Phân tích vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin

Trong xã hội hiện đại với một xã hội ngày càng phát triển, đất nước ta đang trên con đường hội nhập và đổi mới, mở cửa đất nước, tiếp thu và phát huy những thành tựu của thế giới. Vì vậy, người ta cũng ngày càng quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề của đời sống xã hội và sự nghiệp đổi mới của Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………….1
1.Lý do chọn đề tài ……………………………………...1
2. ………......……………….1Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3. …….................................…..1 Phương pháp thực hiện đề tài
NỘI DUNG…………………………………………….....2
CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC VÀ ĐỊNH NGHĨA
TRIẾT HỌC.......2
1.1 Nguồn gốc của triết học………………………………...2
1.2 Sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin…………………..2
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI…………..5
2.1 Giới thiệu sơ về triêt học………………………………………….6
2.2 Mục đích của triết học Mác-Lênin đối với đời sống xã hội của chúng ta…….7
2.3 Khẳng định vai trò của triết học Mác-Lênin đối với chúng ta trong đời sống xã
hội……….8
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN TRONG SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY………8
3.1 Vai trò của triết học Mác Lênin………..8
3.2 Nêu các dẫn chứng về triếc học Mác – Lênin tham gia vào sự nghiệp đổi mới
của Việt Nam………………………………..10
3.3 Đường lối thực thi theo triết học Mác –Lênin…….12
3.4 Khẳng định vai trò của triết học Mác Lênin góp phần không nhỏ đối với việc
đổi mới sự nghiệp của Việt Nam……………………..12
KẾT LUẬN ………………………………………………15
Tài liệu tham khảo
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội hiện đại với một xã hội ngày càng phát triển, đất nước ta đang trên
con đường hội nhập và đổi mới, mở cửa đất nước, tiếp thu và phát huy những
thành tựu của thế giới. Vì vậy, người ta cũng ngày càng quan tâm nhiều hơn đến
những vấn đề của đời sống xã hội và sự nghiệp đổi mới của Việt Nam. ngày càng
quan trọng.Ngày càng được phát triển và ứng dụng rộng rãi trong xã hội Việt Nam.
Để nghiên cứu sâu hơn những điều đó, em đã chọn vấn đề sau: “Phân tích vai trò
của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay?” làm đề tài tiểu luận của nhóm em.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này là nhằm tập trung phân tích các quan điểm, tư tưởng
của triết học Mac-Lênin về xã hội và đời sống của con người để cho ta thấy được
vai trò và chức năng quan trọng và vô cùng to lớn trong đời sống và sự đổi mới, sự
phát triễn của xã hội.
Và để hoàn thành đạt được mục tiêu đó, bài tiểu luận này phải có nhiệm vụ:
- Nói lên quan điểm của triết học Mac- Lênin về đời sống con người và xã hội.
- Nêu ra một vài ý nghĩa của triết học đối với sự phát triển của tư tưởng xã hội và
kèm theo đó là thực tiễn xã hội.
- Nêu ra vai trò của triết học Mác – Lênin đối với sự nghiệp phát triển và đổi mới ở
Việt Nam.
3. Phương pháp thực hiện đề tài
- Bài được viết trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
xem xét tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người, kết hợp với một số phương
pháp cụ thể như: logic lịch sử, quy nạp giảng giải, phân tích và tổng hợp,...
- Thống nhất cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phương pháp luận
của phép biện chứng duy vật.
1
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC VÀ ĐỊNH NGHĨA CỦA TRIẾT
HỌC
1.1 Nguồn gốc của triết học
Triết học ra đời gần như đồng thời ở phương Đông và phương Tây. Là trung tâm
của một số nền văn minh cổ đại của loài người như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp.
Theo người Trung Quốc, từ triết học xuất phát từ ngôn ngữ của từ triết và theo
khoa học được hiểu là sự khám phá bản chất của sự vật, triết học là trí tuệ và sự
hiểu biết sâu sắc về con người.
Theo quan điểm của Ấn Độ, triết học được coi là Danshana, có nghĩa là chiêm
nghiệm, nhưng ám chỉ trí thức dựa trên lý trí, một cách chiêm nghiệm hướng con
người đến lẽ phải.
Ở phương Tây, từ triết học xuất hiện ở Hy Lạp, theo tiếng Hy Lạp là
Philosophia, có nghĩa là yêu sự thông thái, là một ngành khoa học không chỉ có
định hướng mà còn đề cao khát vọng chân lý của con người.
Vì vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học ngay từ thuở sơ khai đã là
một hoạt động tinh thần thể hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, tồn
tại với tư cách là một ý thức xã hội.
1.2 Sự ra đời của chủ nghĩa Mác-lênin
A. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác
1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Sự phát triển cùng mạnh mẽ về lực lượng sản xuất do tác động của cuộc
cách mạng công nghiệp khiến cho phương thức sản xuất bản chủ nghĩa được
củng cố vững chắc và nó trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã hội. Nước
Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp trở thành cường quốc công
nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành đó
là đặc điểm nổi bật trong đời sống kinh tế - xã hội ở những nước chủ yếu của châu
Âu. Cuộc cách mạng công nghiệp không những đánh dấu bước chuyển biến từ nền
sản xuất thủ công bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công nghiệp bản chủ
nghĩa, còn làm thay đổi sâu sắc cục diện hội, trước hết là sự hình thành
phát triển của giai cấp vô sản.
Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa bản làm cho những mâu thuẫn hội
càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt. Của cải xã hội tăng lên nhưng chẳng
những lý tưởng về bình đẳng xã hội mà cuộc cách mạngtưởng nêu ra đã không
thực hiện được mà lại làm cho bất công xã hội tăng thêm, đối kháng xã hội sâu sắc
hơn. Cụ thể là qua cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 và hàng loạt cuộc đấu tranh
của công nhân chống lại chủ bản, tiêu biểu là: Cuộc khởi nghĩa của những thợ
dệt ở Lyon (Pháp) năm 1831. Ở Anh, phong trào Hiến chương vào cuối những năm
30 của thế kỷ 21“phong trào cách mạng sản to lớn đầu tiên được thực hiện,
thật sự có tính chất quần chúng và có tính chất hình thức chính trị”. Vì thế, giai cấp
2
vô sản xuất hiện trên “bia đá” lịch sử không chỉ có nhiệm vụ là “kẻ hủy hoại” chủ
nghĩa bản còn lực lượng tiên phong nồng cốt trong cuộc đấu tranh cho
nền dân chủ tiến bộ hội. Từ đây, ta thể thấy được giai cấp sản đã trở
thành một lực lượng chính trị độc lập, tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân
chủ, công bằng và tiến bộ trong xã hội.
Để thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản cần phải có được sự soi sáng của
lý luận khoa học, thế chủ nghĩa Mác ra đời để đáp ứng yêu cầu đó và đồng thời
bản thân thực tiễn cách mạng cũng đã trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khát quát
phát triển không ngừng của chủ nghĩa Mác về mặt luận. Trong đó triết học
đóng vai trò là cơ sở lý luận chung: cơ sở thế giới quan và phương pháp luận.
2.Nguồn gốc lí luận và tiền đề khoa học tự nhiên
Nguồn gốc lí luận
Chủ nghĩa Mác kết quả của sự kế thừa những thành tựu trong lịch sử
tưởng của nhân loại. Triết học cổ điển Đức, đặc biệt những “hạt nhân hợp lý” trong
triết học của hai nhà triết học tiêu biểu là Hegel và Feuerbach, là nguồn gốc lý luận
trực tiếp của triết học Mác.
Từ chủ nghĩa duy tâm của triết học Hegel, C. Mác đã kế thừa bằng cách cải tạo,
lột bỏ lớp vỏ thần bí để xây dựng nên lý luận mới của phép biện chứng - phép biện
chứng duy vật.
Tiền đề khoa học tự nhiên
-Cùng với các nguồn gốc luận trên, những thành tựu khoa học tự nhiên
tiền đề cho sự ra đời triết học Mác. Sự phát triển duy triết học phải dựa trên cơ
sở tri thức do các khoa học cụ thể mang lại, những minh chứng khẳng định
tính đúng đắn về thế giới quan phương pháp luận của chủ nghĩa Mác. thế,
như Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, mỗi khi khoa học tự nhiên những phát minh mang
tính vạch thời đại thì chủ nghĩa duy vật không thể không thay đổi hình thức của
nó.
-Quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa và thuyết tế bào
là một trong những minh chứng nói lên tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác. Các quy
luật đó đã chứng minh một cách khoa học về mối quan hệ không tách rời nhau, sự
chuyển hóa lẫn nhau được bảo toàn của các hình thức vận động của vật chất
trong giới tự nhiên. Đánh giá về ý nghĩa của những thành tựu khoa học tự nhiên
thời ấy, Ph. Ăngghen viết: “Quan niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn thành
trên những nét cơ bản: tất cả cái gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả cáilà cố định
đều biến thành mây khói, tất cả những đặc biệt người ta cho tồn tại
vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự
nhiên đều vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu”
-Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất
yếu lịch sử, hợp quy luật.
B.Các giai đoạn phát triển
3
Giai đoạn chuyển biến tư tưởng của Mác và Ph.Ăng ghen từ chủ nghĩa duy tâm
và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản chủ nghĩa
+ Sự chuyển biến tư tưởng của Các Mác
Khi còn trẻ Các Mác là người có tinh thần nhân đạo và xu hướng yêu tự do nên
khi ông gặp được triết học Hêghen với tinh thần biện chứng cách mạng của nó thì
đã được Các Mác xem chân lý. Năm 1837 Các Mác tập trung nghiên cứu triết
học Hêghen và tham gia nhóm “Hêghen trẻ”.
Khi nhà nước phong kiến Phổ thực hiện chính sách đàn áp những người dân chủ
cách mạng. Ông và một số người theo phái “Hêghen trẻ” đã chuyển sang hoạt động
chính trị đấu tranh chống lại chủ nghĩa chuyên chế Phổ giành lại quyền tự do dân
chủ, và lúc này trong tư tưởng của Các Mác đã có sự mâu thuẫn giữa thế giới quan
duy tâm với tinh thần dân chủ cách mạng và vô thần.
Thực tiễn đấu tranh báo chí đã làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng ở Các Mác
nội dung ràng hơn, đó đấu tranh cho lợi ích của quần chúng lao động.
Trong lúc này tưởng cộng sản chủ nghĩa chưa được hình thành, ông đấu tranh
bảo vệ “quần chúng nghèo khổ bất hạnh” dưới tinh thần nhân đạo.
