Phân tích vai trò của hệ thống tài chính Việt Nam?
- Khái niệm tài chính: Là sự vận động của vốn tiền tệ, diễn ra ở mọi chủ thểtrong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phânphối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằmđáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45764710
Câu 0: Phân tích vai trò của hệ thống tài chính Việt Nam
- Khái niệm tài chính: Là sự vận động của vốn tiền tệ, diễn ra ở mọi chủ thể
trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân
phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ
nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội - Đặc điểm của tài chính
Về sở hữu: nguồn tài chính, quỹ tiền tệ thuộc mọi thành phần sở hữu.
Về mục đích: Các nguồn tài chính, quỹ tiền tệ luôn được sử dụng, phân
phối vì mục đích tiêu dùng hoặc sinh lời.
Về quy phạm điều chỉnh: gồm cả lĩnh vực luật công và luật tư.
- Vai trò của tài chính công trong hệ thống tài chính Việt Nam:
Thứ nhất, là công cụ tập trung nguồn lực tài chính bảo đảm duy trì sự tồn tại,
hoạt động của Nhà nước và hệ thống chính trị: Tài chính công huy động các nguồn
lực từ mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế, địa vị xã hội để hình thành nên nguồn
tài chính cho toàn quốc gia.
Sau khi đã huy động được nguồn tài chính, thì tài chính công đóng vai trò phân
phối nguồn đó cho từng các chủ thể, đảm bảo sự hoạt đông của toàn bộ máy nhà
nước và thực hiện các chức năng của nhà nước. Và tài chính công thực hiện việc
kiểm tra giám sát, đảm bảo cho các nguồn tài chính đã phân phối được sử dụng một
cách hiệu quả, hợp lý, đúng mục đích.
Tài chính công mà trong đó đặc biệt là Ngân sách nhà nước đóng vai trò chỉ đạo
trong nền kinh tế nhà nước. Tài chính công thực hiện thu các khoản thu các chủ thể
khác trong nền kinh tế để tạo lập quỹ tiền tệ chung. Và tài chính công cũng thực hiện
các hoạt động đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đầu
tư cho khoa học công nghệ, trang thiết bị,… tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể
trong nền kinh tế mở rộng, phát triển.
Thứ hai, là công cụ của Nhà nước để điều tiết vĩ mô nền kinh tế- thị trường,
tạo lập công bằng xã hội: Tài chính công thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao hiệu
quả kinh doanh, định hướng đầu tư, điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế theo lãnh thổ,
ngành nghề, lĩnh vực,.. ví dụ như việc miễn giảm thuế tại các khu vực công nghiệp,
khu vực có điều kiện khó khăn,… nhằm thu hút đầu tư vào các khu vực này.
Tài chính công can thiệp, điều tiết thu nhập xã hội bằng công cụ thuế, để giảm bớt
thu nhập cao, nâng dần các thu nhập thấp, thực hiện các hoạt động về an sinh xã hội, 1 lOMoAR cPSD| 45764710
giúp đỡ các trường hợp khó khăn như trẻ em mồ côi, người khuyết tật,… Câu 1:
Phân tích hệ thống phân cấp quản lý ngân sách nhà nước? a. Khái niệm:
CSPL: Theo quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước 2015
(NSNN), phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc xác định phạm vi, trách nhiệm
và quyền hạn của chính quyền các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách trong việc quản
lý ngân sách nhà nước phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội.
Bản chất: Đây là quá trình cơ quan trung ương phân giao nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm nhất định cho chính quyền địa phương trong quản lý NSNN. Vì: Nếu
NSNN chỉ tập trung vào trung ương, phủ nhận sự tồn tại của ngân sách địa phương,
không chỉ tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ vào ngân sách trung ương cấp cho địa phương
gây ra sự thụ động trong thực hiện nhiệm vụ mà trung ương giao cho địa phương.
Nếu trung ương phân bổ ngân sách cho các địa phương đồng đều thì sẽ gây ra lãng
phí hoặc thiếu hụt tuỳ từng địa phương.
Đặc điểm: ngân sách nhà nước được thể hiện qua các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là một kế hoạch tài chính khổng lồ nhất cần được
Quốc Hội biểu quyết thông qua trước khi thi hành;
Thứ hai, ngân sách nhà nước không phải là một bản kế hoạch tài chính thuần túy
mà nó còn là một đạo luật;
Thứ ba, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, được
trao cho chính phủ tổ chức thực hiện nhưng phải đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Quốc Hội;
Thứ tư, ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi hoàn toàn vì mục tiêu mưu
cầu lợi ích chung cho toàn thể quốc gia, không phân biệt người thụ hưởng các lợi
ích đó là ai, thuộc thành phần kinh tế hay đẳng cấp xã hội nào;
Thứ năm, ngân sách nhà nước luôn phản ánh mối tương quan giữa quyền lập
pháp và quyền hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách. b. Nội dung:
GỒM 3 HOẠT ĐỘNG CHÍNH SAU:
Thứ nhất, quản lý về chế độ, chính sách (cơ quan nào có thẩm quyền quy định
về chế độ, chính sách, định mức, tiêu chuẩn thu, chi và đó là những loại chế độ nào):
CSPL: Điều 19, 20, 21, 22, 26, 30, 31 Luật NSNN 2015 2 lOMoAR cPSD| 45764710
Trong công tác quản lý NSNN thì những quy định về luật pháp, chế độ, chính
sách, tiêu chuẩn thu chi, định mức NSNN có vai trò quan trọng. Các quy định này
không chỉ là những căn cứ quan trọng để xây dựng dự toán NSNN, kiểm soát thu chi
ngân sách mà còn là một trong những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng quản lý và điều
hành NSNN của trung ương và các địa phương. Theo thông lệ thì:
Trung ương có thẩm quyền quyết định ban hành các loại thuế, phí, lệ phí, khoản
vay nợ và các quy định về chính sách, tiêu chuẩn định mức NSNN. Những quy định
này được thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước. Cụ thể là Quốc hội là cơ quan
ban hành Hiến pháp, Luật về quản lý NSNN, Luật về tổ chức của Quốc hội, HĐND
và UBND, các Luật về thuế. Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành Pháp lệnh về phí
và lệ phí. Các chính sách, tiêu chuẩn, định mức NSNN thì do Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ Tài chính ban hành.
Địa phương (Cụ thể là HĐND cấp tỉnh) được ban hành một số khoản thu phí, lệ
phí gắn liền với công tác quản lý nhà nước của địa phương như: đất đai, tài nguyên,
y tế, giáo dục, giao thông vận tải, .... gắn với chức năng quản lý nhà nước của chính
quyền địa phương. Địa phương cũng quy định về các khoản đóng góp của nhân dân
trên địa bàn, chính sách huy động vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thuộc phạm
vi ngân sách địa phương. Địa phương cũng được ban hành một số chế độ chi ngân
sách phù hợp với đặc điểm thực tế ở địa phương còn một số chế độ chi như tiền
lương, tiền công, phụ cấp thì phải xin ý kiến của trung ương trước khi ban hành.
