Phân tích vấn đề con người trong triết học - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa các yếu tố sinh học và xãhội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

1. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người.
1.1.Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng
thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa các yếu tố sinh học và xã
hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của giới tự
nhiên. Con người tự nhiên là người có tất cả bản chất sinh vật và giống loài. Yếu tố
sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quyết định sự tồn tại của con người.
Vì vậy, giới tự nhiên là “cơ thể vô cơ của con người”. Con người là một phần của
tự nhiên. Là loài vật cao cấp nhất, là tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm
của một quá trình phát triển rất lâu dài trong thế giới tự nhiên.
Bằng sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi và biến đổi toàn bộ thiên
nhiên: "Động vật chỉ tự sinh sản, còn con người thì tái tạo tất cả thiên nhiên." ".
Tính xã hội của con người thể hiện ở các hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua
hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần
phục vụ cuộc sống; hình thành và phát triển ngôn ngữ tư duy; thiết lập các mối
quan hệ xã hội. Vì vậy, lao động là nhân tố quyết định sự hình thành bản chất xã
hội của con người, đồng thời trong việc hình thành nhân cách cá nhân trong cộng
đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và của xã hội, quá trình hình thành và phát triển của
con người vẫn chịu sự chi phối của ba hệ thống pháp luật khác nhau nhưng thống
nhất. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp của cơ thể với môi
trường, quy luật chuyển hóa, di truyền, biến dị, tiến hóa ... quy định mặt sinh học
của con người. Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng mối
quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và xã hội của
mỗi con người là như nhau. Mặt sinh học là cơ sở tự nhiên cần thiết của con người,
mặt xã hội là đặc điểm cơ bản để phân biệt con người với động vật. Nhu cầu sinh
học phải được nhân hóa nhằm cung cấp những giá trị văn minh của con người, và
đến lượt nó, nhu cầu xã hội cũng không thể thoát khỏi tiền đề là nhu cầu sinh học.
Hai bộ phận hợp nhất với nhau, hợp nhất để tạo thành một con người viết hoa, một
con người xã hội tự nhiên.
1.2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội.
Từ những khái niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng con người vượt ra
khỏi thế giới động vật ở ba khía cạnh khác nhau: mối quan hệ với tự nhiên, mối
quan hệ với xã hội và mối quan hệ với bản thân. Ba mối quan hệ này xét đến cùng
đều mang tính xã hội, trong đó mối quan hệ xã hội giữa người với người là mối
quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ và hoạt động khác khi chúng liên
quan đến con người. Như vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác
đã nêu ra luận điểm nổi tiếng trong cuốn Luận cương của Feuerbach: “Bản chất con
người không phải là cái trừu tượng vốn có trong cá thể riêng biệt. . Trong thực tế
của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. ”
Luận điểm trên khẳng định rằng không có con người trừu tượng nào được miễn
trừ khỏi mọi điều kiện và hoàn cảnh lịch sử, xã hội. Con người luôn mang tính cụ
thể, được xác định sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại
nhất định. Trong điều kiện lịch sử này, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con
người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả về thể chất
và trí tuệ. Cần lưu ý rằng luận điểm trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa
là phủ nhận mặt tự nhiên của đời sống con người; Ngược lại, bà muốn nhấn mạnh
rằng sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã hội
và đó cũng là để lấp khoảng trống của các nhà triết học tiền sử đã không nhìn thấy
bản chất xã hội của xã hội loài người. Mặt khác, bản thể với ý nghĩa là cái phổ
biến, có tính quy luật, không phải là cái duy nhất. Vì vậy, cần thấy được những biểu
hiện riêng biệt, phong phú, đa dạng của mỗi cá nhân về phong cách, nhu cầu và lợi
ích trong cộng đồng xã hội.
1.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không có con người. Vì vậy,
con người là sản phẩm của lịch sử, của quá trình tiến hóa lâu dài của các loài sinh
vật. Tuy nhiên, quan trọng nhất là con người vẫn là chủ thể của lịch sử xã hội.