Với nguyện vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, C.Mác đã hình thành khuynh
hướng duy vật, nhận thấy mặt hạn chế của quan điểm duy tâm vì lúc này tinh thần
dân chủ cách mạng sâu sắc đã không dung hợp với triết học duy tâm biện.
thế sau khi báo Sông Ranh bị cấm (1843) ông đã viết tác phẩm “góp phần phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen” để phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen,
quan điểm triết học của Các Mác cũng đã được tăng cường nhờ sự phê phán này.
Vào 10-1843, Các Mác sang Pari. Và trong bài báo “lời nói đầu của cuốn sách
góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, Các Mác đã phân tích một
cách sâu sắc theo quan điểm duy vật ý nghĩa và hạn chế của cuộc cách mạng tư sản
chỉ “cuộc cách mạng bộ phận” ông cũng khẳng định chỉ cuộc cách mạng
do giai cấp vô sản thực hiện mới là “cuộc cách mạng triệt để”. Với bài báo này
một số bài báo khác đăng trong tạp chí Niên giám Đức - Pháp năm 1844 đánh dấu
bước hoàn thành quá trình chuyển biến lập trường, quan điểm của Các Mác.
+ Sự chuyển biến tư tưởng của Ph.Ăngghen
Ph.Ăngghen nghiên cứu triết học trong thời gian 2 năm sống nước Anh từ
năm 1842 khi nghiên cứu đời sống kinh tế và chính trị nước Anh, nhất là việc trực
tiếp tham gia phong trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển căn bản trong thế
giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử
Đây là thời kỳ C. Mác và Ph. Ăngghen bắt tay vào xây dựng những nguyên bắt
tay vào xây dựng những nguyên lý nền tảng cho triết học mới .
Những tác phẩm như Ban thảo kinh tế-triết học năm 1844 (C.Mác, 1844). Gia
4
đình thần thánh (C.Mác Ph.Ăngghen, 1845), Luận cương về Phoiơbắc (C.Mác,
1845), Hệ tư tưởng Đức (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1845-1846),v.v. đã thể hiện rõ nét
việc C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa tinh hoa trong quan điểm duy vật và phép biện
chứng của các bậc tiền bối để xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng .
Năm 1847, C. Mác viết Sự khốn cùng của triết học, tiếp tục đề xuất các
nguyên lý triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học. Năm 1848, C. Mác cùng với Ph.
Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - đây là văn kiện có tính
chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, trong đó cơ sở triết học của chủ nghĩa
Mác được trình bày một cách hợp lí, thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế
và các quan điểm chính trị - xã hội. Theo tư tưởng này, sản xuất vật chất giữ vai
trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội; phương thức sản xuất vật chất
quyết định quá trình sinh hoạt, đời sống chính trị và đời sống tinh thần của xã
hội. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng cho thấy được từ khi có giai cấp thì sự
phát triển của lịch sử trong xã hội là lịch sử đấu tranh giai cấp; trong đấu tranh
giai cấp, giai cấp vô sản chỉ có thể tự giải phóng mình nếu đồng thời và vĩnh
viễn giải phóng toàn thể nhân loại. Với những quan điểm cơ bản này, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Thời kỳ C. Mác và Ph. Ăngghen bổ sung và phát triển toàn diện lý
luận triết học (1848 - 1895)
C. Mác viết hàng loạt tác phẩm quan trọng. Hai tác phẩm: Đấu tranh giai
cấp ở Pháp 1848 - 1850 và Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ đã tổng
kết cuộc cách mạng Pháp 1848 - 1849.
C. Mác đã tập trung viết tác phẩm khoa học chủ yếu của mình là bộ Tư bản.
Bộ Tư bản không chỉ là công trình đồ sộ của C. Mác về kinh tế chính trị học mà
còn là sự bổ sung, phát triển của triết học Mác nói riêng, của học thuyết Mác nói
chung. Đây là tác phẩm chủ yếu và cơ bản được trình bày đồng nghĩa với khoa học
xã hội thông qua việc làm sáng tỏ quy luật hình thành, phát triển và sự suy thoát
tất yếu của chủ nghĩa tư bản.
Tư tưởng duy vật về lịch sử, về cách mạng vô sản tiếp tục được phát triển
trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta của C.Mác (1875). Trong tác phẩm này,
những vấn đề về nhà nước chuyên chính vô sản, về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội, những giai đoạn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa cộng
sản, v.v. đã được đề cập với tư cách là cơ sở khoa học cho lý luận cách mạng của
giai cấp vô sản trong các hoạt động hướng đến tương lai.
CHƯƠNG 2 VAI TRÒ MÁC-LÊNIN ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HHỘI
2.1 Giới thiệu sơ lược về triết học :
Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời ở cả Phương
Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian ( TK VIII-VI TCN)
5
Là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận
của nhân loại
=> Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức
và nguồn gốc xã hội nhưng cả hai chỉ là sự phân chia tương đối để hiểu triết học ra
đời trong điều kiện nào và với những tiền đề như thế nào mà thôi.
Đối tượng của triết học sẽ có nội dung khác nhau dựa theo những thay đổi của
tình hình thực tiễn xã hội qua từng giai đoạn phát triển
Vấn đề cơ bản của triết học trả lời cho hai mặt đối lập nhau :
+ Mặt thứ nhất: Vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết
định đến cái nào?
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức thế giới xung quanh mình hay
không?
Các trường phái triết học trong lịch sử :
Xuất phát điểm của các trường phái triết học trong lịch sử chính là đến từ các vấn
đề cơ bản của triết học.
Muốn giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học, trong lịch sử triết
học đã chia thành các trường phái lớn, trong đó nổi bật:
Trường phái 1: Những người cho rằng vật chất có trước ý thức và đóng vai trò
quyết định. Họ được gọi là nhà triết học duy vật và các học thuyết của họ hợp
thành chủ nghĩa duy vật.
Trường phái 2: Những nhà triết học cho rằng ý thức là cái có trước vật chất và giữ
vai trò quyết định. Họ được gọi là nhà triết học duy tâm và các học thuyết của họ
hợp thành chủ nghĩa duy tâm.
Trường phái 3: Gồm cả nhà triết học cho rằng vật chất và ý thức tồn tại song song
với nhau, không cái nào chi phối hay quyết định cái nào, cả hai cùng là tạo ra thế
giới là các nhà nhị nguyên. Các học thuyết của họ hợp thành học thuyết nhị nguyên
luận (Decacton).
Căn cứ vào việc giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học: "Con
người có khả năng nhận thức được Thế giới hay không?”
+ Chủ nghĩa duy vật cho rằng ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, con người có
khả năng nhận thức thế giới. Đồng thời chủ nghĩa này còn khẳng định nguyên tắc
trong thế giới khách quan là chỉ có cái chưa biết chứ không có cái gì là không thể
biết.
+ Còn đối với chủ nghĩa duy tâm, họ cũng thừa nhận khả năng nhận thức thế giới.
Tuy nhiên chủ nghĩa này lại thần bí hóa, duy tâm hóa quá trình nhận thức của con
người.
+ Ngoài ra,còn tồn tại một trường phái phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của
con người mang tên “thuyết không thể biết”. Những ai thuộc trường phái này cho
rằng con người không thể nhận thức thế giới xung quanh hoặc chỉ biết được vẻ bên
ngoài của thế giới.
6
2.2 Mục đích của triết học Mac- Leenin với đời sống xã hội của chúng ta ;
Triết học Mác - Lênin đã kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng
nhất của tư duy triết học nhân loại, mục đích của triết học Mác - Lênin là nâng cao,
phát triển một cách hiệu quả hơn quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn, phục
vụ cho nhu cầu của con người.
Triết hợp Mác - Lênin mang lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt giống
của thế giới quan cộng sản. Giúp cho con người có cơ sở khoa học để đi khám phá
sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích ý nghĩa
cuộc sống nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người
Triết học có các chức năng như : thế giới quan và phương pháp luận, chức năng
nhận thức và giáo dục, chức năng phê phán…Tuy nhiên quan trọng nhất vẫn là
chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận là hai chức năng cơ bản
của triết học nói chung, đặc biệt là triết học Mác - Lênin nói riêng. Với hai chức
năng chính là phương pháp luận và chức năng thế giới quan đem lại vai trò lớn đối
với đời sống xã hội:
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế
giới xung quanh, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong
thế giới đó. Thế giới quan được hình thành và phát triển trong quá trình sinh sống
và nhận thức của con người. Đến lượt mình, thế giới quan lại trở thành nhân tố
định hướng cho con người tiếp tục quá trình nhận thức thế giới xung quanh cũng
như tự nhận thức bản thân mình và đặc biệt là từ đó con người xác định được thái
độ, cách thức hoạt động và sinh sống của mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề
hình thành nhân sinh quan tích cực, tiến bộ.
Chúng ta biết rằng phương pháp luận là lý luậnChức năng phương pháp luận:
về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo con người
trong việc tìm tòi, xây dựng,phát triển hay lựa chọn và vận dụng các phương pháp
trong nhận thức và trong thực tiễn. Phương pháp luận có nhiều mức độ khác nhau
như : phương pháp luận ngành, có phương pháp luận chung và phương pháp luận
chung nhất. Phương pháp luận của Triết học chính là phương pháp luận chung
nhất.
=> Trong triết học, thế giới quan và phương pháp luận không tách rời nhau,luôn
dính chặt với nhau. Bất cứ lý luận triết học nào khi lý giải về thế giới quan xung
quanh và về bản thân con người đồng thời cũng thể hiện một phương pháp luận
nhất định chỉ đạo cho việc xây dựng và vận dụng phương pháp. Mỗi hệ thống triết
học không chỉ là một thế giới quan nhất định mà còn là phương pháp luận chung
nhất trong việc xem xét thế giới. Mỗi quan điểm hay nhận định của triết học đồng
thời là một nguyên tắc, phương pháp luận, là lý luận về phương pháp với tính cách,
là phương pháp luận chung nhất triết học đóng vai trò đưa ra cho con người hướng
đi trong quá trình tìm tòi, xây dựng lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Từ đó, nó có ý nghĩa quyết định đối với sự thất
7
bại hoặc thành công trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
2.3 Khẳng định vai trò của triết học Mác-Lênin đối với chúng ta.
Giúp con người định hướng, phát huy tạo ra mối quan hệ chung giữa thế giới
chung và vị trí của con người giúp mọi người chúng ta xác định được chính xác
mục tiêu, phương hướng hoạt động của bản thân.
