lOMoARcPSD| 45740413
ĐỀ TÀI 5: Nhận diện và phê phán luận điểm sai trái về chủ nghĩa xã hội cho rằng:
Chủ nghĩa xã hội là ảo tưởng, không thể trở thành hiện thực; chủ nghĩa tư bản mới
là hình thái kinh tế - xã hội cuối cùng trong lịch sử.
Lời mở đầu
Trong bối cảnh thế giới đương đại với sự phát triển vượt bậc của khoa học – công nghệ,
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các quan điểm, luận điệu sai trái về con đường
phát triển của nhân loại ngày càng xuất hiện với nhiều hình thức tinh vi, đa dạng. Một
trong những luận điểm tiêu biểu, thường xuyên được các thế lực thù địch và phản động
sử dụng nhằm phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta là: “Chủ nghĩa xã hội (CNXH) chỉ
là ảo tưởng, không thể trở thành hiện thực; chủ nghĩa tư bản (CNTB) mới là hình thái
kinh tế – xã hội cuối cùng trong lịch sử nhân loại.”
Luận điểm này mang tính chất xuyên tạc, phản khoa học và phủ nhận quy luật lịch sử - tự
nhiên về sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội. Nó cố tình bỏ qua sự
thật rằng, lịch sử phát triển xã hội loài người là lịch sử thay thế kế tiếp nhau của các hình
thái kinh tế – xã hội từ thấp đến cao, dựa trên quy luật khách quan của lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Việc khẳng định CNTB là đích đến cuối cùng của lịch sử là đi ngược
lại bản chất tiến hóa của xã hội loài người, đồng thời nhằm gieo rắc hoài nghi, lung lay
niềm tin của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, vào mục tiêu, lý tưởng xã hội
chủ nghĩa.
Đối với Việt Nam, trong bối cảnh đất nước đang kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc nhận
diện, phê phán và phản bác những luận điệu sai trái này càng có ý nghĩa cấp thiết. Nó
không chỉ giúp mỗi cán bộ, đảng viên và sinh viên hiểu rõ hơn bản chất khoa học, cách
mạng của CNXH, mà còn củng cố niềm tin vào con đường đi lên CNXH mà Đảng và
nhân dân ta đã lựa chọn.
Với tinh thần học tập, nghiên cứu và trách nhiệm của sinh viên Trường Đại học Thương
Mại, Nhóm 5 chúng em quyết định thực hiện bài thảo luận với đề tài: “Nhận diện và phê
phán luận điểm sai trái cho rằng CNXH là ảo tưởng, không thể trở thành hiện thực;
CNTB mới là hình thái kinh tế – xã hội cuối cùng trong lịch sử”. Bài thảo luận sẽ tập
trung làm rõ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về sự vận động, phát triển của các
hình thái kinh tế – xã hội; chỉ ra tính phiến diện, phi khoa học của luận điểm sai trái nêu
trên; đồng thời khẳng định tính tất yếu, tính thời đại và sức sống của CNXH, đặc biệt qua
thực tiễn công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
lOMoARcPSD| 45740413
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
1.1. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội khoa học
Chủ nghĩa xã hội được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, đây là toàn bộ hệ thống lý
luận của chủ nghĩa Mác Lênin, giải thích quá trình chuyển biến tất yếu từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản, được phân tích từ ba góc độ: triết
học, kinh tế chính trị và chính trị – xã hội. Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội chỉ là một
trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác – Lênin, cùng với triết học Mác – Lênin và
kinh tế chính trị Mác – Lênin.
1.2. Chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa
Chủ nghĩa xã hội có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Một là, đó là phong
trào đấu tranh của nhân dân lao động nhằm chống lại sự áp bức, bóc lột, bất công xã hội
do các giai cấp thống trị gây ra. Hai là, nó là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh khát
vọng giải phóng con người lao động khỏi sự áp bức, hướng tới xã hội công bằng và nhân
văn hơn. Ba là, chủ nghĩa xã hội còn là một khoa học – chủ nghĩa xã hội khoa học,
nghiên cứu về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong công cuộc xây dựng xã hội
mới. Cuối cùng, nó là một chế độ xã hội mới, tiến bộ, được coi là giai đoạn đầu của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
1.3. Sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, C. Mác và Ph. Ăngghen, trên cơ sở nghiên
cứu sự phát triển lịch sử xã hội loài người, đặc biệt là xã hội tư bản, đã hình thành học
thuyết về hình thái kinh tế - xã hội. Họ chỉ ra rằng, việc thay thế hình thái kinh tế - xã hội
tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là tất yếu lịch sử, diễn
ra như một quy luật khách quan. Quá trình này được thực hiện thông qua cách mạng xã
hội chủ nghĩa, xuất phát từ hai tiền đề vật chất quan trọng: sự phát triển của lực lượng sản
xuất và sự trưởng thành của giai cấp công nhân.
1.4. Phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ
thấp đến cao qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp (chủ nghĩa xã hội) và giai đoạn cao (chủ
nghĩa cộng sản hoàn chỉnh). Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chnghĩa
tồn tại một thời kỳ quá độ, trong đó diễn ra quá trình cải biến cách mạng nhằm xóa bỏ tàn
dư của xã hội cũ và thiết lập nền tảng của xã hội mới. Trong tác phẩm “Phê phán cương
lĩnh Gôta” (1875), C. Mác khẳng định: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản
chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia.” Tiếp thu và
phát triển luận điểm đó, V. I. Lênin cho rằng: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được
rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định.”
Đồng thời, từ thực tiễn cách mạng Nga, Lênin nhấn mạnh rằng với những nước chưa đạt
lOMoARcPSD| 45740413
trình độ phát triển tư bản cao, thời kỳ quá độ có thể kéo dài, nhằm tạo lập những điều
kiện kinh tế - xã hội cần thiết để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
2. Điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội
Bằng luận hình thái kinh tế - hội, C.Mác đã đi sâu phân tích, tìm ra quy luật
vận động của hình thái kinh tế - xã hội bản chủ nghĩa, từ đó cho phép ông dự báo khoa
học về sự ra đời và tương lai của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. C.Mác xuất
phát từ chỗ chủ nghĩa cộng sản hình thành từ chủ nghĩa bản, phát triển lên từ chủ
nghĩa tư bản là kết quả tác động của một lực lượng xã hội do chủ nghĩa tư bản sinh ra - giai
cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác
- Lênin dựa trên cơ sở hai điều kiện sau đây:
2.1. Điều kiện kinh tế:
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn mới trong lịch sử phát triển mới của
nhân loại. Nhờ những bước tiến to lớn của lực lượng sản xuất, biểu hiện tập trung nhất
sự ra đời của công nghiệp cơ khi ( Cách mạng công nghiệp lần thứ 2 ), chủ nghĩa tư bản đã
tạo ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Trong vòng chưa đầy một thế kỷ,
chủ nghĩa tư bản đã tạo ra được một lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng
sản xuất mà nhân loại tạo ra đến lúc đó.
Tuy nhiên, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất càng được cơ khi hóa,
hiện đại hóa càng mang tính hội hóa cao, thì càng mâu thuẫn với quan hệ sản xuất
bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu nhân bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất từ
chỗ đóng vai trò mđường cho lực lượng sản xuất phát triển, thì ngày càng trnên lỗi thời,
xiềng xích của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản
xuất với chế chiếm hữu nhân bản chủ nghĩa đối với liệu sản xuất trở thành u
thuẫn kinh tế bản của chủ nghĩa bản, biểu hiện về mặt xã hội mâu thuẫn giữa giai
cấp công nhân hiện đại với giai cấp tư sản lỗi thời.
2.2. Điều kiện chính trị – xã hội
Cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản xuất hiện ngay từ đầu và
ngày càng trở nên gay gắt và có tính chính trị rõ nét. Hơn nữa, cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của nền đại công nghiệp khí sự trưởng thành vượt bậc cả về số lượng chất
lượng của giai cấp công nhân, con đẻ của nền đại công nghiệp. Chính sự phát triển về lực
lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp công nhân là tiền đề kinh tế- xã hội dẫn tới
sự sụp đổ không tránh khỏi của chủ nghĩa bản. Diễn đạt tưởng đó, C.Mác
Ph.Ăngghen cho rằng, giai cấp sản không chỉ tạo khí để giết mình n tạo ra
những người sử dụng vũ khí đó, những ng nhân hiện đại, những người vô sản. Sự trưởng
thành vượt bậc và thực sự của giai cấp công nhân được đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng
lOMoARcPSD| 45740413
cộng sản, đội tiền phong của giai cấp ng nhân, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chính
trị của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất sự trưởng thành thực sự của giai cấp công
nhân tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của hình thái kinh tế- hội cộng sản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, do khác về bản chất với tất cả các hình thái kinh tế - hội trước đó, nên hình
thái kinh tế - hội cộng sản chủ nghĩa không tự nhiên ra đời, trải lại, chỉ được hình
thành thông qua cách mạng vô sản dưới sự nh đạo của đảng của giai cấp công nhân Đảng
Cộng sản, thực hiện bước quá độ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản.
3. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
Một là, chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người,
tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản dự báo về xã hội cộng sản chủ nghĩa, nơi con người
tự do phát triển, làm chủ bản thân và tự nhiên. Đây là bản chất nhân văn, nhân đạo của
hội cộng sản chủ nghĩa, khác biệt hoàn toàn so với các hình thái kinh tế - xã hội trước đây.
Để đạt được mục tiêu này, C. Mác Ph. Ăngghen cho rằng cần tiến hành cách mạng
hội chủ nghĩa triệt để, giải phóng giai cấp, xóa bỏ bóc lột, giải phóng con người. V.I.
Lênin bổ sung rằng mục đích cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là thực hiện nguyên tắc "làm
theo năng lực, hưởng theo nhu cầu".
Mục tiêu cao cả của chủ nghĩa hội xóa bphân chia giai cấp, biến mọi người
thành người lao động, tiêu diệt bóc lột. Giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản phải hoàn thành nhiều nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ cụ thể của thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa hội: tạo điều kiện về sở vật chất - kỹ thuật đời sống tinh thần để
thiết lập xã hội cộng sản.
Hai là, chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ
Đây đặc trưng thể hiện thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội, hội con
người do con người; nhân dân nòng cốt nhân dân lao động chủ thể của hội
thực hiện quyền làm chủ ngày càng rộng rãi đầy đủ trong quá trình cải tạo hội cũ,
xây dựng xã hội mới.
+ Tổ chức lao động có trình độ cao hơn.
+ Kỹ thuật lao động chặt chẽ và được tổ chức có kế hoạch.
+ Lao động trên tinh thần tự giác (kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể, xã hội).
lOMoARcPSD| 45740413
Ba là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu
Đây đặc trưng về phương diện kinh tế của chủ nghĩa hội. Mục tiêu cao nhất
của chủ nghĩa hội là giải phóng con người trên cơ sở điều kiện kinh tế - hội phát triển,
xét đến cùng trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa hội
hội có nền kinh tế phát triển cao, với lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất dựa trên
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, được tổ chức quản lý có hiệu quả, năng suất lao động
cao và phân phối chủ yếu theo lao động.
Cùng với việc từng bước xác lập chế độ công hữu về liệu sản xuất, để nâng cao
năng suất lao động cần phải tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn, tổ chức chặt chẽ
kỷ luật lao động nghiêm, nghĩa phải tạo ra quan hệ sản xuất tiến bộ, thích ng với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. V.I.Lênin cho rằng: “từ chủ nghĩa bản, nhân
loại chỉ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất và chế độ phân phối theo lao động của mỗi người”.
