

















Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE
----------------------***-------------------------- BÀI TẬP LỚN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Đề bài: Phân tích vai trò của triết học đối với đời sống. Lựa chọn một tác phẩm
văn học nghệ thuật và phân tích thế giới quan của tác phẩm đó dưới góc độ triết học.
Họ và tên: Trần Ngọc Khánh Mã sinh viên: 11212871
Lớp: Quản trị Marketing 63C Hà Nội, 2021 MỤC LỤC lOMoAR cPSD| 44985297
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI .. 1
1.1.Vai trò của thế giới quan và phương pháp luận của Triết học Mác- .. 1
Lênin .......................................................................................................... 1
1.2.Vai trò của triết học Mác- Lênin đối với khoa học tự nhiên và đối với
................................................................................................................... 3
tư duy lý luận ............................................................................................. 3
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THẾ GIỚI QUAN CỦA MỘT TÁC PHẨM ..... 6
NGHỆ THUẬT DƯỚI GÓC NHÌN TRIẾT HỌC .......................................... 6
2.1. Tư tưởng triết học về nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du . 7
2.1.1. Tư tưởng biện chứng về cuộc đời con người trong Truyện
Kiều ...................................................................................................... 7
2.1.1.1 Quan niệm về thân phận con người đầy biến đổi trong
Truyện Kiều ................................................................................... 7
2.1.1.2. Quan niệm về sự luân chuyển của thời gian trong Truyện
Kiều ................................................................................................ 9
2.1.1.3. Quan niệm lạc quan, tích cực về cuộc đời trong Truyện
Kiều .............................................................................................. 10
2.1.2. Tư tưởng mâu thuẫn về tài mệnh của con người trong Truyện
Kiều .................................................................................................... 11
2.2. Tư tưởng triết học về xã hội trong Truyện Kiều của Nguyễn Du .... 12
2.2.1. Quan niệm về bản chất của nhà nước phong kiến trong Truyện
Kiều .................................................................................................... 12
2.2.2 Quan niệm về tinh thần đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự do
............................................................................................................ 14 lOMoAR cPSD| 44985297
của quần chúng nhân dân trong Truyện Kiều .................................... 14
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................. 14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 14 lOMoAR cPSD| 44985297 PHẦN MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay, cái giúp cho con người vượt qua
những khó khăn, thử thách, giải thoát con người khỏi những thách đố và vướng
mắc của cuộc sống, đáp ứng nhu cầu thường nhật và lâu dài của nhân loại không
chỉ là kinh tế, kỹ thuật hiện đại và công nghệ cao, mà còn là triết học. Triết học
giúp cho con người tìm ra lời giải không chỉ cho những thách đố muôn thuở, mà
còn cho những vấn đề hoàn toàn mới do quá trình toàn cầu hóa đặt ra. Triết học
có vai trò to lớn trong cuộc sống con người. Vì muốn đi sâu tìm hiểu kỹ hơn về
vấn đề này, em xin chọn đề tài “Phân tích vai trò của triết học trong đời sống và
phân tích thế giới quan của một tác phẩm nghệ thuật dưới góc nhìn triết học”
làm đề tài nghiên cứu của bài tiểu luận. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1.1. Vai trò của thế giới quan và phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin
Triết học nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng đặt ra và giải quyết rất
nhiều vấn đề của đời sống xã hội như: tổng kết, đánh giá tri thức của con người;
phê phán, xác định các giá trị, truy tìm chân lý; phát triển tư duy lý luận; xác
định vị trí, vai trò của con người trong mối liên hệ với thế giới bên ngoài; xác
định mục tiêu, phương hướng hoạt động của con người. Trong số những vấn đề
trên, trước hết phải kể đến vấn đề có tính đặc trưng của triết học đó là vấn đề thế
giới quan và phương pháp luận chung nhất. Thế giới quan là toàn bộ những quan
điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về mối quan
hệ giữa con người và thế giới xung quanh nhằm giải đáp những vấn đề về mục
đích, ý nghĩa của cuộc sống con người. Thế giới quan được hình thành trong quá
trình con người sống, cải tạo thế giới và phát triển nhận thức. Mặt khác, hoạt
động thực tiễn và nhận thức của con người cần thiết phải được định hướng một 1 lOMoAR cPSD| 44985297
cách tự giác. Thế giới quan ra đời đáp ứng chính yêu cầu đó. Thế giới quan khoa
học phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của hiện thực khách quan, phản
ánh đúng mối quan hệ giữa con người với thế giới, giúp con người xác định
đúng mục tiêu, phương hướng hoạt động của mình phù hợp với quy luật khách
quan, nhờ vậy hoạt động của con người đạt được hiệu quả cao. Nhưng thế giới
khách quan không hình thành một cách tự phát. Muốn hình thành thế giới khách
quan khoa học phải có một cơ sở lý luận khoa học, mà lý luận đó tổng hợp được
những tri thức khoa học, tổng kết được kinh nghiệm lịch sử của con người. Lý
luận đó chỉ có thể là một hệ thống triết học khoa học. Triết học khoa học là hạt
nhân lý luận của thế giới khoa học. Trong lịch sử phát triển của triết học đã tồn
tại nhiều hệ thống triết học khác nhau. Căn cứ vào cách giải quyết vấn đề quan
hệ giữa tư duy và tồn tại mà người ta phân chia các lý thuyết triết học thành các
trường phái khác nhau như: triết học duy tâm, triết học duy vật, triết học nhị
nguyên, triết học bất khả tri, triết học khả tri,… Triết học Mác - Lênin là hình
thức phát triển cao nhất và hợp lý nhất của triết học duy vật. Những đặc điểm
của triết học Mác- Lênin đã phản ánh bản chất khoa học và nhân văn của triết
học Mác- Lênin. Do đó, chúng ta có thể khẳng định rằng: “Trong thời đại hiện
nay, triết học Mác - Lênin mới thực sự đóng vai trò là hạt nhân lý luận của thế
giới khoa học. Thông qua việc hình thành thế giới khách quan khoa học cho con
người, triết học Mác – Lênin tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội” [1, tr.18]
Ngoài vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học, triết học Mác -
Lênin còn đóng vai trò phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và
hoạt động thực tiễn. Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống
các quan điểm, các nguyên tắc xuất phát được rút ra từ một hệ thống lý luận để
chỉ đạo con người xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp thích hợp
nhất trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Phương pháp luận quyết định đến
việc xác định phương pháp cụ thể thích hợp, từ đó ảnh hưởng đến kết quả hoạt 2 lOMoAR cPSD| 44985297
động của con người. Trên thực tế, chúng ta thấy có thể mục tiêu, phương hướng
xác định đúng nhưng nếu phương pháp hoạt động không đúng vẫn không đạt
được kết quả mong muốn. Vì vậy, phải có phương pháp luận khoa học, tức là
phải có hệ thống các nguyên tắc xuất phát phản ánh đúng quy luật vận động của
các sự vật và hoạt động của con người. Nhưng nguyên tắc không thể được đặt ra
một cách tùy tiện theo ý muốn thuần túy chủ quan của con người, mà được rút ra
từ hệ thống lý luận. Nếu hệ thống lý luận không phản ánh đúng hiện thực khách
quan, chẳng hạn hệ thống triết học duy tâm, thì nguyên tắc phương pháp luận rút
ra từ đó cũng không phải là những nguyên tắc phù hợp. Như vậy, sự đúng đắn
của hệ thống lý luận là một trong những yếu tố đảm bảo cho sự đúng đắn của
nguyên tắc phương pháp luận. Triết học Mác - Lênin, trong đó có phép biện
chứng duy vật là hệ thống lý luận khoa học phản ánh đúng quy luật khách quan
của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.Tính
khoa học đó là yếu tố quyết định đảm bảo cho việc xác lập những nguyên tắc
phương pháp luận khoa học. Thông qua việc cung cấp phương pháp luận khoa
học làm cơ sở để xác định các phương pháp cụ thể, triết học Mác - Lênin thể
hiện vai trò của mình đối với đời sống xã hội. Tuy nhiên, không nên quan niệm
rằng, triết học Mác - Lênin có thể giải quyết được mọi vấn đề, là nhân tố quyết
định hoàn toàn đến sự hình thành các nguyên tắc phương pháp luận khoa học.
Triết học Mác - Lênin có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng. Mỗi quan điểm, nhận định của triết học Mác - Lênin đều có sự thống
nhất giữa quan điểm duy vật và quan điểm biện chứng. Do vậy, triết học Mác -
Lênin vừa có vai trò thế giới quan, vừa có vai trò phương pháp luận khoa học.
