Pháp luật về tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công | Bài tiểu luận môn Pháp luật tài chính | Trường Đại học Phenikaa

Tự chủ tài chính là một trong những cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, được hiểu là cơ chế theo đó các đơn vị sự nghiệp công được trao quyền tự quyết định, tự chịu trách nhiệm về các khoản thu, khoản chi của đơn vị mình trong khuôn khổ mà pháp luật quy định. Đơn vị sự nghiệp công lập được biết đến chính là các đơn vị do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập, thuộc sở hữu của Nhà nước, là đơn vị dự toán độc lập, có con dấu và tài khoản riêng, tổ chức bộ máy kế toán theo quy định của Luật Kế toán. Có thể kể đến các đơn vị sự nghiệp công lập, như: trường học, bệnh viện, cơ sở y tế, văn hóa, sở khoa học công nghệ, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam… Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KINH TẾ KINH DOANH
TIỂU LUẬN MÔN PHÁP LUẬT TÀI CHÍNH
Đề bài: Pháp luật về tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công
Sinh viên
:
Mã SV
: 21010366
Lớp
: K15 - LKT
HÀ NỘI, THÁNG 9 NĂM 2022
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.......................................................................................................................3
1. Tính cấp thiết của vấn đề.................................................................................................3
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................4
3. Mục đích nghiên cứu........................................................................................................4
B. NỘI DUNG............................................................................................................................5
1. Định nghĩa, lí luận, pháo luật về vấn đề tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp
công.........................................................................................................................................5
1.1 Định nghĩa về tự chủ tài chính, Đơn vị sự nghiệp công và tự chủ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công..........................................................................................5
1.1.1 Định nghĩa về tự chủ tài chính............................................................................5
1.1.2 Định nghĩa về đơn vị sự nghiệp công.................................................................5
1.1.3 Tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công là gì?................................5
1.2 Phân loại sự nghiệp công............................................................................................5
1.2.1 Theo tiêu chí mức độ tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công
lập............5
1.2.2 Xét dưới góc độ vị trí pháp lý, đơn vị sự nghiệp công lập có thể chia thành
5 loại
sau:..........................................................................................................................5
1.3 Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công................6
1.3.1 Khái niệm..............................................................................................................6
1.3.2 Nội dung pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập..........................................................................................................................6
1.4 Cơ chế tự chủ tài chính công....................................................................................10
1.4.1Mục tiêu của cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập:10
1.4.2 Quy định mới về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập:....11
2.Tình hình triển khai thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị
sự nghiệp công.................................................................................................................13
3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập.14
C. KẾT LUẬN.........................................................................................................................15
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................16
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của vấn đề.
Trong hơn 20 năm đổi mới, mở cửa và cải cách, các chủ thể sản xuất kinh doanh trong
nền kinh tế đã những bước trưởng thành đáng kể, trong đó sự góp phần không nhỏ của
việc được tự chủ tài chính. Cái chung của công cuộc cải cách kinh tế là mở rộng quyền tự chủ,
đã và đang mang đến nhiều kết quả tốt thấy rõ, góp phần giải phóng sức sản xuất. Tác dụng tích
cực của cơ chế tự chủ tài chính ai cũng thấy rõ: Sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã thực sự khơi
dậy tính năng động sáng tạo không chỉ trong kinh tế còn trong nhiều lĩnh vực hoạt động
khác nhau của đời sống xã hội.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng; Chính phủ đã quyết định phê duyệt chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 2010 với bốn nội dung lớn là: cải cách tài
chính công; trong đó cách chế quản tài chính đối với quan hành chính đơn vị sự
nghiệp là bước đột phá.
Để triển khai chương trình này, ngày 16/01/2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hanh
Nghị định số 10/2002/NĐ – CP về việc đổi mới cơ chế tài chính, trao quyền tự chủ hành chính
cho các đơn vị sự nghiệp thu. Sau đó, thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị định s
43/2006NĐ CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn
vị sự nghiệp công về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính.
Mục tiêu đổi mới chế quản tài chính, đơn vị sự nghiệp trao quyền tự chủ thật sự
cho cơ quan, đơn vị sự nghiệp trong việc tổ chức công việc, sử dụng lao động, tăng cường huy
động quản thống nhất các nguồn thu, đồng thời sử dụng lao động, tăng ờng huy động
và quản lý thống nhất các nguồn thu, đồng thời sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn tài
chính nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng công tác quản lý hành chính, hoạt động sự nghiệp,
khuyến khích tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp đảm bảo trang trải kinh phí hoạt động
nâng cao thu nhập của cán bộ công tác.
Những kết quả đã đạt được khi thực hiện Nghị định 10/2002/NĐ CP đã khẳng định
việc trao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công là 1 hướng đi đúng. Tuy nhiên,
cũng còn rất nhiều các bất cập, hạn chế như chỉ đề cập đến quyền tự chủ tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên. Đối với các đơn vị sự
nghiệp nguồn thu thấp, chưa văn bản quy pháp luật nào điều chỉnh. Xuất phát từ
những hạn chế của nghị định 10/2002/NĐ – CP , Nghị định 43/2006/NĐ – CP ra đời nhằm khắc
phục những quy định đang gò bó các đơn vị sự nghiệp trong thời gian qua. Tuy nhiên công tác
quản lý, tổ chức hạch toán, phân phối, sử dụng vẫn còn nhiều vướng mắc, hạn chế trong quá
trình thực hiện cần phải tiếp tục sửa đổi bổ sung để có thể đạt được những ục tiêu đề ra.
Ngoài Nghị định số 10/2002/NĐ-CP, quy định về chế độ tài chính của các đơn vị sự
nghiệp thu công lập, Nghị định s43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính trong các đơn
vị sự nghiệp công lập còn có các Nghị định khác quy định chế độ tài chính đối với các đơn
vị sự nghiệp công hoạt động trong các lĩnh vực khác như Nghị định số 115/NĐCP/2005
ngày 05/09/2005 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ
chức khoa học và công nghệ công lập, Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/08/1999 của
Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục, y tế, văn hóa, thể thao... Trong đó, các quy định thiếu sự thống nhất gây khó khăn
trong quá trình áp dụng.Mặt khác, các văn bản quy pháp luật quy định chế độ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công hiện nay có hiệu lực pháp lý thấp, chủ yếu là các Nghị định do
Chính phủ ban hành, Thông tư do các Bộ quản lý ngành ban hành. Cụ thể,văn bản quy
pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất trong lĩnh vực này là Nghị định số 10/2002/NĐ-
CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp công,
Nghị định số 115/NĐ-CP/2005 ngày 05/09/2005 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của các tổ chức khoa học công nghệ công lập,...Ngoài ra, phải kể đến số
lượng không nhỏ các Thông do các Bộ ban hành nhằm hướng dẫn thực hiện các Nghị định
nói trên như: Thông số 25/2002/TT-BTC ngày 21/02/2002, Thông số 71/2006/TT-BTC
ngày 09/8/2006 của Bộ Tài chính, Thông tư liên tịch số 22/2003/TTLT-BTC-BKHCN-BNV
ngày 24/03/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản tài chính đối với các tổ chức
khoa học và công nghệ hoạt động thu... Thực tế cho thấy, các văn bản quy phạm pháp
luật trên chưa thực sự phát huy vai trò của mình trong việc chuyển đổi phương thức quản lý
tài chính của các đơn vị sự nghiệp công. Bên cạnh đó,một số quy định chưa phù hợp với sự vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều quy định về chế độ thu
phí trong lĩnh vực y tế, giáo dục đào tạo... đã trở nên lạc hậu, không tạo điều kiện cho các đơn
vị thực hiện quyền tự chủ tài chính (nội dung này sẽ được phân tích trong Luận văn).
Những bất cập của hệ thống pháp luật về quyền tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công ít nhiều đã gây cản trở cho công cuộc cải cách hành chính Nhà nước nói chung cải
cách tài chính công nói riêng. Xuất phát từ vai trò của hoạt động sự nghiệp, từ nhu cầu khách
quan đổi mới phương thức quản lý tài chính và thực trạng pháp luật về tự chủ tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công, việc bổ sung, sửa đổi và từng bước hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực này là hết sức cần thiết. Nhằm tìm hiểu, phân tích và đánh giá những thành tựu và hạn chế
trong pháp luật về tự chủ tài chính công lập ở nước ta, nên tôi chọn đề tài “ Pháp luật về tự chủ
tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công ở Việt Nam"để làm luận văn của mình, hy vọng được
đóng góp một số ý kiến nhỏ trong quá trình hoàn thiện pháp luật về tự chủ tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Như những đã đề cập đến phần “Tính cấp thiết của vấn đề”, đề tài sẽ tập trung
nghiên cứu về chế độ pháp lý về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
Những lý luận cơ bản về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng tính chất và nguyên tố
đánh giá hiệu quả thực hiện chế độ tự chủ.
Thêm vào đó là các tình hình triển khai và giải pháp khắc phục các vấn đề bất cập.
3. Mục đích nghiên cứu.
Với những nội dung được đề cập trong Luận văn, trước hết tập trung làm rõ những khái
niệm: tự chủ tài chính, pháp luật tự chủ tài chính và phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về
tự chủ tài chính ở Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, mong muốn được đóng góp một
phần nhỏ bé vào quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tự chủ tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công ở Việt Nam
B. NỘI DUNG
1. Định nghĩa, lí luận, pháo luật về vấn đề tự chủ tài chính của các đơn vị sự
nghiệp công.
1.1 Định nghĩa về tự chủ tài chính, Đơn vị sự nghiệp công và tự chủ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công.
1.1.1 Định nghĩa về tự chủ tài chính.
Tự chủ tài chính là một trong những cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, được
hiểu là cơ chế theo đó các đơn vị sự nghiệp công được trao quyền tự quyết định, tự chịu trách
nhiệm về các khoản thu, khoản chi của đơn vị mình trong khuôn khổ mà pháp luật quy định.
1.1.2 Định nghĩa về đơn vị sự nghiệp công.
Đơn vị sự nghiệp công lập được biết đến chính các đơn vị do quan Nhà nước
thẩm quyền quyết định thành lập, thuộc sở hữu của Nhà nước, là đơn vị dự toán độc lập, có con
dấu và tài khoản riêng, tổ chức bộ máy kế toán theo quy định của Luật Kế toán. Có thể kể đến
các đơn vị sự nghiệp công lập, như: trường học, bệnh viện, sở y tế, văn hóa, sở khoa học
công nghệ, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam…
1.1.3 Tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công là gì?
Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định 60/2021/NĐ-CP, tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp
công lập là quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện quy định về danh mục sự
nghiệp công, giá, phí và lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công, phân loại mức độ tự chủ tài
chính.
Ngoài ra, còn được tự chủ sử dụng nguồn tài chính, tự chủ trong hoạt động liên doanh,
liên kết; quản lý, sử dụng tài sản công và các quy định khác có liên quan.
1.2 Phân loại sự nghiệp công
1.2.1 Theo tiêu chí mức độ tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định chế tự chủ
của đơn vị sự nghiệp công lập đã chia đơn vị sự nghiệp công lập thành 4 loại:
Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư;
Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên; Đơn vị tự
bảo đảm một phần chi thường xuyên;
Đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Luật Viên chức năm 2010 quy định 2 loại đơn vị sự nghiệp công lập gồm:
Đơn vị được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ
máy, nhân sự. đơn vị chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài
chính, tổ chức bộ máy, nhân sự. Tiêu chí phân loại này không chỉ dựa trên khả năng tự chủ tài
chính. Mà còn phụ thuộc vào mức độ tự chủ nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và nhân sự.