C.Mác đã khẳng định: "Học thuyết duy vật cho rằng con người là sản phẩm của
hoàn cảnh và giáo dục ... nó quên rằng chính con người là người thay đổi hoàn cảnh
và chính bản thân mình. Giáo dục cũng phải được giáo dục". Trong cuốn sách Biện
chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng nói: “Động vật cũng có lịch sử phát triển
dần dần đến trạng thái hiện tại.
Như vậy, với tư cách là một thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, làm thay đổi giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động và
phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới động vật dựa trên những điều kiện sẵn có của
tự nhiên. Trái lại, con người, bằng hoạt động thực tiễn làm phong phú thế giới tự
nhiên, tái tạo thiên nhiên thứ hai theo thiết kế của mình. Trong quá trình biến đổi
của thiên nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính mình. Con người là sản
phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính mình.
Vì vậy, muốn phát triển bản chất con người theo hướng tích cực thì phải làm
cho hoàn cảnh ngày càng trở nên nhân văn hơn. Tình trạng này là tổng thể của môi
trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo nghĩa phát triển nhằm đạt
được các giá trị hữu ích, tự giác, có ý nghĩa và giáo dục. Nhờ đó, con người tiếp
nhận tình huống một cách tích cực và tác động đến chúng trên nhiều phương diện
khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, đối nhân xử thế, phát triển phẩm
chất trí tuệ, v.v. trí tuệ và năng lực phản ánh, quy luật nhận thức hướng con người
vào hoạt động vật chất. Đó là phép biện chứng của mối quan hệ giữa con người với
hoàn cảnh ở bất kỳ thời kỳ nào trong lịch sử xã hội loài người.
2. Ý nghĩa về lý luận và thực tiễn
Kế thừa quán triệt tưởngluận của C.Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
chú ý đến con người. Theo Người "
. Với
ý nghĩa đó, khái niệm con người mang trong nó bản chất xã hội, con người xã hội,
phản ánh các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng trong đó con người hoạt động và sinh
sống.
Trong triết học của Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người một chỉnh thể thống
nhất của thể, trí tuệ, trí tuệ hoạt động. Đó một hệ thống cấu trúc bao gồm
sức khỏe, kiến thức, khả năng thực hành, đạo đức và đời sống tinh thần. Con người
là tài sản quý giá nhất của nhân dân, chăm sóc, vun đắp và phát triển con người, coi
con người mục tiêu, động lực của sự phát triển hội, nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng. Hiểu huy động đúng đắn sức người sự phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, coi con người nguồn sáng tạo ý thức
chủ thể của lịch sử.
Nâng cao nhân tố con người và đặt con người làm trung tâm của chiến lược phát
triển tưởng của Đảng ta hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, tạo điều
kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, nhân rộng, tăng năng suất. tạo nên cơ sở vật
chất văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú. Sở thích cá nhân ngày càng được quan
tâm, tạo ra nhiều hội mới để phát triển bản thân. Tuy nhiên, chế này thể
dẫn đến sự tuyệt đối hóa lợi ích kinh tế, dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo trong
hội, chứa đựng những khả năng đối lập giữa cá nhân và xã hội.
3. Vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, Đảng và Hồ Chí Minh tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của truyền thống
yêu nước của dân tộc Việt Nam, khẳng định: Công nhân và nông dân là gốc của
đường. và đất lấy dân làm gốc. Thực chất, đó là tư tưởng coi nhân dân là động cơ
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Thực tiễn đã khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của những người sáng
lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vị trí, vai trò không thể thay thế của con người trong
quá trình phát triển của lịch sử loài người và xã hội loài người. Cùng với chúng ta,
các nước mới công nghiệp hóa của Châu Á đã thể hiện sự thành công trong chiến
lược nâng cao chất lượng con người, coi con người là tài nguyên vô giá và đầu tư ồ
ạt vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nguồn lực vô giá này, lấy đó làm
đòn bẩy cho phát triển kinh tế và hiện đại hóa xã hội.
Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, nhà nước và
nhân dân, có chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội lao động sản
xuất, thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, chuẩn bị. , Nhà nước, nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa; Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc cần phải
phát huy sức mạnh tổng hợp, trong đó phát huy nhân tố con người là khâu cơ bản
quyết định sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta.