1.2. Vai trò của triết học Mác - Lênin đối với khoa học tự nhiên và đối với tư duy lý luận
Triết học Mác - Lênin ra đời trên cơ sở kế thừa những nhân tố hợp lý của
trào lưu triết học trong lịch sử và khái quát những thành tựu của khoa học tự 3 lOMoAR cPSD| 44985297
nhiên hiện đại. Mặt khác, triết học Mác - Lênin lại có vai trò to lớn đối với sự
phát triển khoa học tự nhiên hiện đại. Vai trò đó thể hiện ở chỗ: Triết học Mác-
Lênin tổng hợp toàn bộ tri thức nhân loại, trong đó có những thành tựu của khoa
học tự nhiên hiện đại để xây dựng thế giới quan và phương pháp luận khoa học,
tìm ra quy luật vận động, phát triển của nhận thức nói chung và của nhận thức
khoa học tự nhiên nói riêng. Trên cơ sở đó triết học Mác - Lênin xây dựng một
thế giới quan và phương pháp luận khoa học, giúp khoa học tự nhiên xác định
đúng vị trí và phương hướng hoạt động của mình, giải phóng khoa học tự nhiên
khỏi sự ràng buộc của thế giới khách quan và phương pháp luận duy tâm, siêu
hình, sai lầm của các hệ thống triết học lỗi thời. Ph. Ăngghen đã luận chứng về
vai trò của triết học nói chung và triết học duy vật biện chứng nói riêng đối với
khoa học tự nhiên trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, ông viết “Những
nhà khoa học tự nhiên tưởng rằng họ thoát khỏi triết học bằng cách không để ý
đến nó hoặc phỉ báng nó. Nhưng vì không có tư duy thì họ không thể tiến lên
được một bước nào mà muốn tư duy thì học cần có những phạm trù lôgic, mà
những phạm trù ấy thì họ lấy một cách không phê phán, hoặc lấy trong cái ý
thức chung, thông thường của những người gọi là có học thức, cái ý thức bị
thống trị bởi những tàn tích của những hệ thống triết học đã lỗi thời, hoặc lấy
trong những mảnh vụn của các giáo trình triết học bắt buộc trong các trường
đại học (đó không những chỉ là những quan điểm rời rạc, mà còn là một mớ hổ
lốn những ý kiến của những người thuộc các trường phái hết sức khác nhau và
thường là những trường phái tồi tệ nhất), hoặc lấy trong những tác phẩm triết
học đủ các thể loại mà học đọc một cách không có hệ thống và không phê
pháncho nên dù sao, rút cục lại, họ vẫn bị lệ thuộc vào triết học” [2, tr.692]. Để
khẳng định rõ hơn vai trò của triết học duy vật khoa học, Ăngghen viết tiếp:
“Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi chăng nữa thì học cũng vẫn bị
triết học chi phối. Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ triết học tồi 4 lOMoAR cPSD| 44985297
tệ hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa
trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó” [2, tr.693].
Việc khắc phục cuộc khủng hoảng về mặt thế giới quan của khoa học tự
nhiên đầu thế kỷ XX là một bằng chứng thực tế, thể hiện rõ vai trò của triết học
Mác- Lênin đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên hiện đại, V.I. Lênin đã
phân tích sự phát triển của khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XX, chỉ ra nguyên nhân
đưa đến cuộc khủng hoảng về mặt thế giới quan của khoa học tự nhiên thời kỳ
đó là: thứ nhất, phủ nhận sự tồn tại khách quan của các sự vật bên ngoài cảm
giác, ý thức của con người; thứ hai, không hiểu phép biện chứng duy vật mácxit,
không phân biệt được tính chất tương đối của quá trình nhận thức với biện
chứng của quá trình nhận thức. Từ đó, V.I. Lênin khẳng định rằng: các nhà khoa
học tự nhiên không đứng vững trên lập trường thế giới quan duy vật biện chứng
thì nhất định sẽ rơi vào quan điểm duy tâm và sẽ bị thế giới quan đó ngăn cản
quá trình nghiên cứu tự nhiên của mình, từ đó dẫn đến kết quả ngăn cản sự phát
triển của khoa học tự nhiên phải tự giác hoạt động theo quan điểm của khoa học
tự nhiên. Muốn thúc đẩy khoa học tự nhiên phát triển các nhà khoa học tự nhiên