Bốn là, chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, đại
biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã khẳng định: Trong chủ nghĩa xã hội
phải thiết lập nhà nước chuyên chính sản, nhà nước kiểu mới mang bản chất của giai
cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí nhân dân lao động. Theo V.I. Lênin,
đây là nhà nước chuyên chính vô sản, do giai cấp vô sản giành lấy và duy trì bằng bạo lực
đối với giai cấp tư sản.
Chức năng chính của nhà nước kiểu mới:
Thực hiện dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân.
Trấn áp bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân.
công cụ, phương tiện biểu hiện tập trung trình độ dân chủ của nhân dân lao
động
Lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Mở rộng chế độ dân chủ cho người nghèo, nhân dân.
Hạn chế quyền tự do đối với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư bản.
Mục tiêu: Tổ chức đời sống xã hội vì con người và cho con người.
lOMoARcPSD| 45740413
Năm là, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kê thừa và phát huy những giá
trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại
Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, mục tiêu, động lực
của phát triển xã hội, trọng tâm là phát triển kinh tế; văn hóa đã hun đúc nên tâm hồn, khí
phách, bản lĩnh con người, biến con người thành con người chân, thiện mỹ. V.I. Lênin cho
rằng xây dựng "văn a sản" - nền văn hóa mới hội chủ nghĩa - chìa khóa giải
quyết mọi vấn đề. Nền văn hóa này cần kế thừa giá trị văn hóa dân tộc tinh hoa nhân
loại, đồng thời chống lại tư tưởng, văn hóa phi vô sản. Do vây, quá trình xây dựng nền văn
hóa xã hội chủ nghĩa phải biết kế thừa những giá trị văn hoá dân tộc tinh hoa văn nhân
loại, đồng thời cần chống tư tưởng, văn hoá phi vô sản, trái với những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc và của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sáu là, chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan hệ
hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới
Trong chủ nghĩa xã hội, cộng đồng dân tộc, giai cấp bình đẳng, đoàn kết và hợp tác
trên cơ sở chính trị - pháp lý, đặc biệt là cơ sở kinh tế - xã hội và n hóa sẽ từng bước xây
dựng củng cố phát triển. Đây sự khác biệt căn bản về việc giải quyết vấn đề dân tộc
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của chủ nghĩa dân tộc cực đoan,
hẹp hòi hoặc chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Chủ nghĩa xã hội, với bản chất tốt đẹp do con
người, con người luôn bảo đảm cho các dân tộc bình đẳng, đoàn kết hợp tác hữu
nghị; đồng thời có quan hệ với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH VÀ PHẢN BIỆN CÁC LUẬN ĐIỂM SAI LỆCH
1. Luận điểm 1: “Chủ nghĩa xã hội là ảo tưởng, không thể trở thành hiện thực”
1.1: Nhận diện luận điểm: - Luận điểm “Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là ảo tưởng, không thể
trở thành hiện thực” là luận điểm phổ biến trong các luận điệu chỉ trích CNXH sau sự kiện
Đông Âu - Liên sụp đổ (cuối thập niên 1980 - đầu 1990). Tuy nhiên, mặc dù tuyên bố
này được trình bày như một khẳng định chung, nhưng về mặt bản chất một luận đề
luận lý - kết luận triết học và chính trị - dựa trên một số tiền đề lịch sử, kinh tế, chẳng hạn
như sự thất bại của Liên Xô, sự bành trướng của kinh tế thị trường toàn cầu.
- Nguồn gốc của luận điểm:
lOMoARcPSD| 45740413
· Một là, sự tuyên truyền của giai cấp sản, ởng chính trị đối lập: Sau Chiến tranh
Lạnh, nhiều tác giả, chính trị gia truyền thông phương Tây đã quảng quan điểm
rằng sự sụp đổ của Liên bằng chứng lịch sử cho thấy hình CNXH “không hoạt
động”, từ đó khái quát hóa thành khẳng định rằng CNXH về bản chất phi thực tiễn.
Những luận điểm này thường được trình bày với dạng luận lý: “Một ví dụ lớn thất bại, suy
ra toàn bộ lý thuyết thất bại.”
· Hai , sự hủng hoảng, sai sót và thất bại Liên Xô: Sự tan của Liên khiến nhiều
người hiểu sai rằng “CNXH = hình Liên Xô” Liên sụp đổ nên CNXH không
thể. Thực tế lịch sử đã cho chúng ta thấy nguyên nhân tan của “người anh cả” khối các
nước xã hội chủ yếu đến từ rất nhiều khía cạnh như: Sự yếu kém trong quản trị kinh tế, bế
tắc thể chế, thất bại lộ trình cải cách, xung đột dân tộc, áp lực quốc tế… Tất cả những điều
đó đã chứng tỏ rằng, không phải “tính tất yếu logic” của một htưởng bị vạch trần.
Việc quy toàn bộ CNXH vào mẫu hình Liên Xô là một khái niệm sai lầm.
2.1.2. Phản biện bằng lý luận
- Cơ sở triết học - Lý thuyết duy vật lịch sử: Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, các hình
tháikinh tế - hội không xuất hiện tùy tiện từ ý chí chủ quan hay những giấc không
tưởng, chúng được quy định bởi sự phát triển của lực ợng sản xuất quan hệ sản
xuất. Mỗi hình thái xã hội chỉ tồn tại khi quan hệ sản xuất còn phù hợp với tính chất, trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa hai yếu tố này trở nên gay gắt,
sẽ dẫn đến sự thay thế tất yếu bằng một hình thái kinh tế - hội cao hơn. Trong bối
cảnh đó, CNXH theo nghĩa khoa học được C. Mác xem như một khả thể tất yếu khi mâu
thuẫn bản của Chủ nghĩa bản (sản xuất mang tính hội hóa cao nhưng chiếm hữu
nhân tư liệu sản xuất) phát triển đến cực điểm. Nói cách khác, CNXH không phải là một
“giấc mơ” hay “ảo tưởng đạo đức”, mà là một giả thuyết khoa học về sự phát triển tất yếu
của xã hội loài người, dựa trên việc phân tích các quy luật vận động khách quan của kinh
tế và xã hội. Nói tóm lại, C. Mác và Ph. Ăngghen không tạo một thiên đường lý tưởng,
chỉ ra những quy luật nội tại dẫn tới sự biến đổi. Chính thế, CNXH khoa học khác biệt
lOMoARcPSD| 45740413
căn bản với chủ nghĩa hội không tưởng chỗ xuất phát từ thực tiễn hiện thực, chứ
không phải từ tưởng tượng chủ quan.
- CNXH là một truyền thống tư tưởng - thực tiễn đa dạng, không đồng nhất: Một sai
lầmphổ biến đó cho rằng CNXH là “ảo tưởng”, đánh đồng toàn bộ học thuyết xã hội ch
nghĩa với một vài mô hình đã thất bại trong lịch sử (điển hình là Liên Xô). Tuy nhiên, theo
các nghiên cứu hiện đại, “chủ nghĩa hội” không phải một học thuyết đơn nhất,
một gia đình tư tưởng và thực tiễn đa dạng:
· Ở châu Âu, CNXH dân chủ trở thành nền tảng cho các nhà nước phúc lợi Bắc Âu, nơi kết
hợp kinh tế thị trường với phân phối công bằng, giáo dục và y tế miễn phí, bảo hiểm xã hội
rộng khắp.
· Ở Đông Á, một số quốc gia thực hiện mô hình “xã hội chủ nghĩa định hướng thị trường”
(như Trung Quốc, Việt Nam), nơi kết hợp vai trò định hướng của Nhà nước với cơ chế thị
trường, nhằm dung hòa tăng trưởng kinh tế và mục tiêu công bằng xã hội.
· Trong lĩnh vực học thuật và các nhánh khác: CNXH cộng đồng, CNXH sinh thái, CNXH
dân tộc... phản ánh sự thích ứng đa dạng của tư tưởng này trước các điều kiện lịch sử, văn
hóa, kinh tế khác nhau.
Như vậy, việc kết luận “CNXH là ảo tưởngdựa trên thất bại của một hình cụ thể
phiến diện thiếu sở khoa học, bởi đã bỏ qua bản chất đa dạng, tính linh hoạt
thực tiễn của truyền thống tư tưởng này.
- CNXH mang tính khoa học chứ không phải tưởng tượng: Một học thuyết sẽ được coi
khoa học khi nó:
· sở luận khách quan: CNXH khoa học được hình thành trên nền tảng phương
pháp duy vật lịch sử, coi sự vận động phát triển của hội kết quả của những quy
luật khách quan. Nhờ vậy, nó trở nên khác biệt so với các quan niệm chỉ dựa vào niềm tin
lOMoARcPSD| 45740413
cảm tính hay trực giác chủ quan. Do đó, đây chính điểm mấu chốt tạo nên “tính khoa
học” của CNXH.
· khả năng kiểm chứng phản biện: Những luận điểm cốt lõi của CNXH khoa học
như mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nguy cơ khủng hoảng kinh té
trong CNTB, hay xu hướng hội hóa ngày càng sâu rộng của sản xuất... Tất cả những
điều này đều có thể được phân tích, kiểm nghiệm trong thực tiễn lịch sử. Điều này cho thấy
CNXH không phải một hệ thống thuyết khép kín, luôn mở ra khả năng được chứng
minh hoặc bác bỏ bằng thực tế. Do khả năng “kiểm chứng phản biện” đã giúp trở
nên đặc biệt hơn so với những quan niệm duy ý chí hay ảo tưởng, vốn chỉ tồn tại trong
phạm vi niềm tin.
· tính phát triển thích ứng: CNXH không phải một “công thức bất biến”,
thể thay đổi tùy điều kiện từng quốc gia, từng giai đoạn. Đây là yếu tố giúp CNXH duy trì
sức sống lâu dài. Thêm vào đó, một học thuyết khoa học phải khả năng thích ứng, nếu
không sẽ trở nên lỗi thời xa rời thực tiễn. Nhờ vào tính mở linh hoạt, CNXH thể
vừa giữ được tính phổ quát về lý luận, vừa đáp ứng được đặc thù của mỗi dân tộc.
Do đó, khi gọi CNXH là “ảo tưởng”, các quan điểm phủ định đã ngộ nhận giữa học thuyết
khoa học hình dung viễn tưởng, cũng như đồng nhất luận với một vài hình lịch
sử cụ thể.
2.1.3. Phản biện bằng thực tiễn
- Thực tiễn lịch sử đã chứng minh một cách mạnh mẽ rằng chủ nghĩa hội không
phảilà ảo tưởng, một quá trình thực tiễn, năng động khả năng điều chỉnh, đã
và đang tạo ra những thành tựu cụ thể, thể đo lường được, trong việc cải thiện đời sống
con người và xây dựng một xã hội công bằng, văn minh hơn.
- Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng cho cách tiếp cận này, Người
chorằng CNXH không phải là một học thuyết trừu tượng mà là một mục tiêu rất cụ thể đó
“Làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm
lOMoARcPSD| 45740413
đau thuốc, già không lao động được thì nghỉ. Tóm lại, hội ngày càng tiến, vật chất
ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.
a. Phản biện dựa trên bài học lịch sử: Sự sụp đổ của Liên Xô và sự thất bại trong việc
thực thi, không phải của lý tưởng
- Những người phản đối CNXH thường lấy sự tan của Liên bang viết (Liên Xô)
vào năm 1991 làm bằng chứng mạnh mẽ nhất để kết luận rằng CNXH một hình
không thể tồn tại. Tuy nhiên, nếu phân tích một cách sâu sắc hơn, ta thể thấy rằng sự
sụp đổ của Liên kết quả của những sai lầm chính trị kinh tế cụ thể, thể khắc
phục được, chứ không phải là sự chứng minh cho tính ảo tưởng của CNXH.