Trong khi đó, chính sách kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà
Đảng ta và nhân dân ta đang thực hiện cũng có những tiêu cực tác động không nhỏ
đến người dân. Vì vậy, việc phát huy nhân tố con người trong Quân đội là hết sức
cấp thiết nhằm xây dựng Quân đội thực sự cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, đủ sức đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược. , thực hiện thắng
lợi mọi nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó.
Họ phải được giáo dục, rèn luyện để có niềm tin, kiên định mục tiêu, lý tưởng
chiến đấu, biết phát huy truyền thống đánh giặc của ông cha, truyền thống đánh
giặc của Quân đội nói chung và Quân chủng Phòng không. Đặc biệt, đưa những bài
học kinh nghiệm trong khói lửa của chiến tranh lên một tầm cao mới trong điều
kiện mới.
Huấn luyện và khuyến khích binh sĩ hiểu biết sâu rộng về các phương tiện chiến
tranh và thủ đoạn của kẻ thù trong chiến tranh công nghệ cao. Nắm chắc và vận
dụng linh hoạt, sáng tạo các nguyên tắc tác chiến, tư tưởng chỉ đạo tác chiến, cách
đánh của bộ đội phòng không trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Tin tưởng vào sức mạnh của con người, chúng tôi nỗ lực hết mình để chăm lo
phát triển nguồn nhân lực. Yếu tố con người là vốn quý mà chúng tôi trân trọng và
duy trì. Con người là vốn quý, là nguồn của cải vô tận, nếu biết huy động và khai
thác sức người, mọi lợi ích đều hướng vào phục vụ con người thì mọi việc sẽ thuận
lợi, trôi chảy và ngược lại. không xuất thân từ nhân dân, không thực hiện tốt quyền
làm chủ của con người và xa rời người cách mạng thì nhân dân sẽ gặp khó khăn,
thậm chí mọi công việc đều thất bại. Vì vậy, phát huy nhân tố con người, đặt con
người vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội là hoàn toàn đúng đắn
và đó cũng là sự thể hiện sự vận dụng sáng tạo quan điểm nhân văn của triết học
Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3,
tr. 55.
2. C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), , tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Nội.
3. Hồ Chí Minh (1995), , Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hội đồng Lý luận Trung ương, “
Nxb Lý luận chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội - 2021, tr 83,
84; 27.
| 1/7

Preview text:

1. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người.
1.1.Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng
thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa các yếu tố sinh học và xã
hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của giới tự
nhiên. Con người tự nhiên là người có tất cả bản chất sinh vật và giống loài. Yếu tố
sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quyết định sự tồn tại của con người.
Vì vậy, giới tự nhiên là “cơ thể vô cơ của con người”. Con người là một phần của
tự nhiên. Là loài vật cao cấp nhất, là tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm
của một quá trình phát triển rất lâu dài trong thế giới tự nhiên.
Bằng sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi và biến đổi toàn bộ thiên
nhiên: "Động vật chỉ tự sinh sản, còn con người thì tái tạo tất cả thiên nhiên." ".
Tính xã hội của con người thể hiện ở các hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua
hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần
phục vụ cuộc sống; hình thành và phát triển ngôn ngữ tư duy; thiết lập các mối
quan hệ xã hội. Vì vậy, lao động là nhân tố quyết định sự hình thành bản chất xã
hội của con người, đồng thời trong việc hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và của xã hội, quá trình hình thành và phát triển của
con người vẫn chịu sự chi phối của ba hệ thống pháp luật khác nhau nhưng thống
nhất. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp của cơ thể với môi
trường, quy luật chuyển hóa, di truyền, biến dị, tiến hóa ... quy định mặt sinh học
của con người. Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng mối
quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và xã hội của
mỗi con người là như nhau. Mặt sinh học là cơ sở tự nhiên cần thiết của con người,
mặt xã hội là đặc điểm cơ bản để phân biệt con người với động vật. Nhu cầu sinh
học phải được nhân hóa nhằm cung cấp những giá trị văn minh của con người, và
đến lượt nó, nhu cầu xã hội cũng không thể thoát khỏi tiền đề là nhu cầu sinh học.
Hai bộ phận hợp nhất với nhau, hợp nhất để tạo thành một con người viết hoa, một
con người xã hội tự nhiên.
1.2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.