phải tự giác hoạt động theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Triết học Mác - Lênin không chỉ có vai trò to lớn đối với khoa học tự nhiên,
mà còn có vai trò to lớn đối với việc phát triển tư duy lý luận. Tư duy là quá
trình vận động của tư tưởng phản ánh hiện thực khách quan bằng các biểu
tượng, khái niệm, phạm trù trừu tượng. Tư duy của con người có nhiều trình độ
khác nhau: có tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận, tư duy duy cảm, tư duy duy
lý,… Tư duy lý luận là hình thức tư duy có tính hệ thống và tính khái quát cao
hơn tư duy kinh nghiệm. Tư duy lý luận không phải là cái có sẵn, tồn tại ở đâu
đó trước con người, mà tư duy lý luận được hình thành trong quá trình con
người hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức. Ph. Ăngghen viết: “Nhưng tư
duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà có
thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó 5 lOMoAR cPSD| 44985297
thì cho tới nay không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học
thời trước” [2, tr.487]. Ăngghen còn viết: “Tư duy lý luận của mỗi thời đại,
cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta, là một sản phẩm lịch sử mang những hình
thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất
khác nhau. Thế cho nên cũng như bất kỳ khoa học nào khác, khoa học về tư duy
là một khoa học lịch sử, là khoa học về sự phát triển lịch sử của tư duy con
người” [2, tr.487]. Như vậy, không nghiên cứu lịch sử triết học, đặc biệt không
nghiên cứu triết học Mác- Lênin, trong đó có “phép biện chứng là một hình thức
tư duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên hiện đại” [2, tr.488] sẽ không
thể hoàn thiện được năng lực tư duy của con người, hay có thể nói là không thể
hình thành được tư duy lý luận. Mà tư duy lý luận lại có vị trí đặc biệt quan
trọng trong đời sống xã hội, như Ăngghen nói: “Một dân tộc muốn đứng vững
trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”. Tóm lại, triết
học Mác - Lênin cung cấp thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho
nhận thức khoa học, là tiền đề lý luận quan trọng nhất cho sự phát triển tư duy lý luận.
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THẾ GIỚI QUAN CỦA MỘT TÁC PHẨM
NGHỆ THUẬT DƯỚI GÓC NHÌN TRIẾT HỌC
Truyện Kiều là tác phẩm đã đưa tên tuổi Nguyễn Du lên hàng đại văn hào
thế giới, hội tụ những giá trị quý báu của dân tộc về tư tưởng, văn học, đạo đức,
triết học. Bao nhiêu khảo luận, phê bình, nghiên cứu của rất nhiều người, rất
nhiều học giả uyên thâm thuộc hàng đại thụ trong nền văn học nghệ thuật trong
suốt thời gian qua đã phần nào chứng minh điều đó. Có thể khẳng định rằng
chưa có một tác phẩm văn chương nào của dân tộc xưa nay lại được giới nghiên
cứu văn học, các nhà tư tưởng quan tâm bình khảo, bình luận, nghiên cứu nhiều
như Truyện Kiều của Nguyễn Du, điều này nói lên vị trí đặc biệt của tác phẩm.
Đồng thời, tác phẩm cũng chứa đựng nhiều tư tưởng triết học. Chính vì vậy, em
xin chọn tác phẩm “Truyện Kiều” của tác giả Nguyễn Du để phân tích. 6 lOMoAR cPSD| 44985297
2.1. Tư tưởng triết học về nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
2.1.1. Tư tưởng biện chứng về cuộc đời con người trong Truyện Kiều
2.1.1.1 Quan niệm về thân phận con người đầy biến đổi trong Truyện Kiều
Đó là câu chuyện về cuộc đời tang thương dâu bể, về những cái đã trôi qua
không bao giờ kéo lại được, về kiếp sống của con người lênh đênh chìm nổi.
Kiều không chỉ hiện thân cho nhan sắc, mà còn hiện thân cho tài hoa và phẩm
hạnh, hiện thân cho cuộc đời đầy biến đổi, đang sống trong cảnh:
“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai” [3, tr.13].