Chi phối hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, giúp con người có
thể nhìn nhận hiểu đúng ý nghĩa cuộc sống, mỗi chúng ta sẽ có ý chí và quyết tâm
tích cực hoạt động vì sự tiến bộ của xã hội và của bản thân. Còn nếu người nào đó
không tìm được hạnh phúc hay niềm vui và ý nghĩa tích cực trong cuộc sống thì
con người sẽ trở nên tiêu cực, cản trở tính chủ động thậm chí còn hủy hoại trách
nhiệm và ý thức của con người đối với các mối quan hệ cũng như công việc mà
con người đang hướng đến.
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa đang phát triển hiện nay, bên cạnh giải quyết
những vấn đề “muôn thuở”,khó nắm bắt hay giải quyết thì triết học còn giúp cho
con người tìm ra những đáp án khó nhằng đối với những vấn đề hoàn toàn mới lạ,
phát sinh trong quá trình toàn cầu hóa. Triết học còn giúp con người nhìn nhận
đúng đắn về thế giới quan, nhờ vào triết học, chúng ta ngày nay còn có khả năng
đánh giá những biến chuyển động đang diễn ra, tạo ra nhiều hướng giải quyết, là
“chìa khóa” cho vấn đề mà con người đang gặp phải trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Nói tóm lại, dù là trong quá khứ hay ở kỷ nguyên toàn cầu hóa, triết học vẫn giữ
nguyên vị thế của mình ở phạm vi một dân tộc và cả nhân loại.
CHƯƠNG 3 VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Vai trò của triết học Mác Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng các cơ sở lý luận trong công cuộc cách
mạng của nước ta. Xét theo toàn cục, chủ nghĩa Mác - Lênin là di sản tinh
thần lớn của loài người được C. Mác và Ph. Ăngghen đặt nền tảng vào đầu thế kỷ
XIX, V.I. Lênin kế thừa, phát huy từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Chủ
nghĩa Mác - Lênin vạch trần nguồn gốc sâu xa nhất, các vấn đề lớn nhất xuất
hiện trong chế độ tư bản chủ nghĩa đã dự báo đúng xu thế phát triển của mọi hình thái
kinh tế - xã hội để đưa ra khẳng định nền tảng của loài người là chế độ cộng sản chủ
nghĩa. Vì vậy hệ tư tưởng duy nhất có thể đặt ra mục tiêu độc lập dân tộc, cải
tạo đất nước, thay thế loài người xác định rõ ràng nguồn lực, con đường, phương
tiện để đi đến điều đó.
Việt Nam ngay từ khi đã dành được độc lập đã lựa chọn ngay con đường đấu
tranh cách mạng chân chính đó là chủ nghĩa xã hôi. Là con đường không thích
8
hợp nhất cho nước Việt Nam, thuỷ dân. Đảng cũng đã xác định con đường
hướng phát triển của nước ta sẽ sử dụng chủ nghĩa cộng sản như là nền
tảng trong các hoạt động của mình xuyên suốt thời gian lãnh đạo nước Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã luận chứng tính tất yếu của sự thay thế chủ nghĩa
tư bản bằng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội hiện thực
đã ra đời. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, chủ nghĩa xã
hội hiện có khủng hoảng, chủ nghĩa tư bản thì có những điều chỉnh để thích nghi và
có những thành tựu nhất định về khoa học công nghệ, kinh tế, … nhưng thời đại
ngày nay vẫn là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Đảng ta nhiều lần khẳng định: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn,
thách thức nhưng sẽ có bước tiến mới.
Nhờ có chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, C. Mác đã giải thích
một cách đúng đắn và khoa học những sự phát triển của thế giới loài người thông
qua quá trình tồn tại và vận hành của hệ thống kinh tế xã hội; mặt khác, tìm thấy
nguyên lý giá trị thặng dư, làm sáng tỏ nội dung, hình thức và phương pháp mà nhà
đế quốc áp bức giai cấp vô sản cùng nhân dân lao động. Với chủ nghĩa xã hội khoa
học, C. Mác chứng minh sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân là đánh đổ ách cai
trị của nhà tư bản, vươn tới giải phóng dân tộc mình để thiết lập một chế độ xã hội
không có kẻ bóc lột con người, đưa CNXH từ phi lý trở nên hiện thực, theo Lênin
nhận xét: " Lấy sự thật thay thế mọi mộng tưởng ". Học thuyết Mác đã trở thành
một chỉ cương, tư tưởng quan trọng trong lịch sử đấu tranh kháng lại mọi áp bức,
bóc lột và bất công trong nhân dân.
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên toàn cầu bước vào thời kỳ mới, kinh tế
phát triển không đồng nhất giữa các xã hội làm mâu thuẫn nảy sinh và xung đột nổ
ra là chuyện bình thường, trong lúc cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc của nhân
dân nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc xảy ra rộng rãi. Vì vậy, Lênin đã kế thừa và
phát triển mạnh mẽ chủ nghĩa Mác nhằm xử lý các mâu thuẫn nảy sinh từ thực tiễn
của mình. Ông vạch ra quy luật chiến thắng của cách mạng vô sản; khẳng định rõ
ràng mối quan hệ giữa cách mạng vô sản với đấu tranh giải phóng dân tộc; phát
triển tổ chức đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và lãnh đạo thành công cuộc
Cách mạng Tháng Mười Nga, đưa Đảng Cộng sản Liên Xô đầu tiên trở thành đảng
cầm quyền ở nước Nga Xôviết. Cũng chính Lênin là người xây dựng sự phát triển
mới của chủ nghĩa xã hội với " Chính sách kinh tế mới " và các giải pháp khác
nhằm hoàn thiện chế độ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của nước Nga. Sự phát
triển sáng tạo học thuyết Mác của Lênin đã giúp cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở
thành nền tảng lý luận chung của giai cấp công nhân cùng những người lao động
chân chính trên khắp hành tinh.
Với những giá trị nền tảng, bền vững nêu trên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo
ra một lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, luận chứng một cách thuyết phục con
9
đường hiện thực, chủ thể lãnh đạo, lực lượng tiến hành, chiến lược, sách lược…
dẫn dắt giai cấp công nhân và quần chúng cách mạng đấu tranh lật đổ chế độ tư
bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội mới không còn bóc lột, áp bức, nô dịch. Đặc
biệt ở Việt Nam triết học Mác-Lênin đã là ánh đèn sáng trong dẫn dắt cách mạng
Việt Nam , giúp chúng ta xác định con đường, bước đi, thì phương pháp luận của
triết học Mác - Lênin giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tiễn đổi mới hơn 30 năm qua. Đó không chỉ là
những vấn đề, điều kiện cụ thể của Việt Nam, mà còn là những vấn đề, thực tiễn
chung của thế giới, của toàn cầu hóa, của phát triển khoa học công nghệ, của kinh
tế tri thức, của hội nhập quốc tế. Dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học
Mác - Lênin, chúng ta đã giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản của quá trình đổi
mới như mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, đây là mối quan hệ cốt lõi, mang tính nền
tảng cho việc giải quyết các mối quan hệ khác.
3.2 Các dẫn chứng của triết học Mác -Lênin tham gia vào sự nghiệp đổi mới
của việt nam
Bằng cách tiếp cận đúng đắn, khoa học và gắn bó sát thực tế của mình, Chủ
tịch Hồ Chí Minh, mặt khác, đã trung thành với một số luận điểm căn bản của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin; đồng thời, áp dụng linh hoạt những nguyên lý ấy vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam. Người đã bổ sung những luận điểm mới để làm giàu
cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin; mặt khác, xây dựng nên một hệ thống lý luận của
cách mạng giải phóng Việt Nam đúng với quá trình đi tới CNXH ở một nước thuộc
địa nửa phong kiến nghèo nàn, lạc hậu. Những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt
Nam đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ hiệu quả thiết thực của sự vận dụng, phát huy tư
duy lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin từ Chủ tịch Hồ Chí Minh và là kinh nghiệm
quý giá đối với chúng ta trong thời kỳ hiện nay.
Trước hết, trong mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở những nước tư bản và
cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát
triển lên một bước nhận thức mới khi cho biết, cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước công nghiệp có quan hệ mật thiết với cách mạng thế giới, chứ không hoàn
toàn dựa trên cách mạng chính quốc. Nhân dân các nước thuộc địa và tư bản sẽ
giành thắng lợi đối với cách mạng thế giới và sau đó, tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Trước nữa, C. Mác cho biết, cách mạng vô sản sẽ xảy ra và dành chiến
thắng ở các quốc gia công nghiệp tiên tiến. Còn V.I. Lê-nin nhận định, cách mạng
vô sản sẽ xảy đến và thành công ở nhiều nơi, không chỉ là một nước riêng lẻ của
chủ nghĩa đế quốc và cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở đó phải được phối hợp
với sự tham gia của những người chịu bóc lột ở các thuộc địa.
Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lê-nin đối với việc xử lý mâu thuẫn xã hội và giai cấp tại Việt Nam. Xuất phát trên
vấn đề bao trùm cả tiến trình lịch sử đất nước ta lúc đó là xung đột của
10
toàn bộ dân tộc Việt Nam với đế quốc phong kiến Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định con đường cách mạng vô sản tại Việt Nam trước hết là đấu tranh giải
phóng giai cấp sau mới đến xây dựng xã hội chủ nghĩa. Chính cương đầu tiên của
Đảng năm 1930, được Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, đã nêu: "Kiên quyết thực hiện
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng nhằm tiến lên xã hội cộng sản"
(5) . Nhận thức lý luận ấy vừa đúng với thực tiễn của cách mạng Việt Nam và cũng
đồng thời là mong muốn của đông đảo quần chúng lao động.
Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng Mác -
Lê-nin và giai cấp công nhân với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở nước
ta, một quốc gia thuộc địa nửa phong kiến, tuyệt đại đa số là người dân lao động
nông nghiệp, do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng Cộng sản Việt
Nam là sự tổng hợp của lý luận Mác - Lê-nin với giai cấp công nhân và phong trào
cứu nước. Đảng có tính chất giai cấp công nhân, đại diện cho quyền lợi của giai
cấp công nhân, người lao động và toàn thể xã hội. Người đã có công gây dựng
Ðảng đoàn kết, thống nhất cả chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động; chăm lo
đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao phẩm chất đạo đức cho mỗi cán bộ, đảng viên.
Quan điểm xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Ðảng và từng cán bộ, đảng
viên "luôn xứng đáng là người chỉ huy, là người đại biểu thật sự trung thành của
quần chúng" (6) .