Từ những khái niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng con người vượt ra
khỏi thế giới động vật ở ba khía cạnh khác nhau: mối quan hệ với tự nhiên, mối
quan hệ với xã hội và mối quan hệ với bản thân. Ba mối quan hệ này xét đến cùng
đều mang tính xã hội, trong đó mối quan hệ xã hội giữa người với người là mối
quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ và hoạt động khác khi chúng liên
quan đến con người. Như vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác
đã nêu ra luận điểm nổi tiếng trong cuốn Luận cương của Feuerbach: “Bản chất con
người không phải là cái trừu tượng vốn có trong cá thể riêng biệt. . Trong thực tế
của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. ”
Luận điểm trên khẳng định rằng không có con người trừu tượng nào được miễn
trừ khỏi mọi điều kiện và hoàn cảnh lịch sử, xã hội. Con người luôn mang tính cụ
thể, được xác định sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại
nhất định. Trong điều kiện lịch sử này, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con
người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả về thể chất
và trí tuệ. Cần lưu ý rằng luận điểm trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa
là phủ nhận mặt tự nhiên của đời sống con người; Ngược lại, bà muốn nhấn mạnh
rằng sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã hội
và đó cũng là để lấp khoảng trống của các nhà triết học tiền sử đã không nhìn thấy
bản chất xã hội của xã hội loài người. Mặt khác, bản thể với ý nghĩa là cái phổ
biến, có tính quy luật, không phải là cái duy nhất. Vì vậy, cần thấy được những biểu
hiện riêng biệt, phong phú, đa dạng của mỗi cá nhân về phong cách, nhu cầu và lợi
ích trong cộng đồng xã hội.
1.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không có con người. Vì vậy,
con người là sản phẩm của lịch sử, của quá trình tiến hóa lâu dài của các loài sinh
vật. Tuy nhiên, quan trọng nhất là con người vẫn là chủ thể của lịch sử xã hội.
C.Mác đã khẳng định: "Học thuyết duy vật cho rằng con người là sản phẩm của
hoàn cảnh và giáo dục ... nó quên rằng chính con người là người thay đổi hoàn cảnh
và chính bản thân mình. Giáo dục cũng phải được giáo dục". Trong cuốn sách Biện
chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng nói: “Động vật cũng có lịch sử phát triển
dần dần đến trạng thái hiện tại.
Như vậy, với tư cách là một thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, làm thay đổi giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động và
phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới động vật dựa trên những điều kiện sẵn có của
tự nhiên. Trái lại, con người, bằng hoạt động thực tiễn làm phong phú thế giới tự
nhiên, tái tạo thiên nhiên thứ hai theo thiết kế của mình. Trong quá trình biến đổi
của thiên nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính mình. Con người là sản
phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính mình.
Vì vậy, muốn phát triển bản chất con người theo hướng tích cực thì phải làm
cho hoàn cảnh ngày càng trở nên nhân văn hơn. Tình trạng này là tổng thể của môi
trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo nghĩa phát triển nhằm đạt
được các giá trị hữu ích, tự giác, có ý nghĩa và giáo dục. Nhờ đó, con người tiếp
nhận tình huống một cách tích cực và tác động đến chúng trên nhiều phương diện
khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, đối nhân xử thế, phát triển phẩm
chất trí tuệ, v.v. trí tuệ và năng lực phản ánh, quy luật nhận thức hướng con người
vào hoạt động vật chất. Đó là phép biện chứng của mối quan hệ giữa con người với
hoàn cảnh ở bất kỳ thời kỳ nào trong lịch sử xã hội loài người.
2. Ý nghĩa về lý luận và thực tiễn
Kế thừa và quán triệt tư tưởng lý luận của C.Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
chú ý đến con người. Theo Người " . Với
ý nghĩa đó, khái niệm con người mang trong nó bản chất xã hội, con người xã hội,
phản ánh các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng trong đó con người hoạt động và sinh sống.
Trong triết học của Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể thống
nhất của cơ thể, trí tuệ, trí tuệ và hoạt động. Đó là một hệ thống cấu trúc bao gồm
sức khỏe, kiến thức, khả năng thực hành, đạo đức và đời sống tinh thần. Con người
là tài sản quý giá nhất của nhân dân, chăm sóc, vun đắp và phát triển con người, coi
con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng. Hiểu và huy động đúng đắn sức người là sự phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, coi con người là nguồn sáng tạo có ý thức và là
chủ thể của lịch sử.