Vậy mà một phen sóng gió ba đào đã hất tung nàng ra giữa cuộc đời đầy
giông bão, sự thay đổi đó không thể gọi là hoàn cảnh đẩy đưa mà là tang thương
dâu bể. Nhiều sự kiện dồn dập xảy ra liên tục, thể hiện tư tưởng về sự biến ảo
may rủi khôn lường ở đời. Nguyễn Du đã cảm nhận sâu sắc và phản ánh sinh
động số phận con người trước sóng gió ba đào, trước đắng cay, tủi nhục của
cuộc đời, sự trôi nổi, bất ổn với nhiều đổi thay luôn trong tiến trình biến dịch của
thân phận con người biểu hiện cụ thể bằng hình ảnh “mặt nước cánh bèo”,
“nước chảy hoa trôi”, “bể trần chìm nổi”. Tác giả cảm nhận được cả thời gian
chảy trôi vô thường, cảm nhận được cả không gian lưu lạc, cảm nhận được cả
biến động của thế giới. Đó là những cảnh mà Nguyễn Du đã từng thể nghiệm
trong đời làm quan, trong thời gian đi sứ, đặc biệt ông đã chứng kiến “những
điều trông thấy” ấy của bao nhiêu số phận con người với bao thăng trầm vinh
nhục, với bao đắng cay tủi hờn, với bao cảnh hoa rơi hoa rụng, phản ánh thân
phận con người đầy sóng gió ba đào trước đen trắng của cuộc đời với cái nhìn đa
chiều. Đó là câu chuyện về cuộc đời tang thương dâu bể, về những cái đã trôi
qua không bao giờ kéo lại được, về kiếp sống của con người lênh đênh chìm nổi.
Kiều không chỉ hiện thân cho nhan sắc, mà còn hiện thân cho tài hoa và phẩm
hạnh, hiện thân cho cuộc đời đầy đổi thay đến kinh hoàng. Nhiều sự kiện dồn
dập xảy ra liên tục, thể hiện tư tưởng về sự biến ảo may rủi khôn lường ở đời. 7 lOMoAR cPSD| 44985297
Nguyễn Du không chỉ nêu lên thuyết tuần hoàn, “bãi bể nương dâu” trong cuộc
đời, trong xã hội mà ông còn nêu lên tư tưởng về những biến đổi trong quá trình
vận động, phát triển không ngừng của sự vật, thiên nhiên, con người, về tính
cách, tâm lý, tình yêu và cả trong cách cư xử giữa con người với con người
trong từng hoàn cảnh. Cụ thể tính cách Kiều cũng có sự phát triển theo thời gian,
từ một cô gái “e lệ nép vào dưới hoa”, trong trắng buổi đầu, trải qua bao nhiêu
sóng gió của cuộc đời dâu bể, Kiều đã trở thành người đàn bà dày dạn, can
trường “Đến phong trần cũng phong trần như ai”, can đảm với tư thế bước lên
ghế quan tòa “sánh với Từ công cùng ngồi” để xử tội những kẻ gây ra tai họa
trong buổi báo ân báo oán. Đó là một quá trình phát triển lâu dài của tính cách
theo quy luật nội tại của nó. Hay trong tình yêu quan niệm của Nguyễn Du cũng
chứa đầy tư tưởng biện chứng, được thể hiện thông qua lời giãi bày của Kim
Trọng trong ngày Thúy Kiều trở về sau mười lăm năm sương gió bụi trần. Ngày
người yêu trở về không còn là cô gái mơn mởn cành tơ như xưa nữa, chính Kiều cũng tự xét thấy mình:
“Bấy chầy gió táp mưa sa,
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn
Còn chi là cái hồng nhan” [3, tr.260].
Thế nhưng Kim Trọng hay chính là Nguyễn Du với cái nhìn biện chứng sâu sắc
trong tình yêu vẫn thấy Kiều đằm thắm, viên mãn:
“Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa” [3, tr.262].
Thúy Kiều tủi nhục trong đêm tái ngộ đã giãi bày:
“Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa” [3, tr.260].
Nhưng Kim Trọng với cái nhìn biện chứng về tình yêu, vượt lên mọi khắt khe
chật hẹp phong kiến, đã quan niệm hết sức cởi mở và hiện đại về tình yêu, về chữ trinh:
“Chữ trinh kia cũng có dăm bảy đường 8 lOMoAR cPSD| 44985297
Có khi biến có khi thường
Có quyền nào phải một đường chấp kinh
Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay?” [3, tr.261-262].
Đó là lối nhìn lạc quan, tích cực có pha lẫn màu sắc biện chứng hết sức sâu sắc:
“Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời” [3, tr.262].
Đây thật sự là cách nhìn nhận vạn vật, con người, các hiện tượng, và cách xử
lý tình huống đầy biện chứng trong cuộc đời hết sức nhân văn dưới ngòi bút thiên tài Nguyễn Du.