Định mức NSNN là các căn cứ pháp lý để các cơ quan nhà nước xây dựng, quản
lý và giám sát việc thực hiện NSNN. Định mức NSNN bao gồm định mức phân bổ
và định mức chi NSNN. Định mức NSNN thông thường là do Chính phủ ban hành
trong quá trình tổ chức thực hiện và quản lý NSNN.
+ Định mức phân bổ NSNN là mức ngân sách chuẩn làm căn cứ tính toán để
xây dựng dự toán và phân bổ ngân sách cho các đơn vị sử dụng, các Bộ và các cơ
quan thuộc NSĐP theo từng lĩnh vực cụ thể (an ninh, quốc phòng, quản lý hành
chính, y tế, giáo dục...). Định mức phân bổ NSNN là một trong những căn cứ để lập
dự toán NSNN và phân bổ ngân sách cho các ngành, các địa phương. Định mức phân
bổ NSNN là căn cứ để lập, thẩm định, quyết định dự toán ngân sách các Bộ, cơ quan
trung ương, các địa phương và phục vụ cho cho công tác điều hành và quản lý NSNN.
+ Định mức chi NSNN là những định mức được quy định cho từng mục chi cụ
thể như tiền lương, tiền công, phụ cấp, tiền thưởng, hội nghị, công tác phí .v.v. Định
mức chi NSNN là một trong những căn cứ pháp lý để tính toán, giải trình, quyết định
dự toán chi thường xuyên và là công cụ để kiểm soát việc thực hiện dự toán chi 3 lOMoAR cPSD| 45764710
thường xuyên của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương sau một năm hoạt động.
Thứ hai, quản lý về nguồn thu và nhiệm vụ chi (sự phát triển giữa các địa
phương ko đồng đều vì vậy cần có sự bổ sung cân đối ngân sách từ NS cấp trên cho NS cấp dưới);
CSPL: Điều 35, 36, 37, 38 Luật NSNN 2015
Phân cấp quản lý nguồn thu và nhiệm vụ chi NSNN cho từng cấp ngân sách trong
hệ thống NSNN là nội dung quan trọng của các quy định về phân cấp quản lý NSNN.
Cụ thể đó là việc xác định NSTƯ và NSĐP được thu những khoản nào và thực hiện
những nhiệm vụ chi cụ thể nào trong quá trình quản lý. Đây là vấn đề phức tạp và
khó khăn nhất trong việc phân cấp quản lý NSNN. Sự khó khăn này bắt nguồn từ sự
phát triển không đồng đều giữa các địa phương, sự khác biệt về các điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội giữa các vùng miền.
Nguồn thu: Thông thường trung ương được phân cấp quản lý các nguồn thu ngân
sách lớn, những khoản thu có tính chất tập trung quan trọng không gắn trực tiếp với
công tác quản lý của địa phương như: thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thu từ dầu
thô, thuế thu nhập doanh nghiệp do trung ương quản lý, ....
Địa phương được phân cấp nguồn thu ngân sách gắn trực tiếp với công tác quản
lý nhà nước tại địa phương như: thuế nhà, thuế đất, thuế môn bài, thuế thu nhập cá
nhân, một số loại phí .v.v.
Nhiệm vụ chi: Đi liền với sự phân cấp quản lý nguồn thu ngân sách nhà nước
giữa trung ương và địa phương thì gắn với thẩm quyền tiến hành tổ chức thu và kiểm
tra giám sát và hạch toán các khoản thu này để phục vụ cho công tác quản lý NSNN.
Trung ương phải thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách cho các hoạt động có tính chất
chiến lược, quan trọng của quốc gia như: chi đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, chi
cho quốc phòng, an ninh, chi cho giáo dục, y tế, chi an sinh xã hội ... và chi hỗ trợ
các địa phương chưa cân đối được ngân sách.
Địa phương cũng thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách chủ yếu gắn liền với việc thực
hiện nhiệm vụ quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh do địa phương trực tiếp
quản lý. Việc thực hiện phân cấp quản lý NSNN trong điều kiện tự nhiên, xã hội và
trình độ quản lý ở các địa phương khác nhau là động lực quan trọng cho các địa
phương phát huy khả năng góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội . 4 lOMoAR cPSD| 45764710
Trong quá trình phân cấp quản lý nguồn thu và nhiệm vụ chi NSNN thì NSTƯ
thực hiện bổ sung NSĐP qua hai hình thức là bổ sung cân đối ngân sách và bổ sung ngân sách có mục tiêu.
Khi nguồn thu của địa phương không đủ đáp ứng nhu cầu chi ngân sách của địa
phương đó thì NSTƯ sẽ thực hiện việc cấp bổ sung ngân sách cho NSĐP hoặc khi
trung ương thực hiện một số một số chính sách nào đó của quốc gia thì sẽ có sự bổ
sung ngân sách từ trung ương cho địa phương.
Thứ ba, quản lý chu trình ngân sách (gồm 3 giai đoạn: lập dự toán - chấp hành
dự toán - quyết toán NS).
Phân cấp quản lý trong thực hiện chu trình ngân sách nhà nước được thể hiện
trong ba giai đoạn của chu trình ngân sách nhà nước, đó là:
- Giai đoạn lập dự toán ngân sách nhà nước: bao gồm giai đoạn chuẩn bị lập
dự toán ngân sách nhà nước (công việc này liên quan đến thẩm quyền của Chính
phủ và UBND ở địa phương) và giai đoạn thẩm tra, xem xét, thảo luận, quyết định
phê chuẩn dự toán và phân bổ ngân sách nhà nước (công việc này liên quan đến
thẩm quyền của Quốc hội và HĐND ở địa phương).
- Giai đoạn chấp hành ngân sách nhà nước: bao gồm từ việc tổ chức thu ngân
sách, tổ chức chi ngân sách, cấp phát kinh phí đến các công việc kiểm tra, giám sát
việc chấp hành ngân sách. (công việc này liên quan đến thẩm quyền của Chính phủ, UBND ở địa phương).
- Giai đoạn quyết toán ngân sách nhà nước: bao gồm các công việc ghi chép
sổ sách, công tác kế toán, kiểm toán thu chi ngân sách sau khi dự toán ngân sách đã
được thực hiện trong thực tế. (những công việc này liên quan đến thẩm quyền của
các cơ quan ở trung ương là Quốc hội, Chính phủ, kiểm toán nhà nước và các cơ
quan quản lý ở địa phương như HĐND và UBND tỉnh).