- Trên thực tế, Liên từng một siêu ờng với vị thế không thể phủ nhận trên
bản đồchính trị thế giới. Vào năm 1990, Liên vẫn nền kinh tế lớn thứ hai thế giới,
chỉ sau Hoa Kỳ, với GDP tính theo sức mua tương đương đạt 2.660 tỉ USD thu nhập
bình quân đầu người 9.500 USD, xếp thứ 28 trên toàn cầu thuộc nhóm các quốc gia
phát triển. Hơn thế nữa, từ một quốc gia nông nghiệp lạc hậu, Cách mạng Tháng ời
Nga đã đưa Liên trở thành một ờng quốc công nghiệp, là chỗ dựa vững chắc cho các
lực lượng đấu tranh giải phóng dân tộc, trong đó Việt Nam. Ngoài ra, khả năng lãnh đạo
của Đảng Cộng sản sức mạnh của Hồng quân Liên Xô trong việc đánh bại chủ nghĩa
phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã chứng minh rằng đây là một "thành trì" vững
chắc bảo vệ nền hòa bình thế giới. Về mặt xã hội, CNXH ở Liên Xô đã xóa bỏ nạn bóc lột
giai cấp, giải phóng hàng trăm triệu người khỏi cảnh lệ, giải quyết căn bản nạn thất
nghiệp chữ, đồng thời thực hiện các chính sách chăm sóc y tế trcấp xã hội.
Những thành tựu này cho thấy mô hình CNXH của Liên Xô, trong một giai đoạn lịch sử
nhất định, không phải là ảo tưởng mà là một thực tiễn hùng mạnh và hiệu quả.
- Sự sụp đổ của Liên do đó không bắt nguồn từ việc tưởng CNXH không
thểthực hiện, mà từ những sai lầm nghiêm trọng trong quá trình thực thi. Các nguyên nhân
chính được các nhà nghiên cứu xác định bao gồm:
lOMoARcPSD| 45740413
· hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp: hình này đã bộc lộ những hạn chế
nghiêm trọng, dẫn đến tình trạng yếu kém về kinh tế, lạc hậu về công nghệ, thiếu hụt hàng
hóa tiêu dùng, lãng phí trì trệ. chế quản này không ththích ứng với những thay
đổi của bối cảnh kinh tế thế giới.
· Sai lầm về đường lối chính trị cán bộ: Các học giả và nhà phân tích đã chỉ ra rằng sai
lầm trong công tác cán bộ, đặc biệt là việc lựa chọn người đứng đầu, đã khiến Đảng và đất
nước phải trả giá đắt. Quá trình cải tổ Perestroika của M.S. Gorbachev, thay vì khắc phục
các điểm yếu, lại dẫn đến sự hỗn loạn và mâu thuẫn không thể điều hòa trong đời sống xã
hội.
· Việc từ bỏ nền tảng tư tưởng: Sự tan rã của hệ thống CNXH ở Liên Xô về bản chất là do
việc từ bỏ nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin trong một thời gian dài. Khi quyền lực
của đồng tiền chi phối đời sống chính trị, quyền lực của nhân dân sẽ bị lu mờ, và dân chủ
trở thành hình thức, không còn thực chất.
ð Như vậy, bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô cho thấy đó là hậu quả của những sai lầm có
tính chủ quan, duy ý chí và thiếu linh hoạt, chứ không phải là sự chứng minh cho tính "ảo
tưởng" của CNXH. Ngược lại, những bài học này đã cung cấp kinh nghiệm quý báu cho
các quốc gia khác trong việc tìm kiếm một con đường phát triển CNXH mới, phù hợp hơn
với thực tiễn lịch sử và xu thế thời đại.
b. Phản biện dựa trên mô hình Việt Nam: Con đường phát triển thực tiễn, kiên định
mục tiêu
- Việt Nam là một minh chứng sống động cho thấy CNXH không phải một ý tưởng
cốđịnh hay một hình duy nhất, một con đường phát triển linh hoạt, thể điều
chỉnh để đạt được mục tiêu bản vì con người. Thêm vào đó, khi đối mặt với những
khủng hoảng của hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khởi xướng công cuộc “đổi mới” vào năm 1986, đưa ra lý luận về “kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
lOMoARcPSD| 45740413
- hình kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa một hình kinh tế
sángtạo, kết hợp những ưu điểm của kinh tế thị trường với bản chất ưu việt của CNXH.
Mô hình này không “bỏ qua” những thành tựu văn minh đã đạt được trong thời kỳ bản
chủ nghĩa, kế thừa sử dụng chúng một cách chọn lọc. Các đặc điểm nổi bật bao
gồm:
· Đa dạng thành phần kinh tế: hình này khuyến khích sự phát triển của nền kinh tế
nhiều thành phần và hình thức sở hữu khác nhau, cùng cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh
trước pháp luật. Sau đổi mới phát triển, hiện nay, Việt Nam bốn thành phần kinh tế
đó là:
+ Kinh tế Nhà nước
Ví dụ: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN)...
+ Kinh tế tập thể
Ví dụ: Hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã vận tải, hợp tác xã thủ công mỹ nghệ....
+ Kinh tế tư nhân
Ví dụ: Tập đoàn Vingroup, Công ty Cổ phần Tập đoàn Mặt Trời (Sun Group)...
+ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Ví dụ: Samsung Electronics Việt Nam, Intel Products Vietnam, Lotte Mart, Aeon Mall...
· Vai trò điều tiết của Nhà nước: Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, sử dụng pháp luật, quy
hoạch, kế hoạch các công cụ khác để quản nền kinh tế, khắc phục những khuyết tật
của thị trường như kiềm chế lạm phát, tăng trưởng nóng... đảm bảo sự phát triển đúng
định hướng CNXH.
· Gắn kết tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội: Mục tiêu của mô hình này là xây dựng
một xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Việc phân phối thu nhập
lOMoARcPSD| 45740413
không chỉ dựa trên lao động và vốn đóng góp, còn thông qua c quỹ phúc lợi an
sinh xã hội để đảm bảo tiến bộ và công bằng trong từng bước phát triển.
- Sau khi áp dụng hình này, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về con
người và xã hội. Điều này được minh chứng bằng những con số ấn tượng qua báo cáo hàng
năm. Không những vậy, qua đó, cũng trực tiếp bác bỏ luận điểm về tính ảo tưởng của
CNXH.
· Giảm nghèo ngoạn mục: Việc xóa đói, giảm nghèo tại Việt Nam được cộng đồng quốc tế
đánh giá cao. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, chính phủ cách mạng tiếp quản ngân
khố quốc gia nhưng ngân khố khi ấy chỉ còn lại hơn 1.250.000 đồng Đông ơng, trong
đó phần lớn là tiền rách nát, không thể sử dụng. Đất nước rơi vào khủng hoảng, hơn 2 triệu
đồng bào chết đói. Thế nhưng, từ một quốc gia nghèo, Việt Nam đã mạnh mẽ vương lên.
Đến năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm xuống dưới 1,9%, tỷ lệ hộ nghèo ở vùng dân
tộc thiểu số còn khoảng 13,5% các huyện nghèo ghi nhận mức giảm đáng kể. Bước
sang năm 2025, chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo đã gần hoàn thành,
về đích sớm hơn 5 năm so với mục tiêu ban đầu.
· Chỉ số phát triển của con người (HDI) tăng trưởng bền vững: Từ năm 1990 đến 2023, chỉ
số HDI của Việt Nam đã tăng ấn tượng từ 0,499 lên 0,766, tăng khoảng 53,5%, thuộc nhóm
cao nhất khu vực Đông Á Thái Bình Dương. Năm 2023, chỉ số HDI của Việt Nam đứng
thứ 93 trên tổng số 193 quốc gia, nằm trong nhóm các nước có “Phát triển con người cao”.
năm 2024 2025, HDI toàn cầu được ghi nhận sự chững lại nhưng Việt Nam vẫn
duy trì và cải thiện mạnh mẽ, tiếp tục nằm trong nhóm các nước có HDI cao nhất khu vực
ASEAN. Thành tựu y phản ánh sự đầu của Việt Nam vào y tế, giáo dục các lĩnh
vực trọng điểm khác. Đồng thời, điều này ng khẳng định cam kết phát triển con người
là một trong những trọng tâm phát triển của quốc gia.
· Mở rộng chính sách an sinh hội: Trong những năm qua, Việt Nam đã không ngừng
hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh hội, bao gồm bảo hiểm hội, giải quyết việc
làm, và chính sách dành cho người có công. Đặc biệt là tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng
lOMoARcPSD| 45740413
mạnh từ 31% năm 2000 lên 93% năm 2023, giúp đại đa số người dân được tiếp cận dịch
vụ chăm sóc sức khỏe một cách công bằng kịp thời. Bước sang giai đoạn năm 2024
2025, các chính sách an sinh tiếp tục được thực hiện đầy đủ, hiệu quả kịp thời. Thêm
vào đó, kể từ tháng 9 năm 2025, học sinh từ mầm non đến hết trung học phổ thông công
lập trên toàn quốc đã được miễn học phí. Tiếp đó đến năm 2030, người dân Việt Nam sẽ
được miễn viện phí ở mức cơ bản trong phạm vi quyền lợi của bảo hiểm y tế.
Mô hình Việt Nam cho thấy một cách tiếp cận thực dụng để xây dựng CNXH: thay vì bác
bỏ thị trường, nnước sử dụng như một công cụ để phát triển lực lượng sản xuất, đồng
thời duy trì sự kiểm soát và điều tiết để đảm bảo các mục tiêu xã hội. Tuy nhiên, việc thực
hiện cũng đối mặt với thách thức, như bất bình đẳng thu nhập có xu hướng gia tăng sự
chênh lệch về HDI giữa các vùng miền. Những vấn đề này cho thấy con đường xây dựng
CNXH là một quá trình liên tục và phức tạp, đòi hỏi sự điều chỉnh không ngừng.
Như vậy, Luận điểm "CNXH là ảo tưởng" là một cách nhìn cực đoan, chỉ bám vào sự sụp
đổ của Liên Xô mà bỏ qua toàn bộ thành tựu CNXH ở những nước khác. Đây không phải
cách tiếp cận khoa học, cách tiếp cận mang định kiến chính trị. Quan trọng hơn,
chính CNTB cũng từng bị coi "ảo tưởng" khi mới ra đời trong lòng chế độ phong kiến,
nhưng rồi vẫn khẳng định vị thế lịch sử của mình. Như vậy, việc phủ nhận CNXH chỉ
thất bại tạm thời thiếu sở phản biện này giúp khẳng định: CNXH xu thế phát
triển hiện thực, dù con đường đi đến đó không dễ dàng và đòi hỏi sáng tạo.