Thứ tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển học thuyết Mác - Lê-nin trong
xây dựng và tổ chức phong trào quần chúng. Người nhấn mạnh, động lực chủ yếu
của cả quá trình cách mạng Việt Nam đó là đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh công nhân - nông dân và trí thức dưới quyền lãnh đạo của Đảng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy sáng tạo quan điểm xây dựng liên minh
công - nông của học thuyết Mác - Lê-nin nhằm đoàn kết, tập hợp sức mạnh to lớn
của cả dân tộc, của mọi tầng lớp người yêu nước với thế trận cách mạng để giành
chiến thắng trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, thống nhất và tiến tới CNXH.
Thứ năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy thành công các tư
tưởng tiến bộ của học thuyết Mác - Lê-nin vào quá trình xây dựng nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân căn cứ trên nguyên tắc pháp quyền tại Việt
Nam. Theo tư tưởng của học thuyết Mác - Lê-nin, sau cuộc cách mạng vô sản
thành công thì giai cấp vô sản sẽ xây dựng lên nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên nền
tảng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất một loạt những tư tưởng sáng tạo xây
dựng nhà nước kiểu mới: Toàn bộ các quyền lực phải là của nhân dân, một nhà
nước của nhân dân, chính quyền cấp xã đến chính phủ đều do nhân dân bầu nên;
đoàn thể từ Trung ương xuống cơ sở do quần chúng tổ chức lên, có tổ chức và sinh
hoạt theo khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, thực hiện được ý chí và nguyện
vọng của nhân dân.
11
Thứ sáu, Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng học thuyết Mác - Lê-nin làm cơ sở
để xây dựng tư tưởng, lý luận về chính trị, xã hội và quan hệ quốc tế cho sự nghiệp
cách mạng Việt Nam. Người chủ trương xây dựng nền tảng văn hoá mới xã hội
chủ nghĩa có tính chất thời đại với ba mặt cơ bản: Giữ gìn, phát triển hệ giá trị đạo
đức tốt đẹp; bù đắp sự thiếu thốn của văn hoá hiện tại và sáng tạo các giá trị của
đời sống tinh thần tương lai. Về văn hoá, Người coi trọng con người với bản chất
cao đẹp: Tiền với nước, hậu với nhà; thương yêu con người; cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng và đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ,
từng người dân cũng phải trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng để phát triển con
người mới xã hội chủ nghĩa. Người cũng rất chú trọng việc đoàn kết quốc tế để thu
hút lực lượng bên ngoài; huy động sức mạnh xã hội và trí tuệ nhân loại nhằm thực
hiện nhiệm vụ cách mạng Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Người nhấn mạnh: "Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ thiết lập các quan hệ
hữu nghị tốt đẹp với bất kỳ một quốc gia nào trên tinh thần: tôn trọng tính toàn vẹn
về biên giới và lãnh thổ của mình, không xâm hại lẫn nhau, không can dự nội bộ
của đối phương, tất cả đều có lợi, và chung sống hoà bình" (7) . Đây là tuyên ngôn
về bình đẳng, đoàn kết, hợp tác, tôn trọng những quyền lợi chung căn bản giữa các
quốc gia, phản ánh tư tưởng chính trị cao cả và nhân đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
3.3 Đưa ra đường lối thực thi theo triết học Mác-lênin
Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực hành là sự tổng kết kinh nghiệm
và kiến thức; đó là khoa học về các quy luật tự nhiên và sự phát triển xã hội, khoa
học về cách mạng quần chúng, về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Chính vì thế tâm
trí không giáo điều, không cứng nhắc, mà đầy tính sáng tạo, như kim chỉ nam chỉ
cho ta phương hướng hành động. Các lập luận được thảo luận ở đây là các nguyên
tắc chung; là tinh thần, thái độ, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lý luận đó là sự khái quát của thực tiễn, là sự tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn giúp giải thích quy luật phát triển của cách mạng và đổi
mới, xác định phương hướng, phương châm và bước đi đặc biệt của sự nghiệp đổi
mới theo tình hình và hoàn cảnh của nước ta.
3.4 Khẳng định vai trò của triết học Mác-lênin đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam
Chủ nghĩa Mác - Lênin đưa ra thế giới quan và phương pháp luận khoa học để đổi
mới Đảng. Nhìn chung, chủ nghĩa Mác - Lênin là công trình của C. Mác và Ph.
Engels đặt nền móng vào đầu thế kỷ 19, V.I. Lênin phát triển rực rỡ và thịnh
vượng vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã bộc lộ bản
12
chất sâu xa nhất, mâu thuẫn cơ bản nhất của quy luật tư bản chủ nghĩa và dự
báochính xác xu thế của các hình thái kinh tế - xã hội sẽ kết thúc bằng nhận định:
Tương lai của loài người là chủ nghĩa cộng sản. Đó là lý do tại sao nó là lý thuyết
khoa học, cách mạng và nhân văn duy nhất nhằm mục tiêu tự do giai cấp, giải
phóng xã hội và giải phóng con người và xác định các lực lượng, cách thức và
phương pháp để đạt được mục tiêu này. Sau khi giành được độc lập dân tộc, Việt
Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là cần thiết, khách quan, thiết
thực và hợp lòng dân. Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của đảng trong toàn bộ quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ trên toàn thế giới phải thay
thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội chân chính ra đời.
Tuy nhiên, vì những nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiện nay chủ nghĩa xã
hội đang lâm vào khủng hoảng, chủ nghĩa tư bản đã có những bước chuyển mình
thích nghi và đạt được những thành tựu nhất định về khoa học, công nghệ, kinh tế,
v.v... nhưng thế giới ngày nay vẫn đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội đang có những bước tiến
mới, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức. Theo quy luật phát triển của lịch sử,
nhân loại nhất định phải đi lên chủ nghĩa xã hội"(1). Rõ ràng, khả năng đi lên chủ
nghĩa xã hội là rất rõ ràng trong thời kỳ hiện đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ
ra rằng, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đặt ra một số tồn tại lời giải được
tìm thấy trong di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác, bởi vì thực tiễn ngày nay đã có
nhiều thay đổi, những sự kiện lịch sử đã xảy ra, những vấn đề thực tiễn mới này
cũng cần phải có một lý luận mới để giải đáp, một thực tiễn mới. lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu khách quan trong thời kỳ hiện
đại. Tổng kết thực tiễn, dựa vào kinh nghiệm, hoàn thiện phát triển chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện mới. mới.Thành quả của 35
năm công cuộc đổi mới đã khẳng định công cuộc khôi phục ở nước ta là hoàn toàn
đúng đắn. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với thời điểm hiện nay. Tuy nhiên, trong tình hình
hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến đổi nhanh chóng, phức tạp và
khó lường. Đại hội lần thứ XIII của Đảng ta đã chỉ rõ: "Hòa bình, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến bộ nhưng cũng bị đe dọa bởi sự gia
13
tăng của chủ nghĩa cực đoan.. chủ nghĩa dân tộc, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh
kinh tế, chiến tranh thương mại gay gắt... Các nước điều chỉnh chiến lược
vàphương thức phát triển để thích ứng với tình hình mới. Tại Đông Nam Á, môi
trường an ninh và tranh chấp chủ quyền Biển Đông vẫn diễn biến phức tạp. Biến
đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác, nhất
là an ninh mạng có tác động ngày càng mạnh mẽ, đa dạng, đe dọa nghiêm trọng
đến sự phát triển ổn định, bền vững của Việt Nam, thế giới, khu vực và đất nước
ta. ). Trong bối cảnh thực tiễn đó, Đảng ta cần phải nắm vững phương pháp luận
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, coi đó là điểm khởi đầu quan trọng cho việc
đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội, giúp hiểu đúng quan niệm về chủ nghĩa
xã hội của các nhà kinh điển và vượt qua quan niệm chủ nghĩa xã hội của các nhà
kinh điển. lý thuyết một. sai lầm niệm chủ nghĩa xã hội. Để làm việc đó,Đảng ta
phải nhìn thẳng, đánh giá đúng thực tiễn dám từ bỏ cả những kết luận của chính
mình nếu như không còn phù hợp để bổ sung, phát triển lý luận trong tình hình
mới. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định: “Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn
và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không
sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với
những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp”(3). Đại hội lần thứ XIII của Đảng
một lần nữa tiếp tục khẳng định quan điểm đổi mới: “Kiên định và vận dụng, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng… để
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”( ). Trong thời
gian tới, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bức thiết cần phải tiếp tục khẳng định, bảo
vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong tình hình mới. Ban Giám hiệu và các giảng viên, nhân viên Trường Chính trị
tỉnh Phú Thọ cần nhận thức đúng và chú trọng một số vấn đề cụ thể sau: Một là,
tiếp tục nâng cao nhận thức, giữ vững lập trường tư tưởng, không hoang mang dao
động, tin tưởng sự vận dụng các quan điểm khoa học và cách mạng của học thuyết
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta đối với công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay. Thứ hai, Đảng đoàn, Ban Chấp hành phải quán triệt và chỉ đạo
tham gia thực hiện tốt Nghị quyết số 35-NQ/TW “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, đấu tranh lập trường sai trái, hậu quả xấu trong tình hình mới”;
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn Thứ ba, với tư cách
14
là công cụ tuyên truyền, giảng viên cần vận dụng các nghị quyết, chỉ thị của đảng
vào nội dung bài giảng để học viên kiên trì và làm tốt, tránh hiểu sai, nhầm lẫn,
quyết định không rõ ràng, đảng phái. hướng dẫn, pháp luật của nhà nước. Thứ tư,
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị, nhất là đối với
nhà giáo, người lao động và học sinh, sinh viên Phải coi việc học tập lý luận chính
trị là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, không ngừng thay đổi trong quá trình công
tác, học tập. nhu cầu và mong muốn của nhân viên, người lao động và học sinh.
Bên cạnh đó, Đảng ủy, Ban giám hiệu nhà trường phải quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ, vừa có kiến thức chuyên môn, vừa có kiến
thức chính trị để thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường.
PHẦN KẾT LUẬN
Một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với Đảng là vừa phát triển đất nước vừa duy trì
toàn cầu hóa và tình hình chính trị, quân sự thế giới hết sức phức tạp hiện nay. Nội
dung cơ bản của việc trả lời các câu hỏi trên nằm ở chỗ chúng ta kiên định kiên
định mục tiêu kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, vận dụng chủ nghĩa xã
hội một cách trung thành và sáng tạo vào việc giải quyết những vấn đề cơ bản của
nước ta. Thời đại và đổi mới, cơ sở tư tưởng và chương trình hành động của Đảng
và nhân dân ta.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập (trọn bộ 50 tập), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995.