1.2.2 Xét dưới góc độ vị trí pháp lý, đơn vị sự nghiệp công lập có thể chia thành 5 loại sau:
Đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ;
Đơn vị thuộc Tổng cục;
Đơn vị thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
Đơn vị thuộc cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
Đơn vị thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Trong đó, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ bao gồm:
Các đơn vị sự nghiệp công lập được quy định tại nghị định quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn. Và cơ cấu tổ chức của từng Bộ, cơ quan ngang Bộ (các đơn vị nghiên cứu chiến
lược, chính sách về ngành, lĩnh vực; báo; tạp chí. Trung tâm thông tin hoặc tin học. Trường
hoặc trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; học viện). Và các đơn vị sự
nghiệp công lập trong danh sách ban hành kèm theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
1.3 Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công.
1.3.1 Khái niệm
Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập được hiểu là
hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoặt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội trong việc áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau
hướng tới việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cho các đơn vị sự nghiệp
công lập để hoàn thành nhiệm vụ được giao và phát huy mọi khả năng để nâng cao chất lượng
và hiệu quả hoạt động.
1.3.2 Nội dung pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Một là, đặc điểm, phân loại kế hoạch lộ trình tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công
lập
Theo khoản 2, điều 9, Luật Viên chức số 58/2010/QH12 ngày 15/11/2010, đơn vị s
nghiệp công lập bao gồm: Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về
thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự. Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được
giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự. Chính
phủ quy định chi tiết tiêu chí phân loại đơn vị sự nghiệp công lập đối với từng lĩnh vực sự
nghiệp căn cứ vào khả năng tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự
và phạm vi hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập [32]. - Theo Nghị định s
16/2015/NĐCP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp
công lập đã chia đơn vị sự nghiệp công lập thành 4 loại:
Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư.
Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên Đơn vị
sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên
Đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Ngoài ra còn căn cứ theo vị trí pháp lý của đơn vị sự nghiệp công lập để phân loại đơn
vị sự nghiệp công lập [10]. Phấn đấu đạt các mục tiêu của Trung Ương đề ra: đến năm 2021,
phấn đấu 10% đơn vị tự chủ tài chính, giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà
nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2011 2015; đến năm 2025 và 2030,
phấn đấu có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính, tiếp tục giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ
ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2016 2020; đến năm 2030,
giảm bình quân 15% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập so với
giai đoạn 2021 – 2025 [2].
Hai là, quy định về nguồn tài chính và sử dụng nguồn tài chính tại các đơn vị sự nghiệp
công lập.
Nguồn tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm: nguồn thu từ ngân sách
nhà nước, nguồn thu phí, lệ phí, nguồn thu hoạt động dịch vụ sự nghiệp công và các nguồn thu
khác [10]. Cụ thể như sau:
Đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư và đơn vị sự
nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên: Nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công,
bao gồm cả nguồn ngân sách nhà nước đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá tính
đủ chi phí; Nguồn thu phí theo pháp luật về phí, lệ phí được để lại chi theo quy định (phần được
để lại chi thường xuyên chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công tác
thu phí); Nguồn thu khác theo quy định của pháp luật (nếu có); Nguồn ngân sách nhà nước cấp
cho các nhiệm vụ không thường xuyên (nếu có), gồm: Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học
và công nghệ chức khoa học công nghệ); kinh phí các chương trình mục tiêu quốc gia; chương
trình, dự án, đề án khác; kinh phí đối ứng thực hiện các dự án theo quyết định của cấp có thẩm
quyền; vốn đầu tư phát triển; kinh phí mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo
dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt; kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan
có thẩm quyền giao; Nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật.
Đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên: Nguồn thu từ
hoạt động dịch vụ sự nghiệp công; Nguồn thu phí theo pháp luật về phí, lệ phí được để lại chi
theo quy định (phần được để lại chi hoạt động thường xuyên chi mua sắm, sửa chữa lớn
trang thiết bị, tài sản phục vụ công tác thu phí); Nguồn ngân sách nhà nước hỗ trợ phần chi phí
chưa kết cấu trong giá, phí dịch vụ sự nghiệp công; Nguồn thu khác theo quy định của pháp
luật (nếu có); Nguồn ngân sách nhà nước cấp cho các nhiệm vụ không thường xuyên (nếu có),
gồm: Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị không phải tổ chức
khoa học công nghệ); kinh phí các chương trình mục tiêu quốc gia; chương trình, dự án, đề án
khác; kinh phí đối ứng thực hiện các dự án theo quyết định của cấp có thẩm quyền; vốn đầu tư
phát triển; kinh phí mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp
thẩm quyền phê duyệt; kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được quan có thẩm quyền giao;
Nguồn viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật.
Đối với đơn vị sự nghiệp công do nhà nước bảo đảm chi thường xuyên: Ngân sách nhà
nước cấp chi thường xuyên trên sở số lượng người làm việc định mức phân bổ dự toán
được cấp thẩm quyền phê duyệt; Nguồn thu khác (nếu có); Nguồn ngân sách nhà nước cấp
cho các nhiệm vụ không thường xuyên (nếu có), gồm: Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học
và công nghệ (đối với đơn vị không phải là tổ chức khoa học công nghệ); kinh phí các chương
trình mục tiêu quốc gia; chương trình, dự án, đề án khác; kinh phí đối ứng thực hiện các dự án
theo quyết định của cấp có thẩm quyền; vốn đầu tư phát triển; kinh phí mua sắm trang thiết bị
phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt; kinh phí thực hiện
nhiệm vụ đột xuất được cơ quan có thẩm quyền giao; Nguồn viện trợ, tài trợ theo quy định của
pháp luật. Các nội dung chi trong đơn vị sự nghiệp công lập được chia thành 02 loại: Chi thường
xuyên chi nhiệm vụ không thường xuyên. Chi thường xuyên gồm: chi tiền lương, chi hoạt
động chuyên môn, quản lý, chi cho việc thực hiện thu phí, lệ phí, kể cả trích khấu hao tài sản
cố định theo quy định. Chi nhiệm vụ không thường xuyên gồm: chi từ nguồn thu phí, lệ phí
được để lại chi (chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công tác thu phí), chi
thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị không phải là tổ chức khoa học công
nghệ); chi thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; chương trình, dự án, đề án khác; chi
vốn đối ứng thực hiện các dự án theo quyết định của cấp có thẩm quyền; chi đầu tư phát triển;
chi mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp thẩm quyền
phê duyệt; chi thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan có thẩm quyền giao; chi từ nguồn vốn
vay, viện trợ, tài trợ theo quy định; các khoản chi khác theo quy định.
Ba là, quy định về tự chủ trong giao dịch tài chính.
Đơn vị sự nghiệp công được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng thương mại hoặc Kho
bạc Nhà nước để phản ánh các khoản thu, chi hoạt động dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng
ngân sách nhà nước. Lãi tiền gửi là nguồn thu của đơn vị và được bổ sung vào Quỹ phát triển
hoạt động sự nghiệp hoặc bổ sung vào quỹ khác theo quy định của pháp luật, không được bổ
sung vào Quỹ bổ sung thu nhập; Các khoản kinh phí thuộc ngân sách nhà nước, các khoản thu
dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước, các khoản thu phí theo pháp luật về phí,
lệ phí, đơn vị mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước để phản ánh.
Đơn vị sự nghiệp công có hoạt động dịch vụ được vay vốn của các tổ chức tín dụng, huy
động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn vị để đầu mở rộng nâng cao chất lượng hoạt
động sự nghiệp, tổ chức hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Riêng các đơn v
sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư được vay vốn, huy động vốn để đầu
tư, xây dựng sở vật chất theo quy định. Khi thực hiện vay vốn, huy động vốn, đơn vị sự
nghiệp công phải phương án tài chính khả thi, tự chịu trách nhiệm trả nợ vay, lãi vay theo
quy định; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hiệu quả của việc vay vốn, huy động vốn [10].
Bốn là, quy định về thực hiện quản lý tài sản nhà nước và quy chế chi tiêu nội bộ.
Đơn vị sự nghiệp công có hoạt động dịch vụ thực hiện đăng ký, kê khai, nộp đủ thuế và
các khoản thu ngân sách khác (nếu có) theo quy định của pháp luật. Đơn vị sự nghiệp công có
trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản nhà nước theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng
tài sản nhà nước. Đơn vị sự nghiệp công có trách nhiệm xây dựng và ban hành Quy chế chi tiêu
nội bộ, gửi cơ quan quản lý cấp trên, trường hợp Quy chế có quy định không phù hợp với quy
định của Nhà nước, cơ quan quản lý cấp trên có ý kiến bằng văn bản yêu cầu đơn vị điều chỉnh
lại cho phù hợp [10].
Năm là, quy định về việc lập, phân bổ và giao dự toán.
Đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên chi đầu tư; đơn vị sự
nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên: Hàng năm căn cứ vào kết quả thực hiện về số lượng,
khối lượng dịch vụ; tình hình thu, chi hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công các dịch
vụ khác của năm hiện hành; yêu cầu nhiệm vụ của năm kế hoạch, đơn vị lập kế hoạch về số
lượng, khối lượng dịch vụ dự toán thu, chi báo cáo quan quản cấp trên. Đối với dịch
vụ sự nghiệp công do Nhà nước đặt hàng: Hàng năm căn cứ đơn giá, số lượng, khối lượng dịch
vụ sự nghiệp công được đặt hàng theo hướng dẫn của Bộ, quan Trung ương, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh, đơn vị lập dự toán gửi cơ quan quản lý cấp trên theo quy định. Đối với đơn vị sự
nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (do giá, phí dịch vụ sự nghiệp công chưa
kết cấu đủ chi phí, được Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công
theo giá, phí chưa tính đủ chi phí): Căn cứ tình hình thực hiện năm hiện hành, nhiệm vụ của
năm kế hoạch, đơn vị lập kế hoạch về số lượng, khối lượng dịch vụ sự nghiệp công và dự toán
thu, chi (bao gồm cả phần kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ do giá, phí dịch vụ sự nghiệp
công chưa kết cấu đủ chi phí) báo cáo quan quản lý cấp trên theo quy định. Đối với đơn vị
sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (theo chức năng, nhiệm vụ được cấp
có thẩm quyền giao, không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp): Căn cứ tình hình thực hiện năm
hiện hành, nhiệm vụ được cấp thẩm quyền giao trong năm kế hoạch, số lượng người làm
việc được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chế độ chi tiêu hiện hành, đơn vị lập dự toán thu, chi
gửi quan quản cấp trên theo quy định. Lập dự toán thu, chi phí theo pháp luật về phí, lệ
phí, các nhiệm vụ không thường xuyên theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Hàng năm,
căn cứ vào dự toán thu, chi do đơn vị sự nghiệp công xây dựng, quan quản cấp trên
trách nhiệm xem xét, tổng hợp dự toán thu, chi của đơn vị gửi cơ quan tài chính và cơ quan
liên quan theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Việc phân bổ giao dự toán của
quan quản lý cấp trên cho đơn vị sự nghiệp công thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách
nhà nước. Căn cứ lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công, cơ quan quản cấp trên thực hiện
đặt hàng đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên chi đầu đơn vị
sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên; đặt hàng, giao kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà
nước đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (do giá, phí dịch
vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi phí, được Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp
dịch vụ sự nghiệp công theo giá, phí chưa nh đủ chi phí). Đối với đơn vị sự nghiệp công do
Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao,
không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp): Cơ quan quản lý cấp trên thực hiện giao dự toán ổn
định trong thời gian 3 năm được điều chỉnh khi Nhà nước thay đổi nhiệm vụ, chế chính
sách theo quy định [10].
