng cả nước là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ, giàu mạnh, giải phóng miền Nam, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi thống nhất
đất nước, hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc, năm 1976, tại Đại hội IV Đảng ta chủ trương
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng tiếp tục
khẳng định con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là đi lên chủ nghĩa xã hội; khẳng định mục
tiêu lớn của thời đại là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta xây dựng là một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no tự do
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phátTriển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trên thế giới”. Việc Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội là vì, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Bằng việc nêu lên luận điểm mang tầm chân lý thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm phong phú
lý luận Mác - Lênin về cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở
nên phổ biến đối với mọi dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người. Trong bài “Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh”, nguyên Phó Giám
đốc Học viện Chính trị - Trường Đảng Êtiôpia Têshôm Kêbêđe đã viết: “Những tư tưởng của Hồ
Chí Minh có ảnh hưởng to lớn trong việc khuyến khích và cung cấp tri thức cho các lãnh tụ của
giai cấp công nhân và các nhà cách mạng ở Á, Phi và Mỹ Latinh giải quyết một cách triệt để vấn đề dân tộc”.
Hiện nay, tuy cách mạng vô sản thế giới đang đứng trước những thách thức to lớn do sự chống phá
quyết liệt của chủ nghĩa tư bản; không ít dân tộc gặp khó khăn trong việc chọn định hướng đi lên
chủ nghĩa xã hội do tác động tiêu cực của tình hình sau khi Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Đông Âu sụp đổ. Tuy vậy, nhiều nước ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh vẫn giương ngọn cờ độc lập dân
tộc đi lên chủ nghĩa xã hội dưới nhiều hình thức. Trong khi một số mô hình chủ nghĩa xã hội ở một lOMoAR cPSD| 61601492
số nước Đông Âu sụp đổ, một số mô hình chủ nghĩa xã hội mới - sản phẩm của quá trình đổi mới
chủ nghĩa xã hội - như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba với những thành tựu to lớn, khẳng định sức
sống của chủ nghĩa xã hội đổi mới, trở thành tấm gương sáng để các dân tộc khác noi theo. Con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các dân tộc dù có khó khăn, phức tạp, nhưng theo quy luật tiến
hóa của lịch sử, loài người nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa tư bản đã từng có vai trò lịch sử trong các thế kỷ trước, cho dù hiện nay vẫn còn khả
năng tồn tại do biết lợi dụng sự phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ và bóc lột các nước thuộc
thế giới thứ ba, nhưng nó đã bộc lộ những khiếm khuyết và mâu thuẫn nội tại không thể giải quyết;
đã và đang bộc lộ những hạn chế
không thể khắc phục nổi trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc, giai cấp, vấn đề xóa bỏ chế độ
người bóc lột người, chiến tranh, bảo vệ môi trường, bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội, chăm
lo phát triển con người, giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc. Do bản chất của mình, ngày nay,
chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không từ bỏ chính sách thực dân xâm lược với nhiều biến tướng mới
rất tinh vi và xảo quyệt nhằm bóc lột các nước kém phát triển, chậm phát triển. Những cuộc chiến
tranh và can thiệp quân sự của các nước phương Tây vào các quốc gia độc lập có chủ quyền trong
những thập niên 90 của thế kỷ XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI, đặc biệt gần đây, cuộc tấn
công quân sự của Liên quân do NATO lãnh đạo chống Libi, cho dù cố che đậy với những lý do gì,
thì về thực chất vẫn là các cuộc xâm lược nhằm mục đích phân chia lại thị trường thế giới, giành
giật tài nguyên, môi trường, duy trì hoặc áp đặt ảnh hưởng của họ lên các nước đang lựa chọn con
đường phát triển của dân tộc mình, ngăn cản quá trình vận động, phát triển lên chủ nghĩa xã hội
của các quốc gia đã giành được độc lập, buộc các quốc gia này phải phụ thuộc vào chủ nghĩa tư
bản. Bài học lịch sử trong thế kỷ XX và thập kỷ đầu của thế kỷ XXI cảnh tỉnh chúng ta rằng, còn
chủ nghĩa tư bản là còn nguy cơ bị xâm lược; độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, sự thống nhất
đất nước còn bị đe dọa. Do đó, chủ nghĩa tư bản quyết không phải là sự lựa chọn của nhân loại
trong thời đại ngày nay. Chỉ có đi theo con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc mới được giữ vững, nhân dân lao động mới được giải phóng thực
sự. Đó cũng chính là chân lý thời đại mà cách đây 100 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lĩnh hội
được ở chủ nghĩa Mác - Lênin trên hành trình đi tìm đường cứu nước, cứu dân của mình.