Các giai đoạn của chu trình ngân sách nhà nước nói trên gắn liền với các quyền
quyết định, quyền quản lý, quyền kiểm tra giám sát, quyền tổ chức thực hiện của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Câu 2: Phân tích những nguyên tắc của Ngân sách nhà nước.
a. Khái niệm Ngân sách nhà nước:
CSPL: Theo quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước 2015
(NSNN), phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc xác định phạm vi, trách nhiệm
và quyền hạn của chính quyền các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách trong việc quản
lý ngân sách nhà nước phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội. 5 lOMoAR cPSD| 45764710
Bản chất: Đây là quá trình cơ quan trung ương phân giao nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm nhất định cho chính quyền địa phương trong quản lý NSNN. Vì: Nếu
NSNN chỉ tập trung vào trung ương, phủ nhận sự tồn tại của ngân sách địa phương,
không chỉ tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ vào ngân sách trung ương cấp cho địa phương
gây ra sự thụ động trong thực hiện nhiệm vụ mà trung ương giao cho địa phương.
Nếu trung ương phân bổ ngân sách cho các địa phương đồng đều thì sẽ gây ra lãng
phí hoặc thiếu hụt tuỳ từng địa phương.
Đặc điểm: ngân sách nhà nước được thể hiện qua các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là một kế hoạch tài chính khổng lồ nhất cần được
Quốc Hội biểu quyết thông qua trước khi thi hành;
Thứ hai, ngân sách nhà nước không phải là một bản kế hoạch tài chính thuần túy
mà nó còn là một đạo luật;
Thứ ba, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, được
trao cho chính phủ tổ chức thực hiện nhưng phải đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Quốc Hội;
Thứ tư, ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi hoàn toàn vì mục tiêu mưu
cầu lợi ích chung cho toàn thể quốc gia, không phân biệt người thụ hưởng các lợi
ích đó là ai, thuộc thành phần kinh tế hay đẳng cấp xã hội nào;
Thứ năm, ngân sách nhà nước luôn phản ánh mối tương quan giữa quyền lập pháp
và quyền hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách.
b. Nội dung các nguyên tắc của Ngân sách nhà nước
Thứ nhất, nguyên tắc ngân sách nhất niên:
Xét về phương diện nội dung, nguyên tắc này có ba khía cạnh cơ bản:
+ Nguyên tắc này giúp Quốc Hội dễ kiểm soát. Mỗi năm, quốc hội (với tư cách là
cơ quan nắm quyền - lập pháp) sẽ biểu quyết ngân sách một lần theo hạn kỳ do luật định.
+ Nguyên tắc này giúp phát huy hiệu quả của các nguồn thu chi.
+ Năm ngân sách VN từ 01/01 đến 31/12: Bản dự toán ngân sách nhà nước sau
khi đã được quốc hội quyết định chỉ có giá trị hiệu lực thi hành trong một năm và
chính phủ - với tư cách là cơ quan nắm quyền hành pháp cũng chỉ được phép thi hành trong năm đó.
Thứ hai, nguyên tắc ngân sách đơn nhất: Trình bày trong 01 văn bản duy nhất,
đó là bản dự toán ngân sách nhà nước sẽ được Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn để thực hiện. 6 lOMoAR cPSD| 45764710
Nếu các khoản thu và chi lại trình bày trong nhiều văn bản khác nhau sẽ gây khó
khăn cho việc thiết lập một ngân sách thăng bằng và hiệu quả, mà lại còn khiến cho
Quốc hội cũng khó kiểm soát, lựa chọn được những khoản thu, chi nào là cần thiết
hay quan trọng để phê chuẩn cho phù hợp với nhu cầu và đòi hỏi của nền KT- XH.
Chẳng hạn, có hai việc chi: một việc cần thiết và một việc không quá mang tính
cấp bách. Nếu đem hai việc đó trình Quốc hội định đoạt một thời điểm chắc chắn
Quốc hội sẽ chọn việc chi tiêu cần thiết, nếu không có đủ kinh phí để tài trợ cho cả
hai việc. Trong khi nếu việc trình Quốc hội chia làm nhiều thời điểm khác nhau và
việc chi tiêu không quá cần thiết được trình trước thì Quốc hội sẽ thông qua việc chi
này vì chưa biết được liệu trong tương lai có việc chi nào khẩn cấp hơn. Nguyên tắc
này cho ta biết rõ dung lượng tổng cộng của ngân sách, không quên một khoản nào
cũng không có khoản nào bị thi hành tới 2 lần.
Thứ ba, nguyên tắc ngân sách toàn diện: Mọi khoản thu chi phải thể hiện đầy
đủ trong dự toán: Nguyên tắc này có thể được diễn tả bằng hai nội dung cơ bản sau đây:
+ Mọi khoản thu và chi đều phải ghi và thể hiện rõ ràng trong bản dự toán ngân
sách nhà nước hàng năm đã được Quốc hội quyết định; không được phép để ngoài
dự toán ngân sách bất kỳ khoản thu, chi nào dù là nhỏ nhất.
+ Các khoản thu và các khoản chỉ không được phép bù trừ cho nhau mà phải thể
hiện rõ ràng từng khoản thu và mỗi khoản chi trong mục lục ngân sách nhà nước
được duyệt, không được phép dùng riêng một khoản thu cho một khoản chi cụ thể
nào mà mọi khoản thu đều được dùng để tài trợ cho mọi khoản chỉ. Tất nhiên, khi
áp dụng nguyên tác này cần tính đến việc phải tuân thủ nguyên tắc “Các khoản đi
vay để bù đắp bội chi ngân sách không được sử dụng để chi tiêu dùng mà chỉ được
sử dụng để chi cho đầu tư phát triển”.
Với hai nội dung cơ bản nêu trên, việc thực hiện nguyên tác ngân sách toàn diện
sẽ bảo đảm cho bản dự toán ngân sách được thiết lập rõ ràng, cụ thể, minh bạch, đầy
đủ và dễ kiểm soát, tránh sự gian lận hay biến thủ công quý trong quá trình thực hiện
dự toán ngân sách nhà nước hàng năm.
Thứ tư, nguyên tắc ngân sách thăng bằng: Cân đối thu chi, được thể hiện rõ
qua Điều 7 Luật NSNN năm 2015, nguyên tắc ngân sách thăng bằng được hiểu là
tất cả các khoản thu đều phải bằng tất cả các khoản chi. Sự thăng bằng giữa các
khoản thu và chi ngân sách phải được xác lập ngay từ khi lập dự toán ngân sách cho
đến khi thực hiện xong kế hoạch dự toán đó. Tuy nhiên, trên thực tế, nguyên tắc
thăng bằng chỉ được hiểu ở mức tương đối là các khoản thu chi phải tương ứng với 7 lOMoAR cPSD| 45764710
nhau vì khả năng thu cũng như nhu cầu chi tiêu của mỗi quốc gia trong một năm
thường xuyên biến đổi không ngừng, dưới sự tác động của rất nhiều yếu tố.
Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, sự mất thăng bằng của ngân sách nhà nước
đều có thể dẫn đến những hậu quả bất lợi. Chẳng hạn, nếu tổng số chi lớn hơn tổng
số thu (có nghĩa xảy ra tình trạng bội chi ngân sách nhà nước) thì số bội chi này
thường ít có khả năng bù đắp nổi bằng các khoản thuế hay các khoản vay nợ, viện
trợ nước ngoài mà đôi khi phải sử dụng đến giải pháp vay nợ ngắn hạn từ Ngân hàng
trung lương, nghĩa là phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các khoản
thâm hụt ngân sách nhà nước. Hậu quả là việc áp dụng giải pháp này có thể sẽ gây
ra tình trạng lạm phát tiền tệ, nếu Chính Phủ cứ lạm dụng việc vay tiền từ Ngân hàng
trung ương để bù đắp bội chi ngân sách hàng năm. Ngược lại, nếu tổng số thu lớn
hơn tổng số chi (có nghĩa là bội thu ngân sách) thì hậu quả về phương diện kinh tế
lẫn phương diện tài chính đều không phải hoàn toàn có lợi, bởi lẽ khi đó sẽ có một
số lượng vốn ngân sách (tư bản) không được Chính Phủ đem ra sử dụng cho nhu cầu
phát triển kinh tế – xã hội vốn không ngừng gia tăng và phát triển. Một khoản tiền
của quốc gia sẽ không được đưa vào lưu thông sử dụng, nền kinh tế trong nước như
vậy sẽ mất đi một khoản lợi tức. Mặt khác, việc dư thừa một nguồn vốn ngân sách
đáng kể trong Kho bạc nhà nước sẽ dễ dàng tạo ra tâm lý sử dụng ngân sách không
tiết kiệm và kém hiệu quả, đồng thời cũng có thể tạo ra cơ hội cho một số nhân viên
công quyền tìm cách tham ô, biến thủ công quỹ để mưu lợi cá nhân.
Câu 3: Phân tích vai trò của Ngân sách nhà nước?
a. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của Ngân sách nhà nước:
CSPL: Theo quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước 2015
(NSNN), phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc xác định phạm vi, trách nhiệm
và quyền hạn của chính quyền các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách trong việc quản
lý ngân sách nhà nước phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội.
Bản chất: Đây là quá trình cơ quan trung ương phân giao nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm nhất định cho chính quyền địa phương trong quản lý NSNN. Vì: Nếu
NSNN chỉ tập trung vào trung ương, phủ nhận sự tồn tại của ngân sách địa phương,
không chỉ tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ vào ngân sách trung ương cấp cho địa phương
gây ra sự thụ động trong thực hiện nhiệm vụ mà trung ương giao cho địa phương.
Nếu trung ương phân bổ ngân sách cho các địa phương đồng đều thì sẽ gây ra lãng
phí hoặc thiếu hụt tuỳ từng địa phương.
Đặc điểm: ngân sách nhà nước được thể hiện qua các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là một kế hoạch tài chính khổng lồ nhất cần được
Quốc Hội biểu quyết thông qua trước khi thi hành; 8 lOMoAR cPSD| 45764710
Thứ hai, ngân sách nhà nước không phải là một bản kế hoạch tài chính thuần túy
mà nó còn là một đạo luật;
Thứ ba, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, được
trao cho chính phủ tổ chức thực hiện nhưng phải đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Quốc Hội;
Thứ tư, ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi hoàn toàn vì mục tiêu mưu
cầu lợi ích chung cho toàn thể quốc gia, không phân biệt người thụ hưởng các lợi
ích đó là ai, thuộc thành phần kinh tế hay đẳng cấp xã hội nào;
Thứ năm, ngân sách nhà nước luôn phản ánh mối tương quan giữa quyền lập pháp
và quyền hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách.
b. Nội dung về vai trò của ngân sách nhà nước
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là công cụ phân phối của nhà nước đối với lợi
tức quốc gia: Ngân sách nhà nước có chức năng huy động nguồn lực tài chính để
hình thành các quỹ tiền tệ tập trung, đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Đây
là vai trò quan trọng nhất của ngân sách nhà nước, giúp cho nhà nước thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của mình. Vai trò này thể hiện qua việc quy định nguồn thu,
nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp tại chương III Luật Ngân sách nhà nước 2015.
Ví dụ: Điều 35 quy định về nguồn thu của ngân sách trung ương, như: thuế xuất,
nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng từ hàng hóa nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt từ hàng
hóa nhập khẩu, thuế bảo vệ môi trường từ hàng hóa nhập khấu,…
Thứ hai, ngân sách nhà nước là công cụ điều tiết các hoạt động kinh tế: Vai trò
này xuất phát từ yêu cầu khắc phục những khuyết tật vốn có của nền kinh tế thị
trường thông qua việc điều hòa các nguồn tài chính giữa các vùng kinh tế, các ngành
kinh tế, thông qua việc hướng dẫn, kích thích hay hạn chế sản xuất, tiêu dùng bằng
các chính sách thuế, tài chính, ngân sách nhà nước điều tiết thu nhập của các chủ thể
khác nhau trong xã hội; điều chỉnh giá cả, ổn định thị trường, chống lạm phát, cân
bằng giữa tích lũy, đầu tư và tiêu dùng.
Luật Ngân sách nhà nước 2015 quy định về chi cho đầu tư phát triển tại khoản 1
điều 36 bao gồm chi đầu tư cho các dự án, đầu tư, hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp cung
cấp sản phẩm, dịch vụ công ích do nhà nước đặt hàng, các tổ chức kinh tế, các tổ
chức tài chính của trung ương, đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, ngân sách nhà nước là công cụ hướng dẫn tiêu dùng xã hội: Bằng
chính sách thuế, nhà nước có thể thông qua hoạt động ngân sách nhà nước để thực 9 lOMoAR cPSD| 45764710
hiện ưu đãi cho các đối tượng chính sách, điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự bất bình đẳng xã hội.
Ngân sách nhà nước cung cấp phương tiện để nhà nước thực hiện trợ cấp xã hội,
phúc lợi công cộng. Khoản 3 Điều 36 Luật ngân sách nhà nước chỉ rõ: vai trò điều
tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội, trợ giúp trực tiếp dành cho những
người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như: chi trợ cấp xã hội, chi cho sự
nghiệp giáo dục, khoa học và công nghệ, văn hóa thông tin, y tế, dân số và gia đình,
bảo vệ môi trường, chi cho bảo đảm xã hội, …
Ví dụ: xây dựng khu công nghiệp tạo công ăn việc làm cho người dân.
* Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động ngân sách:
Vì nó giúp điều hoà các lợi ích công và tư thông qua chế độ thuế và duy trì và bảo
vệ các lợi ích đó trong quá trình thực hiện hoạt động NSNN;
Câu 4: Phân tích hệ thống quản lý Ngân sách nhà nước và các nguyên tắc của
quản lý ngân sách nhà nước?
a. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của Ngân sách nhà nước:
CSPL: Theo quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước 2015
(NSNN), phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc xác định phạm vi, trách nhiệm
và quyền hạn của chính quyền các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách trong việc quản
lý ngân sách nhà nước phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội.
Bản chất: Đây là quá trình cơ quan trung ương phân giao nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm nhất định cho chính quyền địa phương trong quản lý NSNN. Vì: Nếu
NSNN chỉ tập trung vào trung ương, phủ nhận sự tồn tại của ngân sách địa phương,
không chỉ tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ vào ngân sách trung ương cấp cho địa phương
gây ra sự thụ động trong thực hiện nhiệm vụ mà trung ương giao cho địa phương.
Nếu trung ương phân bổ ngân sách cho các địa phương đồng đều thì sẽ gây ra lãng
phí hoặc thiếu hụt tuỳ từng địa phương.
Đặc điểm: ngân sách nhà nước được thể hiện qua các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là một kế hoạch tài chính khổng lồ nhất cần được
Quốc Hội biểu quyết thông qua trước khi thi hành;
Thứ hai, ngân sách nhà nước không phải là một bản kế hoạch tài chính thuần túy
mà nó còn là một đạo luật;
Thứ ba, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, được
trao cho chính phủ tổ chức thực hiện nhưng phải đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Quốc Hội; 10 lOMoAR cPSD| 45764710
Thứ tư, ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi hoàn toàn vì mục tiêu mưu
cầu lợi ích chung cho toàn thể quốc gia, không phân biệt người thụ hưởng các lợi
ích đó là ai, thuộc thành phần kinh tế hay đẳng cấp xã hội nào;
Thứ năm, ngân sách nhà nước luôn phản ánh mối tương quan giữa quyền lập
pháp và quyền hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách.
b. Khái niệm về nội dung quản lý ngân sách nhà nước:
- Quản lý ngân sách nhà nước là hoạt động của các chủ thể quản lý ngân sách
nhà nước thông qua việc sử dụng có chủ định các phương pháp quản lý và các công
cụ quản lý để tác động và điều khiển hoạt động của ngân sách nhà nước nhằm đạt
được các mục tiêu đã định.
- Nội dung quản lý NSNN được hiểu là các công việc mà cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền phải thực hiện để quản lý NSNN sao cho có hiệu quả, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia. Nội dung quản lý NSNN có liên
quan đến hoạt động thu, chi NSNN. Nội dung quản lý NSNN được thể hiện trên các nội dung sau:
Ban hành luật pháp, chính sách, chế độ, định mức về NSNN. Quản lý thu, chi NSNN
Quản lý thực hiện chu trình NSNN
c. Nội dung quản lý ngân sách nhà nước:
Thứ nhất, ban hành luật pháp, chính sách, tiêu chuẩn, định mức ngân sách nhà nước
Quốc hội có thẩm quyền ban hành Luật Ngân sách nhà nước, các luật thuế như:
thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế tiêu
thụ đặc biệt .v.v. và các Nghị quyết của Quốc hội có liên quan đến quản lý sử dụng
NSNN ví dụ như Nghị quyết về phê duyệt dự toán NSNN, quyết toán NSNN, phân bổ NSTƯ.
UBTVQH ban hành Pháp lệnh về phí, lệ phí, tỷ lệ phân chia ngân sách giữa trung
ương và địa phương của một số khoản thu NSNN.
Các văn bản luật pháp khác được Chính phủ và các cơ quan thuộc Chính phủ ban
hành để hướng dẫn thực hiện các Luật do Quốc hội thông qua. Cụ thể là Nghị định
của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng chính phủ, Thông tư của các Bộ được ban
hành theo thẩm quyền trong công tác quản lý NSNN. 11 lOMoAR cPSD| 45764710
Các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương quyết định ban hành các quy định
luật pháp, các chế độ, tiêu chuẩn, định mức NSNN. Các quy định này được thực hiện
thống nhất trong cả nước.
Ở địa phương thì HĐND và UBND cũng ban hành một số văn bản theo thẩm
quyền để thực hiện công tác quản lý ngân sách của địa phương. Đó là các Nghị quyết
của HĐND cấp tỉnh, Quyết định của UBND tỉnh về chế độ, chính sách, định mức NSĐP.
Đối với một số nhiệm vụ chi có tính chất đặc thù ở địa phương, HĐND cấp tỉnh
được quyết định chế độ chi ngân sách, phù hợp với đặc điểm thực tế ở địa phương.
Riêng những chế độ chi có tính chất tiền lương, tiền công, phụ cấp, trước khi quyết
định phải có ý kiến của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực.
HĐND cấp tỉnh quyết định một số chế độ thu một số loại phí gắn với việc quản lý
đất đai, tài nguyên thiên nhiên, gắn với chức năng quản lý nhà nước của địa phương
và các khoản đóng góp của nhân dân. Việc huy động vốn để đầu tư xây dựng công
trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách địa phương cũng được HĐND tỉnh quyết định.
Các quy định do HDND tỉnh ban hành thì được áp dụng trong phạm vi của địa
phương. UBND cấp tỉnh báo cáo Bộ Tài chính việc ban hành các chế độ, định mức
ngân sách ở địa phương để tổng hợp và giám sát việc thực hiện.
Thứ hai, quản lý thu, chi ngân sách nhà nước:
Quản lý thu chi NSNN là nội dung quan trọng trong quản lý NSNN.
Quản lý thu NSNN
Quản lý thu NSNN được hiểu là các cơ quan làm nhiệm vụ thu NSNN lập kế
hoạch, tổ chức triển khai thu và phối hợp kiểm tra, đánh giá quá trình thu NSNN.
Yêu cầu của quản lý thu NSNN là phải đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các
khoản thu NSNN theo đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó cần phải có những
giải pháp chống thất thu NSNN. Quản lý thu NSNN sẽ tập trung vào một số vấn đề
chủ yếu như xác lập hệ thống chính sách thu, lập kế hoạch thu và các biện pháp thu,
thực hiện quy trình thu và tổ chức bộ máy thu phù hợp.
Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, cùng với viêc triển khai các biện pháp thu
NSNN thì phải không ngừng cải tiến quy trình thu, đảm bảo cho số thu nộp vào
NSNN đầy đủ và kịp thời. Công tác thống kê, kế toán cũng cần phải phản ánh trung
thực số thu của NSNN và công tác này cũng cần được đổi mới và cải tiến để đáp ứng yêu cầu thu NSNN. 12 lOMoAR cPSD| 45764710
Đẩy mạnh công tác phân cấp quản lý thu NSNN giữa các cấp ngân sách sẽ phát
huy sức mạnh tổng hợp trong bộ máy quản lý thu nhằm thực hiện dự toán thu NSNN.
Thêm vào đó hoạt động kiểm tra giám sát quá trình tổ chức thu nộp NSNN cũng rất
quan trọng. Việc kiểm tra giám sát các khoản thu nộp NSNN được tiến hành trên cơ
sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến các tổ chức và cá nhân thực hiện nghĩa
vụ đối với NSNN. Kiểm tra giám sát thu nộp các khoản thu NSNN không chỉ đảm
bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời các khoản thu mà còn đảm bảo yêu cầu tuân thủ các
quy định pháp luật về thu NSNN, phát hiện những quy định không còn phù hợp để kiến nghị sửa đổi.
Quản lý chi:
Quản lý chi NSNN là việc ban hành các chính sách chi ngân sách, lập kế hoạch,
tổ chức điều hành chi ngân sách và kiểm tra, giám sát các khoản chi NSNN.
Nhà nước ban hành các chính sách về chi NSNN theo các mục tiêu đề ra. Các
chính sách chi NSNN liên quan đến việc thực hiện vai trò của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường, tập trung vào những lĩnh vực chi quan trọng quốc gia, đầu tư cho
các mục tiêu chiến lược kinh tế – xã hội, các dự án quan trọng của quốc gia và thực
hiện công bằng xã hội.
Nhà nước ban hành định mức phân bổ và định mức chi NSNN. Các định mức
NSNN này là cơ sở để tổ chức điều hành chi NSNN. Cơ quan tài chính có trách
nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện chi ngân sách ở các cơ quan nhà nước. Kho
bạc Nhà nước thực hiện việc kiểm soát chi NSNN, nếu không đủ điều kiện chi thì
Kho bạc Nhà nước có quyền từ chối khoản chi đó.
Trong quá trình thực hiện quản lý thu chi NSNN ở trung ương và địa phương thì
vai trò giám sát của các cơ quan như Quốc hội và HĐND được đề cao. Các cơ quan
quản lý thu chi ngân sách thường xuyên có các báo cáo với các cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền và chịu sự giám sát của Quốc hội và HĐND cấp tỉnh dưới nhiều
hình thức khác nhau như báo cáo theo chuyên đề, tổ chức đoàn giám sát, giám sát
trước và sau kỳ họp của Quốc hội và HĐND.
Thứ ba, quản lý thực hiện chu trình ngân sách nhà nước
Chu trình NSNN được hiểu là toàn bộ hoạt động của một ngân sách kể từ khi bắt
đầu hình thành cho tới khi kết thúc chuyển sang một ngân sách mới. Một chu trình
ngân sách gồm ba giai đoạn đó là lập dự toán NSNN, chấp hành NSNN và quyết toán NSNN.
Quản lý thực hiện chu trình NSNN được chia thành 3 giai đoạn chính: 13 lOMoAR cPSD| 45764710
Quản lý việc lập dự toán NSNN: giai đoạn này bao gồm công việc chuẩn bị lập
dự toán NSNN và công việc thẩm tra, xem xét, thảo luận, quyết định phê chuẩn dự
toán NSNN và phân bổ NSNN.
Giai đoạn này nhằm đạt được mục tiêu huy động nguồn lực đảm bảo việc thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Phân bổ nguồn ngân sách phù hợp với
chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Quy trình lập dự toán NSNN có thể diễn ra theo ba cách:
(i) Dự toán NSNN được xây dựng từ cấp trên và áp đặt cho cấp dưới. (ii)
Dự toán NSNN được xây dựng từ cấp dưới rồi đệ trình lên cấp
trên trongđó có thảo luận để điều chỉnh dự toán. (iii)
Sự kết hợp của hai cách trên.
Quản lý việc chấp hành NSNN: bao gồm từ việc tổ chức tiến hành thu và tổ chức
chi NSNN, cấp phát kinh phí đến các công việc kiểm tra, giám sát việc chấp hành
NSNN. Quản lý việc chấp hành NSNN nhằm mục tiêu biến các chỉ tiêu thu chi
NSNN thành hiện thực, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế –xã hội của
quốc gia. Quản lý việc chấp hành NSNN là phải đáp ứng yêu cầu tuân thủ theo các
quy định pháp luật cho phép. Ngoài ra cần phải giải quyết kịp thời những phát sinh trong quá trình quản lý.
Tổ chức chấp hành thu và chi NSNN cần được đảm bảo phải theo đúng pháp luật,
đúng dự toán và nguồn kinh phí cho các nhu cầu đã cam kết. Các khoản chi NSNN
chịu sự kiểm soát của Kho bạc nhà nước trong quá trình thanh toán, sử dụng ngân sách.
Quản lý quyết toán NSNN : bao gồm các công việc ghi chép, kế toán, kiểm toán
hoạt động thu chi NSNN sau khi dự toán NSNN đã được thực hiện.
Quyết toán NSNN nếu được thực hiện tốt sẽ có ý nghĩa quan trọng với việc đánh
giá ngân sách và rút kinh nghiệm cho chu trình ngân sách tiếp theo.
Quản lý quyết toán NSNN phải phản ánh đầy đủ số liệu thu chi NSNN, giải trình
về sự tuân thủ các quy định pháp luật về quản lý thu chi ngân sách, báo cáo về tính
hiệu lực và hiệu quả của các thu chi ngân sách.
Báo cáo quyết toán NSNN phải kèm theo báo cáo thuyết minh nguyên nhân tăng
giảm các khoản thu chi ngân sách so với dự toán. Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm
kiểm toán báo cáo quyết toán NSNN trước khi Quốc hội, HĐND phê chuẩn. 14 lOMoAR cPSD| 45764710
Các giai đoạn quản lý chu trình NSNN gắn liền với các quyền quyết định, quyền
tổ chức thực hiện, quyền kiểm tra giám sát của các cơ quan nhà nước được giao thẩm quyền ở các cấp.
* Các nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước:
Theo Điều 8 Luật Ngân sách nhà nước 2015 quy định rất rõ về nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước.
Thứ nhất, nguyên tắc thống nhất trong tổ chức ngân sách nhà nước: theo
nguyên tắc này thì mọi khoản thu, chi của một cấp chính quyền phải được đưa vào
một bản kế hoạch ngân sách thống nhất. Thống nhất quản lý chính là việc tuân thủ
một khung khổ chung từ việc hình thành, sử dụng, thanh tra, kiểm tra, quyết toán,
xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện NSNN. Thực hiện
nguyên tắc thống nhất này sẽ đảm bảo tính bình đẳng, công bằng, hiệu quả và hạn
chế những tiêu cực, những rủi ro có tính chất chủ quan khi quyết định các khoản chi tiêu ngân sách.