Sáu là, quy định về chế đặt hàng, đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, xây
dựng định mức kinh tế kỹ thuật và tính giá, phí dịch vụ sự nghiệp công.
Dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện theo các phương
thức: giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu. Giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công
sử dụng kinh phí NSNN chỉ thực hiện đối với đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc quan
quản lý cấp trên được giao kinh phí cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Căn cứ vào chức năng,
nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp công lập, dự toán thu chi được cấp thẩm quyền giao, danh
mục dịch vụ sự nghiệp công định mức kinh tế kỹ thuật đơn giá, giá dịch vụ sự nghiệp
công do cơ quan có thẩm quyền ban hành, thực hiện đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công
sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc cơ quan quản
lý cấp trên theo danh mục quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 32/2019/NĐ-
CP của Chính phủ. Việc đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công do đơn vị sự nghiệp công
lập thực hiện, căn cứ theo lộ trình tính giá đủ chi phí hoặc chưa tính đủ chi phí theo chế tự
chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong từng lĩnh vực. Về đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp
công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước: Căn cứ chức năng ngành nghề đăng kinh
doanh phù hợp với dịch vụ sự nghiệp công 17 tham gia đấu thầu; căn cứ quy định của pháp luật
chuyên ngành đối với nhà thầu cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực thuộc diện Nhà nước cấp phép
hoạt động và các điều kiện tham gia đấu thầu khác theo quy định của pháp luật liên quan (nếu
có).
Định mức kinh tế - kỹ thuật được hiểu là mức hao phí cần thiết về lao động về nguyên,
nhiên vật liệu, máy móc thiết bị, dụng cụ phương tiện để hoàn thành một đơn vị sản phẩm
(hoặc một khối lượng công việc nhất định), trong một điều kiện cụ thể của các hoạt động trong
các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước. Các hoạt động sự nghiệp công của các đơn vị sự
nghiệp công lập rất đa dạng và phong phú về loại hình. Định mức kinh tế kỹ thuật là căn cứ để
tính giá dịch vụ sự nghiệp công, là cơ sở để triển khai phân bổ ngân sách nhà nước theo cơ chế
đặt hàng, giao nhiệm vụ, đấu thầu gắn với số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ công. Với ý
nghĩa và tầm quan trọng của việc xây dựng và ban hành định mức kinh tế kỹ thuật nêu trên, khi
xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật phải đảm bảo các nguyên tắc như tuân thủ quy trình, đảm
bảo tính ổn định, các bước thực hiện cần bảo đảm sự phù hợp, không khác biệt, đảm bảo sự tập
trung thống nhất trong quản lý nhà nước của Bộ chuyên ngành về công tác xây dựng định mức;
khuyến khích, phát huy quyền chủ động, của các tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng định mức
của các ngành việc lập, phân bổ, quản kinh phí xây dựng định mức thực hiện theo quy
định của pháp luật.
Giá dịch vụ sự nghiệp công, gồm 02 loại giá dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng kinh
phí ngân sách nhà nước giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
Đối với dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước: Đơn vị sự nghiệp
công được xác định giá dịch vụ sự nghiệp công theo chế thị trường, được quyết định các
khoản thu, mức thu bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý, có tích lũy theo quy định của pháp luật đối
với từng lĩnh vực . Đối với dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước: Giá
dịch vụ sự nghiệp công được xác định trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí
do cơ quan có thẩm quyền ban hành lộ trình tính đủ chi phí theo quy định, trong đó chi phí
tiền lương trong giá dịch vụ sự nghiệp công tính theo mức lương cơ sở, hệ số tiền lương ngạch,
bậc, chức vụ đối với đơn vị sự nghiệp công định mức lao động do các Bộ, quan Trung
ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành theo thẩm quyền; Phương pháp định giá và cơ quan
có thẩm quyền định giá dịch vụ sự nghiệp công thực hiện theo quy định pháp luật về giá; Trong
phạm vi khung giá dịch vụ sự nghiệp công do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, đơn
vị sự nghiệp công quyết định mức giá cụ thể cho từng loại dịch vụ; trường hợp quan nhà
nước có thẩm quyền quy định cụ thể giá dịch vụ sự nghiệp công, đơn vị thu theo mức giá quy
định.
Phí dịch vụ sự nghiệp công: Dịch vụ sự nghiệp công thuộc danh mục thu phí thực hiện
theo quy định pháp luật về phí, lệ phí. Đơn vị sự nghiệp công được thu phí theo mức thu do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
1.4 Cơ chế tự chủ tài chính công.
1.4.1Mục tiêu của cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập:
Thứ nhất, trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị sự nghiệp trong việc tổ chức
công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ
được giao; phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho
hội; tăng nguồn thu, nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho người lao động; phát huy tính
sáng tạo, năng động, xây dựng “thương hiệu riêng” cho đơn vị mình.
Thứ hai, thực hiện chủ trương hội hóa trong việc cung cấp dịch vụ cho hội, huy
động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, từng bước giảm
dần bao cấp từ ngân sách nhà nước.
Thứ ba, thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với đơn vị sự nghiệp, Nhà nước
vẫn quan tâm đầu tư để hoạt động sự nghiệp ngày càng phát triển; bảo đảm cho các đối tượng
chính sách – xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được
cung cấp dịch vụ theo quy định ngày càng tốt hơn.
Cơ chế tự chủ tài chính có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và phát triển
đơn vị sự nghiệp nói riêng, thúc đẩy kinh tế xã hội nói chung. Cụ thể như sau:
Tạo thế chủ động cho đơn vị sự nghiệp trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính để
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Từ đó, đã góp phần phát huy mọi khả năng của đơn vị để
cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho hội; tăng nguồn thu, nhằm từng bước giải quyết thu
nhập cho người lao động. Không chỉ vậy mà còn phát huy tính sáng tạo, năng động trong việc
xây dựng và phát triển đơn vị mình.
Nhằm mục đích để thực hiện chủ trương xã hội hóa trong việc cung cấp dịch vụ cho xã
hội, huy động sự đóng góp của cộng đồng hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, từng
bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước.
Mức độ tự chủ tài chính:
Để phù hợp với khả năng của từng đơn vị, pháp luật quy định các mức tự chủ tài chính
khác nhau. Theo quy định hiện hành, tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp gồm 4 mức độ
bản được nêu dưới đây:
Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư.
Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên.
Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (do giá, phí dịch
vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi phí, được Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp
dịch vụ sự nghiệp công theo giá, phí chưa tính đủ chi phí).
Tự chủ tài chính đối với đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (theo chức
năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp).
Trong đó, pháp luật quy định cụ thể các nguồn tài chính, việc sử dụng nguồn tài chính
cụ thể tương ứng đối với từng mức độ.
Bên cạnh đó thì thực chất t`ự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập còn được thể
hiện qua các hoạt động giao dịch tài chính.
1.4.2 Quy định mới về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập:
Căn cứ pháp lý: Ngày 21/6/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 60/2021/NĐ-CP
quy định về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập. Nghị định số 60/2021/NĐCP
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/8/2021.
Đối tượng áp dụng của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP của Chính Phủ:
Đơn vị sự nghiệp công lập do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thành lập theo quy
định của pháp luật, cách pháp nhân, con dấu, tài khoản riêng theo quy định của pháp
luật, cung cấp dịch vụ sự nghiệp công hoặc phục vụ quản lý nhà nước (sau đây gọiđơn vị sự
nghiệp công).
Đơn vị sự nghiệp công trực thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Đài Truyền hình Việt
Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam; đơn vị sự nghiệp công thuộc đơn vị sự
nghiệp công thực hiện theo quy định của Nghị định này quy định pháp luật khác liên quan.
Đơn vị sự nghiệp công thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội được áp dụng
quy định tại Nghị định này và các quy định của Đảng và của pháp luật khác có liên quan.
Đơn vị sự nghiệp công được thành lập theo Hiệp định và cam kết giữa Chính phủ Việt
Nam với Chính phủ các nước hoặc tổ chức quốc tế thực hiện chế tài chính theo cam kết,
Điều ước quốc tế hoặc Quyết định đặc thù do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Mục 1, Chương II của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP này quy định tự chủ tài chính đối
với đơn vị sự nghiệp công tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư (đơn vị nhóm 1) và đơn
vị sự nghiệp công tự đảm bảo chi thường xuyên (đơn vị nhóm 2). Theo đó, nguồn tài chính của
đơn vị, bao gồm:
Thứ nhất: Nguồn ngân sách nhà nước:
Kinh phí cung cấp hoạt động dịch vụ sự nghiệp công thuộc danh mục dịch vụ sự nghiệp
công sử dụng ngân sách nhà nước; bao gồm cả nguồn ngân sách nhà nước đặt hàng hoặc đấu
thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo quy định của pháp luật hiện hành.
Kinh phí chi thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ khi được cơ
quan có thẩm quyền tuyển chọn hoặc giao trực tiếp theo quy định của pháp luật về khoa học và
công nghệ.
Kinh phí chi thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ Nhà nước giao (nếu có), gồm: Kinh
phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; kinh phí vốn đối ứng thực hiện các dự án có
nguồn vốn nước ngoài theo quyết định của cấp thẩm quyền; kinh phí thực hiện nhiệm vụ
được quan thẩm quyền giao; kinh phí được quan Nhà nước thẩm quyền giao cho
đơn vị sự nghiệp công để thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân
sách nhà nước trong trường hợp chưa có định mức kinh tế – kỹ thuật và đơn giá để đặt hàng.
Vốn đầu phát triển của dự án đầu xây dựng bản được cấp thẩm quyền phê
duyệt theo quy định của pháp luật đầu tư công (nếu có). Riêng đối với đơn vị nhóm 1, Nhà nước
xem xét bố trí vốn cho các dự án đầu xây dựng bản đang triển khai dở dang theo quyết
định của cấp thẩm quyền hoặc bố trí cho các dự án đầu xây dựng bản mới thuộc kế
hoạch đầu tư công trung hạn được cấp thẩm quyền phê duyệt. Đơn vị sự nghiệp công quản
lý, sử dụng vốn đầu tư phát triển theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP.
Thứ hai: Nguồn thu hoạt động sự nghiệp:
Thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công.
Thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoạt động liên doanh, liên kết với các tổ chức,
cá nhân theo đúng quy định của pháp luật và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt đề án phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp công.
Thu từ cho thuê tài sản công: Đơn vị thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về quản
lý, sử dụng tài sản công và phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt đề án cho thuê tài sản
công.
Thứ ba: Nguồn thu phí được để lại đơn vị sự nghiệp công để chi theo quy định của pháp
luật về phí, lệ phí.
Thứ tư: Nguồn vốn vay; vốn viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật.
Thứ năm: Nguồn thu khác theo quy định của pháp luật (nếu có).