[2] https://loigiaihay.com/khai-luoc-su-ra-doi-va-phat-trien-cua-chu-nghia-mac-
lenin-c126a20169.html
[3] https://voer.edu.vn/c/triet-hoc-mac-lenin/18de6b82
[4] Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học 3 quyển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003.
| 1/19

Preview text:

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………….1
1.Lý do chọn đề tài ……………………………………...1
2.Mục đích và nhiệm vụ của đề tài………......……………….1
3. Phương pháp thực hiện đề tài…….................................…..1
NỘI DUNG…………………………………………….....2
CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC VÀ ĐỊNH NGHĨA TRIẾT HỌC.......2
1.1 Nguồn gốc của triết học………………………………...2
1.2 Sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin…………………..2
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI…………..5
2.1 Giới thiệu sơ về triêt học………………………………………….6
2.2 Mục đích của triết học Mác-Lênin đối với đời sống xã hội của chúng ta…….7
2.3 Khẳng định vai trò của triết học Mác-Lênin đối với chúng ta trong đời sống xã hội……….8
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN TRONG SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY………8
3.1 Vai trò của triết học Mác Lênin………..8
3.2 Nêu các dẫn chứng về triếc học Mác – Lênin tham gia vào sự nghiệp đổi mới
của Việt Nam………………………………..10
3.3 Đường lối thực thi theo triết học Mác –Lênin…….12
3.4 Khẳng định vai trò của triết học Mác Lênin góp phần không nhỏ đối với việc
đổi mới sự nghiệp của Việt Nam……………………..12
KẾT LUẬN ………………………………………………15 Tài liệu tham khảo MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội hiện đại với một xã hội ngày càng phát triển, đất nước ta đang trên
con đường hội nhập và đổi mới, mở cửa đất nước, tiếp thu và phát huy những
thành tựu của thế giới. Vì vậy, người ta cũng ngày càng quan tâm nhiều hơn đến
những vấn đề của đời sống xã hội và sự nghiệp đổi mới của Việt Nam. ngày càng
quan trọng.Ngày càng được phát triển và ứng dụng rộng rãi trong xã hội Việt Nam.
Để nghiên cứu sâu hơn những điều đó, em đã chọn vấn đề sau: “Phân tích vai trò
của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay
?” làm đề tài tiểu luận của nhóm em.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này là nhằm tập trung phân tích các quan điểm, tư tưởng
của triết học Mac-Lênin về xã hội và đời sống của con người để cho ta thấy được
vai trò và chức năng quan trọng và vô cùng to lớn trong đời sống và sự đổi mới, sự phát triễn của xã hội.
Và để hoàn thành đạt được mục tiêu đó, bài tiểu luận này phải có nhiệm vụ:
- Nói lên quan điểm của triết học Mac- Lênin về đời sống con người và xã hội.
- Nêu ra một vài ý nghĩa của triết học đối với sự phát triển của tư tưởng xã hội và
kèm theo đó là thực tiễn xã hội.
- Nêu ra vai trò của triết học Mác – Lênin đối với sự nghiệp phát triển và đổi mới ở Việt Nam.
3. Phương pháp thực hiện đề tài
- Bài được viết trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
xem xét tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người, kết hợp với một số phương
pháp cụ thể như: logic lịch sử, quy nạp giảng giải, phân tích và tổng hợp,...
- Thống nhất cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phương pháp luận
của phép biện chứng duy vật. 1 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC VÀ ĐỊNH NGHĨA CỦA TRIẾT HỌC
1.1 Nguồn gốc của triết học
Triết học ra đời gần như đồng thời ở phương Đông và phương Tây. Là trung tâm
của một số nền văn minh cổ đại của loài người như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp.
Theo người Trung Quốc, từ triết học xuất phát từ ngôn ngữ của từ triết và theo
khoa học được hiểu là sự khám phá bản chất của sự vật, triết học là trí tuệ và sự
hiểu biết sâu sắc về con người.
Theo quan điểm của Ấn Độ, triết học được coi là Danshana, có nghĩa là chiêm
nghiệm, nhưng ám chỉ trí thức dựa trên lý trí, một cách chiêm nghiệm hướng con người đến lẽ phải.
Ở phương Tây, từ triết học xuất hiện ở Hy Lạp, theo tiếng Hy Lạp là
Philosophia, có nghĩa là yêu sự thông thái, là một ngành khoa học không chỉ có
định hướng mà còn đề cao khát vọng chân lý của con người.
Vì vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học ngay từ thuở sơ khai đã là
một hoạt động tinh thần thể hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, tồn
tại với tư cách là một ý thức xã hội.
1.2 Sự ra đời của chủ nghĩa Mác-lênin
A. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác
1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Sự phát triển vô cùng mạnh mẽ về lực lượng sản xuất do tác động của cuộc
cách mạng công nghiệp khiến cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được
củng cố vững chắc và nó trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã hội. Nước
Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc công
nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành đó
là đặc điểm nổi bật trong đời sống kinh tế - xã hội ở những nước chủ yếu của châu
Âu. Cuộc cách mạng công nghiệp không những đánh dấu bước chuyển biến từ nền
sản xuất thủ công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước hết là sự hình thành và
phát triển của giai cấp vô sản.
Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn xã hội
càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt. Của cải xã hội tăng lên nhưng chẳng
những lý tưởng về bình đẳng xã hội mà cuộc cách mạng tư tưởng nêu ra đã không
thực hiện được mà lại làm cho bất công xã hội tăng thêm, đối kháng xã hội sâu sắc
hơn. Cụ thể là qua cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 và hàng loạt cuộc đấu tranh
của công nhân chống lại chủ tư bản, tiêu biểu là: Cuộc khởi nghĩa của những thợ
dệt ở Lyon (Pháp) năm 1831. Ở Anh, phong trào Hiến chương vào cuối những năm
30 của thế kỷ 21 là “phong trào cách mạng vô sản to lớn đầu tiên được thực hiện,
thật sự có tính chất quần chúng và có tính chất hình thức chính trị”. Vì thế, giai cấp 2
vô sản xuất hiện trên “bia đá” lịch sử không chỉ có nhiệm vụ là “kẻ hủy hoại” chủ
nghĩa tư bản mà còn là lực lượng tiên phong nồng cốt trong cuộc đấu tranh cho
nền dân chủ và tiến bộ xã hội. Từ đây, ta có thể thấy được giai cấp vô sản đã trở
thành một lực lượng chính trị độc lập, tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân
chủ, công bằng và tiến bộ trong xã hội.
Để thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản cần phải có được sự soi sáng của
lý luận khoa học, vì thế chủ nghĩa Mác ra đời để đáp ứng yêu cầu đó và đồng thời
bản thân thực tiễn cách mạng cũng đã trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khát quát
và phát triển không ngừng của chủ nghĩa Mác về mặt lí luận. Trong đó triết học
đóng vai trò là cơ sở lý luận chung: cơ sở thế giới quan và phương pháp luận.
2.Nguồn gốc lí luận và tiền đề khoa học tự nhiên  Nguồn gốc lí luận
Chủ nghĩa Mác là kết quả của sự kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư
tưởng của nhân loại. Triết học cổ điển Đức, đặc biệt những “hạt nhân hợp lý” trong
triết học của hai nhà triết học tiêu biểu là Hegel và Feuerbach, là nguồn gốc lý luận
trực tiếp của triết học Mác.
Từ chủ nghĩa duy tâm của triết học Hegel, C. Mác đã kế thừa bằng cách cải tạo,
lột bỏ lớp vỏ thần bí để xây dựng nên lý luận mới của phép biện chứng - phép biện chứng duy vật.
 Tiền đề khoa học tự nhiên
-Cùng với các nguồn gốc lý luận trên, những thành tựu khoa học tự nhiên là
tiền đề cho sự ra đời triết học Mác. Sự phát triển tư duy triết học phải dựa trên cơ
sở tri thức do các khoa học cụ thể mang lại, nó là những minh chứng khẳng định
tính đúng đắn về thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác. Vì thế,
như Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, mỗi khi khoa học tự nhiên có những phát minh mang
tính vạch thời đại thì chủ nghĩa duy vật không thể không thay đổi hình thức của nó.
-Quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa và thuyết tế bào
là một trong những minh chứng nói lên tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác. Các quy
luật đó đã chứng minh một cách khoa học về mối quan hệ không tách rời nhau, sự
chuyển hóa lẫn nhau và được bảo toàn của các hình thức vận động của vật chất
trong giới tự nhiên. Đánh giá về ý nghĩa của những thành tựu khoa học tự nhiên
thời ấy, Ph. Ăngghen viết: “Quan niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn thành
trên những nét cơ bản: tất cả cái gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả cái gì là cố định
đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại
vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự
nhiên đều vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu”
-Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất
yếu lịch sử, hợp quy luật.
B.Các giai đoạn phát triển 3
Giai đoạn chuyển biến tư tưởng của Mác và Ph.Ăng ghen từ chủ nghĩa duy tâm
và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản chủ nghĩa
+ Sự chuyển biến tư tưởng của Các Mác
Khi còn trẻ Các Mác là người có tinh thần nhân đạo và xu hướng yêu tự do nên
khi ông gặp được triết học Hêghen với tinh thần biện chứng cách mạng của nó thì
đã được Các Mác xem là chân lý. Năm 1837 Các Mác tập trung nghiên cứu triết
học Hêghen và tham gia nhóm “Hêghen trẻ”.
Khi nhà nước phong kiến Phổ thực hiện chính sách đàn áp những người dân chủ
cách mạng. Ông và một số người theo phái “Hêghen trẻ” đã chuyển sang hoạt động
chính trị đấu tranh chống lại chủ nghĩa chuyên chế Phổ giành lại quyền tự do dân
chủ, và lúc này trong tư tưởng của Các Mác đã có sự mâu thuẫn giữa thế giới quan
duy tâm với tinh thần dân chủ cách mạng và vô thần.
Thực tiễn đấu tranh báo chí đã làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng ở Các Mác
có nội dung rõ ràng hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích của quần chúng lao động.
Trong lúc này tư tưởng cộng sản chủ nghĩa chưa được hình thành, ông đấu tranh
bảo vệ “quần chúng nghèo khổ bất hạnh” dưới tinh thần nhân đạo.
Với nguyện vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, C.Mác đã hình thành khuynh
hướng duy vật, nhận thấy mặt hạn chế của quan điểm duy tâm vì lúc này tinh thần
dân chủ cách mạng sâu sắc đã không dung hợp với triết học duy tâm tư biện. Vì
thế sau khi báo Sông Ranh bị cấm (1843) ông đã viết tác phẩm “góp phần phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen” để phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen,
quan điểm triết học của Các Mác cũng đã được tăng cường nhờ sự phê phán này.