Câu 4b: Giá trị của luận điểm "Nhà nước của dân, do dân và vì dân" đối với quá trình xây
dựng chính phủ liêm chính hiện nay 1. Giới thiệu luận điểm "Nhà nước của dân, do dân và vì dân"
Luận điểm này là một trong những thành tố cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của
nhà nước. Theo đó, nhà nước phải là công cụ của nhân dân, được dân bầu rahoạt động vì lợi
ích của nhân dân
. Nhà nước của dân không chỉ là biểu tượng của quyền làm chủ nhân dân mà còn
là nền tảng để xây dựng chính phủ liêm chính, trong sạch và hiệu quả. lOMoAR cPSD| 61601492
2. Giá trị của luận điểm trong quá trình xây dựng chính phủ liêm chính hiện nay
Tư tưởng “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” có giá trị sâu sắc đối với quá trình xây dựng chính
phủ liêm chính ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể, giá trị này thể hiện ở các khía cạnh sau:
2.1. Nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức với nhân dân
Chính phủ liêm chính bắt đầu từ việc các cán bộ, công chức ý thức được rằng họ là những
người thực thi quyền lực thay mặt nhân dân, không phải để thống trị hay làm lợi cho nhóm lợi ích riêng.
 Theo tinh thần Hồ Chí Minh, chính quyền phải phục vụ nhân dân, và mỗi quyết định của nhà
nước phải vì lợi ích của toàn thể nhân dân chứ không phải của cá nhân, nhóm lợi ích nào.
Giá trị này thúc đẩy cán bộ công chức thực hiện nghiêm túc công việc, tránh tham nhũng, tiêu
cực, và luôn đặt lợi ích quốc gia, nhân dân lên trên lợi ích cá nhân.
2.2. Tăng cường tính minh bạch, công khai trong hoạt động của chính phủ
"Nhà nước của dân" yêu cầu các chính sách và hoạt động của chính phủ phải công khai,
minh bạch, dễ dàng kiểm tra và giám sát.
 Chính phủ liêm chính là chính phủ có cơ chế kiểm soát, bảo vệ quyền lợi của công dân
không có sự che giấu, xử lý sai phạm, tham nhũng.
 Mô hình này thể hiện trong việc đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lý nhà nước, đặc biệt là việc minh bạch hóa thủ tục hành chính để người
dân có thể theo dõi và giám sát.
2.3. Tạo sự gắn kết giữa chính quyền và nhân dân
Chính phủ liêm chính sẽ phát triển mạnh khi nó thực sự là “công bộc” của nhân dân, nghĩa
là thực hiện tốt công tác lắng nghe và phục vụ nguyện vọng nhân dân.
 Điều này tạo ra sự gắn kết bền chặt giữa chính quyền và nhân dân, giúp nhà nước hiểu rõ hơn
về các nhu cầu, mối quan tâm và các vấn đề mà người dân đang phải đối mặt.
 Chính phủ có trách nhiệm tổ chức các cuộc tham vấn, đối thoại, đảm bảo tiếng nói của nhân
dân được lắng nghe và bảo vệ trong quá trình ra quyết định chính trị. lOMoAR cPSD| 61601492
2.4. Kiên quyết phòng chống tham nhũng, lãng phí
Chống tham nhũng là một trong những yếu tố quan trọng để xây dựng chính phủ liêm chính.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Lương tâm và đạo đức cách mạng là nền tảng xây dựng Nhà nước trong sạch”.
 Trong bối cảnh hiện nay, để xây dựng chính phủ liêm chính, cần thực hiện nghiêm túc việc
kiểm tra, giám sát, và xử lý nghiêm khắc các hành vi tham nhũng, lãng phí, bảo vệ tài sản
của Nhà nước và quyền lợi của nhân dân.
 Chính phủ cần phải là hình mẫu về tính công bằngminh bạch, không chỉ về mặt tổ chức
mà còn trong từng hành động, quyết định cụ thể.