2. Luận điểm 2: “Chủ nghĩa tư bản là hình thái kinh tế – xã hội cuối cùng
2.1. Nhận diện
Luận điểm cho rằng chủ nghĩa tư bản (CNTB) là “hình thái kinh tế xã hội cuối cùng”
xuất hiện sau khi Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu sụp đổ cuối thập niên 1980 –
đầu thập niên 1990. Trong bối cảnh đó, nhiều học giả tư sản cho rằng sự tan rã của
XHCN chứng minh CNTB đã vượt qua mọi đối thủ, trở thành hình thái phát triển tối
thượng. Tiêu biểu là Francis Fukuyama trong tác phẩm The End of History and the Last
Man (1992), khẳng định lịch sử nhân loại đã khép lại ở chế độ dân chủ tự do và kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa. Đây chính là cơ sở tư tưởng trực tiếp của luận điểm.
lOMoARcPSD| 45740413
Tuy nhiên, xét dưới c độ khoa học lịch sử hội, luận điểm y mang đậm tính bảo
thủ, duy tâm, phục vụ mục đích củng cố quyền lực và lợi ích của giai cấp tư sản.
Thứ nhất, tính chất bảo thủ và phủ nhận quy luật phát triển khách quan của lịch sử. Theo
quan điểm duy vật lịch sử của Mác – Lênin, sự vận động của xã hội loài người tuân theo
quy luật khách quan: lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định sẽ mâu
thuẫn với quan hệ sản xuất cũ, buộc xã hội phải chuyển sang hình thái kinh tế – xã hội
mới. Nhìn lại, nhân loại đã trải qua nhiều hình thái: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô
lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa… Do đó, CNTB chỉ là một giai đoạn lịch sử, không thể
là điểm kết thúc. Luận điểm cho rằng CNTB là “cuối cùng” thực chất là phủ nhận tính
biện chứng của sự phát triển xã hội, biến lịch sử thành một dòng chảy dừng lại, cố định
điều trái ngược hoàn toàn với nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Thứ hai, nhằm bảo vệ và duy trì lợi ích của giai cấp tư sản.
Bằng cách khẳng định CNTB là đích đến cuối cùng, giai cấp tư sản có thể hợp thức hóa
sự thống trị của mình và biện minh cho bất bình đẳng xã hội. Khi công nhân bị bóc lột
giá trị thặng dư, khi khoảng cách giàu – nghèo ngày càng gia tăng, thì luận điểm này
được dùng như một “lời trấn an” rằng đó là “tất yếu” và không có lựa chọn nào tốt hơn.
Nó làm tê liệt tinh thần phản kháng, làm suy yếu các phong trào xã hội tiến bộ, từ đó duy
trì quyền lực chính trị và kinh tế của giai cấp thống trị.
Thứ ba, che giấu bản chất bóc lột của CNTB.
Luận điểm này thường gắn với việc đề cao những thành tựu khoa học – công nghệ và
tăng trưởng kinh tế mà CNTB đạt được. Tuy nhiên, nó cố tình bỏ qua sự thật rằng những
thành tựu ấy được xây dựng trên nền tảng bóc lột lao động thặng dư, trên sự bất bình
đẳng và mâu thuẫn xã hội. Bằng việc tuyên bố CNTB là “hình thái cuối cùng”, giai cấp tư
sản muốn khẳng định chế độ bóc lột này là vĩnh viễn, không thể thay đổi.
Tóm lại, luận điểm “CNTB là hình thái kinh tế – xã hội cuối cùng” không phải một kết
luận khoa học, mà là một quan điểm bảo thủ, duy tâm, được hình thành trong bối cảnh
XHCN thoái trào, nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích và sự thống trị của giai cấp tư sản.
Phản biện: “Chủ nghĩa tư bản là hình thái kinh tế xã hội cuối cùng”
(a) Phản biện bằng lý luận
Theo quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, sự phát triển xã hội loài
người luôn diễn ra trong quá trình vận động, kế thừa và thay thế lẫn nhau giữa các hình
thái kinh tế – xã hội, từ thấp đến cao. Quy luật cơ bản chi phối tiến trình đó là mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển vượt khỏi
khuôn khổ quan hệ sản xuất hiện có, tất yếu quan hệ sản xuất cũ sẽ bị phá vỡ, mở đường
cho một hình thái kinh tế – xã hội mới ra đời. Như vậy, không có bất kỳ hình thái nào là
vĩnh viễn, kể cả CNTB. Việc cho rằng CNTB là “đích cuối cùng” chẳng khác nào phủ
nhận quy luật khách quan này, biến lịch sử thành một dòng chảy ngừng trệ – điều vốn
không thể xảy ra.
lOMoARcPSD| 45740413
Hơn nữa, CNTB vốn chứa đựng những mâu thuẫn nội tại không thể tự khắc phục. Thứ
nhất, mâu thuẫn cơ bản giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của sản xuất và chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, khiến của cải do tập thể lao động tạo ra lại tập
trung vào tay thiểu số nhà tư bản. Thứ hai, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê
thể hiện ở tình trạng bóc lột giá trị thặng dư, tiền lương không tương xứng với đóng góp,
dẫn đến xung đột giai cấp ngày càng gay gắt. Thứ ba, mâu thuẫn giữa xu hướng tăng
trưởng vô hạn của CNTB và tính hữu hạn của tài nguyên thiên nhiên, của môi trường
sinh thái, tạo ra khủng hoảng môi trường toàn cầu. Ngoài ra, CNTB cũng mâu thuẫn
trong chính cấu trúc chính trị của nó: tính toàn cầu hóa của sản xuất vượt xa khỏi giới hạn
dân tộc – quốc gia, trong khi quyền lực chính trị vẫn bị chia cắt theo lãnh thổ, dẫn đến bất
ổn và xung đột quốc tế.
Những mâu thuẫn này không thể được triệt tiêu chỉ bằng những cải cách hay “làm mới”
bề ngoài. Việc hình thành các mô hình “chủ nghĩa tư bản phúc lợi”, “chủ nghĩa tư bản
xanh” hay “chủ nghĩa tư bản điều tiết” ở nhiều nước phát triển cho thấy CNTB chỉ có thể
kéo dài sự tồn tại bằng các điều chỉnh tạm thời, chứ không phải một hệ thống hoàn chỉnh
và vĩnh cửu. Điều đó càng khẳng định tính tất yếu lịch sử của sự thay thế CNTB bằng
một hình thái kinh tế – xã hội tiến bộ hơn, đó là CNXH.
Ngoài những mâu thuẫn cơ bản vốn có, trong giai đoạn hiện nay CNTB còn bộc lộ nhiều
mâu thuẫn toàn cầu mới, thể hiện tính khủng hoảng sâu sắc và không thể khắc phục trong
khuôn khổ của chế độ tư bản, cụ thể là
Khủng hoảng môi trường: Chủ nghĩa tư bản chạy theo lợi nhuận tối đa, khai thác
cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, thải ra lượng lớn khí nhà kính, dẫn đến biến đổi
khí hậu, nước biển dâng, thiên tai khốc liệt.
Khủng hoảng năng lượng và lương thực: Cạnh tranh tài nguyên, xung đột địa
chính trị và các cuộc chiến tranh thương mại, tranh chấp năng lượng, gây mất ổn
định đời sống hàng tỷ người.
Khủng hoảng đạo đức – xã hội: Tư tưởng vị kỷ, đề cao lợi ích cá nhân, thương
mại hóa mọi lĩnh vực đời sống làm suy thoái các giá trị nhân văn, gia tăng tội
phạm, bạo lực, phân hóa giàu nghèo cực đoan.
Những biểu hiện này cho thấy CNTB không chỉ mang trong nó mâu thuẫn kinh tế
– giai cấp truyền thống, mà còn tạo ra những khủng hoảng toàn cầu đe dọa sự phát
triển bền vững của nhân loại. Điều đó càng khẳng định CNTB không thể là “hình
thái cuối cùng”, mà tất yếu phải được thay thế bởi một hình thái tiến bộ hơn – ch
nghĩa xã hội.
lOMoARcPSD| 45740413
(b) Phản biện bằng thực tiễn
Thực tiễn lịch sử hiện đại đã và đang chứng minh CNTB không thể là hình thái cuối cùng
của xã hội loài người.
Thứ nhất, các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ phơi bày sự bất ổn nội tại của
CNTB. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008–2009, bắt nguồn từ bong bóng
bất động sản và sự đầu cơ tài chính ở Mỹ, đã khiến hàng triệu người mất việc, hàng loạt
doanh nghiệp phá sản, và ngân sách nhà nước phải chi hàng nghìn tỷ USD để giải cứu
các tập đoàn tài chính. Hay như khủng hoảng trong đại dịch COVID-19 (2020–2021) đã
bộc lộ sự mong manh của CNTB: chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy, hàng triệu lao động ở
châu Âu và Mỹ mất việc làm hoặc bị cắt giảm phúc lợi, trong khi các tập đoàn công nghệ
lớn như Amazon, Google, Microsoft lại ghi nhận lợi nhuận kỷ lục. Đây là minh chứng rõ
rệt cho mâu thuẫn giữa lợi ích của số ít nhà tư bản và quyền sống còn của đại bộ phận lao
động.
Thứ hai, tình trạng bất bình đẳng xã hội dưới CNTB ngày càng trầm trọng. Theo
báo cáo Oxfam (2023), 1% người giàu nhất thế giới nắm giữ hơn 45% tổng tài sản toàn
cầu, trong khi gần một nửa dân số thế giới sống với chưa đến 6,85 USD/ngày. Ở Mỹ,
chênh lệch thu nhập giữa CEO và công nhân trung bình đã lên tới tỷ lệ hơn 300:1. Chính
sự bất công này đã làm bùng nổ các phong trào phản kháng xã hội như “Occupy Wall
Street” (Mỹ, 2011) hay phong trào “Áo vàng” (Pháp, 2018–2019). Nếu CNTB là hình
thái xã hội “cuối cùng” và “tốt đẹp nhất”, vì sao vẫn tồn tại những mâu thuẫn giai cấp sâu
sắc đến mức dẫn tới bất ổn chính trị – xã hội kéo dài?
Thứ ba, khủng hoảng môi trường và năng lượng là thách thức mang tính toàn cầu.
Biến đổi khí hậu, hiện tượng thời tiết cực đoan, khan hiếm năng lượng và ô nhiễm môi
trường đều bắt nguồn từ mô hình phát triển chạy theo lợi nhuận tối đa của CNTB. Nhiều
tập đoàn dầu khí và công nghiệp nặng lớn ở phương Tây tiếp tục chi phối thị trường, kìm
hãm quá trình chuyển đổi sang năng lượng xanh vì lợi ích riêng. Dù các chính phủ tư bản
công bố hàng loạt cam kết giảm phát thải, nhưng lợi nhuận ngắn hạn vẫn được đặt lên
trên sự phát triển bền vững của nhân loại. Điều này càng chứng minh CNTB không thể tự
giải quyết tận gốc những vấn đề toàn cầu mà chính nó gây ra.