2.Tình hình triển khai thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự
nghiệp công.
Thời gian qua, chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập được thực hiện
theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế tài chính đối với đơn vị
sự nghiệp công lập; Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 9/8/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn
thực hiện Nghị định trên. Sau gần 10 năm thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP trên sở
tổng kết đánh giá kết quả đạt được cũng như những bất cập phát sinh, ngày 14/2/2015, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP theo
hướng quy định các vấn đề chung, làm căn cứ cho các bộ, quan liên quan xây dựng các Nghị
định riêng quy định đối với từng lĩnh vực cụ thể. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP đã thể hiện
mục tiêu đổi mới toàn diện các đơn vị sự nghiệp công lập; đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cho các đơn vị đồng bộ cả về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và
tài chính.
Theo đó, tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp theo 4 mức độ: (i) Tự chủ tài chính đối
với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên chi đầu tư; (ii) Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự
bảo đảm chi thường xuyên; (iii) Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường
xuyên (do giá, phí dịch vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi phí, được Nhà nước đặt hàng,
giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá, phí chưa tính đủ chi phí); (iv) Tự chủ
tài chính đối với đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (theo chức năng, nhiệm vụ
được cấp có thẩm quyền giao, không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp).
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc triển khai giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn
vị sự nghiệp công lập đã mang lại một số kết quả tích cực, như các đơn vị sự nghiệp công lập
đã chủ động sử dụng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước (NSNN) giao để thực hiện nhiệm vụ
hiệu quả; đồng thời chủ động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực để phát triển nâng cao số
lượng, chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, từ đó phát triển nguồn thu.
Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập cùng với nguồn kinh phí tiết kiệm 10%
chi hoạt động thường xuyên NSNN giao đã góp phần bảo đảm đắp một phần nhu cầu tiền
lương tăng thêm, theo quy định của Chính phủ. Nhờ tăng cường khai thác nguồn thu, tiết kiệm
chi thực hiện chế tự chủ, thu nhập đời sống của người lao động trong các đơn vị sự
nghiệp công lập đã từng bước được nâng lên. Trong đó, thu nhập tăng thêm của cán bộ, viên
chức bình quân khoảng từ 0,5 đến 1,5 lần tiền lương cấp bậc của đơn vị. Riêng một số đơn vị
sự nghiệp công lập trong lĩnh vực giáo dục đại học tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động đã
thực hiện chi trả thu nhập tăng thêm cho người lao động khoảng 2 - 3 lần, như Đại học Quốc tế
- Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh...
Về sắp xếp bộ máy tinh giản biên chế, trong năm 2018, tại một số địa phương đã thực
hiện quyết liệt đạt được được một số kết quả nhất định. Tại Nội, sau khi thực hiện sắp
xếp, kiện toàn, các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc sở, ban, ngành đã giảm từ 401 đơn vị
xuống còn 280 đơn vị (giảm tương đương 30,2%); các đơn vị sự nghiệp công lập cấp huyện đã
giảm từ 206 đơn vị còn 96 đơn vị (giảm tương đương 53,4%). Tại tỉnh Quảng Ninh, địa phương
này đã giao tự chủ tài chính cho 84 đơn vị sự nghiệp công lập (tăng 15 đơn vị so với năm 2017),
thêm 1.442 viên chức không hưởng lương từ NSNN (trong đó, số viên chức của 4 Bệnh viện
thuộc Sở Y tế 1.264 người), kinh phí ngân sách cấp năm 2018 giảm 120 tỷ đồng so năm 2017.
Trong các năm 2017-2018, chỉ tính riêng Trung ương, các lĩnh vực y tế, giáo dục
đào tạo đã giảm chi ngân sách nhà nước trực tiếp cho các đơn vị sự nghiệp công lập mỗi năm
khoảng 1.000 tỷ đồng.
Tuy vậy, kết quả này mới chỉ tập trung tại một số đơn vị năng động, sáng tạo lợi
thế về uy tín trong cung cấp dịch vụ sự nghiệp công hoặc ở một số ngành nghề có khả năng
hội hóa cao.
Theo báo cáo chưa đầy đủ của các bộ, ngành và địa phương, đến nay, tỷ lệ các đơn vị sự
nghiệp công lập tự bảo đảm kinh phí hoạt động còn thấp, chiếm khoảng 3,7% tổng số các đơn
vị sự nghiệp công lập của cả nước, tương đương 2.057 các đơn vị sự nghiệp công lập. Việc thực
hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm, chưa bước
chuyển biến có nh đột phá; chưa tách bạch rõ ràng giữa chức năng quản lý nhà nước với chức
năng cung cấp dịch vụ công. Một số chính sách điều kiện quan trọng để thực hiện quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập chưa được sửa đổi, bổ sung và ban
hành đầy đủ kịp thời; một số đơn vị sự nghiệp công lập khi mở rộng hoạt động dịch vụ còn chạy
theo số lượng, không quan tâm đến chất lượng hoạt động, lạm dụng kỹ thuật để tăng thu.
Đồng thời, vẫn những khoảng cách lớn giữa các vùng, miền, giữa Trung ương với địa phương
trong các hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập… nên việc khai thác các nguồn lực
hội để đầu tư phát triển hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công còn hạn chế.
3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập
Để bảo đảm hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, ngoài việc ban hành đầy đủ
khung pháp lý về cơ chế tự chủ trong đó có tự chủ tài chính, chúng ta cần phải tiếp tục hoàn
thiện cơ chế quản lý, sắp xếp và tổ chức lại hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo
tinh thần của Nghị quyết số 19/NQ-TW của Hội nghị Trung ương 6 Khóa XII về tiếp tục đổi
mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập, trong đó có mục tiêu: Đến năm 2021, phấn đấu có 10% đơn vị tự chủ tài
chính, giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ NSNN cho các đơn vị sự nghiệp công lập so với
giai đoạn 2011 - 2015; Đến năm 2025, có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính; 100% đơn vị
sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác có đủ điều kiện hoàn thành chuyển đổi thành công ty cổ
phần.
Đồng thời triển khai Nghị quyết 19, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 08/NQ-CP
về Chương trình hành động của Chính phủ, trong đó, giao các Bộ nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
hoàn thiện hệ thống pháp luật, chế chính sách về hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công
lập. Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 429/QĐ-BTC về Kế hoạch hành động thực hiện
Nghị quyết số 08/NQ-CP đang tích cực phối hợp các Bộ, địa phương trong việc triển khai
các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nhằm hiện thực hóa các mục tiêu của Nghị quyết 19, tiến tới
giảm dần số lượng các đơn vị sự nghiệp công lập do NSNN bảo đảm toàn bộ chi hoạt động
thường xuyên, tăng số lượng các đơn vị tự chủ tự bảo đảm về tài chính.
Trong thời gian tới, khi các Bộ quản ngành, lĩnh vực đã hoàn thiện trình cấp
thẩm quyền ban hành đầy đủ danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN, việc hỗ trợ từ
NSNN sẽ gắn với số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ sự nghiệp công được cung cấp, giá
cung cấp dịch vụ và nhu cầu sử dụng để bảo đảm hiệu quả đầu tư từ NSNN, tránh lãng phí; đẩy
mạnh thực hiện chế đặt hàng thực hiện dịch vụ sự nghiệp công lộ trình cụ thể thực hiện
chế đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN để tạo điều kiện cho sở
ngoài công lập cùng tham gia cung cấp; giảm dần các sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công sử
dụng NSNN thực hiện theo phương thức giao nhiệm vụ, giao kế hoạch
C. KẾT LUẬN
Đổi mới phương thức quản tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công
theo hướng giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị là nhu cầu khách quan của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hoàn toàn phù hợp với xu thế
hội hóa hoạt động sự nghiệp, nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công
hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước. Khi thực hiện quyền tự chủ tài chính,
các đơn vị sự nghiệp thu đ ợc quyền chủ động khai thác các nguồnƣ thu
quyết định các khoản thu, mức thu; chủ động sử dụng nguồn lực tài chính của đơn
vị; chủ động chi trả tiền lương thu nhập tăng thêm cho người lao động; chủ
động sử dụng kết quả hoạt động tài chính trong năm và xây dựng quy chế chi tiêu
nội bộ. Quyền tự chủ về tài chính của đơn vị sự nghiệp thu được quy định trong
Nghị định số 10/2002/NĐ-CP, Nghịđịnh số 43/2006/NĐ-CP các văn bản quy
phạm pháp luật của các Bộ. Các đơn vị sự nghiệp công khi chuyển sang thực hiện
Nghị định 10 được giao quyền tự chủ tài chính, đại bộ phận được khoán phần kinh
phí Ngân sách Nhànước cấp. Đồng thời, tích cực khai thác nguồn thu sự nghiệp,
mở rộng đa dạng hóa các loại hình cung ứng dịch vụ, chủ động sử dụng các
nguồn kinh phí tùy theo yêu cầu hoạt động của đơn vị, bảo đảm chi tiêu hiệu quả,
tiết kiệm trên sở quy chế chi tiêu nội bộ do đơn vị xây dựng. Kết quả trên
đãkhẳng định việc giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công
phù hợp với tiến trình cải cách hành chính, phát huy khả năng tính tựchủ, tự
chịu trách nhiệm của đơn vị, góp phần nâng cao chất lượng và khảnăng cung cấp
dịch vụ công. Bên cạnh đó, các đơn vị sự nghiệp công được giao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế; mở rộng đối
tượng áp dụng cơ chế tự chủ tài chính; nâng cao trách nhiệm của Thủ trưởng đơn
vị, Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng các quan ngang Bộ, quan thuộc Chính
phủ Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.Xuất phát từ
nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật quyền tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp
công, thực trạng pháp luật định hướng hoàn thiện trong giai đoạn tới, Nhà nước
cần phải bsung sửa đổi các quy định vềquyền sở hữu các nguồn lực tài chính
của các đơn vị sự nghiệp công; về chế thực hiện kiểm soát chi thanh toán
các khoản chi qua kho bạc Nhà nước; các quy định về chế độ tín dụng; các quy
định về đổi mới phương thức cung cấp dịch vụ công nhằm xóa bỏ tình trạng “hành
chính hoá” các hoạt động sự nghiệp.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
https://123docz.net/document/938575-tu-chu-tai-chinh-cua-cac-don-vi-su-nghiep-cong-lapco-
thu-o-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap.htm
http://www.khoahockiemtoan.vn/813-1-ndt/tu-chu-tai-chinh-doi-voi-don-vi-su-nghiep-
congdot-pha-moi-va-cac-yeu-cau-thuc-hien.sav
http://thanhtratinh.hatinh.gov.vn/thuc-hien-phap-luat-ve-tu-chutu-chiu-trach-nhiem-doi-
voidon-vi-su-nghiep-cong-lap-thuc-tien-qua-thanh-tra-o-mot-so-truong-dai-hoc-
1638255980.html
https://123docz.net//document/8583526-to-chuc-thuc-hien-phap-luat-ve-co-che-tu-chu-
taichinh-doi-voi-cac-don-vi-su-nghiep-cong-lap-so-van-hoa-va-the-thao-thanh-pho-ha-noi-
luanvan-thac-sy-.htm
https://luatduonggia.vn/tu-chu-tai-chinh-la-gi-che-do-tu-chu-tai-chinh-doi-voi-co-quan-
nhanuoc/#1_Tu_chu_tai_chinh_la_gi
https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/thoi-su-phap-luat/tu-van-phap-luat/
42287/quy-dinh-ve-tu-chu-tai-chinh-cua-don-vi-su-nghiep-cong-lap
https://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/co-che-tu-chu-tai-chinh-cua-nhung-don-vi-
sunghiep-cong-lap-60970.htm https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-
tin?
dDocName=MOFUCM228239
Bộ Tài chính, 2015: Hội thảo “Cơ chế tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”.