Vào 10-1843, Các Mác sang Pari. Và trong bài báo “lời nói đầu của cuốn sách
góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, Các Mác đã phân tích một
cách sâu sắc theo quan điểm duy vật ý nghĩa và hạn chế của cuộc cách mạng tư sản
chỉ là “cuộc cách mạng bộ phận” và ông cũng khẳng định chỉ có cuộc cách mạng
do giai cấp vô sản thực hiện mới là “cuộc cách mạng triệt để”. Với bài báo này và
một số bài báo khác đăng trong tạp chí Niên giám Đức - Pháp năm 1844 đánh dấu
bước hoàn thành quá trình chuyển biến lập trường, quan điểm của Các Mác.
+ Sự chuyển biến tư tưởng của Ph.Ăngghen
Ph.Ăngghen nghiên cứu triết học trong thời gian 2 năm sống ở nước Anh từ
năm 1842 khi nghiên cứu đời sống kinh tế và chính trị nước Anh, nhất là việc trực
tiếp tham gia phong trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển căn bản trong thế
giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
 Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Đây là thời kỳ C. Mác và Ph. Ăngghen bắt tay vào xây dựng những nguyên bắt
tay vào xây dựng những nguyên lý nền tảng cho triết học mới .
Những tác phẩm như Ban thảo kinh tế-triết học năm 1844 (C.Mác, 1844). Gia 4
đình thần thánh (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1845), Luận cương về Phoiơbắc (C.Mác,
1845), Hệ tư tưởng Đức (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1845-1846),v.v. đã thể hiện rõ nét
việc C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa tinh hoa trong quan điểm duy vật và phép biện
chứng của các bậc tiền bối để xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng .
Năm 1847, C. Mác viết Sự khốn cùng của triết học, tiếp tục đề xuất các
nguyên lý triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học. Năm 1848, C. Mác cùng với Ph.
Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - đây là văn kiện có tính
chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, trong đó cơ sở triết học của chủ nghĩa
Mác được trình bày một cách hợp lí, thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế
và các quan điểm chính trị - xã hội. Theo tư tưởng này, sản xuất vật chất giữ vai
trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội; phương thức sản xuất vật chất
quyết định quá trình sinh hoạt, đời sống chính trị và đời sống tinh thần của xã
hội.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng cho thấy được từ khi có giai cấp thì sự
phát triển của lịch sử trong xã hội là lịch sử đấu tranh giai cấp; trong đấu tranh
giai cấp, giai cấp vô sản chỉ có thể tự giải phóng mình nếu đồng thời và vĩnh
viễn giải phóng toàn thể nhân loại. Với những quan điểm cơ bản này, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã sáng lập ra
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
 Thời kỳ C. Mác và Ph. Ăngghen bổ sung và phát triển toàn diện lý
luận triết học (1848 - 1895)
C. Mác viết hàng loạt tác phẩm quan trọng. Hai tác phẩm: Đấu tranh giai
cấp ở Pháp 1848 - 1850 và Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ đã tổng
kết cuộc cách mạng Pháp 1848 - 1849.
C. Mác đã tập trung viết tác phẩm khoa học chủ yếu của mình là bộ Tư bản.
Bộ Tư bản không chỉ là công trình đồ sộ của C. Mác về kinh tế chính trị học mà
còn là sự bổ sung, phát triển của triết học Mác nói riêng, của học thuyết Mác nói
chung. Đây là tác phẩm chủ yếu và cơ bản được trình bày đồng nghĩa với khoa học
xã hội thông qua việc làm sáng tỏ quy luật hình thành, phát triển và sự suy thoát
tất yếu của chủ nghĩa tư bản.
Tư tưởng duy vật về lịch sử, về cách mạng vô sản tiếp tục được phát triển
trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta của C.Mác (1875). Trong tác phẩm này,
những vấn đề về nhà nước chuyên chính vô sản, về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội, những giai đoạn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa cộng
sản, v.v. đã được đề cập với tư cách là cơ sở khoa học cho lý luận cách mạng của
giai cấp vô sản trong các hoạt động hướng đến tương lai.
CHƯƠNG 2 VAI TRÒ MÁC-LÊNIN ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HHỘI
2.1 Giới thiệu sơ lược về triết học :

Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời ở cả Phương
Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian ( TK VIII-VI TCN) 5
Là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân loại
=> Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức
và nguồn gốc xã hội nhưng cả hai chỉ là sự phân chia tương đối để hiểu triết học ra
đời trong điều kiện nào và với những tiền đề như thế nào mà thôi.
Đối tượng của triết học sẽ có nội dung khác nhau dựa theo những thay đổi của
tình hình thực tiễn xã hội qua từng giai đoạn phát triển
Vấn đề cơ bản của triết học trả lời cho hai mặt đối lập nhau :
+ Mặt thứ nhất: Vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định đến cái nào?
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức thế giới xung quanh mình hay không?
Các trường phái triết học trong lịch sử :
Xuất phát điểm của các trường phái triết học trong lịch sử chính là đến từ các vấn
đề cơ bản của triết học.
Muốn giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học, trong lịch sử triết
học đã chia thành các trường phái lớn, trong đó nổi bật:
Trường phái 1: Những người cho rằng vật chất có trước ý thức và đóng vai trò
quyết định. Họ được gọi là nhà triết học duy vật và các học thuyết của họ hợp
thành chủ nghĩa duy vật.
Trường phái 2: Những nhà triết học cho rằng ý thức là cái có trước vật chất và giữ
vai trò quyết định. Họ được gọi là nhà triết học duy tâm và các học thuyết của họ
hợp thành chủ nghĩa duy tâm.
Trường phái 3: Gồm cả nhà triết học cho rằng vật chất và ý thức tồn tại song song
với nhau, không cái nào chi phối hay quyết định cái nào, cả hai cùng là tạo ra thế
giới là các nhà nhị nguyên. Các học thuyết của họ hợp thành học thuyết nhị nguyên luận (Decacton).
Căn cứ vào việc giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học: "Con
người có khả năng nhận thức được Thế giới hay không?”
+ Chủ nghĩa duy vật cho rằng ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, con người có
khả năng nhận thức thế giới. Đồng thời chủ nghĩa này còn khẳng định nguyên tắc
trong thế giới khách quan là chỉ có cái chưa biết chứ không có cái gì là không thể biết.
+ Còn đối với chủ nghĩa duy tâm, họ cũng thừa nhận khả năng nhận thức thế giới.
Tuy nhiên chủ nghĩa này lại thần bí hóa, duy tâm hóa quá trình nhận thức của con người.
+ Ngoài ra,còn tồn tại một trường phái phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của
con người mang tên “thuyết không thể biết”. Những ai thuộc trường phái này cho
rằng con người không thể nhận thức thế giới xung quanh hoặc chỉ biết được vẻ bên ngoài của thế giới. 6
2.2 Mục đích của triết học Mac- Leenin với đời sống xã hội của chúng ta ;
Triết học Mác - Lênin đã kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng
nhất của tư duy triết học nhân loại, mục đích của triết học Mác - Lênin là nâng cao,
phát triển một cách hiệu quả hơn quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn, phục
vụ cho nhu cầu của con người.
Triết hợp Mác - Lênin mang lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt giống
của thế giới quan cộng sản. Giúp cho con người có cơ sở khoa học để đi khám phá
sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích ý nghĩa
cuộc sống nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người
Triết học có các chức năng như : thế giới quan và phương pháp luận, chức năng
nhận thức và giáo dục, chức năng phê phán…Tuy nhiên quan trọng nhất vẫn là
chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận là hai chức năng cơ bản
của triết học nói chung, đặc biệt là triết học Mác - Lênin nói riêng. Với hai chức
năng chính là phương pháp luận và chức năng thế giới quan đem lại vai trò lớn đối
với đời sống xã hội:
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế
giới xung quanh, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong
thế giới đó. Thế giới quan được hình thành và phát triển trong quá trình sinh sống
và nhận thức của con người. Đến lượt mình, thế giới quan lại trở thành nhân tố
định hướng cho con người tiếp tục quá trình nhận thức thế giới xung quanh cũng
như tự nhận thức bản thân mình và đặc biệt là từ đó con người xác định được thái
độ, cách thức hoạt động và sinh sống của mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề
hình thành nhân sinh quan tích cực, tiến bộ.
Chức năng phương pháp luận: Chúng ta biết rằng phương pháp luận là lý luận
về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo con người
trong việc tìm tòi, xây dựng,phát triển hay lựa chọn và vận dụng các phương pháp
trong nhận thức và trong thực tiễn. Phương pháp luận có nhiều mức độ khác nhau
như : phương pháp luận ngành, có phương pháp luận chung và phương pháp luận
chung nhất. Phương pháp luận của Triết học chính là phương pháp luận chung nhất.
=> Trong triết học, thế giới quan và phương pháp luận không tách rời nhau,luôn
dính chặt với nhau. Bất cứ lý luận triết học nào khi lý giải về thế giới quan xung
quanh và về bản thân con người đồng thời cũng thể hiện một phương pháp luận
nhất định chỉ đạo cho việc xây dựng và vận dụng phương pháp. Mỗi hệ thống triết
học không chỉ là một thế giới quan nhất định mà còn là phương pháp luận chung
nhất trong việc xem xét thế giới. Mỗi quan điểm hay nhận định của triết học đồng
thời là một nguyên tắc, phương pháp luận, là lý luận về phương pháp với tính cách,
là phương pháp luận chung nhất triết học đóng vai trò đưa ra cho con người hướng
đi trong quá trình tìm tòi, xây dựng lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Từ đó, nó có ý nghĩa quyết định đối với sự thất 7
bại hoặc thành công trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
2.3 Khẳng định vai trò của triết học Mác-Lênin đối với chúng ta.
Giúp con người định hướng, phát huy tạo ra mối quan hệ chung giữa thế giới
chung và vị trí của con người giúp mọi người chúng ta xác định được chính xác
mục tiêu, phương hướng hoạt động của bản thân.
Chi phối hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, giúp con người có
thể nhìn nhận hiểu đúng ý nghĩa cuộc sống, mỗi chúng ta sẽ có ý chí và quyết tâm
tích cực hoạt động vì sự tiến bộ của xã hội và của bản thân. Còn nếu người nào đó
không tìm được hạnh phúc hay niềm vui và ý nghĩa tích cực trong cuộc sống thì
con người sẽ trở nên tiêu cực, cản trở tính chủ động thậm chí còn hủy hoại trách
nhiệm và ý thức của con người đối với các mối quan hệ cũng như công việc mà
con người đang hướng đến.