Thứ tư, sự tồn tại và phát triển của các mô hình XHCN hiện đại đã bác bỏ luận
điểm “CNTB là cuối cùng”. Trung Quốc trong 40 năm cải cách mở cửa đã đưa hơn 800
triệu người thoát nghèo, năm 2024 GDP vẫn tăng 4,8% bất chấp khó khăn toàn cầu. Việt
Nam năm 2024 đạt mức tăng trưởng 5,6%, tỷ lệ nghèo đa chiều giảm xuống 2,93%, được
Liên Hợp Quốc đánh giá là một trong những quốc gia đi đầu về phát triển bao trùm. Cuba
duy trì hệ thống y tế – giáo dục miễn phí, tuổi thọ trung bình đạt 79,4, cao hơn nhiều
quốc gia tư bản phát triển. Những thành tựu này không chỉ khẳng định sức sống của
lOMoARcPSD| 45740413
CNXH trong bối cảnh mới, mà còn chứng minh sự đa dạng của các con đường
Luận điểm coi CNTB là hình thái cuối cùng mang tính tự huyễn hoặc, phản ánh lợi ích
giai cấp tư sản hơn là thực tiễn khách quan. Nếu CNTB là "tối ưu cuối cùng", tại sao nó
vẫn sản sinh bất bình đẳng, khủng hoảng và mâu thuẫn xã hội? Chính sự tồn tại song
song và thành công của nhiều mô hình CNXH hiện nay đã là câu trả lời bác bỏ quan
điểm này. Do đó, thay vì nhìn CNTB như "đỉnh cao bất biến", cần thấy rõ rằng nó chỉ là
một chặng trên tiến trình phát triển, chắc chắn sẽ bị thay thế bởi hình thái cao hơn
CNXH. phát triển xã hội, vượt ra ngoài quỹ đạo của CNTB.
3. Đánh giá và phê phán tổng hợp
3.1. Đánh giá tổng hợp 2 luận điểm
Thứ nhất, luận điểm “CNXH là ảo tưởng” có tính xuyên tạc khi phủ nhận cơ sở khoa học
của học thuyết Mác Lênin. Nó chỉ chăm chăm nhìn vào sự sụp đổ của Liên Xô và Đông
Âu để quy chụp rằng CNXH thất bại về bản chất. Đây là lập luận sai lầm vì:
Nó đánh đồng một mô hình cụ thể với toàn bộ bản chất CNXH. Trong khi CNXH
không phải là một “công thức cứng nhắc” mà là một hệ thống tư tưởng – thực tiễn
đa dạng, có khả năng thích ứng với bối cảnh lịch sử, văn hóa, kinh tế khác nhau.
Nó cố tình bỏ qua thực tiễn thành công của nhiều mô hình CNXH hiện đại, đặc
biệt ở Việt Nam, Trung Quốc, Cuba.
Thứ hai, luận điểm “CNTB là hình thái cuối cùng” cũng sai lầm cả về lý luận và thực
tiễn. Nó xuyên tạc khi che giấu mâu thuẫn cơ bản của CNTB (lao động – tư bản, xã hội
hóa sản xuất – chiếm hữu tư nhân), phiến diện khi tuyệt đối hóa thành tựu của CNTB mà
phớt lờ những khủng hoảng chu kỳ, bất bình đẳng xã hội và khủng hoảng môi trường.
Thực chất, đây là cách hợp thức hóa sự thống trị của giai cấp tư sản bằng việc tuyên
truyền rằng “không có lựa chọn nào khác”.
Hai luận điểm này có sức ảnh hưởng vì được rao giảng rộng rãi trên truyền thông tư sản,
đôi khi lại đánh trúng vào tâm lý hoài nghi của một bộ phận quần chúng trước khó khăn
trong xây dựng CNXH. Tuy nhiên, nếu tiếp cận bằng tư duy khoa học, biện chứng thì sẽ
lOMoARcPSD| 45740413
thấy: cả hai đều mang tính cắt xén, phiến diện, xuất phát từ động cơ chính trị nhiều hơn là
từ phân tích khách quan. Đây là những quan điểm cần kiên quyết bác bỏ, đồng thời biến
quá trình phê phán thành cơ hội củng cố niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa.
3.2. Khẳng định triển vọng của Chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh hiện nay
Cơ sở lý luận và niềm tin khoa học:
Theo PGS.TS. Lưu Ngọc Khải (Tạp chí Cộng sản, 2018), lựa chọn đi lên CNXH của Việt
Nam không phải ngẫu nhiên hay chủ quan, mà là sự lựa chọn khoa học, dựa trên cả cơ sở
lý luận Mác – Lênin và thực tiễn lịch sử dân tộc. Niềm tin vào triển vọng CNXH không
chỉ đến từ lý tưởng mà còn từ những kết quả cụ thể trong hơn 35 năm Đổi mới.
Thành tựu thực tiễn tại Việt Nam năm 2024:
Kinh tế: GDP tăng trưởng 5,6%, thuộc nhóm cao trong khu vực
Xã hội: Tỷ lệ nghèo đa chiều giảm xuống 2,93%
Con người: HDI 0,726, tuổi thọ trên 73,7 tuổi
Y tế: Bảo hiểm y tế bao phủ vượt 93% dân số
So sánh với các quốc gia CNXH khác:
Trung Quốc: Tăng trưởng GDP 4,8% (2024), đưa 800 triệu người thoát nghèo trong 40
năm, HDI đạt 0,797.
Cuba: Duy trì hệ thống y tế miễn phí được WHO công nhận, tuổi thọ 79,4 năm, cao hơn
mức trung bình toàn cầu.
Những thách thức đặt ra:
Thách thức khách quan:
Biến đổi khí hậu: Việt Nam thiệt hại khoảng 3,2% GDP mỗi năm do các tác động của biến
đổi khí hậu (World Bank, 2022)
lOMoARcPSD| 45740413
Cạnh tranh quốc tế: Áp lực từ các nước có chi phí lao động thấp hơn và các nền kinh tế có
lợi thế công nghệ vượt trội
Thách thức nội tại:
Năng suất lao động: 229 triệu đồng/người/năm, thấp hơn Malaysia, Thái Lan
Tham nhũng và thể chế: CPI 40/100, xếp thứ 88/180 (Transparency International, 2024)
Phát triển không đều: Chênh lệch đô thị-nông thôn, chất lượng nguồn nhân lực chưa đồng
đều
Triển vọng lâu dài và khẳng định con đường chủ nghĩa xã hội:
Bất chấp khó khăn, triển vọng đi lên CNXH của Việt Nam vẫn sáng rõ. Mục tiêu Đại hội
XIII đặt ra là đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp
hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội, giữa hội nhập quốc tế và
giữ vững độc lập dân tộc, giữa phát triển thị trường và quản lý theo định hướng xã hội
chủ nghĩa chính là con đường độc đáo mà Việt Nam đang đi. Đây là sự cụ thể hóa tư
tưởng "phát triển vì con người, lấy con người làm trung tâm" – đặc trưng bản chất của
chủ nghĩa xã hội.
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
3.1.Kết luận
Từ những phân tích ở các phần trước, có thể khẳng định rõ ràng luận điểm cho rằng
“chủ nghĩa xã hội chỉ ảo tưởng, không thể trở thành hiện thực” một quan điểm sai trái,
phiến diện không phợp với quy luật phát triển của lịch sử. Thực tiễn trong suốt quá
trình đổi mới và phát triển của Việt Nam đã chứng minh con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
vừa phù hợp với khát vọng dân tộc, vừa tính khả thi khi gắn kết chặt chẽ với tiến trình
hội nhập quốc tế và đổi mới sáng tạo.
Những luận điệu cho rằng “chủ nghĩa tư bản là hình thái kinh tế - hội cuối cùng
của lịch sử” cũng đã bộc lộ hạn chế. Bản thân chủ nghĩa tư bản, dù có những điều chỉnh để
thích ứng, vẫn tồn tại mâu thuẫn giai cấp, bất công hội, khủng hoảng môi trường

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45740413
ĐỀ TÀI 5: Nhận diện và phê phán luận điểm sai trái về chủ nghĩa xã hội cho rằng:
Chủ nghĩa xã hội là ảo tưởng, không thể trở thành hiện thực; chủ nghĩa tư bản mới
là hình thái kinh tế - xã hội cuối cùng trong lịch sử. Lời mở đầu
Trong bối cảnh thế giới đương đại với sự phát triển vượt bậc của khoa học – công nghệ,
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các quan điểm, luận điệu sai trái về con đường
phát triển của nhân loại ngày càng xuất hiện với nhiều hình thức tinh vi, đa dạng. Một
trong những luận điểm tiêu biểu, thường xuyên được các thế lực thù địch và phản động
sử dụng nhằm phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta là: “Chủ nghĩa xã hội (CNXH) chỉ
là ảo tưởng, không thể trở thành hiện thực; chủ nghĩa tư bản (CNTB) mới là hình thái
kinh tế – xã hội cuối cùng trong lịch sử nhân loại.”
Luận điểm này mang tính chất xuyên tạc, phản khoa học và phủ nhận quy luật lịch sử - tự
nhiên về sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội. Nó cố tình bỏ qua sự
thật rằng, lịch sử phát triển xã hội loài người là lịch sử thay thế kế tiếp nhau của các hình
thái kinh tế – xã hội từ thấp đến cao, dựa trên quy luật khách quan của lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Việc khẳng định CNTB là đích đến cuối cùng của lịch sử là đi ngược
lại bản chất tiến hóa của xã hội loài người, đồng thời nhằm gieo rắc hoài nghi, lung lay
niềm tin của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, vào mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Đối với Việt Nam, trong bối cảnh đất nước đang kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc nhận
diện, phê phán và phản bác những luận điệu sai trái này càng có ý nghĩa cấp thiết. Nó
không chỉ giúp mỗi cán bộ, đảng viên và sinh viên hiểu rõ hơn bản chất khoa học, cách
mạng của CNXH, mà còn củng cố niềm tin vào con đường đi lên CNXH mà Đảng và
nhân dân ta đã lựa chọn.
Với tinh thần học tập, nghiên cứu và trách nhiệm của sinh viên Trường Đại học Thương
Mại, Nhóm 5 chúng em quyết định thực hiện bài thảo luận với đề tài: “Nhận diện và phê
phán luận điểm sai trái cho rằng CNXH là ảo tưởng, không thể trở thành hiện thực;
CNTB mới là hình thái kinh tế – xã hội cuối cùng trong lịch sử”. Bài thảo luận sẽ tập
trung làm rõ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự vận động, phát triển của các
hình thái kinh tế – xã hội; chỉ ra tính phiến diện, phi khoa học của luận điểm sai trái nêu
trên; đồng thời khẳng định tính tất yếu, tính thời đại và sức sống của CNXH, đặc biệt qua
thực tiễn công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. lOMoAR cPSD| 45740413
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
1.1. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội khoa học

Chủ nghĩa xã hội được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, đây là toàn bộ hệ thống lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, giải thích quá trình chuyển biến tất yếu từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản, được phân tích từ ba góc độ: triết
học, kinh tế chính trị và chính trị – xã hội. Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội chỉ là một
trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác – Lênin, cùng với triết học Mác – Lênin và
kinh tế chính trị Mác – Lênin.
1.2. Chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Một là, đó là phong
trào đấu tranh của nhân dân lao động nhằm chống lại sự áp bức, bóc lột, bất công xã hội
do các giai cấp thống trị gây ra. Hai là, nó là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh khát
vọng giải phóng con người lao động khỏi sự áp bức, hướng tới xã hội công bằng và nhân
văn hơn. Ba là, chủ nghĩa xã hội còn là một khoa học – chủ nghĩa xã hội khoa học,
nghiên cứu về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong công cuộc xây dựng xã hội
mới. Cuối cùng, nó là một chế độ xã hội mới, tiến bộ, được coi là giai đoạn đầu của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
1.3. Sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, C. Mác và Ph. Ăngghen, trên cơ sở nghiên
cứu sự phát triển lịch sử xã hội loài người, đặc biệt là xã hội tư bản, đã hình thành học
thuyết về hình thái kinh tế - xã hội. Họ chỉ ra rằng, việc thay thế hình thái kinh tế - xã hội
tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là tất yếu lịch sử, diễn
ra như một quy luật khách quan. Quá trình này được thực hiện thông qua cách mạng xã
hội chủ nghĩa, xuất phát từ hai tiền đề vật chất quan trọng: sự phát triển của lực lượng sản
xuất và sự trưởng thành của giai cấp công nhân.