Phan Quý Phương: Thực tiễn hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập những đề xuất
đổi mới.
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập.
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn
vị sự nghiệp công lập.
Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 21/5/2015 của Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực
hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của
đơn vị sự nghiệp công lập.
| 1/15

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH
TIỂU LUẬN MÔN PHÁP LUẬT TÀI CHÍNH
Đề bài: Pháp luật về tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công Sinh viên : NGUYỄN THỊ BÌNH Mã SV : 21010366 Lớp : K15 - LKT
HÀ NỘI, THÁNG 9 NĂM 2022
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.......................................................................................................................3
1. Tính cấp thiết của vấn đề.................................................................................................3
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................4
3. Mục đích nghiên cứu........................................................................................................4
B. NỘI DUNG............................................................................................................................5
1. Định nghĩa, lí luận, pháo luật về vấn đề tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp
công.........................................................................................................................................5
1.1 Định nghĩa về tự chủ tài chính, Đơn vị sự nghiệp công và tự chủ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công..........................................................................................5
1.1.1 Định nghĩa về tự chủ tài chính............................................................................5
1.1.2 Định nghĩa về đơn vị sự nghiệp công.................................................................5
1.1.3 Tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công là gì?................................5
1.2 Phân loại sự nghiệp công............................................................................................5
1.2.1 Theo tiêu chí mức độ tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập............5
1.2.2 Xét dưới góc độ vị trí pháp lý, đơn vị sự nghiệp công lập có thể chia thành 5 loại
sau:
..........................................................................................................................5
1.3 Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công................6
1.3.1 Khái niệm..............................................................................................................6
1.3.2 Nội dung pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập..........................................................................................................................6
1.4 Cơ chế tự chủ tài chính công....................................................................................10
1.4.1Mục tiêu của cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập:10
1.4.2 Quy định mới về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập:....11
2.Tình hình triển khai thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị
sự nghiệp công.................................................................................................................13
3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập.14
C. KẾT LUẬN.........................................................................................................................15
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................16 A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của vấn đề.

Trong hơn 20 năm đổi mới, mở cửa và cải cách, các chủ thể sản xuất kinh doanh trong
nền kinh tế đã có những bước trưởng thành đáng kể, trong đó có sự góp phần không nhỏ của
việc được tự chủ tài chính. Cái chung của công cuộc cải cách kinh tế là mở rộng quyền tự chủ,
đã và đang mang đến nhiều kết quả tốt thấy rõ, góp phần giải phóng sức sản xuất. Tác dụng tích
cực của cơ chế tự chủ tài chính ai cũng thấy rõ: Sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã thực sự khơi
dậy tính năng động sáng tạo không chỉ trong kinh tế mà còn trong nhiều lĩnh vực hoạt động
khác nhau của đời sống xã hội.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng; Chính phủ đã có quyết định phê duyệt chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 với bốn nội dung lớn là: cải cách tài
chính công; trong đó cách cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính và đơn vị sự
nghiệp là bước đột phá.
Để triển khai chương trình này, ngày 16/01/2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hanh
Nghị định số 10/2002/NĐ – CP về việc đổi mới cơ chế tài chính, trao quyền tự chủ hành chính
cho các đơn vị sự nghiệp có thu. Sau đó, thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị định số
43/2006NĐ – CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn
vị sự nghiệp công về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính.
Mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý tài chính, đơn vị sự nghiệp trao quyền tự chủ thật sự
cho cơ quan, đơn vị sự nghiệp trong việc tổ chức công việc, sử dụng lao động, tăng cường huy
động và quản lý thống nhất các nguồn thu, đồng thời sử dụng lao động, tăng cường huy động
và quản lý thống nhất các nguồn thu, đồng thời sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn tài
chính nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng công tác quản lý hành chính, hoạt động sự nghiệp,
khuyến khích tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp đảm bảo trang trải kinh phí hoạt động và
nâng cao thu nhập của cán bộ công tác.
Những kết quả đã đạt được khi thực hiện Nghị định 10/2002/NĐ – CP đã khẳng định
việc trao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công là 1 hướng đi đúng. Tuy nhiên,
cũng còn rất nhiều các bất cập, hạn chế như chỉ đề cập đến quyền tự chủ tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên. Đối với các đơn vị sự
nghiệp có nguồn thu thấp, chưa có văn bản quy pháp luật nào điều chỉnh. Xuất phát từ
những hạn chế của nghị định 10/2002/NĐ – CP , Nghị định 43/2006/NĐ – CP ra đời nhằm khắc
phục những quy định đang gò bó các đơn vị sự nghiệp trong thời gian qua. Tuy nhiên công tác
quản lý, tổ chức hạch toán, phân phối, sử dụng vẫn còn nhiều vướng mắc, hạn chế trong quá
trình thực hiện cần phải tiếp tục sửa đổi bổ sung để có thể đạt được những ục tiêu đề ra.
Ngoài Nghị định số 10/2002/NĐ-CP, quy định về chế độ tài chính của các đơn vị sự
nghiệp có thu công lập, Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính trong các đơn
vị sự nghiệp công lập còn có các Nghị định khác quy định chế độ tài chính đối với các đơn
vị sự nghiệp công hoạt động trong các lĩnh vực khác như Nghị định số 115/NĐCP/2005
ngày 05/09/2005 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ
chức khoa học và công nghệ công lập, Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/08/1999 của
Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục, y tế, văn hóa, thể thao... Trong đó, các quy định thiếu sự thống nhất gây khó khăn
trong quá trình áp dụng.Mặt khác, các văn bản quy pháp luật quy định chế độ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công hiện nay có hiệu lực pháp lý thấp, chủ yếu là các Nghị định do
Chính phủ ban hành, Thông tư do các Bộ quản lý ngành ban hành. Cụ thể,văn bản quy
pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất trong lĩnh vực này là Nghị định số 10/2002/NĐ-
CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp công,
Nghị định số 115/NĐ-CP/2005 ngày 05/09/2005 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập,...Ngoài ra, phải kể đến số
lượng không nhỏ các Thông tư do các Bộ ban hành nhằm hướng dẫn thực hiện các Nghị định
nói trên như: Thông tư số 25/2002/TT-BTC ngày 21/02/2002, Thông tư số 71/2006/TT-BTC
ngày 09/8/2006 của Bộ Tài chính, Thông tư liên tịch số 22/2003/TTLT-BTC-BKHCN-BNV
ngày 24/03/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với các tổ chức
khoa học và công nghệ hoạt động có thu... Thực tế cho thấy, các văn bản quy phạm pháp
luật trên chưa thực sự phát huy vai trò của mình trong việc chuyển đổi phương thức quản lý
tài chính của các đơn vị sự nghiệp công. Bên cạnh đó,một số quy định chưa phù hợp với sự vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều quy định về chế độ thu
phí trong lĩnh vực y tế, giáo dục đào tạo... đã trở nên lạc hậu, không tạo điều kiện cho các đơn
vị thực hiện quyền tự chủ tài chính (nội dung này sẽ được phân tích trong Luận văn).
Những bất cập của hệ thống pháp luật về quyền và tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công ít nhiều đã gây cản trở cho công cuộc cải cách hành chính Nhà nước nói chung và cải
cách tài chính công nói riêng. Xuất phát từ vai trò của hoạt động sự nghiệp, từ nhu cầu khách
quan đổi mới phương thức quản lý tài chính và thực trạng pháp luật về tự chủ tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công, việc bổ sung, sửa đổi và từng bước hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực này là hết sức cần thiết. Nhằm tìm hiểu, phân tích và đánh giá những thành tựu và hạn chế
trong pháp luật về tự chủ tài chính công lập ở nước ta, nên tôi chọn đề tài “ Pháp luật về tự chủ
tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công ở Việt Nam"để làm luận văn của mình, hy vọng được
đóng góp một số ý kiến nhỏ trong quá trình hoàn thiện pháp luật về tự chủ tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Như những gì đã đề cập đến ở phần “Tính cấp thiết của vấn đề”, đề tài sẽ tập trung
nghiên cứu về chế độ pháp lý về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
Những lý luận cơ bản về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng tính chất và nguyên tố
đánh giá hiệu quả thực hiện chế độ tự chủ.
Thêm vào đó là các tình hình triển khai và giải pháp khắc phục các vấn đề bất cập.
3. Mục đích nghiên cứu.
Với những nội dung được đề cập trong Luận văn, trước hết tập trung làm rõ những khái
niệm: tự chủ tài chính, pháp luật tự chủ tài chính và phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về
tự chủ tài chính ở Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, mong muốn được đóng góp một
phần nhỏ bé vào quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tự chủ tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công ở Việt Nam B. NỘI DUNG 1.
Định nghĩa, lí luận, pháo luật về vấn đề tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công.
1.1 Định nghĩa về tự chủ tài chính, Đơn vị sự nghiệp công và tự chủ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công.
1.1.1 Định nghĩa về tự chủ tài chính.
Tự chủ tài chính là một trong những cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, được
hiểu là cơ chế theo đó các đơn vị sự nghiệp công được trao quyền tự quyết định, tự chịu trách
nhiệm về các khoản thu, khoản chi của đơn vị mình trong khuôn khổ mà pháp luật quy định.
1.1.2 Định nghĩa về đơn vị sự nghiệp công.
Đơn vị sự nghiệp công lập được biết đến chính là các đơn vị do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền quyết định thành lập, thuộc sở hữu của Nhà nước, là đơn vị dự toán độc lập, có con
dấu và tài khoản riêng, tổ chức bộ máy kế toán theo quy định của Luật Kế toán. Có thể kể đến
các đơn vị sự nghiệp công lập, như: trường học, bệnh viện, cơ sở y tế, văn hóa, sở khoa học
công nghệ, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam…
1.1.3 Tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công là gì?
Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định 60/2021/NĐ-CP, tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp
công lập là quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện quy định về danh mục sự
nghiệp công, giá, phí và lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công, phân loại mức độ tự chủ tài chính.
Ngoài ra, còn được tự chủ sử dụng nguồn tài chính, tự chủ trong hoạt động liên doanh,
liên kết; quản lý, sử dụng tài sản công và các quy định khác có liên quan.
1.2 Phân loại sự nghiệp công
1.2.1 Theo tiêu chí mức độ tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ
của đơn vị sự nghiệp công lập đã chia đơn vị sự nghiệp công lập thành 4 loại:
Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư;
Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên; Đơn vị tự
bảo đảm một phần chi thường xuyên;
Đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Luật Viên chức năm 2010 quy định 2 loại đơn vị sự nghiệp công lập gồm:
Đơn vị được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ
máy, nhân sự. Và đơn vị chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài
chính, tổ chức bộ máy, nhân sự. Tiêu chí phân loại này không chỉ dựa trên khả năng tự chủ tài
chính. Mà còn phụ thuộc vào mức độ tự chủ nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và nhân sự.