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa đang phát triển hiện nay, bên cạnh giải quyết
những vấn đề “muôn thuở”,khó nắm bắt hay giải quyết thì triết học còn giúp cho
con người tìm ra những đáp án khó nhằng đối với những vấn đề hoàn toàn mới lạ,
phát sinh trong quá trình toàn cầu hóa. Triết học còn giúp con người nhìn nhận
đúng đắn về thế giới quan, nhờ vào triết học, chúng ta ngày nay còn có khả năng
đánh giá những biến chuyển động đang diễn ra, tạo ra nhiều hướng giải quyết, là
“chìa khóa” cho vấn đề mà con người đang gặp phải trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Nói tóm lại, dù là trong quá khứ hay ở kỷ nguyên toàn cầu hóa, triết học vẫn giữ
nguyên vị thế của mình ở phạm vi một dân tộc và cả nhân loại.
CHƯƠNG 3 VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Vai trò của triết học Mác Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng và các cơ sở lý luận trong công cuộc cách
mạng của nước ta. Xét theo toàn cục, chủ nghĩa Mác - Lênin là di sản tinh
thần lớn của loài người được C. Mác và Ph. Ăngghen đặt nền tảng vào đầu thế kỷ
XIX, và V.I. Lênin kế thừa, phát huy từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Chủ
nghĩa Mác - Lênin vạch trần nguồn gốc sâu xa nhất, các vấn đề lớn nhất xuất
hiện trong chế độ tư bản chủ nghĩa đã dự báo đúng xu thế phát triển của mọi hình thái
kinh tế - xã hội để đưa ra khẳng định nền tảng của loài người là chế độ cộng sản chủ
nghĩa. Vì vậy nó là hệ tư tưởng duy nhất có thể đặt ra mục tiêu độc lập dân tộc, cải
tạo đất nước, thay thế loài người và xác định rõ ràng nguồn lực, con đường, phương
tiện để đi đến điều đó.
Việt Nam ngay từ khi đã dành được độc lập đã lựa chọn ngay con đường đấu
tranh cách mạng chân chính đó là chủ nghĩa xã hôi. Là con đường không thích 8
hợp nhất cho nước Việt Nam, vì có thuỷ dân. Đảng cũng đã xác định con đường
hướng phát triển của nước ta sẽ sử dụng chủ nghĩa cộng sản như là nền
tảng trong các hoạt động của mình xuyên suốt thời gian lãnh đạo nước Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã luận chứng tính tất yếu của sự thay thế chủ nghĩa
tư bản bằng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội hiện thực
đã ra đời. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, chủ nghĩa xã
hội hiện có khủng hoảng, chủ nghĩa tư bản thì có những điều chỉnh để thích nghi và
có những thành tựu nhất định về khoa học công nghệ, kinh tế, … nhưng thời đại
ngày nay vẫn là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Đảng ta nhiều lần khẳng định: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn,
thách thức nhưng sẽ có bước tiến mới.
Nhờ có chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, C. Mác đã giải thích
một cách đúng đắn và khoa học những sự phát triển của thế giới loài người thông
qua quá trình tồn tại và vận hành của hệ thống kinh tế xã hội; mặt khác, tìm thấy
nguyên lý giá trị thặng dư, làm sáng tỏ nội dung, hình thức và phương pháp mà nhà
đế quốc áp bức giai cấp vô sản cùng nhân dân lao động. Với chủ nghĩa xã hội khoa
học, C. Mác chứng minh sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân là đánh đổ ách cai
trị của nhà tư bản, vươn tới giải phóng dân tộc mình để thiết lập một chế độ xã hội
không có kẻ bóc lột con người, đưa CNXH từ phi lý trở nên hiện thực, theo Lênin
nhận xét: " Lấy sự thật thay thế mọi mộng tưởng ". Học thuyết Mác đã trở thành
một chỉ cương, tư tưởng quan trọng trong lịch sử đấu tranh kháng lại mọi áp bức,
bóc lột và bất công trong nhân dân.
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên toàn cầu bước vào thời kỳ mới, kinh tế
phát triển không đồng nhất giữa các xã hội làm mâu thuẫn nảy sinh và xung đột nổ
ra là chuyện bình thường, trong lúc cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc của nhân
dân nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc xảy ra rộng rãi. Vì vậy, Lênin đã kế thừa và
phát triển mạnh mẽ chủ nghĩa Mác nhằm xử lý các mâu thuẫn nảy sinh từ thực tiễn
của mình. Ông vạch ra quy luật chiến thắng của cách mạng vô sản; khẳng định rõ
ràng mối quan hệ giữa cách mạng vô sản với đấu tranh giải phóng dân tộc; phát
triển tổ chức đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và lãnh đạo thành công cuộc
Cách mạng Tháng Mười Nga, đưa Đảng Cộng sản Liên Xô đầu tiên trở thành đảng
cầm quyền ở nước Nga Xôviết. Cũng chính Lênin là người xây dựng sự phát triển
mới của chủ nghĩa xã hội với " Chính sách kinh tế mới " và các giải pháp khác
nhằm hoàn thiện chế độ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của nước Nga. Sự phát
triển sáng tạo học thuyết Mác của Lênin đã giúp cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở
thành nền tảng lý luận chung của giai cấp công nhân cùng những người lao động
chân chính trên khắp hành tinh.
Với những giá trị nền tảng, bền vững nêu trên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo
ra một lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, luận chứng một cách thuyết phục con 9
đường hiện thực, chủ thể lãnh đạo, lực lượng tiến hành, chiến lược, sách lược…
dẫn dắt giai cấp công nhân và quần chúng cách mạng đấu tranh lật đổ chế độ tư
bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội mới không còn bóc lột, áp bức, nô dịch. Đặc
biệt ở Việt Nam triết học Mác-Lênin đã là ánh đèn sáng trong dẫn dắt cách mạng
Việt Nam , giúp chúng ta xác định con đường, bước đi, thì phương pháp luận của
triết học Mác - Lênin giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tiễn đổi mới hơn 30 năm qua
. Đó không chỉ là
những vấn đề, điều kiện cụ thể của Việt Nam, mà còn là những vấn đề, thực tiễn
chung của thế giới, của toàn cầu hóa, của phát triển khoa học công nghệ, của kinh
tế tri thức, của hội nhập quốc tế. Dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học
Mác - Lênin, chúng ta đã giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản của quá trình đổi
mới như mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, đây là mối quan hệ cốt lõi, mang tính nền
tảng cho việc giải quyết các mối quan hệ khác.
3.2 Các dẫn chứng của triết học Mác -Lênin tham gia vào sự nghiệp đổi mới của việt nam
Bằng cách tiếp cận đúng đắn, khoa học và gắn bó sát thực tế của mình, Chủ
tịch Hồ Chí Minh, mặt khác, đã trung thành với một số luận điểm căn bản của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin; đồng thời, áp dụng linh hoạt những nguyên lý ấy vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam. Người đã bổ sung những luận điểm mới để làm giàu
cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin; mặt khác, xây dựng nên một hệ thống lý luận của
cách mạng giải phóng Việt Nam đúng với quá trình đi tới CNXH ở một nước thuộc
địa nửa phong kiến nghèo nàn, lạc hậu. Những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt
Nam đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ hiệu quả thiết thực của sự vận dụng, phát huy tư
duy lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin từ Chủ tịch Hồ Chí Minh và là kinh nghiệm
quý giá đối với chúng ta trong thời kỳ hiện nay.
Trước hết, trong mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở những nước tư bản và
cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát
triển lên một bước nhận thức mới khi cho biết, cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước công nghiệp có quan hệ mật thiết với cách mạng thế giới, chứ không hoàn
toàn dựa trên cách mạng chính quốc. Nhân dân các nước thuộc địa và tư bản sẽ
giành thắng lợi đối với cách mạng thế giới và sau đó, tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Trước nữa, C. Mác cho biết, cách mạng vô sản sẽ xảy ra và dành chiến
thắng ở các quốc gia công nghiệp tiên tiến. Còn V.I. Lê-nin nhận định, cách mạng
vô sản sẽ xảy đến và thành công ở nhiều nơi, không chỉ là một nước riêng lẻ của
chủ nghĩa đế quốc và cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở đó phải được phối hợp
với sự tham gia của những người chịu bóc lột ở các thuộc địa.
Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lê-nin đối với việc xử lý mâu thuẫn xã hội và giai cấp tại Việt Nam. Xuất phát trên
vấn đề bao trùm cả tiến trình lịch sử đất nước ta lúc đó là xung đột của 10
toàn bộ dân tộc Việt Nam với đế quốc phong kiến Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định con đường cách mạng vô sản tại Việt Nam trước hết là đấu tranh giải
phóng giai cấp sau mới đến xây dựng xã hội chủ nghĩa. Chính cương đầu tiên của
Đảng năm 1930, được Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, đã nêu: "Kiên quyết thực hiện
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng nhằm tiến lên xã hội cộng sản"
(5) . Nhận thức lý luận ấy vừa đúng với thực tiễn của cách mạng Việt Nam và cũng
đồng thời là mong muốn của đông đảo quần chúng lao động.
Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng Mác -
Lê-nin và giai cấp công nhân với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở nước
ta, một quốc gia thuộc địa nửa phong kiến, tuyệt đại đa số là người dân lao động
nông nghiệp, do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng Cộng sản Việt
Nam là sự tổng hợp của lý luận Mác - Lê-nin với giai cấp công nhân và phong trào
cứu nước. Đảng có tính chất giai cấp công nhân, đại diện cho quyền lợi của giai
cấp công nhân, người lao động và toàn thể xã hội. Người đã có công gây dựng
Ðảng đoàn kết, thống nhất cả chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động; chăm lo
đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao phẩm chất đạo đức cho mỗi cán bộ, đảng viên.
Quan điểm xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Ðảng và từng cán bộ, đảng
viên "luôn xứng đáng là người chỉ huy, là người đại biểu thật sự trung thành của quần chúng" (6) .
Thứ tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển học thuyết Mác - Lê-nin trong
xây dựng và tổ chức phong trào quần chúng. Người nhấn mạnh, động lực chủ yếu
của cả quá trình cách mạng Việt Nam đó là đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh công nhân - nông dân và trí thức dưới quyền lãnh đạo của Đảng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy sáng tạo quan điểm xây dựng liên minh
công - nông của học thuyết Mác - Lê-nin nhằm đoàn kết, tập hợp sức mạnh to lớn
của cả dân tộc, của mọi tầng lớp người yêu nước với thế trận cách mạng để giành
chiến thắng trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, thống nhất và tiến tới CNXH.