Để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống ngân sách cần phải thực hiện ba yêu cầu chủ yếu sau:
Một là, phải thể chế hóa thành pháp luật mọi chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn,
định mức về thu, chi ngân sách.
Hai là, phải đảm bảo sự nhất quán trên phạm vi toàn quốc về hệ thống và chuẩn
mực kế toán, về phương thức báo cáo, về trình tự lập, phê chuẩn, chấp hành và quyết
toán ngân sách nhà nước.
Ba là, phải tạo cơ sở pháp lý cho việc thiết lập mối quan hệ giữa ngân sách cấp
trên và ngân sách cấp dưới trong việc điều chuyển nguồn vốn giữa các cấp ngân sách này.
Thứ hai, nguyên tắc độc lập và tự chủ của các cấp ngân sách nhà nước: mỗi
cấp chính quyền nhà nước đều phải thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa
bàn của mình. Để đảm bảo các cấp chính quyền có thể chủ động trong việc thực hiện
chức năng của mình thì mỗi cấp chính quyền đều cần có nguồn vốn tiền tệ nhất định.
Nói cách khác, các cấp chính quyền nhà nước hay các cấp ngân sách cần có sự độc
lập, tự chủ ở chừng mực nhất định trong quá trình thực hiện chức năng của mình.
Để đảm bảo ngân sách mọi cách được Độc lập và tự chủ, một mặt cần phân ra các
nguồn thu và các nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách, mặt khác cần cho phép mỗi
cấp ngân sách có quyền quyết định ngân sách của cấp mình.
Thứ ba, nguyên tắc tập trung quyền lực trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa
các cấp chính quyền nhà nước trong hoạt động ngân sách: tập trung quyền lực thể 15 lOMoAR cPSD| 45764710
hiện ở quyền quyết định của Quốc hội và sự điều hành thống nhất của chính phủ đối
với ngân sách nhà nước; thể hiện ở vai trò chủ đạo của chính quyền trung ương trong
việc sử dụng ngân sách trung ương để thực hiện những nhiệm vụ chiến lược, quan
trọng của quốc gia, những chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô và hỗ trợ những địa
phương có khó khăn phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo.
Còn phân định thẩm quyền giữa các cấp chính quyền nhà nước trong hoạt động
ngân sách có nghĩa là xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng cấp chính
quyền nhà nước trong việc thực hiện các hoạt động thu, chi ngân sách. Nguyên tắc
này đòi hỏi một mặt phải bảo đảm quyền quyết định tối cao Quốc hội và quyền thống
nhất điều hành của chính phủ trong tổ chức và quản lý ngân sách nhà nước; mặt khác
vẫn bảo đảm tạo tính chủ động đồng thời với tăng cường trách nhiệm cho chính
quyền địa phương trong quá trình chấp hành ngân sách nhà nước để giải quyết những
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn. 16 lOMoAR cPSD| 45764710
Câu 5: Phân tích từng giai đoạn của quá trình Ngân sách nhà nước?
a. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của Ngân sách nhà nước:
CSPL: Theo quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước 2015
(NSNN), phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc xác định phạm vi, trách nhiệm
và quyền hạn của chính quyền các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách trong việc quản
lý ngân sách nhà nước phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội.
Bản chất: Đây là quá trình cơ quan trung ương phân giao nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm nhất định cho chính quyền địa phương trong quản lý NSNN. Vì: Nếu
NSNN chỉ tập trung vào trung ương, phủ nhận sự tồn tại của ngân sách địa phương,
không chỉ tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ vào ngân sách trung ương cấp cho địa phương
gây ra sự thụ động trong thực hiện nhiệm vụ mà trung ương giao cho địa phương.
Nếu trung ương phân bổ ngân sách cho các địa phương đồng đều thì sẽ gây ra lãng
phí hoặc thiếu hụt tuỳ từng địa phương.
Đặc điểm: ngân sách nhà nước được thể hiện qua các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là một kế hoạch tài chính khổng lồ nhất cần được
Quốc Hội biểu quyết thông qua trước khi thi hành;
Thứ hai, ngân sách nhà nước không phải là một bản kế hoạch tài chính thuần túy
mà nó còn là một đạo luật;
Thứ ba, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, được
trao cho chính phủ tổ chức thực hiện nhưng phải đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Quốc Hội;
Thứ tư, ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi hoàn toàn vì mục tiêu mưu
cầu lợi ích chung cho toàn thể quốc gia, không phân biệt người thụ hưởng các lợi
ích đó là ai, thuộc thành phần kinh tế hay đẳng cấp xã hội nào;
Thứ năm, ngân sách nhà nước luôn phản ánh mối tương quan giữa quyền lập pháp
và quyền hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách.
b. Nội dung các giai đoạn của quá trình Ngân sách nhà nước THỨ
NHẤT, GIAI ĐOẠN LẬP DỰ TOÁN NSNN:
- Khái niệm: Lập dự toán NSNN là quá trình xây dựng và quyết định dự toán
thu, chi NS của Nhà nước trong thời hạn một năm. - Ý nghĩa:
Là khâu quan trọng của quá trình ngân sách, tạo tiền đề, cơ sở cho các khâu
tiếp theo của quá trình NSNN. 17 lOMoAR cPSD| 45764710
Nếu lập dự toán NSNN khoa học, phù hợp với thực tiễn, đảm bảo đúng tiến
độ, thời gian quy định thì việc chấp hành và quyết toán NSNN có chất lượng và hiệu quả hơn.
Ngược lại, nếu lập dự toán NSNN không thực hiện tốt thì quá trình chấp hành
thiếu tính minh bạch và quá trình quyết toán gặp khó khăn. - Bản chất:
+ Lập dự toán NSNN là tổng hợp các phương pháp, cách thức mang tính kinh
tế, kỹ thuật do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện. Gồm: Xây dựng dự toán NSNN
với vai trò chủ đạo của Chính phủ. Và quyết định dự toán NSNN thuộc thẩm quyền
của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước gồm QH và HĐND các cấp.
+ Lập dự toán NSNN là một chế định của Luật NSNN, gồm tập hợp các QPPL
do NN ban hành nhằm quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục xây dựng và quyết
định dự toán NSNN hàng năm.