1.2.2 Xét dưới góc độ vị trí pháp lý, đơn vị sự nghiệp công lập có thể chia thành 5 loại sau:
Đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ;
Đơn vị thuộc Tổng cục;
Đơn vị thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
Đơn vị thuộc cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
Đơn vị thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Trong đó, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ bao gồm:
Các đơn vị sự nghiệp công lập được quy định tại nghị định quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn. Và cơ cấu tổ chức của từng Bộ, cơ quan ngang Bộ (các đơn vị nghiên cứu chiến
lược, chính sách về ngành, lĩnh vực; báo; tạp chí. Trung tâm thông tin hoặc tin học. Trường
hoặc trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; học viện). Và các đơn vị sự
nghiệp công lập trong danh sách ban hành kèm theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
1.3 Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công.
1.3.1 Khái niệm
Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập được hiểu là
hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoặt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội trong việc áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau
hướng tới việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cho các đơn vị sự nghiệp
công lập để hoàn thành nhiệm vụ được giao và phát huy mọi khả năng để nâng cao chất lượng
và hiệu quả hoạt động.
1.3.2 Nội dung pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Một là, đặc điểm, phân loại và kế hoạch lộ trình tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập
Theo khoản 2, điều 9, Luật Viên chức số 58/2010/QH12 ngày 15/11/2010, đơn vị sự
nghiệp công lập bao gồm: Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về
thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự. Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được
giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự. Chính
phủ quy định chi tiết tiêu chí phân loại đơn vị sự nghiệp công lập đối với từng lĩnh vực sự
nghiệp căn cứ vào khả năng tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự
và phạm vi hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập [32]. - Theo Nghị định số
16/2015/NĐCP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp
công lập đã chia đơn vị sự nghiệp công lập thành 4 loại:
Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư.
Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên Đơn vị
sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên
Đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Ngoài ra còn căn cứ theo vị trí pháp lý của đơn vị sự nghiệp công lập để phân loại đơn
vị sự nghiệp công lập [10]. Phấn đấu đạt các mục tiêu của Trung Ương đề ra: đến năm 2021,
phấn đấu có 10% đơn vị tự chủ tài chính, giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà
nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2011 – 2015; đến năm 2025 và 2030,
phấn đấu có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính, tiếp tục giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ
ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2016 – 2020; đến năm 2030,
giảm bình quân 15% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập so với
giai đoạn 2021 – 2025 [2].
Hai là, quy định về nguồn tài chính và sử dụng nguồn tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập.
Nguồn tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm: nguồn thu từ ngân sách
nhà nước, nguồn thu phí, lệ phí, nguồn thu hoạt động dịch vụ sự nghiệp công và các nguồn thu
khác [10]. Cụ thể như sau:
Đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư và đơn vị sự
nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên: Nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công,
bao gồm cả nguồn ngân sách nhà nước đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá tính
đủ chi phí; Nguồn thu phí theo pháp luật về phí, lệ phí được để lại chi theo quy định (phần được
để lại chi thường xuyên và chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công tác
thu phí); Nguồn thu khác theo quy định của pháp luật (nếu có); Nguồn ngân sách nhà nước cấp
cho các nhiệm vụ không thường xuyên (nếu có), gồm: Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học
và công nghệ chức khoa học công nghệ); kinh phí các chương trình mục tiêu quốc gia; chương
trình, dự án, đề án khác; kinh phí đối ứng thực hiện các dự án theo quyết định của cấp có thẩm
quyền; vốn đầu tư phát triển; kinh phí mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo
dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt; kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan
có thẩm quyền giao; Nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật.
Đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên: Nguồn thu từ
hoạt động dịch vụ sự nghiệp công; Nguồn thu phí theo pháp luật về phí, lệ phí được để lại chi
theo quy định (phần được để lại chi hoạt động thường xuyên và chi mua sắm, sửa chữa lớn
trang thiết bị, tài sản phục vụ công tác thu phí); Nguồn ngân sách nhà nước hỗ trợ phần chi phí
chưa kết cấu trong giá, phí dịch vụ sự nghiệp công; Nguồn thu khác theo quy định của pháp
luật (nếu có); Nguồn ngân sách nhà nước cấp cho các nhiệm vụ không thường xuyên (nếu có),
gồm: Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị không phải là tổ chức
khoa học công nghệ); kinh phí các chương trình mục tiêu quốc gia; chương trình, dự án, đề án
khác; kinh phí đối ứng thực hiện các dự án theo quyết định của cấp có thẩm quyền; vốn đầu tư
phát triển; kinh phí mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có
thẩm quyền phê duyệt; kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan có thẩm quyền giao;
Nguồn viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật.
Đối với đơn vị sự nghiệp công do nhà nước bảo đảm chi thường xuyên: Ngân sách nhà
nước cấp chi thường xuyên trên cơ sở số lượng người làm việc và định mức phân bổ dự toán
được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Nguồn thu khác (nếu có); Nguồn ngân sách nhà nước cấp
cho các nhiệm vụ không thường xuyên (nếu có), gồm: Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học
và công nghệ (đối với đơn vị không phải là tổ chức khoa học công nghệ); kinh phí các chương
trình mục tiêu quốc gia; chương trình, dự án, đề án khác; kinh phí đối ứng thực hiện các dự án
theo quyết định của cấp có thẩm quyền; vốn đầu tư phát triển; kinh phí mua sắm trang thiết bị
phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt; kinh phí thực hiện
nhiệm vụ đột xuất được cơ quan có thẩm quyền giao; Nguồn viện trợ, tài trợ theo quy định của
pháp luật. Các nội dung chi trong đơn vị sự nghiệp công lập được chia thành 02 loại: Chi thường
xuyên và chi nhiệm vụ không thường xuyên. Chi thường xuyên gồm: chi tiền lương, chi hoạt
động chuyên môn, quản lý, chi cho việc thực hiện thu phí, lệ phí, kể cả trích khấu hao tài sản
cố định theo quy định. Chi nhiệm vụ không thường xuyên gồm: chi từ nguồn thu phí, lệ phí
được để lại chi (chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công tác thu phí), chi
thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị không phải là tổ chức khoa học công
nghệ); chi thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; chương trình, dự án, đề án khác; chi
vốn đối ứng thực hiện các dự án theo quyết định của cấp có thẩm quyền; chi đầu tư phát triển;
chi mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền
phê duyệt; chi thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan có thẩm quyền giao; chi từ nguồn vốn
vay, viện trợ, tài trợ theo quy định; các khoản chi khác theo quy định.
Ba là, quy định về tự chủ trong giao dịch tài chính.
Đơn vị sự nghiệp công được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng thương mại hoặc Kho
bạc Nhà nước để phản ánh các khoản thu, chi hoạt động dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng
ngân sách nhà nước. Lãi tiền gửi là nguồn thu của đơn vị và được bổ sung vào Quỹ phát triển
hoạt động sự nghiệp hoặc bổ sung vào quỹ khác theo quy định của pháp luật, không được bổ
sung vào Quỹ bổ sung thu nhập; Các khoản kinh phí thuộc ngân sách nhà nước, các khoản thu
dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước, các khoản thu phí theo pháp luật về phí,
lệ phí, đơn vị mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước để phản ánh.
Đơn vị sự nghiệp công có hoạt động dịch vụ được vay vốn của các tổ chức tín dụng, huy
động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn vị để đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt
động sự nghiệp, tổ chức hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Riêng các đơn vị
sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư được vay vốn, huy động vốn để đầu
tư, xây dựng cơ sở vật chất theo quy định. Khi thực hiện vay vốn, huy động vốn, đơn vị sự
nghiệp công phải có phương án tài chính khả thi, tự chịu trách nhiệm trả nợ vay, lãi vay theo
quy định; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hiệu quả của việc vay vốn, huy động vốn [10].
Bốn là, quy định về thực hiện quản lý tài sản nhà nước và quy chế chi tiêu nội bộ.
Đơn vị sự nghiệp công có hoạt động dịch vụ thực hiện đăng ký, kê khai, nộp đủ thuế và
các khoản thu ngân sách khác (nếu có) theo quy định của pháp luật. Đơn vị sự nghiệp công có
trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản nhà nước theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng
tài sản nhà nước. Đơn vị sự nghiệp công có trách nhiệm xây dựng và ban hành Quy chế chi tiêu
nội bộ, gửi cơ quan quản lý cấp trên, trường hợp Quy chế có quy định không phù hợp với quy
định của Nhà nước, cơ quan quản lý cấp trên có ý kiến bằng văn bản yêu cầu đơn vị điều chỉnh lại cho phù hợp [10].
Năm là, quy định về việc lập, phân bổ và giao dự toán.
Đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; đơn vị sự
nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên: Hàng năm căn cứ vào kết quả thực hiện về số lượng,
khối lượng dịch vụ; tình hình thu, chi hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công và các dịch
vụ khác của năm hiện hành; yêu cầu nhiệm vụ của năm kế hoạch, đơn vị lập kế hoạch về số
lượng, khối lượng dịch vụ và dự toán thu, chi báo cáo cơ quan quản lý cấp trên. Đối với dịch
vụ sự nghiệp công do Nhà nước đặt hàng: Hàng năm căn cứ đơn giá, số lượng, khối lượng dịch
vụ sự nghiệp công được đặt hàng theo hướng dẫn của Bộ, cơ quan Trung ương, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh, đơn vị lập dự toán gửi cơ quan quản lý cấp trên theo quy định. Đối với đơn vị sự
nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (do giá, phí dịch vụ sự nghiệp công chưa
kết cấu đủ chi phí, được Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công
theo giá, phí chưa tính đủ chi phí): Căn cứ tình hình thực hiện năm hiện hành, nhiệm vụ của
năm kế hoạch, đơn vị lập kế hoạch về số lượng, khối lượng dịch vụ sự nghiệp công và dự toán
thu, chi (bao gồm cả phần kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ do giá, phí dịch vụ sự nghiệp
công chưa kết cấu đủ chi phí) báo cáo cơ quan quản lý cấp trên theo quy định. Đối với đơn vị
sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (theo chức năng, nhiệm vụ được cấp
có thẩm quyền giao, không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp): Căn cứ tình hình thực hiện năm
hiện hành, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao trong năm kế hoạch, số lượng người làm
việc được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chế độ chi tiêu hiện hành, đơn vị lập dự toán thu, chi
gửi cơ quan quản lý cấp trên theo quy định. Lập dự toán thu, chi phí theo pháp luật về phí, lệ
phí, các nhiệm vụ không thường xuyên theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Hàng năm,
căn cứ vào dự toán thu, chi do đơn vị sự nghiệp công xây dựng, cơ quan quản lý cấp trên có
trách nhiệm xem xét, tổng hợp dự toán thu, chi của đơn vị gửi cơ quan tài chính và cơ quan có
liên quan theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Việc phân bổ và giao dự toán của cơ
quan quản lý cấp trên cho đơn vị sự nghiệp công thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách
nhà nước. Căn cứ lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công, cơ quan quản lý cấp trên thực hiện
đặt hàng đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư và đơn vị
sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên; đặt hàng, giao kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà
nước đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (do giá, phí dịch
vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi phí, được Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp
dịch vụ sự nghiệp công theo giá, phí chưa tính đủ chi phí). Đối với đơn vị sự nghiệp công do
Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao,
không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp): Cơ quan quản lý cấp trên thực hiện giao dự toán ổn
định trong thời gian 3 năm và được điều chỉnh khi Nhà nước thay đổi nhiệm vụ, cơ chế chính sách theo quy định [10].