1.4. Phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ
thấp đến cao qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp (chủ nghĩa xã hội) và giai đoạn cao (chủ
nghĩa cộng sản hoàn chỉnh). Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa
tồn tại một thời kỳ quá độ, trong đó diễn ra quá trình cải biến cách mạng nhằm xóa bỏ tàn
dư của xã hội cũ và thiết lập nền tảng của xã hội mới. Trong tác phẩm “Phê phán cương
lĩnh Gôta” (1875), C. Mác khẳng định: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản
chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia.” Tiếp thu và
phát triển luận điểm đó, V. I. Lênin cho rằng: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được
rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định.”
Đồng thời, từ thực tiễn cách mạng Nga, Lênin nhấn mạnh rằng với những nước chưa đạt lOMoAR cPSD| 45740413
trình độ phát triển tư bản cao, thời kỳ quá độ có thể kéo dài, nhằm tạo lập những điều
kiện kinh tế - xã hội cần thiết để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
2. Điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội
Bằng lý luận hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã đi sâu phân tích, tìm ra quy luật
vận động của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, từ đó cho phép ông dự báo khoa
học về sự ra đời và tương lai của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. C.Mác xuất
phát từ chỗ là chủ nghĩa cộng sản hình thành từ chủ nghĩa tư bản, phát triển lên từ chủ
nghĩa tư bản là kết quả tác động của một lực lượng xã hội do chủ nghĩa tư bản sinh ra - giai
cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác
- Lênin dựa trên cơ sở hai điều kiện sau đây:
2.1. Điều kiện kinh tế:
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn mới trong lịch sử phát triển mới của
nhân loại. Nhờ những bước tiến to lớn của lực lượng sản xuất, biểu hiện tập trung nhất là
sự ra đời của công nghiệp cơ khi ( Cách mạng công nghiệp lần thứ 2 ), chủ nghĩa tư bản đã
tạo ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Trong vòng chưa đầy một thế kỷ,
chủ nghĩa tư bản đã tạo ra được một lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng
sản xuất mà nhân loại tạo ra đến lúc đó.
Tuy nhiên, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất càng được cơ khi hóa,
hiện đại hóa càng mang tính xã hội hóa cao, thì càng mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất từ
chỗ đóng vai trò mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, thì ngày càng trở nên lỗi thời,
xiềng xích của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản
xuất với chế chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất trở thành mâu
thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai
cấp công nhân hiện đại với giai cấp tư sản lỗi thời.
2.2. Điều kiện chính trị – xã hội
Cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản xuất hiện ngay từ đầu và
ngày càng trở nên gay gắt và có tính chính trị rõ nét. Hơn nữa, cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của nền đại công nghiệp cơ khí là sự trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất
lượng của giai cấp công nhân, con đẻ của nền đại công nghiệp. Chính sự phát triển về lực
lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp công nhân là tiền đề kinh tế- xã hội dẫn tới
sự sụp đổ không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản. Diễn đạt tư tưởng đó, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng, giai cấp tư sản không chỉ tạo vũ khí để giết mình mà còn tạo ra
những người sử dụng vũ khí đó, những công nhân hiện đại, những người vô sản. Sự trưởng
thành vượt bậc và thực sự của giai cấp công nhân được đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng lOMoAR cPSD| 45740413
cộng sản, đội tiền phong của giai cấp công nhân, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chính
trị của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng thành thực sự của giai cấp công
nhân là tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, do khác về bản chất với tất cả các hình thái kinh tế - xã hội trước đó, nên hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa không tự nhiên ra đời, trải lại, nó chỉ được hình
thành thông qua cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng của giai cấp công nhân Đảng
Cộng sản, thực hiện bước quá độ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
3. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
Một là, chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người,
tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản dự báo về xã hội cộng sản chủ nghĩa, nơi con người
tự do phát triển, làm chủ bản thân và tự nhiên. Đây là bản chất nhân văn, nhân đạo của xã
hội cộng sản chủ nghĩa, khác biệt hoàn toàn so với các hình thái kinh tế - xã hội trước đây.
Để đạt được mục tiêu này, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng cần tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa triệt để, giải phóng giai cấp, xóa bỏ bóc lột, và giải phóng con người. V.I.
Lênin bổ sung rằng mục đích cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là thực hiện nguyên tắc "làm
theo năng lực, hưởng theo nhu cầu".
Mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ phân chia giai cấp, biến mọi người
thành người lao động, tiêu diệt bóc lột. Giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản phải hoàn thành nhiều nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ cụ thể của thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội: tạo điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật và đời sống tinh thần để
thiết lập xã hội cộng sản.
Hai là, chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ
Đây là đặc trưng thể hiện thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội, xã hội vì con
người và do con người; nhân dân mà nòng cốt là nhân dân lao động là chủ thể của xã hội
thực hiện quyền làm chủ ngày càng rộng rãi và đầy đủ trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
+ Tổ chức lao động có trình độ cao hơn.
+ Kỹ thuật lao động chặt chẽ và được tổ chức có kế hoạch.
+ Lao động trên tinh thần tự giác (kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể, xã hội). lOMoAR cPSD| 45740413
Ba là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu

Đây là đặc trưng về phương diện kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cao nhất
của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội phát triển,
mà xét đến cùng là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa xã hội là xã
hội có nền kinh tế phát triển cao, với lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất dựa trên
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, được tổ chức quản lý có hiệu quả, năng suất lao động
cao và phân phối chủ yếu theo lao động.
Cùng với việc từng bước xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, để nâng cao
năng suất lao động cần phải tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn, tổ chức chặt chẽ
và kỷ luật lao động nghiêm, nghĩa là phải tạo ra quan hệ sản xuất tiến bộ, thích ứng với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. V.I.Lênin cho rằng: “từ chủ nghĩa tư bản, nhân
loại chỉ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất và chế độ phân phối theo lao động của mỗi người”.
Bốn là, chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, đại
biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.

Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã khẳng định: Trong chủ nghĩa xã hội
phải thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước kiểu mới mang bản chất của giai
cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí nhân dân lao động. Theo V.I. Lênin,
đây là nhà nước chuyên chính vô sản, do giai cấp vô sản giành lấy và duy trì bằng bạo lực
đối với giai cấp tư sản.
Chức năng chính của nhà nước kiểu mới:
● Thực hiện dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân.
● Trấn áp bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân.
● Là công cụ, phương tiện và biểu hiện tập trung trình độ dân chủ của nhân dân lao động
● Lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
● Mở rộng chế độ dân chủ cho người nghèo, nhân dân.
● Hạn chế quyền tự do đối với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư bản.
Mục tiêu: Tổ chức đời sống xã hội vì con người và cho con người. lOMoAR cPSD| 45740413
Năm là, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kê thừa và phát huy những giá
trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại

Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, mục tiêu, động lực
của phát triển xã hội, trọng tâm là phát triển kinh tế; văn hóa đã hun đúc nên tâm hồn, khí
phách, bản lĩnh con người, biến con người thành con người chân, thiện mỹ. V.I. Lênin cho
rằng xây dựng "văn hóa vô sản" - nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa - là chìa khóa giải
quyết mọi vấn đề. Nền văn hóa này cần kế thừa giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa nhân
loại, đồng thời chống lại tư tưởng, văn hóa phi vô sản. Do vây, quá trình xây dựng nền văn
hóa xã hội chủ nghĩa phải biết kế thừa những giá trị văn hoá dân tộc và tinh hoa văn nhân
loại, đồng thời cần chống tư tưởng, văn hoá phi vô sản, trái với những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc và của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sáu là, chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan hệ
hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới

Trong chủ nghĩa xã hội, cộng đồng dân tộc, giai cấp bình đẳng, đoàn kết và hợp tác
trên cơ sở chính trị - pháp lý, đặc biệt là cơ sở kinh tế - xã hội và văn hóa sẽ từng bước xây
dựng củng cố và phát triển. Đây là sự khác biệt căn bản về việc giải quyết vấn đề dân tộc
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của chủ nghĩa dân tộc cực đoan,
hẹp hòi hoặc chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Chủ nghĩa xã hội, với bản chất tốt đẹp do con
người, vì con người luôn là bảo đảm cho các dân tộc bình đẳng, đoàn kết và hợp tác hữu
nghị; đồng thời có quan hệ với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH VÀ PHẢN BIỆN CÁC LUẬN ĐIỂM SAI LỆCH
1. Luận điểm 1: “Chủ nghĩa xã hội là ảo tưởng, không thể trở thành hiện thực”
1.1: Nhận diện luận điểm: - Luận điểm “Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là ảo tưởng, không thể
trở thành hiện thực” là luận điểm phổ biến trong các luận điệu chỉ trích CNXH sau sự kiện
Đông Âu - Liên Xô sụp đổ (cuối thập niên 1980 - đầu 1990). Tuy nhiên, mặc dù tuyên bố
này được trình bày như một khẳng định chung, nhưng về mặt bản chất nó là một luận đề
luận lý - kết luận triết học và chính trị - dựa trên một số tiền đề lịch sử, kinh tế, chẳng hạn
như sự thất bại của Liên Xô, sự bành trướng của kinh tế thị trường toàn cầu.
- Nguồn gốc của luận điểm: lOMoAR cPSD| 45740413
· Một là, sự tuyên truyền của giai cấp tư sản, tư tưởng chính trị đối lập: Sau Chiến tranh
Lạnh, nhiều tác giả, chính trị gia và truyền thông ở phương Tây đã quảng bá quan điểm
rằng sự sụp đổ của Liên Xô là bằng chứng lịch sử cho thấy mô hình CNXH “không hoạt
động”, từ đó khái quát hóa thành khẳng định rằng CNXH về bản chất là phi thực tiễn.
Những luận điểm này thường được trình bày với dạng luận lý: “Một ví dụ lớn thất bại, suy
ra toàn bộ lý thuyết thất bại.”
· Hai là, sự hủng hoảng, sai sót và thất bại ở Liên Xô: Sự tan rã của Liên Xô khiến nhiều
người hiểu sai rằng “CNXH = mô hình Liên Xô” và vì Liên Xô sụp đổ nên CNXH là không
thể. Thực tế lịch sử đã cho chúng ta thấy nguyên nhân tan rã của “người anh cả” khối các
nước xã hội chủ yếu đến từ rất nhiều khía cạnh như: Sự yếu kém trong quản trị kinh tế, bế
tắc thể chế, thất bại lộ trình cải cách, xung đột dân tộc, áp lực quốc tế… Tất cả những điều
đó đã chứng tỏ rằng, không phải là “tính tất yếu logic” của một hệ tư tưởng bị vạch trần.
Việc quy toàn bộ CNXH vào mẫu hình Liên Xô là một khái niệm sai lầm.