2.5. Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng pháp luật
 Một chính phủ liêm chính là chính phủ tôn trọng quyền dân chủ của người dân, đặc biệt trong
việc tham gia xây dựng, thực thi pháp luật.
 Tư tưởng "Nhà nước của dân" khẳng định rằng nhà nước phải tổ chức các cuộc bầu cử công
bằng, tổ chức các hình thức tham gia của người dân vào quản lý nhà nước như các cuộc
trưng cầu dân ý, hội nghị nhân dân nhằm lấy ý kiến nhân dân về các vấn đề quan trọng. 3. Kết luận
Luận điểm “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” của Hồ Chí Minh có giá trị rất lớn đối với
quá trình xây dựng chính phủ liêm chính hiện nay. Nó không chỉ thúc đẩy sự minh bạch, công
khai trong công tác chính quyền, mà còn đề cao trách nhiệm của từng cán bộ, công chức trong việc
phục vụ nhân dân. Việc thực hiện tốt luận điểm này sẽ là nền tảng vững chắc cho việc xây dựng
một chính phủ thực sự trong sạch, có đạo đức và có hiệu quả trong việc phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội.
5. Đảng là đạo đúc, là văn minh. Ý nghĩa đối với nước ta hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản không chỉ dừng lại ở vai trò lãnh đạo mà còn nâng tầm Đảng lên
thành biểu tượng của những giá trị cao quý nhất. Luận điểm “Đảng là đạo đức, là văn minh” chính là sự
chắt lọc tinh túy về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện tầm nhìn sâu sắc của Người về một chính Đảng chân chính.
Đảng là đạo đức
Khi nói Đảng là đạo đức, Hồ Chí Minh đã khẳng định bản chất nhân văn, trong sáng và vị tha của Đảng,
được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc. lOMoAR cPSD| 61601492 
Mục đích hoạt động của Đảng là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người: Đây
là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Đảng ra đời và hoạt động không vì lợi ích cục bộ của
một nhóm người, một giai cấp, mà vì mục tiêu cao cả là giành độc lập, tự do cho dân tộc, xóa bỏ áp
bức, bóc lột để xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, nơi con người được giải phóng khỏi mọi
xiềng xích, được phát triển toàn diện. Mục tiêu này thể hiện đạo đức vĩ đại của Đảng đối với dân tộc và nhân loại. 
Đảng luôn trung thành với lợi ích toàn dân tộc vì Đảng không có mục đích riêng, mọi hoạt động
của Đảng đều vì lợi ích nhân dân:
Đây là điểm mấu chốt tạo nên sự khác biệt và niềm tin của nhân
dân vào Đảng. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc và
nhân dân. Mọi nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng đều phải xuất phát từ nguyện vọng và
phục vụ lợi ích chính đáng của đại đa số nhân dân lao động. Sự gắn bó máu thịt với nhân dân, đặt
lợi ích của nhân dân lên trên hết, là biểu hiện cao nhất của đạo đức cách mạng của Đảng. 
Đảng viên luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra sức tu dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu
cho lợi ích của dân, của nước:
Đảng là tập hợp những người ưu tú, tiên phong của giai cấp công
nhân và toàn thể dân tộc. Mỗi đảng viên phải là hiện thân của đạo đức cách mạng, gương mẫu
trong mọi mặt công tác và đời sống. Họ phải không ngừng học tập, rèn luyện phẩm chất cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của tập thể, của nhân
dân và đất nước. Sự cống hiến quên mình, lòng trung thành tuyệt đối với lý tưởng và nhân dân là
những minh chứng sống động cho đạo đức của Đảng. Đảng là văn minh
Luận điểm Đảng là văn minh không chỉ nói về sự phát triển về trí tuệ mà còn là sự tiến bộ về tầm vóc, phong
cách lãnh đạo và quan hệ quốc tế của Đảng, phản ánh quy luật phát triển tất yếu của lịch sử. 
Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của dân tộc: Đảng không chỉ đại diện cho sức
mạnh vật chất mà còn là biểu tượng cho những giá trị tinh thần cao đẹp nhất của dân tộc. Lương
tâm của Đảng thể hiện ở sự công tâm, nhân ái, vì con người; trí tuệ của Đảng thể hiện ở khả năng
nhận thức quy luật khách quan, đưa ra đường lối đúng đắn, khoa học; danh dự của Đảng là sự
trong sạch, kiên cường, bất khuất, luôn giữ vững khí tiết cách mạng, không chịu khuất phục trước
mọi khó khăn, thử thách. 