Sáu là, quy định về cơ chế đặt hàng, đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, xây
dựng định mức kinh tế kỹ thuật và tính giá, phí dịch vụ sự nghiệp công.
Dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện theo các phương
thức: giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu. Giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công
sử dụng kinh phí NSNN chỉ thực hiện đối với đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc cơ quan
quản lý cấp trên được giao kinh phí cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Căn cứ vào chức năng,
nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp công lập, dự toán thu chi được cấp có thẩm quyền giao, danh
mục dịch vụ sự nghiệp công có định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá, giá dịch vụ sự nghiệp
công do cơ quan có thẩm quyền ban hành, thực hiện đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công
sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc cơ quan quản
lý cấp trên theo danh mục quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 32/2019/NĐ-
CP của Chính phủ. Việc đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công do đơn vị sự nghiệp công
lập thực hiện, căn cứ theo lộ trình tính giá đủ chi phí hoặc chưa tính đủ chi phí theo cơ chế tự
chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong từng lĩnh vực. Về đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp
công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước: Căn cứ chức năng và ngành nghề đăng ký kinh
doanh phù hợp với dịch vụ sự nghiệp công 17 tham gia đấu thầu; căn cứ quy định của pháp luật
chuyên ngành đối với nhà thầu cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực thuộc diện Nhà nước cấp phép
hoạt động và các điều kiện tham gia đấu thầu khác theo quy định của pháp luật liên quan (nếu có).
Định mức kinh tế - kỹ thuật được hiểu là mức hao phí cần thiết về lao động về nguyên,
nhiên vật liệu, máy móc thiết bị, dụng cụ và phương tiện để hoàn thành một đơn vị sản phẩm
(hoặc một khối lượng công việc nhất định), trong một điều kiện cụ thể của các hoạt động trong
các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước. Các hoạt động sự nghiệp công của các đơn vị sự
nghiệp công lập rất đa dạng và phong phú về loại hình. Định mức kinh tế kỹ thuật là căn cứ để
tính giá dịch vụ sự nghiệp công, là cơ sở để triển khai phân bổ ngân sách nhà nước theo cơ chế
đặt hàng, giao nhiệm vụ, đấu thầu gắn với số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ công. Với ý
nghĩa và tầm quan trọng của việc xây dựng và ban hành định mức kinh tế kỹ thuật nêu trên, khi
xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật phải đảm bảo các nguyên tắc như tuân thủ quy trình, đảm
bảo tính ổn định, các bước thực hiện cần bảo đảm sự phù hợp, không khác biệt, đảm bảo sự tập
trung thống nhất trong quản lý nhà nước của Bộ chuyên ngành về công tác xây dựng định mức;
khuyến khích, phát huy quyền chủ động, của các tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng định mức
của các ngành và việc lập, phân bổ, quản lý kinh phí xây dựng định mức thực hiện theo quy định của pháp luật.
Giá dịch vụ sự nghiệp công, gồm 02 loại giá dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng kinh
phí ngân sách nhà nước và giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
Đối với dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước: Đơn vị sự nghiệp
công được xác định giá dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường, được quyết định các
khoản thu, mức thu bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý, có tích lũy theo quy định của pháp luật đối
với từng lĩnh vực . Đối với dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước: Giá
dịch vụ sự nghiệp công được xác định trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí
do cơ quan có thẩm quyền ban hành và lộ trình tính đủ chi phí theo quy định, trong đó chi phí
tiền lương trong giá dịch vụ sự nghiệp công tính theo mức lương cơ sở, hệ số tiền lương ngạch,
bậc, chức vụ đối với đơn vị sự nghiệp công và định mức lao động do các Bộ, cơ quan Trung
ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành theo thẩm quyền; Phương pháp định giá và cơ quan
có thẩm quyền định giá dịch vụ sự nghiệp công thực hiện theo quy định pháp luật về giá; Trong
phạm vi khung giá dịch vụ sự nghiệp công do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, đơn
vị sự nghiệp công quyết định mức giá cụ thể cho từng loại dịch vụ; trường hợp cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định cụ thể giá dịch vụ sự nghiệp công, đơn vị thu theo mức giá quy định.
Phí dịch vụ sự nghiệp công: Dịch vụ sự nghiệp công thuộc danh mục thu phí thực hiện
theo quy định pháp luật về phí, lệ phí. Đơn vị sự nghiệp công được thu phí theo mức thu do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
1.4 Cơ chế tự chủ tài chính công.
1.4.1Mục tiêu của cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập:
Thứ nhất, trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị sự nghiệp trong việc tổ chức
công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ
được giao; phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã
hội; tăng nguồn thu, nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho người lao động; phát huy tính
sáng tạo, năng động, xây dựng “thương hiệu riêng” cho đơn vị mình.
Thứ hai, thực hiện chủ trương xã hội hóa trong việc cung cấp dịch vụ cho xã hội, huy
động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, từng bước giảm
dần bao cấp từ ngân sách nhà nước.
Thứ ba, thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với đơn vị sự nghiệp, Nhà nước
vẫn quan tâm đầu tư để hoạt động sự nghiệp ngày càng phát triển; bảo đảm cho các đối tượng
chính sách – xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được
cung cấp dịch vụ theo quy định ngày càng tốt hơn.
Cơ chế tự chủ tài chính có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và phát triển
đơn vị sự nghiệp nói riêng, thúc đẩy kinh tế xã hội nói chung. Cụ thể như sau:
Tạo thế chủ động cho đơn vị sự nghiệp trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính để
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Từ đó, nó đã góp phần phát huy mọi khả năng của đơn vị để
cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội; tăng nguồn thu, nhằm từng bước giải quyết thu
nhập cho người lao động. Không chỉ vậy mà còn phát huy tính sáng tạo, năng động trong việc
xây dựng và phát triển đơn vị mình.
Nhằm mục đích để thực hiện chủ trương xã hội hóa trong việc cung cấp dịch vụ cho xã
hội, huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, từng
bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước.
Mức độ tự chủ tài chính:
Để phù hợp với khả năng của từng đơn vị, pháp luật quy định các mức tự chủ tài chính
khác nhau. Theo quy định hiện hành, tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp gồm 4 mức độ cơ
bản được nêu dưới đây:
Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư.
Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên.
Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (do giá, phí dịch
vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi phí, được Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp
dịch vụ sự nghiệp công theo giá, phí chưa tính đủ chi phí).
Tự chủ tài chính đối với đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (theo chức
năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp).
Trong đó, pháp luật quy định cụ thể các nguồn tài chính, việc sử dụng nguồn tài chính
cụ thể tương ứng đối với từng mức độ.
Bên cạnh đó thì thực chất t`ự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập còn được thể
hiện qua các hoạt động giao dịch tài chính.
1.4.2 Quy định mới về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập:
Căn cứ pháp lý: Ngày 21/6/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 60/2021/NĐ-CP
quy định về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập. Nghị định số 60/2021/NĐCP
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/8/2021.
Đối tượng áp dụng của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP của Chính Phủ:
Đơn vị sự nghiệp công lập do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thành lập theo quy
định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản riêng theo quy định của pháp
luật, cung cấp dịch vụ sự nghiệp công hoặc phục vụ quản lý nhà nước (sau đây gọi là đơn vị sự nghiệp công).
Đơn vị sự nghiệp công trực thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Đài Truyền hình Việt
Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam; đơn vị sự nghiệp công thuộc đơn vị sự
nghiệp công thực hiện theo quy định của Nghị định này và quy định pháp luật khác có liên quan.
Đơn vị sự nghiệp công thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội được áp dụng
quy định tại Nghị định này và các quy định của Đảng và của pháp luật khác có liên quan.
Đơn vị sự nghiệp công được thành lập theo Hiệp định và cam kết giữa Chính phủ Việt
Nam với Chính phủ các nước hoặc tổ chức quốc tế thực hiện cơ chế tài chính theo cam kết,
Điều ước quốc tế hoặc Quyết định đặc thù do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Mục 1, Chương II của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP này quy định tự chủ tài chính đối
với đơn vị sự nghiệp công tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư (đơn vị nhóm 1) và đơn
vị sự nghiệp công tự đảm bảo chi thường xuyên (đơn vị nhóm 2). Theo đó, nguồn tài chính của đơn vị, bao gồm:
Thứ nhất: Nguồn ngân sách nhà nước:
Kinh phí cung cấp hoạt động dịch vụ sự nghiệp công thuộc danh mục dịch vụ sự nghiệp
công sử dụng ngân sách nhà nước; bao gồm cả nguồn ngân sách nhà nước đặt hàng hoặc đấu
thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo quy định của pháp luật hiện hành.
Kinh phí chi thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ khi được cơ
quan có thẩm quyền tuyển chọn hoặc giao trực tiếp theo quy định của pháp luật về khoa học và công nghệ.
Kinh phí chi thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ Nhà nước giao (nếu có), gồm: Kinh
phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; kinh phí vốn đối ứng thực hiện các dự án có
nguồn vốn nước ngoài theo quyết định của cấp có thẩm quyền; kinh phí thực hiện nhiệm vụ
được cơ quan có thẩm quyền giao; kinh phí được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao cho
đơn vị sự nghiệp công để thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân
sách nhà nước trong trường hợp chưa có định mức kinh tế – kỹ thuật và đơn giá để đặt hàng.
Vốn đầu tư phát triển của dự án đầu tư xây dựng cơ bản được cấp có thẩm quyền phê
duyệt theo quy định của pháp luật đầu tư công (nếu có). Riêng đối với đơn vị nhóm 1, Nhà nước
xem xét bố trí vốn cho các dự án đầu tư xây dựng cơ bản đang triển khai dở dang theo quyết
định của cấp có thẩm quyền hoặc bố trí cho các dự án đầu tư xây dựng cơ bản mới thuộc kế
hoạch đầu tư công trung hạn được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đơn vị sự nghiệp công quản
lý, sử dụng vốn đầu tư phát triển theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP.
Thứ hai: Nguồn thu hoạt động sự nghiệp:
Thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công.
Thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoạt động liên doanh, liên kết với các tổ chức,
cá nhân theo đúng quy định của pháp luật và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt đề án phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp công.
Thu từ cho thuê tài sản công: Đơn vị thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về quản
lý, sử dụng tài sản công và phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt đề án cho thuê tài sản công.
Thứ ba: Nguồn thu phí được để lại đơn vị sự nghiệp công để chi theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí.
Thứ tư: Nguồn vốn vay; vốn viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật.
Thứ năm: Nguồn thu khác theo quy định của pháp luật (nếu có).
2.Tình hình triển khai thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công.
Thời gian qua, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập được thực hiện
theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị
sự nghiệp công lập; Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 9/8/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn
thực hiện Nghị định trên. Sau gần 10 năm thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP trên cơ sở
tổng kết đánh giá kết quả đạt được cũng như những bất cập phát sinh, ngày 14/2/2015, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP theo
hướng quy định các vấn đề chung, làm căn cứ cho các bộ, cơ quan liên quan xây dựng các Nghị
định riêng quy định đối với từng lĩnh vực cụ thể. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP đã thể hiện rõ
mục tiêu đổi mới toàn diện các đơn vị sự nghiệp công lập; đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cho các đơn vị đồng bộ cả về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính.