2.1.1.2. Quan niệm về sự luân chuyển của thời gian trong Truyện Kiều
Bên cạnh quan niệm về cuộc đời đầy biện chứng trong Truyện Kiều còn thể
hiện rõ tính biện chứng của bước đi của thời gian, thể hiện sự gấp gáp của thời
gian, vì mọi thay đổi của cuộc đời con người bắt đầu từ thay đổi của thời gian
hay nói cách khác chính thời gian lôi cuốn cuộc đời trôi chảy, biểu hiện thời gian
như bánh xe luân chuyển, lôi cuốn ta đi, thời gian gấp gáp, thời gian đang trôi
qua sự thay đổi của cảnh vật, của thiên nhiên. Truyện Kiều đã mở đầu bằng nhận
định về sự biến đổi khách quan của vũ trụ, nghĩa là sự luân chuyển của thời gian,
của đời người, cuộc sống cứ thế cuốn trôi đi, con người trước bao nhiêu biến
chuyển của vũ trụ nhiều khi thảng thốt đến bất ngờ, con người không thể tránh
khỏi quy luật tự nhiên lạnh lùng đó. Truyện Kiều còn có một dòng thời gian bốn
mùa mãi miết trôi đi, xuân, hạ, thu, rồi lại sang đông, rất khách quan và vô tình.
Nó bắt nhịp với cuộc đời, nó cũng như thông báo với con người không có gì
vĩnh cửu, tồn tại mãi mãi với thời gian mọi sự vật hiện tượng luôn vận động,
biến đổi không ngừng, bốn mùa cứ trôi đi vô tận và đời người cũng nhiều thăng
trầm, đổi thay, sự kiện nối tiếp sự kiện, vạn vật không hề dừng lại, nếu dừng lại
thì không còn là cuộc sống, vì sống có nghĩa là phải chuyển vần, sống có nghĩa
là vận động, phát triển theo bao nhiêu biến đổi của thế giới, nếu dừng lại có 9 lOMoAR cPSD| 44985297
nghĩa là ngưng đọng, là không phát triển. Vậy nên, Truyện Kiều đã mở đầu bằng
sự biến đổi khách quan của vũ trụ, bằng sự luân chuyển của thời gian, của đời
người, cuộc sống con người trước bao nhiêu biến chuyển của vũ trụ, không ai có
thể tránh khỏi quy luật tự nhiên lạnh lùng đó.
2.1.1.3. Quan niệm lạc quan, tích cực về cuộc đời trong Truyện Kiều
Biện chứng trong Truyện Kiều không chỉ là vạn vật cứ trôi đi, kiếp người
đầy may rủi, mà còn là ước mơ, là niềm tin, là dự cảm về hạnh phúc trong tương
lại, với tinh thần đầy lạc quan và tích cực, với những câu thơ đầy hi vọng và đầy hứa hẹn trong Kiều:
“Chén đưa nhớ buổi hôm nay
Chén mừng xin đợi ngày này năm sau” [3, tr.150],
niềm tin vào sự hưởng thụ hạnh phúc phía trước và phúc lộc dồi dào trong tương lai:
“Còn nhiều hưởng thụ về sau,
Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào” [3, tr.236],
có cái bây giờ như tổng kết lại một niềm tin sắt đá mạnh liệt:
“Đến bây giờ mới thấy đây
Mà lòng đã chắc những ngày một hai” [3, tr.207].
Với cái nhìn và tư duy biện chứng, cho dù cuộc đời có bi đát thế nào vẫn lạc
quan, vẫn có niềm tin để sống tiếp, vẫn hy vọng vào một ngày mai sẽ khác, và
vẫn có thái độ tích cực trong hành động, với tầm nhìn dài hạn cho dù cuộc đời
có bi kịch đến thế nào vẫn đáng sống. Tất cả những biến động, những vật đổi
sao dời, cụ thể xảy ra trong mười lăm năm trời lưu lạc của Thúy Kiều, hay trong
khoảng trăm năm của đời người, mà cũng là cuộc đời của Nguyễn Du và của
biết bao nhiêu cuộc đời thực ngoài xã hội. Cái mà Nguyễn Du gọi là bể dâu ở
đây không còn là ý nghĩa siêu hình thường lệ, mà là một cuộc bể dâu cụ thể, là
những biến động cụ thể mà bản thân Nguyễn Du đã từng chứng kiến. Đó chính
là thân phận của con người có tài sắc, có hiếu nghĩa, có tâm hồn đẹp như Thúy 10 lOMoAR cPSD| 44985297
Kiều, đó là hình ảnh đại diện cho bao nhiêu thân phận, bao nhiêu cuộc đời ngoài
xã hội, đó là “những điều trông thấy”. Nhân vật Thúy Kiều là kết tinh những
đau khổ, những oan khuất, những thân phận bọt bèo, là hình ảnh thu hẹp của
biết bao cuộc đời thực ngoài xã hội.