Thứ năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy thành công các tư
tưởng tiến bộ của học thuyết Mác - Lê-nin vào quá trình xây dựng nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân căn cứ trên nguyên tắc pháp quyền tại Việt
Nam. Theo tư tưởng của học thuyết Mác - Lê-nin, sau cuộc cách mạng vô sản
thành công thì giai cấp vô sản sẽ xây dựng lên nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên nền
tảng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất một loạt những tư tưởng sáng tạo xây
dựng nhà nước kiểu mới: Toàn bộ các quyền lực phải là của nhân dân, một nhà
nước của nhân dân, chính quyền cấp xã đến chính phủ đều do nhân dân bầu nên;
đoàn thể từ Trung ương xuống cơ sở do quần chúng tổ chức lên, có tổ chức và sinh
hoạt theo khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, thực hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân. 11
Thứ sáu, Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng học thuyết Mác - Lê-nin làm cơ sở
để xây dựng tư tưởng, lý luận về chính trị, xã hội và quan hệ quốc tế cho sự nghiệp
cách mạng Việt Nam. Người chủ trương xây dựng nền tảng văn hoá mới xã hội
chủ nghĩa có tính chất thời đại với ba mặt cơ bản: Giữ gìn, phát triển hệ giá trị đạo
đức tốt đẹp; bù đắp sự thiếu thốn của văn hoá hiện tại và sáng tạo các giá trị của
đời sống tinh thần tương lai. Về văn hoá, Người coi trọng con người với bản chất
cao đẹp: Tiền với nước, hậu với nhà; thương yêu con người; cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng và đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ,
từng người dân cũng phải trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng để phát triển con
người mới xã hội chủ nghĩa. Người cũng rất chú trọng việc đoàn kết quốc tế để thu
hút lực lượng bên ngoài; huy động sức mạnh xã hội và trí tuệ nhân loại nhằm thực
hiện nhiệm vụ cách mạng Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Người nhấn mạnh: "Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ thiết lập các quan hệ
hữu nghị tốt đẹp với bất kỳ một quốc gia nào trên tinh thần: tôn trọng tính toàn vẹn
về biên giới và lãnh thổ của mình, không xâm hại lẫn nhau, không can dự nội bộ
của đối phương, tất cả đều có lợi, và chung sống hoà bình" (7) . Đây là tuyên ngôn
về bình đẳng, đoàn kết, hợp tác, tôn trọng những quyền lợi chung căn bản giữa các
quốc gia, phản ánh tư tưởng chính trị cao cả và nhân đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3.3 Đưa ra đường lối thực thi theo triết học Mác-lênin
Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực hành là sự tổng kết kinh nghiệm
và kiến thức; đó là khoa học về các quy luật tự nhiên và sự phát triển xã hội, khoa
học về cách mạng quần chúng, về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Chính vì thế tâm
trí không giáo điều, không cứng nhắc, mà đầy tính sáng tạo, như kim chỉ nam chỉ
cho ta phương hướng hành động. Các lập luận được thảo luận ở đây là các nguyên
tắc chung; là tinh thần, thái độ, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lý luận đó là sự khái quát của thực tiễn, là sự tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn giúp giải thích quy luật phát triển của cách mạng và đổi
mới, xác định phương hướng, phương châm và bước đi đặc biệt của sự nghiệp đổi
mới theo tình hình và hoàn cảnh của nước ta.
3.4 Khẳng định vai trò của triết học Mác-lênin đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
Chủ nghĩa Mác - Lênin đưa ra thế giới quan và phương pháp luận khoa học để đổi
mới Đảng. Nhìn chung, chủ nghĩa Mác - Lênin là công trình của C. Mác và Ph.
Engels đặt nền móng vào đầu thế kỷ 19, V.I. Lênin phát triển rực rỡ và thịnh
vượng vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã bộc lộ bản 12
chất sâu xa nhất, mâu thuẫn cơ bản nhất của quy luật tư bản chủ nghĩa và dự
báochính xác xu thế của các hình thái kinh tế - xã hội sẽ kết thúc bằng nhận định:
Tương lai của loài người là chủ nghĩa cộng sản. Đó là lý do tại sao nó là lý thuyết
khoa học, cách mạng và nhân văn duy nhất nhằm mục tiêu tự do giai cấp, giải
phóng xã hội và giải phóng con người và xác định các lực lượng, cách thức và
phương pháp để đạt được mục tiêu này. Sau khi giành được độc lập dân tộc, Việt
Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là cần thiết, khách quan, thiết
thực và hợp lòng dân. Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của đảng trong toàn bộ quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ trên toàn thế giới phải thay
thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội chân chính ra đời.
Tuy nhiên, vì những nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiện nay chủ nghĩa xã
hội đang lâm vào khủng hoảng, chủ nghĩa tư bản đã có những bước chuyển mình
thích nghi và đạt được những thành tựu nhất định về khoa học, công nghệ, kinh tế,
v.v... nhưng thế giới ngày nay vẫn đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội đang có những bước tiến
mới, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức. Theo quy luật phát triển của lịch sử,
nhân loại nhất định phải đi lên chủ nghĩa xã hội"(1). Rõ ràng, khả năng đi lên chủ
nghĩa xã hội là rất rõ ràng trong thời kỳ hiện đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ
ra rằng, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đặt ra một số tồn tại lời giải được
tìm thấy trong di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác, bởi vì thực tiễn ngày nay đã có
nhiều thay đổi, những sự kiện lịch sử đã xảy ra, những vấn đề thực tiễn mới này
cũng cần phải có một lý luận mới để giải đáp, một thực tiễn mới. lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu khách quan trong thời kỳ hiện
đại. Tổng kết thực tiễn, dựa vào kinh nghiệm, hoàn thiện phát triển chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện mới. mới.Thành quả của 35
năm công cuộc đổi mới đã khẳng định công cuộc khôi phục ở nước ta là hoàn toàn
đúng đắn. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với thời điểm hiện nay. Tuy nhiên, trong tình hình
hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến đổi nhanh chóng, phức tạp và
khó lường. Đại hội lần thứ XIII của Đảng ta đã chỉ rõ: "Hòa bình, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến bộ nhưng cũng bị đe dọa bởi sự gia 13
tăng của chủ nghĩa cực đoan.. chủ nghĩa dân tộc, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh
kinh tế, chiến tranh thương mại gay gắt... Các nước điều chỉnh chiến lược
vàphương thức phát triển để thích ứng với tình hình mới. Tại Đông Nam Á, môi
trường an ninh và tranh chấp chủ quyền Biển Đông vẫn diễn biến phức tạp. Biến
đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác, nhất
là an ninh mạng có tác động ngày càng mạnh mẽ, đa dạng, đe dọa nghiêm trọng
đến sự phát triển ổn định, bền vững của Việt Nam, thế giới, khu vực và đất nước
ta. ). Trong bối cảnh thực tiễn đó, Đảng ta cần phải nắm vững phương pháp luận
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, coi đó là điểm khởi đầu quan trọng cho việc
đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội, giúp hiểu đúng quan niệm về chủ nghĩa
xã hội của các nhà kinh điển và vượt qua quan niệm chủ nghĩa xã hội của các nhà
kinh điển. lý thuyết một. sai lầm niệm chủ nghĩa xã hội. Để làm việc đó,Đảng ta
phải nhìn thẳng, đánh giá đúng thực tiễn dám từ bỏ cả những kết luận của chính
mình nếu như không còn phù hợp để bổ sung, phát triển lý luận trong tình hình
mới. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định: “Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn
và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không
sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với
những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp”(3). Đại hội lần thứ XIII của Đảng
một lần nữa tiếp tục khẳng định quan điểm đổi mới: “Kiên định và vận dụng, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng… để
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”( ). Trong thời
gian tới, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bức thiết cần phải tiếp tục khẳng định, bảo
vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong tình hình mới. Ban Giám hiệu và các giảng viên, nhân viên Trường Chính trị
tỉnh Phú Thọ cần nhận thức đúng và chú trọng một số vấn đề cụ thể sau: Một là,
tiếp tục nâng cao nhận thức, giữ vững lập trường tư tưởng, không hoang mang dao
động, tin tưởng sự vận dụng các quan điểm khoa học và cách mạng của học thuyết
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta đối với công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay. Thứ hai, Đảng đoàn, Ban Chấp hành phải quán triệt và chỉ đạo
tham gia thực hiện tốt Nghị quyết số 35-NQ/TW “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, đấu tranh lập trường sai trái, hậu quả xấu trong tình hình mới”;
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn Thứ ba, với tư cách 14
là công cụ tuyên truyền, giảng viên cần vận dụng các nghị quyết, chỉ thị của đảng
vào nội dung bài giảng để học viên kiên trì và làm tốt, tránh hiểu sai, nhầm lẫn,
quyết định không rõ ràng, đảng phái. hướng dẫn, pháp luật của nhà nước. Thứ tư,
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị, nhất là đối với
nhà giáo, người lao động và học sinh, sinh viên Phải coi việc học tập lý luận chính
trị là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, không ngừng thay đổi trong quá trình công
tác, học tập. nhu cầu và mong muốn của nhân viên, người lao động và học sinh.
Bên cạnh đó, Đảng ủy, Ban giám hiệu nhà trường phải quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ, vừa có kiến thức chuyên môn, vừa có kiến
thức chính trị để thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường. PHẦN KẾT LUẬN
Một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với Đảng là vừa phát triển đất nước vừa duy trì
toàn cầu hóa và tình hình chính trị, quân sự thế giới hết sức phức tạp hiện nay. Nội
dung cơ bản của việc trả lời các câu hỏi trên nằm ở chỗ chúng ta kiên định kiên
định mục tiêu kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, vận dụng chủ nghĩa xã
hội một cách trung thành và sáng tạo vào việc giải quyết những vấn đề cơ bản của
nước ta. Thời đại và đổi mới, cơ sở tư tưởng và chương trình hành động của Đảng và nhân dân ta. 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập (trọn bộ 50 tập), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
[2] https://loigiaihay.com/khai-luoc-su-ra-doi-va-phat-trien-cua-chu-nghia-mac- lenin-c126a20169.html
[3] https://voer.edu.vn/c/triet-hoc-mac-lenin/18de6b82
[4] Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học 3 quyển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. 