Nâng cao nhân tố con người và đặt con người làm trung tâm của chiến lược phát
triển là tư tưởng của Đảng ta hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, tạo điều
kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, nhân rộng, tăng năng suất. tạo nên cơ sở vật
chất văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú. Sở thích cá nhân ngày càng được quan
tâm, tạo ra nhiều cơ hội mới để phát triển bản thân. Tuy nhiên, cơ chế này có thể
dẫn đến sự tuyệt đối hóa lợi ích kinh tế, dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo trong xã
hội, chứa đựng những khả năng đối lập giữa cá nhân và xã hội.
3. Vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, Đảng và Hồ Chí Minh tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của truyền thống
yêu nước của dân tộc Việt Nam, khẳng định: Công nhân và nông dân là gốc của
đường. và đất lấy dân làm gốc. Thực chất, đó là tư tưởng coi nhân dân là động cơ
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Thực tiễn đã khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của những người sáng
lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vị trí, vai trò không thể thay thế của con người trong
quá trình phát triển của lịch sử loài người và xã hội loài người. Cùng với chúng ta,
các nước mới công nghiệp hóa của Châu Á đã thể hiện sự thành công trong chiến
lược nâng cao chất lượng con người, coi con người là tài nguyên vô giá và đầu tư ồ
ạt vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nguồn lực vô giá này, lấy đó làm
đòn bẩy cho phát triển kinh tế và hiện đại hóa xã hội.
Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, nhà nước và
nhân dân, có chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội lao động sản
xuất, thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, chuẩn bị. , Nhà nước, nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa; Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc cần phải
phát huy sức mạnh tổng hợp, trong đó phát huy nhân tố con người là khâu cơ bản
quyết định sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta.
Trong khi đó, chính sách kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà
Đảng ta và nhân dân ta đang thực hiện cũng có những tiêu cực tác động không nhỏ
đến người dân. Vì vậy, việc phát huy nhân tố con người trong Quân đội là hết sức
cấp thiết nhằm xây dựng Quân đội thực sự cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, đủ sức đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược. , thực hiện thắng
lợi mọi nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó.
Họ phải được giáo dục, rèn luyện để có niềm tin, kiên định mục tiêu, lý tưởng
chiến đấu, biết phát huy truyền thống đánh giặc của ông cha, truyền thống đánh
giặc của Quân đội nói chung và Quân chủng Phòng không. Đặc biệt, đưa những bài
học kinh nghiệm trong khói lửa của chiến tranh lên một tầm cao mới trong điều kiện mới.
Huấn luyện và khuyến khích binh sĩ hiểu biết sâu rộng về các phương tiện chiến
tranh và thủ đoạn của kẻ thù trong chiến tranh công nghệ cao. Nắm chắc và vận
dụng linh hoạt, sáng tạo các nguyên tắc tác chiến, tư tưởng chỉ đạo tác chiến, cách
đánh của bộ đội phòng không trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Tin tưởng vào sức mạnh của con người, chúng tôi nỗ lực hết mình để chăm lo
phát triển nguồn nhân lực. Yếu tố con người là vốn quý mà chúng tôi trân trọng và
duy trì. Con người là vốn quý, là nguồn của cải vô tận, nếu biết huy động và khai
thác sức người, mọi lợi ích đều hướng vào phục vụ con người thì mọi việc sẽ thuận
lợi, trôi chảy và ngược lại. không xuất thân từ nhân dân, không thực hiện tốt quyền
làm chủ của con người và xa rời người cách mạng thì nhân dân sẽ gặp khó khăn,
thậm chí mọi công việc đều thất bại. Vì vậy, phát huy nhân tố con người, đặt con
người vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội là hoàn toàn đúng đắn
và đó cũng là sự thể hiện sự vận dụng sáng tạo quan điểm nhân văn của triết học
Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr. 55.
2. C.Mác - Ph. Ăngghen (1995),
, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh (1995),
, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hội đồng Lý luận Trung ương, “
Nxb Lý luận chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội - 2021, tr 83, 84; 27.