2.1.2. Tư tưởng mâu thuẫn về tài mệnh của con người trong Truyện Kiều
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã phản ánh về số phận, hay vận mệnh của
con người dưới chế độ xã hội đương thời suy đồi, mục nát hết sức bi đát, số
phận của người bình dân đã thế còn vận mệnh của những người tài năng lại càng
thê thảm, đắng cay hơn. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nhận định: “Luật
“tài mệnh tương đố” là một trong những “Luật đời” khiến con người phải chịu
nhiều oan trái nhất, đặc biệt với những người tài năng. Sự đối lập giữa tài năng
và số mệnh được Nguyễn Du coi là một trong những sự bất công lớn nhất trong
cuộc đời con người” [4, tr.198].
Lý giải dưới góc độ của chủ nghĩa duy vật thì “mệnh” là quy luật thép của xã
hội, là các thế lực quan lại, những người nắm quyền lực, có sức mạnh tối cao, là
những kẻ mạnh về quyền lực và tiền bạc, là bọn vua quan bạc ác thống trị gieo
rắc bao oan trái, khổ sở cho người dân. Cuộc đời đầy đọa của Thúy Kiều suốt
mười lăm năm là do bọn quan tham, gian thần và bọn côn đồ con buôn, tay sai
của quan lại phong kiến, Nguyễn Du gọi tất cả bọn bất lương đó là “mệnh”.
Nguyễn Du đã lên án những hiện tượng bất hợp lý trong xã hội, đồng thời phản
ánh số phận nghiệt ngã của những người có tài không có đất dung thân, luôn bị
đố kỵ, bị ghen ghét, bị vùi dập và hãm hại một cách bi thảm. Tài năng dưới chế
độ phong kiến không hề được tôn vinh mà vô tình lại là một tai họa cho người
mang nó, chế độ phong kiến chật hẹp, suy đồi, thối nát không dung nổi tài năng,
không chứa đựng nổi sự phóng khoáng đẹp đẽ của con người. Vậy nên trong
Truyện Kiều, Nguyễn Du mới đưa ra tư tưởng “tài mệnh tương đố” hay “tài mệnh ghét nhau”:
“Trăm năm trong cõi người ta 11 lOMoAR cPSD| 44985297
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” [3, tr.7].
2.2. Tư tưởng triết học về xã hội trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
2.2.1. Quan niệm về bản chất của nhà nước phong kiến trong Truyện Kiều
Với 3254 câu thơ lục bát trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, bản
chất nhà nước phong kiến dần dần hiện ra thông qua những con người và hành
động cụ thể mang đầy sự bất nhân dựa trên sự bao che của nhà nước phong kiến
đương thời . Phần đầu tác phẩm là hình ảnh nhà nước phong kiến hiện ra có vẻ
ổn định, thái bình và thịnh vượng:
“Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh
Bốn bên phẳng lặng, hai kinh vững vàng” [3, tr.8].
Với hai câu thơ trên nhà nước phong kiến nhìn bên ngoài rất hào nhoáng, đẹp
đẽ, khá là thanh bình nhưng chứa đựng bên trong đầy sự mục rữa, bất ổn. Sự bất
ổn của nhà nước phong kiến bắt đầu xảy ra khi tai họa đổ xuống gia đình nhà họ
Vương và những tay sai đắc lực của nhà nước xuất hiện bất chấp đạo lý, ngang
nhiên lộng hành, sẵn sàng đánh đập người dân vô tội:
“Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao
Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi” [3, tr.71].
Những người thực thi quyền lực nhà nước được tác giả ví như lũ đầu trâu mặt
ngựa, hành xử rất côn đồ và chợ búa, chúng dùng sức mạnh cưỡng chế bắt người
dân tra tấn, đánh đập một cách dã man và cướp hết tài sản của họ:
“Đồ tế nhuyễn của riêng tây
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” [3, tr.21]. 12 lOMoAR cPSD| 44985297
Như vậy, chỉ một chuyện tai bay vạ gió, không rõ nguyên nhân mà tính mạng và
tài sản của người dân bị xâm hại nặng nề không cần bất cứ bằng chứng gì. Thật
trớ trêu, người dân không thể trông chờ vào sự bảo vệ của pháp luật, của nhà
nước vì chính tay sai đắc lực của nhà nước phong kiến đang ra tay hãm hại họ.