Theo đó, tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp theo 4 mức độ: (i) Tự chủ tài chính đối
với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; (ii) Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự
bảo đảm chi thường xuyên; (iii) Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường
xuyên (do giá, phí dịch vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi phí, được Nhà nước đặt hàng,
giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá, phí chưa tính đủ chi phí); (iv) Tự chủ
tài chính đối với đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (theo chức năng, nhiệm vụ
được cấp có thẩm quyền giao, không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp).
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc triển khai giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn
vị sự nghiệp công lập đã mang lại một số kết quả tích cực, như các đơn vị sự nghiệp công lập
đã chủ động sử dụng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước (NSNN) giao để thực hiện nhiệm vụ
có hiệu quả; đồng thời chủ động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực để phát triển và nâng cao số
lượng, chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, từ đó phát triển nguồn thu.
Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập cùng với nguồn kinh phí tiết kiệm 10%
chi hoạt động thường xuyên NSNN giao đã góp phần bảo đảm bù đắp một phần nhu cầu tiền
lương tăng thêm, theo quy định của Chính phủ. Nhờ tăng cường khai thác nguồn thu, tiết kiệm
chi và thực hiện cơ chế tự chủ, thu nhập và đời sống của người lao động trong các đơn vị sự
nghiệp công lập đã từng bước được nâng lên. Trong đó, thu nhập tăng thêm của cán bộ, viên
chức bình quân khoảng từ 0,5 đến 1,5 lần tiền lương cấp bậc của đơn vị. Riêng một số đơn vị
sự nghiệp công lập trong lĩnh vực giáo dục đại học tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động đã
thực hiện chi trả thu nhập tăng thêm cho người lao động khoảng 2 - 3 lần, như Đại học Quốc tế
- Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh...
Về sắp xếp bộ máy và tinh giản biên chế, trong năm 2018, tại một số địa phương đã thực
hiện quyết liệt và đạt được được một số kết quả nhất định. Tại Hà Nội, sau khi thực hiện sắp
xếp, kiện toàn, các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc sở, ban, ngành đã giảm từ 401 đơn vị
xuống còn 280 đơn vị (giảm tương đương 30,2%); các đơn vị sự nghiệp công lập cấp huyện đã
giảm từ 206 đơn vị còn 96 đơn vị (giảm tương đương 53,4%). Tại tỉnh Quảng Ninh, địa phương
này đã giao tự chủ tài chính cho 84 đơn vị sự nghiệp công lập (tăng 15 đơn vị so với năm 2017),
có thêm 1.442 viên chức không hưởng lương từ NSNN (trong đó, số viên chức của 4 Bệnh viện
thuộc Sở Y tế là 1.264 người), kinh phí ngân sách cấp năm 2018 giảm 120 tỷ đồng so năm 2017.
Trong các năm 2017-2018, chỉ tính riêng ở Trung ương, các lĩnh vực y tế, giáo dục và
đào tạo đã giảm chi ngân sách nhà nước trực tiếp cho các đơn vị sự nghiệp công lập mỗi năm khoảng 1.000 tỷ đồng.
Tuy vậy, kết quả này mới chỉ tập trung tại một số đơn vị năng động, sáng tạo và có lợi
thế về uy tín trong cung cấp dịch vụ sự nghiệp công hoặc ở một số ngành nghề có khả năng xã hội hóa cao.
Theo báo cáo chưa đầy đủ của các bộ, ngành và địa phương, đến nay, tỷ lệ các đơn vị sự
nghiệp công lập tự bảo đảm kinh phí hoạt động còn thấp, chiếm khoảng 3,7% tổng số các đơn
vị sự nghiệp công lập của cả nước, tương đương 2.057 các đơn vị sự nghiệp công lập. Việc thực
hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm, chưa có bước
chuyển biến có tính đột phá; chưa tách bạch rõ ràng giữa chức năng quản lý nhà nước với chức
năng cung cấp dịch vụ công. Một số chính sách là điều kiện quan trọng để thực hiện quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập chưa được sửa đổi, bổ sung và ban
hành đầy đủ kịp thời; một số đơn vị sự nghiệp công lập khi mở rộng hoạt động dịch vụ còn chạy
theo số lượng, mà không quan tâm đến chất lượng hoạt động, lạm dụng kỹ thuật để tăng thu.
Đồng thời, vẫn có những khoảng cách lớn giữa các vùng, miền, giữa Trung ương với địa phương
trong các hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập… nên việc khai thác các nguồn lực xã
hội để đầu tư phát triển hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công còn hạn chế.
3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập
Để bảo đảm hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, ngoài việc ban hành đầy đủ
khung pháp lý về cơ chế tự chủ trong đó có tự chủ tài chính, chúng ta cần phải tiếp tục hoàn
thiện cơ chế quản lý, sắp xếp và tổ chức lại hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo
tinh thần của Nghị quyết số 19/NQ-TW của Hội nghị Trung ương 6 Khóa XII về tiếp tục đổi
mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập, trong đó có mục tiêu: Đến năm 2021, phấn đấu có 10% đơn vị tự chủ tài
chính, giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ NSNN cho các đơn vị sự nghiệp công lập so với
giai đoạn 2011 - 2015; Đến năm 2025, có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính; 100% đơn vị
sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác có đủ điều kiện hoàn thành chuyển đổi thành công ty cổ phần.
Đồng thời triển khai Nghị quyết 19, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 08/NQ-CP
về Chương trình hành động của Chính phủ, trong đó, giao các Bộ nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công
lập. Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 429/QĐ-BTC về Kế hoạch hành động thực hiện
Nghị quyết số 08/NQ-CP và đang tích cực phối hợp các Bộ, địa phương trong việc triển khai
các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nhằm hiện thực hóa các mục tiêu của Nghị quyết 19, tiến tới
giảm dần số lượng các đơn vị sự nghiệp công lập do NSNN bảo đảm toàn bộ chi hoạt động
thường xuyên, tăng số lượng các đơn vị tự chủ tự bảo đảm về tài chính.
Trong thời gian tới, khi các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực đã hoàn thiện và trình cấp có
thẩm quyền ban hành đầy đủ danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN, việc hỗ trợ từ
NSNN sẽ gắn với số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ sự nghiệp công được cung cấp, giá
cung cấp dịch vụ và nhu cầu sử dụng để bảo đảm hiệu quả đầu tư từ NSNN, tránh lãng phí; đẩy
mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng thực hiện dịch vụ sự nghiệp công có lộ trình cụ thể thực hiện
cơ chế đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN để tạo điều kiện cho cơ sở
ngoài công lập cùng tham gia cung cấp; giảm dần các sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công sử
dụng NSNN thực hiện theo phương thức giao nhiệm vụ, giao kế hoạch C. KẾT LUẬN
Đổi mới phương thức quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công
theo hướng giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị là nhu cầu khách quan của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hoàn toàn phù hợp với xu thế
xã hội hóa hoạt động sự nghiệp, nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công và
hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước. Khi thực hiện quyền tự chủ tài chính,
các đơn vị sự nghiệp có thu đ ợc quyền chủ động khai thác các nguồnƣ thu và
quyết định các khoản thu, mức thu; chủ động sử dụng nguồn lực tài chính của đơn
vị; chủ động chi trả tiền lương và thu nhập tăng thêm cho người lao động; chủ
động sử dụng kết quả hoạt động tài chính trong năm và xây dựng quy chế chi tiêu
nội bộ. Quyền tự chủ về tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu được quy định trong
Nghị định số 10/2002/NĐ-CP, Nghịđịnh số 43/2006/NĐ-CP và các văn bản quy
phạm pháp luật của các Bộ. Các đơn vị sự nghiệp công khi chuyển sang thực hiện
Nghị định 10 được giao quyền tự chủ tài chính, đại bộ phận được khoán phần kinh
phí Ngân sách Nhànước cấp. Đồng thời, tích cực khai thác nguồn thu sự nghiệp,
mở rộng và đa dạng hóa các loại hình cung ứng dịch vụ, chủ động sử dụng các
nguồn kinh phí tùy theo yêu cầu hoạt động của đơn vị, bảo đảm chi tiêu hiệu quả,
tiết kiệm trên cơ sở quy chế chi tiêu nội bộ do đơn vị xây dựng. Kết quả trên
đãkhẳng định việc giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công là
phù hợp với tiến trình cải cách hành chính, phát huy khả năng và tính tựchủ, tự
chịu trách nhiệm của đơn vị, góp phần nâng cao chất lượng và khảnăng cung cấp
dịch vụ công. Bên cạnh đó, các đơn vị sự nghiệp công được giao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và biên chế; mở rộng đối
tượng áp dụng cơ chế tự chủ tài chính; nâng cao trách nhiệm của Thủ trưởng đơn
vị, Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.Xuất phát từ
nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật quyền tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp
công, thực trạng pháp luật và định hướng hoàn thiện trong giai đoạn tới, Nhà nước
cần phải bổ sung sửa đổi các quy định vềquyền sở hữu các nguồn lực tài chính
của các đơn vị sự nghiệp công; về cơ chế thực hiện kiểm soát chi và thanh toán
các khoản chi qua kho bạc Nhà nước; các quy định về chế độ tín dụng; các quy
định về đổi mới phương thức cung cấp dịch vụ công nhằm xóa bỏ tình trạng “hành
chính hoá” các hoạt động sự nghiệp. D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
https://123docz.net/document/938575-tu-chu-tai-chinh-cua-cac-don-vi-su-nghiep-cong-lapco-
thu-o-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap.htm
http://www.khoahockiemtoan.vn/813-1-ndt/tu-chu-tai-chinh-doi-voi-don-vi-su-nghiep-
congdot-pha-moi-va-cac-yeu-cau-thuc-hien.sav
http://thanhtratinh.hatinh.gov.vn/thuc-hien-phap-luat-ve-tu-chutu-chiu-trach-nhiem-doi-
voidon-vi-su-nghiep-cong-lap-thuc-tien-qua-thanh-tra-o-mot-so-truong-dai-hoc- 1638255980.html
https://123docz.net//document/8583526-to-chuc-thuc-hien-phap-luat-ve-co-che-tu-chu-
taichinh-doi-voi-cac-don-vi-su-nghiep-cong-lap-so-van-hoa-va-the-thao-thanh-pho-ha-noi- luanvan-thac-sy-.htm
https://luatduonggia.vn/tu-chu-tai-chinh-la-gi-che-do-tu-chu-tai-chinh-doi-voi-co-quan-
nhanuoc/#1_Tu_chu_tai_chinh_la_gi
https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/thoi-su-phap-luat/tu-van-phap-luat/
42287/quy-dinh-ve-tu-chu-tai-chinh-cua-don-vi-su-nghiep-cong-lap
https://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/co-che-tu-chu-tai-chinh-cua-nhung-don-vi-
sunghiep-cong-lap-60970.htm https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet- tin? dDocName=MOFUCM228239
Bộ Tài chính, 2015: Hội thảo “Cơ chế tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”.
Phan Quý Phương: Thực tiễn hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập và những đề xuất đổi mới.
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn
vị sự nghiệp công lập.
Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 21/5/2015 của Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực
hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của
đơn vị sự nghiệp công lập.