Đảng ra đời là một tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển văn minh tiến bộ của dân tộc và nhân
loại:
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Điều này phù hợp với xu thế phát triển của thời đại,
khi các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giành độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh
đạo của Đảng là nhân tố quyết định đưa Việt Nam từ một nước thuộc địa phong kiến trở thành
một quốc gia độc lập, có vị thế trên trường quốc tế, là minh chứng cho sự văn minh, tiến bộ. 
Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử nhân dân giao phó: Để xứng đáng là
người lãnh đạo, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu. Sự trong sạch, vững mạnh của Đảng thể hiện ở tinh thần tự phê bình và phê bình, lOMoAR cPSD| 61601492
kiên quyết chống lại các tệ nạn tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống trong nội bộ. Chỉ khi Đảng
trong sạch, vững mạnh mới có thể hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử mà nhân dân tin tưởng
giao phó, đưa đất nước tiến lên. 
Đảng cầm quyền hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật: Tính văn minh của Đảng còn
thể hiện ở việc Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng pháp luật, không nằm ngoài pháp luật. Đảng
tôn trọng và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều được thể chế
hóa thành pháp luật của Nhà nước để quản lý xã hội. Đây là một nguyên tắc cơ bản của Nhà nước
pháp quyền, thể hiện sự văn minh, dân chủ trong hoạt động của Đảng và Nhà nước. 
Đảng viên là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu trong công tác và cuộc sống hàng ngày:
Đảng viên không chỉ là người lãnh đạo về tư tưởng mà còn phải là tấm gương sáng về hành động.
Trong công tác, họ phải là những người tiên phong, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Trong cuộc sống hàng ngày, họ phải giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống giản dị, trong sạch, gần gũi
nhân dân, làm cho lời nói đi đôi với việc làm để nhân dân noi theo. 
Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển
của các dân tộc trên thế giới:
Tính văn minh của Đảng còn được thể hiện qua đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là thành
viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đấu tranh cho công lý, tiến bộ xã hội, góp
phần vào hòa bình và ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Tóm lại, luận điểm "Đảng là đạo đức, là văn minh" của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một sự khái quát sâu sắc
về bản chất, vai trò và trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó không chỉ là sự khẳng định giá trị lịch
sử mà còn là kim chỉ nam cho công tác xây dựng Đảng hiện nay, đảm bảo Đảng luôn trong sạch, vững mạnh,
xứng đáng với niềm tin của nhân dân và là đội tiên phong đưa đất nước Việt Nam phát triển bền vững.
Luận điểm “Đảng là đạo đức, là văn minh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị đặc biệt quan trọng, là kim
chỉ nam cho công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh toàn Đảng đang
nỗ lực thực hiện các Nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
1. Nền tảng vững chắc cho công tác xây dựng Đảng về đạo đức
Chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống: Trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Luận điểm "Đảng là đạo đức" trở thành tấm
gương, chuẩn mực để soi rọi, răn đe, và đấu tranh kiên quyết với các biểu hiện tiêu cực này. Nó
nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn rèn luyện phẩm chất cách mạng, đặt lợi ích của Đảng,
của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, giữ vững sự trong sạch, liêm khiết. 
Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên gương mẫu: Yêu cầu "Đảng viên luôn thấm nhuần đạo đức
cách mạng, ra sức tu dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước" là đòi hỏi lOMoAR cPSD| 61601492
cốt yếu để xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là "người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân". Điều này đặc biệt quan trọng trong việc đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ lãnh
đạo chủ chốt các cấp, tạo sức lan tỏa trong toàn Đảng và xã hội. 
Củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng: Khi Đảng thực sự là đạo đức, với đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong sạch, tận tụy, không có đặc quyền đặc lợi, thì niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng sẽ được củng cố vững chắc. Đây là yếu tố sống còn đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Đảng,
bởi lẽ "Dân tin thì Đảng sống, dân ghét thì Đảng chết".