Người dân chẳng biết kêu vào đâu, kêu trời không thấu, kêu đất không hay:
“Mặt trông đau đớn rụng rời
Oan này còn một kêu trời nhưng xa” [3, tr.73].
Với sự mô tả chân thực những hành động bất nhân và vô đạo của những kẻ tay
sai tàn bạo của nhà nước phong kiến, tác giả cho ta thấy bản chất của nhà nước
phong kiến đã tha hóa đến cùng cực. Một nhà nước cai trị nhân dân dựa trên sức
mạnh quyền lực, sẵn sàng đàn áp và đánh đập dân thì làm gì có công lý, làm gì
có lẽ phải, một nhà nước vô pháp, vô thiên, không có một kỷ cương, phép nước
nào hết. Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh, lẽ phải thuộc về những kẻ có tiền, có quyền.
Như vậy, bản chất xấu xa của nhà nước phong kiến đã bị phơi bày, thực chất là
một nhà nước chuyên quyền, độc đoán, chứa đựng trong lòng nó các mâu thuẫn
gay gắt chờ ngày bùng phát. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng: “Bản chất nhà
nước là thống trị kinh tế, thực hiện quyền lực chính trị, cưỡng chế, áp đặt lên tư
tưởng quần chúng, nhà nước chẳng qua là bộ máy thống trị của giai cấp này
dùng để trấn áp giai cấp khác mà thôi” [1, tr.395]. Nhà nước bảo vệ trước hết
quyền lợi của giai cấp thống trị. Chủ nghĩa Mác - Lênin thừa nhận: “Nhà nước
không phải là một chủ thể bất biến, vĩnh cửu mà có quy luật sinh tồn, tiêu vong.
Nhà nước tồn tại hay tiêu vong tùy thuộc vào thể chế chính trị, chính sách dân
chủ thực sự hay phản dân chủ của nó” [1, tr.394]. Quy luật tất yếu của lịch sử đã
được thực tế chứng minh: Rất nhiều đời vua chúa, rất nhiều chế. 13 lOMoAR cPSD| 44985297
2.2.2 Quan niệm về tinh thần đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự do của
quần chúng nhân dân trong Truyện Kiều
Mặc dù xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhưng Nguyễn Du lại sống rất gần gũi
với đời sống của nhân dân, lắng nghe được tâm tư và nguyện vọng của quần
chúng nhân dân, hiểu được nỗi lòng và đồng cảm sâu sắc với những người bị áp
bức, thấu hiểu với hoàn cảnh của họ. Từ đó Nguyễn Du thấy được sức mạnh to
lớn tiềm ẩn trong quần chúng nhân dân và những khát vọng chính đáng của họ
là được sống tự do, được mưu cầu hạnh phúc và ước mơ có công lý ở đời. Điều
này phù hợp với quan niệm của triết học Mác-Lênin, vì chủ nghĩa duy vật lịch
sử đã xuất phát từ thực tế các cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân để khẳng
định vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong lịch sử: “Quần chúng nhân
dân là người làm nên lịch sử, lịch sử xã hội vận động phát triển là do sức mạnh
của quần chúng nhân dân” [5, tr.485]. PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, bài tiểu luận đã phân tích rõ vai trò quan trọng của triết học trong
cuộc sống. Thông qua tác phẩm “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn
Du phân tích những tư tưởng triết học có trong tác phẩm như tư tưởng mâu
thuẫn về tài mệnh của con người trong Truyện Kiều là một trong những tư tưởng
triết học quan trọng mà Nguyễn Du đã thể hiện hết sức sâu sắc trong tác phẩm
của mình; tư tưởng triết học xã hội của Nguyễn Du trong Truyện Kiều còn tập
trung vào nội dung ca ngợi tinh thần đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự do của quần chúng nhân dân,…
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Văn Thịnh (2011), Giáo trình một số chuyên đề triết học Mác-
Lênin, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội. 14 lOMoAR cPSD| 44985297
2. C.Mác, Ph. Ăngghen toàn tập, tập 20: “Biện chứng của tự nhiên”(1994),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Thạch Giang (2011), Nguyễn Du Truyện Kiều, Nhà xuất bản
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
4. Lê Thị Lan (2007) “Quan niệm của Nguyễn Du về cuộc đời và thân phận
con người”, Tạp chí Triết học, số 9.
5. Bộ giáo dục và Đào tạo (2005), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15