Một là, thẩm quyền của các chủ thể trong quá trình lập dự toán ngân sách nhà nước
- Cơ quan quản lý ngành, chức năng ở trung ương:
+ Bộ Tài chính là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý về tài
chính, ngân sách nhà nước. Khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 26 Luật NSNN 2015;
+ Bộ Kế hoạch và đầu tư là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý
lĩnh vực kế hoạch và đầu tư. Điều 27 Luật NSNN 2015;
+ Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung
ương. Khoản 1,2, 5, 6 Điều 29 Luật NSNN 2015; - Thẩm quyền của các cơ quan
quản lý nhà nước:
+ Chính phủ: Khoản 2, 3, 4, 8, 9, 10, 11, 14 Điều 25 Luật NSNN 2015: đóng vai
trò quan trọng trong lập kế hoạch tài chính 5 năm, kế hoạch tài chính – ngân sách 3
năm và dự toán ngân sách nhà nước hàng năm và phân bổ NSTW. + UBND các
cấp: Khoản 1, 4, 9, 10 Điều 31 Luật NSNN 2015; - Thẩm quyền của các cơ quan
quyền lực nhà nước:
+ Quốc hội: Khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 Điều 19 Luật NSNN 2015;
+ HĐND các cấp: Khoản 1, 2, 5, 8 Điều 30 Luật NSNN 2015; HĐND cấp tỉnh
còn có thêm thẩm quyền tại Khoản 9 Luật NSNN 2015;
+ Ngoài ra, UBTVQH và các cơ quan của QH cũng có thẩm quyền trong lập dự
toán ngân sách quy định tại: Khoản 3, 4, 5 Điều 20; Khoản 2, 3 Điều 21; Khoản 1 18 lOMoAR cPSD| 45764710 Điều 22 Luật NSNN 2015;
Hai là, trình tự, thủ tục lập dự toán ngân sách nhà nước
- Hướng dẫn lập dự toán NSNN và thông báo số kiểm tra dự toán hàng
năm: Số kiểm tra dự toán hàng năm phản ánh khả năng khai thác nguồn thu và
những nhiệm vụ phải chi trong năm NS quốc gia được cụ thể hoá bằng những con
số để các cấp, các ngành dựa vào đó mà xây dựng dự toán NS của mình.
- Lập và xét duyệt, tổng hợp dự toán NSNN: Cơ quan, đơn vị có trách nhiệm
lập dự toán NS dựa trên các căn cứ lập dự toán NSNN hàng năm Điều 41 để xây
dựng toán, trình cơ quan có thẩm quyền tổng hợp dự toán NSNN.
Lập dự toán phải đảm bảo yêu cầu quy định tại Điều 42:
Dự toán ngân sách nhà nước phải tổng hợp theo từng khoản thu, chi và theo cơ
cấu chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi dự trữ quốc gia, chi trả nợ và viện
trợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, dự phòng ngân sách;
Dự toán ngân sách của đơn vị dự toán ngân sách các cấp được lập phải thể hiện
đầy đủ các khoản thu, chi theo đúng biểu mẫu, thời hạn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
- Thảo luận, quyết định dự toán, phương án phân bổ và giao dự toán
NSNN: Trình tự, thủ tục cụ thể: Điều 44 Luật NSNN 2015
THỨ HAI, CHẾ ĐỘ CHẤP HÀNH NSNN
- Khái niệm: Là quá trình thực hiện dự toán NSNN sau khi được các cơ quan
có thẩm quyền thông qua theo những trật tự, nguyên tắc nhất định. - Bản chất:
Theo góc độ kinh tế, CHNS là việc thực hiện các chỉ tiêu tài chính thực tế
được ghi nhận trong dự toán NSNN đã được phê duyệt.
Theo góc độ pháp lý thì CHNS là một chế định pháp luật cụ thể, bao gồm các
quy phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình thực hiện NSNN.
- Đặc điểm:
Gắn liền với việc hình thành, quản lý, sử dụng quỹ NSNN gồm: phân bổ ngân
sách; chấp hành dự toán thu ngân sách, chấp hành dự toán chi ngân sách. 19 lOMoAR cPSD| 45764710
Phân bổ NS là việc công bố chính thức các chỉ tiêu thu, chi cho từng cấp NS,
từng đơn vị sử dụng NS từ trung ương đến các đơn vị dự toán cơ sở. Hoạt động này
tạo cơ sở pháp lý và tiền đề cho hoạt động thu và chi cụ thể.
Chấp hành dự toán thu NS là việc các cấp NS, các tổ chức, cá nhân trên cơ
sở hệ thống pháp luật, sử dụng các cách thức, biện pháp phù hợp để thu đầy đủ, kịp
thời tất cả số thu đã ghi trong dự toán được phân bổ.
Chấp hành dự toán chi NS là việc chuyển giao, sử dụng đúng mục đích, đúng
kế hoạch dự toán và đúng chế độ thể lệ hiện hành các nguồn kinh phí từ NSNN nhằm
thực hiện các chương trình hoạt động của Nhà nước.
Một là, thẩm quyền của các chủ thể tham gia vào quá trình chấp hành
NSNN Thẩm quyền của các cơ quan nhà nước:
- Quốc hội và HĐND các cấp có thẩm quyền điều chỉnh các chỉ tiêu NS trong
trường hợp cần thiết và giám sát hoạt động chấp hành ngân sách của Chính phủ, UBND các cấp.
- Chính phủ, Thủ tướng chính phủ có trách nhiệm điều hành quá trình CHNS,
bảo đảm tính thống nhất trong quản lý, đièu hành NS giữa các cấp, các ngành, địa phương.
- UBND các cấp có trách nhiệm CHNS cấp mình và giám sát, quản lý hoạt động NSNN cấp dưới
Thẩm quyền của các cơ quan nhà nước:
- Hệ thống cơ quan tài chính các cấp có trách nhiệm quan trọng trong việc thẩm
tra việc phân bổ NS của cơ quan có thẩm quyền cho các đơn vị sử dụng NS; chấp
hành thu và quản lý chi NSNN. Bảo đảm thực hiện các khoản thu NS thuộc về cơ
quan hải quan, cơ quan thuế, cơ quan kho bạc nhà nước, cơ quan tài chính và các cơ
quan khác được cơ quan tài chính uỷ quyền.
- Ngân hàng NN và các quỹ tiền tệ tập trung khác như quỹ BHXH, quỹ hỗ trợ
phát triển cũng tham gia vào hoạt động CHNS với tư cách là chủ thể hỗ trợ thực hiện cân đối ngân sách.
Thẩm quyền của các chủ thể khác:
- Đơn vị sử dụng kinh phí NSNN. Các đơn vị sử dụng NS phải mở tài khoản
tại KBNN để chống thất thoát trong quá trình sử dụng ngân sách.
- Đơn vị sử dụng ngân sách là đơn vị dự toán ngân sách được giao trực tiếp
quản lý, sử dụng ngân sách. (NS cấp xã vừa là một cấp NS vừa là đơn vị sử dụng NS) 20