2. Định hướng cho công tác xây dựng Đảng về văn hóa, phương pháp lãnh đạo
Nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng: "Đảng là văn minh" đòi hỏi Đảng phải không
ngừng nâng cao trí tuệ, năng lực dự báo, khả năng hoạch định đường lối, chủ trương đúng đắn,
phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn đất nước. Điều này có ý nghĩa sống còn trong
bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế sâu rộng, đòi hỏi Đảng phải có tầm nhìn
chiến lược, khả năng thích ứng và dẫn dắt đất nước vượt qua mọi thách thức. 
Hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật: Việc "Đảng cầm quyền hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật" là một giá trị văn minh đặc biệt quan trọng trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nó đòi hỏi Đảng phải lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, và
thông qua các tổ chức, cán bộ, đảng viên của mình để thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật, không
can thiệp trái quy định vào hoạt động của các cơ quan nhà nước, tạo lập một môi trường pháp lý công bằng, minh bạch. 
Phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội: "Đảng là văn minh" còn thể hiện ở việc Đảng phải là
tổ chức tiên phong về dân chủ. Dân chủ trong Đảng (tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình) là
nguyên tắc sống còn để Đảng phát triển. Đồng thời, Đảng phải là ngọn cờ dẫn dắt, phát huy dân
chủ trong xã hội, tạo điều kiện để nhân dân tham gia rộng rãi vào quá trình xây dựng và giám sát
Nhà nước, phản ánh đúng bản chất "của dân, do dân, vì dân". 
Thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng: "Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động vì hòa bình,
hữu nghị, hợp tác cùng phát triển của các dân tộc trên thế giới" là yêu cầu để Đảng tiếp tục nâng
cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc xây dựng
quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, đóng góp vào các vấn đề chung của nhân loại là
biểu hiện của một chính Đảng văn minh, có trách nhiệm.
3. Là mục tiêu và động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước
Góp phần xây dựng xã hội phồn vinh, hạnh phúc: Khi Đảng thực sự là đạo đức và văn minh, mọi
hoạt động của Đảng đều hướng tới mục tiêu cao nhất là mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây chính là mục tiêu cuối cùng và
động lực to lớn để toàn Đảng, toàn dân phấn đấu. 
Tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước: Một Đảng trong sạch, vững mạnh về đạo đức và
văn minh sẽ là nhân tố quyết định sức mạnh tổng hợp của đất nước, đảm bảo sự ổn định chính trị
- xã hội, tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. lOMoAR cPSD| 61601492
Tóm lại, luận điểm "Đảng là đạo đức, là văn minh" của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là bản chất lý luận
mà còn là yêu cầu thực tiễn cấp bách trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Việc kiên
trì học tập, quán triệt và thực hiện sâu sắc tư tưởng này là chìa khóa để Đảng ta tiếp tục giữ vững vai trò
lãnh đạo, xứng đáng với niềm tin của nhân dân, đưa đất nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc. lOMoAR cPSD| 61601492
1. Ý nghĩa của luận điểm đối với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam
- Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam như: Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, những thắng lợi trong 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam
1945 - 1975 là thắng lợi của chiến lược giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh theo con đường cách
mạng vô sản, con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ thực tiễn hơn 35 năm thực hiện đường
lối đổi mới toàn diện đất nước cho thấy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Cũng từ chính thực tiễn đó, cho
phép chúng ta khẳng định con đường mà Hồ Chí Minh lựa chọn là hoàn toàn phù hợp với thực
tiễn Việt Nam. Nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, một hệ tư tưởng có giá trị, một học thuyết giải
phóng và phát triển dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân Việt Nam sẽ vượt qua mọi
khó khăn, trở ngại, kiên trì mục tiêu xây dựng Viêt Nam thành một xã hội dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới.
- Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan
xen, nhưng Việt Nam vẫn vượt qua và đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín của Việt Nam không ngừng tăng lên, có được sự thành công đó chính là
chúng ta kiên định tính đảng trong quá trình phát triển. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nêu quan
điểm: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của của
Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đây là quan điểm có tính nguyên tắc, bất di
bất dịch, thể hiện bản lĩnh vững vàng của Đảng, cốt lõi của quan điểm này là kết hợp khoa học sự
kiên định trước sau như một nền tảng tư tưởng, mục tiêu lý tưởng, đường lối đổi mới và nguyên tắc
xây dựng Đảng với tinh thần không ngừng đổi mới sáng tạo trên cơ sở tuân theo các quy luật khách
quan, kế thừa tinh hoa văn hóa, truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và những
kinh nghiệm thành công của quốc tế phù hợp với điều kiện Việt Nam. Kiên định nhưng không cứng
nhắc, bảo thủ, giáo điều dẫn đến trì trệ; đổi mới sáng tạo nhưng không cực đoan, duy ý chí, mạo
hiểm, dẫn đến đổ vỡ. Kiên định một cách sáng tạo, sáng tạo trên cơ sở kiên định, hướng đến mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đại hội XII của Đảng: “Trong quá trình
đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kế thừa
và phát huy tinh hoa văn hoá nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”. Đại
hội XIII của Đảng tiếp tục yêu cầu nắm vững và xử lý tốt những mối quan hệ lớn, phản ánh quy
luật mang tính biện chứng, trong đó, đề cập đến mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phân tích tính tất yếu và những quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay? lOMoAR cPSD| 61601492
1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh
- Nghiên cứu sự phát triển của xã hội loài người, đặc biệt trên cơ sở phân tích mâu thuẫn cơ bản
của chủ nghĩa tư bản - mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng mang tính chất xã hội hóa,
trong khi quan hệ sản xuất lại dựa trên chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, C. Mác (1818 - 1883) và Ph. Ăngghen (1820
1895) đã phát hiện ra xu thế phát triển của xã hội loài người thông qua những kiến giải kinh tế,
chính trị, xã hội. Đó là xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ bị thay thế bởi một xã hội mới mà các ông
gọi là xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người”.
- Trong những điều kiện lịch sử mới, V.I. Lênin đã phát triển tư tưởng cách mạng không ngừng của
C. Mác và Ph. Ăngghen, luận chứng một cách toàn diện khả năng đi tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của các dân tộc thuộc địa, có nền kinh tế lạc hậu, kém phát
triển. Trên nền lý luận chung đó, Hồ Chí Minh đã lĩnh hội những vấn đề mấu chốt, cần thiết nhất
cho nhân dân mình, dân tộc mình. Người khẳng định, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sự vận
động khách quan của lịch sử, là một quá trình của sự thay thế lần lượt các phương thức sản xuất.
Tinh thần của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội được Hồ Chí Minh diễn giải một cách
giản lược, hết sức dễ hiểu. Người viết: “Từ cộng sản nguyên thuỷ đến chế độ nô lệ, đến chế độ
phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - nói chung thì loài người phát
triển theo quy luật nhất định như vậy”. Người chỉ rõ: “Cách sản xuất và sức sản xuất phát triển và
biến đổi mãi, do đó mà tư tưởng của người, chế độ xã hội v.v.. cũng phát triển và biến đổi. Chúng
ta đều biết từ đời xưa đến đời nay, cách sản xuất từ chỗ dùng cành cây, búa đá phát triển dần đến
máy móc, sức điện, sức nguyên tử. Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thuỷ đến
chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài
người đang tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển và tiến
bộ đó không ai ngăn cản được”. Xã hội loài người phát triển theo xu hướng đi lên, các xã hội trước
tạo tiền đề để xã hội sau bước lên một hình thái cao hơn về chất lượng. Nếu chế độ tư bản chủ
nghĩa tất yếu ra đời từ chế độ phong kiến thì chính chủ nghĩa tư bản cũng sẽ xác lập các tiền đề
khách quan để tự phủ định chính nó. Theo Hồ Chí Minh, lôgíc phát triển xã hội cho thấy đã đến
lúc chủ nghĩa tư bản mở đường cho sự ra đời một chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Người
khẳng định: “Không có lực lượng gì ngăn trở được mặt trời mọc.
Không có lực lượng gì ngăn trở được lịch sử loài người tiến lên. Cũng không có lực lượng gì ngăn
trở được chủ nghĩa xã hội phát triển”.
- Theo Hồ Chí Minh, chỉ có đi theo con đường cách mạng vô sản, con đường cách mạng xã hội chủ
nghĩa thì mới có độc lập thật sự và triệt để: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân
tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải
phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn
toàn”. Do đó, Người xác định: “Con đường tiến tới xã hội chủ nghĩa của các dân tộc là con đường