2.1.2. Phản biện bằng lý luận -
Cơ sở triết học - Lý thuyết duy vật lịch sử: Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, các hình
tháikinh tế - xã hội không xuất hiện tùy tiện từ ý chí chủ quan hay những giấc mơ không
tưởng, mà chúng được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Mỗi hình thái xã hội chỉ tồn tại khi quan hệ sản xuất còn phù hợp với tính chất, trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa hai yếu tố này trở nên gay gắt,
nó sẽ dẫn đến sự thay thế tất yếu bằng một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Trong bối
cảnh đó, CNXH theo nghĩa khoa học được C. Mác xem như một khả thể tất yếu khi mâu
thuẫn cơ bản của Chủ nghĩa tư bản (sản xuất mang tính xã hội hóa cao nhưng chiếm hữu
tư nhân tư liệu sản xuất) phát triển đến cực điểm. Nói cách khác, CNXH không phải là một
“giấc mơ” hay “ảo tưởng đạo đức”, mà là một giả thuyết khoa học về sự phát triển tất yếu
của xã hội loài người, dựa trên việc phân tích các quy luật vận động khách quan của kinh
tế và xã hội. Nói tóm lại, C. Mác và Ph. Ăngghen không tạo một thiên đường lý tưởng, mà
chỉ ra những quy luật nội tại dẫn tới sự biến đổi. Chính vì thế, CNXH khoa học khác biệt lOMoAR cPSD| 45740413
căn bản với chủ nghĩa xã hội không tưởng ở chỗ nó xuất phát từ thực tiễn hiện thực, chứ
không phải từ tưởng tượng chủ quan. -
CNXH là một truyền thống tư tưởng - thực tiễn đa dạng, không đồng nhất: Một sai
lầmphổ biến đó là cho rằng CNXH là “ảo tưởng”, đánh đồng toàn bộ học thuyết xã hội chủ
nghĩa với một vài mô hình đã thất bại trong lịch sử (điển hình là Liên Xô). Tuy nhiên, theo
các nghiên cứu hiện đại, “chủ nghĩa xã hội” không phải một học thuyết đơn nhất, mà là
một gia đình tư tưởng và thực tiễn đa dạng:
· Ở châu Âu, CNXH dân chủ trở thành nền tảng cho các nhà nước phúc lợi Bắc Âu, nơi kết
hợp kinh tế thị trường với phân phối công bằng, giáo dục và y tế miễn phí, bảo hiểm xã hội rộng khắp.
· Ở Đông Á, một số quốc gia thực hiện mô hình “xã hội chủ nghĩa định hướng thị trường”
(như Trung Quốc, Việt Nam), nơi kết hợp vai trò định hướng của Nhà nước với cơ chế thị
trường, nhằm dung hòa tăng trưởng kinh tế và mục tiêu công bằng xã hội.
· Trong lĩnh vực học thuật và các nhánh khác: CNXH cộng đồng, CNXH sinh thái, CNXH
dân tộc... phản ánh sự thích ứng đa dạng của tư tưởng này trước các điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế khác nhau.
Như vậy, việc kết luận “CNXH là ảo tưởng” dựa trên thất bại của một mô hình cụ thể là
phiến diện và thiếu cơ sở khoa học, bởi nó đã bỏ qua bản chất đa dạng, tính linh hoạt và
thực tiễn của truyền thống tư tưởng này.
- CNXH mang tính khoa học chứ không phải tưởng tượng: Một học thuyết sẽ được coi là khoa học khi nó:
· Có cơ sở lý luận khách quan: CNXH khoa học được hình thành trên nền tảng phương
pháp duy vật lịch sử, coi sự vận động và phát triển của xã hội là kết quả của những quy
luật khách quan. Nhờ vậy, nó trở nên khác biệt so với các quan niệm chỉ dựa vào niềm tin lOMoAR cPSD| 45740413
cảm tính hay trực giác chủ quan. Do đó, đây chính là điểm mấu chốt tạo nên “tính khoa học” của CNXH.
· Có khả năng kiểm chứng và phản biện: Những luận điểm cốt lõi của CNXH khoa học
như mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nguy cơ khủng hoảng kinh té
trong CNTB, hay xu hướng xã hội hóa ngày càng sâu rộng của sản xuất... Tất cả những
điều này đều có thể được phân tích, kiểm nghiệm trong thực tiễn lịch sử. Điều này cho thấy
CNXH không phải là một hệ thống lý thuyết khép kín, mà luôn mở ra khả năng được chứng
minh hoặc bác bỏ bằng thực tế. Do khả năng “kiểm chứng và phản biện” đã giúp nó trở
nên đặc biệt hơn so với những quan niệm duy ý chí hay ảo tưởng, vốn chỉ tồn tại trong phạm vi niềm tin.
· Có tính phát triển và thích ứng: CNXH không phải là một “công thức bất biến”, mà có
thể thay đổi tùy điều kiện từng quốc gia, từng giai đoạn. Đây là yếu tố giúp CNXH duy trì
sức sống lâu dài. Thêm vào đó, một học thuyết khoa học phải có khả năng thích ứng, nếu
không sẽ trở nên lỗi thời và xa rời thực tiễn. Nhờ vào tính mở và linh hoạt, CNXH có thể
vừa giữ được tính phổ quát về lý luận, vừa đáp ứng được đặc thù của mỗi dân tộc.
Do đó, khi gọi CNXH là “ảo tưởng”, các quan điểm phủ định đã ngộ nhận giữa học thuyết
khoa học và hình dung viễn tưởng, cũng như đồng nhất lý luận với một vài mô hình lịch sử cụ thể.
2.1.3. Phản biện bằng thực tiễn -
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh một cách mạnh mẽ rằng chủ nghĩa xã hội không
phảilà ảo tưởng, mà là một quá trình thực tiễn, năng động và có khả năng điều chỉnh, đã
và đang tạo ra những thành tựu cụ thể, có thể đo lường được, trong việc cải thiện đời sống
con người và xây dựng một xã hội công bằng, văn minh hơn. -
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng cho cách tiếp cận này, Người
chorằng CNXH không phải là một học thuyết trừu tượng mà là một mục tiêu rất cụ thể đó
“Làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm lOMoAR cPSD| 45740413
đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ. Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất
ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”.
a. Phản biện dựa trên bài học lịch sử: Sự sụp đổ của Liên Xô và sự thất bại trong việc
thực thi, không phải của lý tưởng -
Những người phản đối CNXH thường lấy sự tan rã của Liên bang Xô viết (Liên Xô)
vào năm 1991 làm bằng chứng mạnh mẽ nhất để kết luận rằng CNXH là một mô hình
không thể tồn tại. Tuy nhiên, nếu phân tích một cách sâu sắc hơn, ta có thể thấy rằng sự
sụp đổ của Liên Xô là kết quả của những sai lầm chính trị và kinh tế cụ thể, có thể khắc
phục được, chứ không phải là sự chứng minh cho tính ảo tưởng của CNXH. -
Trên thực tế, Liên Xô từng là một siêu cường với vị thế không thể phủ nhận trên
bản đồchính trị thế giới. Vào năm 1990, Liên Xô vẫn là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới,
chỉ sau Hoa Kỳ, với GDP tính theo sức mua tương đương đạt 2.660 tỉ USD và thu nhập
bình quân đầu người là 9.500 USD, xếp thứ 28 trên toàn cầu và thuộc nhóm các quốc gia
phát triển. Hơn thế nữa, từ một quốc gia nông nghiệp lạc hậu, Cách mạng Tháng Mười
Nga đã đưa Liên Xô trở thành một cường quốc công nghiệp, là chỗ dựa vững chắc cho các
lực lượng đấu tranh giải phóng dân tộc, trong đó có Việt Nam. Ngoài ra, khả năng lãnh đạo
của Đảng Cộng sản và sức mạnh của Hồng quân Liên Xô trong việc đánh bại chủ nghĩa
phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã chứng minh rằng đây là một "thành trì" vững
chắc bảo vệ nền hòa bình thế giới. Về mặt xã hội, CNXH ở Liên Xô đã xóa bỏ nạn bóc lột
giai cấp, giải phóng hàng trăm triệu người khỏi cảnh nô lệ, giải quyết căn bản nạn thất
nghiệp và mù chữ, đồng thời thực hiện các chính sách chăm sóc y tế và trợ cấp xã hội.
Những thành tựu này cho thấy mô hình CNXH của Liên Xô, trong một giai đoạn lịch sử
nhất định, không phải là ảo tưởng mà là một thực tiễn hùng mạnh và hiệu quả. -
Sự sụp đổ của Liên Xô do đó không bắt nguồn từ việc lý tưởng CNXH là không
thểthực hiện, mà từ những sai lầm nghiêm trọng trong quá trình thực thi. Các nguyên nhân
chính được các nhà nghiên cứu xác định bao gồm: lOMoAR cPSD| 45740413
· Mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp: Mô hình này đã bộc lộ những hạn chế
nghiêm trọng, dẫn đến tình trạng yếu kém về kinh tế, lạc hậu về công nghệ, thiếu hụt hàng
hóa tiêu dùng, lãng phí và trì trệ. Cơ chế quản lý này không thể thích ứng với những thay
đổi của bối cảnh kinh tế thế giới.
· Sai lầm về đường lối chính trị và cán bộ: Các học giả và nhà phân tích đã chỉ ra rằng sai
lầm trong công tác cán bộ, đặc biệt là việc lựa chọn người đứng đầu, đã khiến Đảng và đất
nước phải trả giá đắt. Quá trình cải tổ Perestroika của M.S. Gorbachev, thay vì khắc phục
các điểm yếu, lại dẫn đến sự hỗn loạn và mâu thuẫn không thể điều hòa trong đời sống xã hội.
· Việc từ bỏ nền tảng tư tưởng: Sự tan rã của hệ thống CNXH ở Liên Xô về bản chất là do
việc từ bỏ nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin trong một thời gian dài. Khi quyền lực
của đồng tiền chi phối đời sống chính trị, quyền lực của nhân dân sẽ bị lu mờ, và dân chủ
trở thành hình thức, không còn thực chất.
ð Như vậy, bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô cho thấy đó là hậu quả của những sai lầm có
tính chủ quan, duy ý chí và thiếu linh hoạt, chứ không phải là sự chứng minh cho tính "ảo
tưởng" của CNXH. Ngược lại, những bài học này đã cung cấp kinh nghiệm quý báu cho
các quốc gia khác trong việc tìm kiếm một con đường phát triển CNXH mới, phù hợp hơn
với thực tiễn lịch sử và xu thế thời đại.
b. Phản biện dựa trên mô hình Việt Nam: Con đường phát triển thực tiễn, kiên định
mục tiêu -
Việt Nam là một minh chứng sống động cho thấy CNXH không phải là một ý tưởng
cốđịnh hay một mô hình duy nhất, mà là một con đường phát triển linh hoạt, có thể điều
chỉnh để đạt được mục tiêu cơ bản là vì con người. Thêm vào đó, khi đối mặt với những
khủng hoảng của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khởi xướng công cuộc “đổi mới” vào năm 1986, đưa ra lý luận về “kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. lOMoAR cPSD| 45740413 -
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình kinh tế
sángtạo, kết hợp những ưu điểm của kinh tế thị trường với bản chất ưu việt của CNXH.
Mô hình này không “bỏ qua” những thành tựu văn minh đã đạt được trong thời kỳ tư bản
chủ nghĩa, mà kế thừa và sử dụng chúng một cách có chọn lọc. Các đặc điểm nổi bật bao gồm:
· Đa dạng thành phần kinh tế: Mô hình này khuyến khích sự phát triển của nền kinh tế
nhiều thành phần và hình thức sở hữu khác nhau, cùng cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh
trước pháp luật. Sau đổi mới và phát triển, hiện nay, Việt Nam có bốn thành phần kinh tế đó là: + Kinh tế Nhà nước
Ví dụ: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN)... + Kinh tế tập thể
Ví dụ: Hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã vận tải, hợp tác xã thủ công mỹ nghệ.... + Kinh tế tư nhân
Ví dụ: Tập đoàn Vingroup, Công ty Cổ phần Tập đoàn Mặt Trời (Sun Group)...
+ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Ví dụ: Samsung Electronics Việt Nam, Intel Products Vietnam, Lotte Mart, Aeon Mall...
· Vai trò điều tiết của Nhà nước: Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, sử dụng pháp luật, quy
hoạch, kế hoạch và các công cụ khác để quản lý nền kinh tế, khắc phục những khuyết tật
của thị trường như kiềm chế lạm phát, tăng trưởng nóng... và đảm bảo sự phát triển đúng định hướng CNXH.
· Gắn kết tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội: Mục tiêu của mô hình này là xây dựng
một xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Việc phân phối thu nhập lOMoAR cPSD| 45740413
không chỉ dựa trên lao động và vốn đóng góp, mà còn thông qua các quỹ phúc lợi và an
sinh xã hội để đảm bảo tiến bộ và công bằng trong từng bước phát triển.
- Sau khi áp dụng mô hình này, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về con
người và xã hội. Điều này được minh chứng bằng những con số ấn tượng qua báo cáo hàng
năm. Không những vậy, qua đó, nó cũng trực tiếp bác bỏ luận điểm về tính ảo tưởng của CNXH.
· Giảm nghèo ngoạn mục: Việc xóa đói, giảm nghèo tại Việt Nam được cộng đồng quốc tế
đánh giá cao. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, chính phủ cách mạng tiếp quản ngân
khố quốc gia nhưng ngân khố khi ấy chỉ còn lại hơn 1.250.000 đồng Đông Dương, trong
đó phần lớn là tiền rách nát, không thể sử dụng. Đất nước rơi vào khủng hoảng, hơn 2 triệu
đồng bào chết đói. Thế nhưng, từ một quốc gia nghèo, Việt Nam đã mạnh mẽ vương lên.
Đến năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm xuống dưới 1,9%, tỷ lệ hộ nghèo ở vùng dân
tộc thiểu số còn khoảng 13,5% và các huyện nghèo ghi nhận ở mức giảm đáng kể. Bước
sang năm 2025, chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo đã gần hoàn thành,
về đích sớm hơn 5 năm so với mục tiêu ban đầu.
· Chỉ số phát triển của con người (HDI) tăng trưởng bền vững: Từ năm 1990 đến 2023, chỉ
số HDI của Việt Nam đã tăng ấn tượng từ 0,499 lên 0,766, tăng khoảng 53,5%, thuộc nhóm
cao nhất khu vực Đông Á và Thái Bình Dương. Năm 2023, chỉ số HDI của Việt Nam đứng
thứ 93 trên tổng số 193 quốc gia, nằm trong nhóm các nước có “Phát triển con người cao”.
Dù năm 2024 – 2025, HDI toàn cầu được ghi nhận có sự chững lại nhưng Việt Nam vẫn
duy trì và cải thiện mạnh mẽ, tiếp tục nằm trong nhóm các nước có HDI cao nhất khu vực
ASEAN. Thành tựu này phản ánh sự đầu tư của Việt Nam vào y tế, giáo dục và các lĩnh
vực trọng điểm khác. Đồng thời, điều này cũng khẳng định cam kết phát triển con người
là một trong những trọng tâm phát triển của quốc gia.
· Mở rộng chính sách an sinh xã hội: Trong những năm qua, Việt Nam đã không ngừng
hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội, bao gồm bảo hiểm xã hội, giải quyết việc
làm, và chính sách dành cho người có công. Đặc biệt là tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng lOMoAR cPSD| 45740413
mạnh từ 31% năm 2000 lên 93% năm 2023, giúp đại đa số người dân được tiếp cận dịch
vụ chăm sóc sức khỏe một cách công bằng và kịp thời. Bước sang giai đoạn năm 2024 –
2025, các chính sách an sinh tiếp tục được thực hiện đầy đủ, hiệu quả và kịp thời. Thêm
vào đó, kể từ tháng 9 năm 2025, học sinh từ mầm non đến hết trung học phổ thông công
lập trên toàn quốc đã được miễn học phí. Tiếp đó đến năm 2030, người dân Việt Nam sẽ
được miễn viện phí ở mức cơ bản trong phạm vi quyền lợi của bảo hiểm y tế.
Mô hình Việt Nam cho thấy một cách tiếp cận thực dụng để xây dựng CNXH: thay vì bác
bỏ thị trường, nhà nước sử dụng nó như một công cụ để phát triển lực lượng sản xuất, đồng
thời duy trì sự kiểm soát và điều tiết để đảm bảo các mục tiêu xã hội. Tuy nhiên, việc thực
hiện cũng đối mặt với thách thức, như bất bình đẳng thu nhập có xu hướng gia tăng và sự
chênh lệch về HDI giữa các vùng miền. Những vấn đề này cho thấy con đường xây dựng
CNXH là một quá trình liên tục và phức tạp, đòi hỏi sự điều chỉnh không ngừng.
Như vậy, Luận điểm "CNXH là ảo tưởng" là một cách nhìn cực đoan, chỉ bám vào sự sụp
đổ của Liên Xô mà bỏ qua toàn bộ thành tựu CNXH ở những nước khác. Đây không phải
cách tiếp cận khoa học, mà là cách tiếp cận mang định kiến chính trị. Quan trọng hơn,
chính CNTB cũng từng bị coi là "ảo tưởng" khi mới ra đời trong lòng chế độ phong kiến,
nhưng rồi vẫn khẳng định vị thế lịch sử của mình. Như vậy, việc phủ nhận CNXH chỉ vì
thất bại tạm thời là thiếu cơ sở và phản biện này giúp khẳng định: CNXH là xu thế phát
triển hiện thực, dù con đường đi đến đó không dễ dàng và đòi hỏi sáng tạo.
2. Luận điểm 2: “Chủ nghĩa tư bản là hình thái kinh tế – xã hội cuối cùng” 2.1. Nhận diện
Luận điểm cho rằng chủ nghĩa tư bản (CNTB) là “hình thái kinh tế – xã hội cuối cùng”
xuất hiện sau khi Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu sụp đổ cuối thập niên 1980 –
đầu thập niên 1990. Trong bối cảnh đó, nhiều học giả tư sản cho rằng sự tan rã của
XHCN chứng minh CNTB đã vượt qua mọi đối thủ, trở thành hình thái phát triển tối
thượng. Tiêu biểu là Francis Fukuyama trong tác phẩm The End of History and the Last
Man
(1992), khẳng định lịch sử nhân loại đã khép lại ở chế độ dân chủ tự do và kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa. Đây chính là cơ sở tư tưởng trực tiếp của luận điểm. lOMoAR cPSD| 45740413
Tuy nhiên, xét dưới góc độ khoa học lịch sử – xã hội, luận điểm này mang đậm tính bảo
thủ, duy tâm, phục vụ mục đích củng cố quyền lực và lợi ích của giai cấp tư sản.
Thứ nhất, tính chất bảo thủ và phủ nhận quy luật phát triển khách quan của lịch sử. Theo
quan điểm duy vật lịch sử của Mác – Lênin, sự vận động của xã hội loài người tuân theo
quy luật khách quan: lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định sẽ mâu
thuẫn với quan hệ sản xuất cũ, buộc xã hội phải chuyển sang hình thái kinh tế – xã hội
mới. Nhìn lại, nhân loại đã trải qua nhiều hình thái: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô
lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa… Do đó, CNTB chỉ là một giai đoạn lịch sử, không thể
là điểm kết thúc. Luận điểm cho rằng CNTB là “cuối cùng” thực chất là phủ nhận tính
biện chứng của sự phát triển xã hội, biến lịch sử thành một dòng chảy dừng lại, cố định –
điều trái ngược hoàn toàn với nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Thứ hai, nhằm bảo vệ và duy trì lợi ích của giai cấp tư sản.
Bằng cách khẳng định CNTB là đích đến cuối cùng, giai cấp tư sản có thể hợp thức hóa
sự thống trị của mình và biện minh cho bất bình đẳng xã hội. Khi công nhân bị bóc lột
giá trị thặng dư, khi khoảng cách giàu – nghèo ngày càng gia tăng, thì luận điểm này
được dùng như một “lời trấn an” rằng đó là “tất yếu” và không có lựa chọn nào tốt hơn.
Nó làm tê liệt tinh thần phản kháng, làm suy yếu các phong trào xã hội tiến bộ, từ đó duy
trì quyền lực chính trị và kinh tế của giai cấp thống trị.
Thứ ba, che giấu bản chất bóc lột của CNTB.
Luận điểm này thường gắn với việc đề cao những thành tựu khoa học – công nghệ và
tăng trưởng kinh tế mà CNTB đạt được. Tuy nhiên, nó cố tình bỏ qua sự thật rằng những
thành tựu ấy được xây dựng trên nền tảng bóc lột lao động thặng dư, trên sự bất bình
đẳng và mâu thuẫn xã hội. Bằng việc tuyên bố CNTB là “hình thái cuối cùng”, giai cấp tư
sản muốn khẳng định chế độ bóc lột này là vĩnh viễn, không thể thay đổi.
Tóm lại, luận điểm “CNTB là hình thái kinh tế – xã hội cuối cùng” không phải một kết
luận khoa học, mà là một quan điểm bảo thủ, duy tâm, được hình thành trong bối cảnh
XHCN thoái trào, nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích và sự thống trị của giai cấp tư sản.
Phản biện: “Chủ nghĩa tư bản là hình thái kinh tế – xã hội cuối cùng”
(a) Phản biện bằng lý luận
Theo quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, sự phát triển xã hội loài
người luôn diễn ra trong quá trình vận động, kế thừa và thay thế lẫn nhau giữa các hình
thái kinh tế – xã hội, từ thấp đến cao. Quy luật cơ bản chi phối tiến trình đó là mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển vượt khỏi
khuôn khổ quan hệ sản xuất hiện có, tất yếu quan hệ sản xuất cũ sẽ bị phá vỡ, mở đường
cho một hình thái kinh tế – xã hội mới ra đời. Như vậy, không có bất kỳ hình thái nào là
vĩnh viễn, kể cả CNTB. Việc cho rằng CNTB là “đích cuối cùng” chẳng khác nào phủ
nhận quy luật khách quan này, biến lịch sử thành một dòng chảy ngừng trệ – điều vốn không thể xảy ra. lOMoAR cPSD| 45740413
Hơn nữa, CNTB vốn chứa đựng những mâu thuẫn nội tại không thể tự khắc phục. Thứ
nhất, mâu thuẫn cơ bản giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của sản xuất và chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, khiến của cải do tập thể lao động tạo ra lại tập
trung vào tay thiểu số nhà tư bản. Thứ hai, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê
thể hiện ở tình trạng bóc lột giá trị thặng dư, tiền lương không tương xứng với đóng góp,
dẫn đến xung đột giai cấp ngày càng gay gắt. Thứ ba, mâu thuẫn giữa xu hướng tăng
trưởng vô hạn của CNTB và tính hữu hạn của tài nguyên thiên nhiên, của môi trường
sinh thái, tạo ra khủng hoảng môi trường toàn cầu. Ngoài ra, CNTB cũng mâu thuẫn
trong chính cấu trúc chính trị của nó: tính toàn cầu hóa của sản xuất vượt xa khỏi giới hạn
dân tộc – quốc gia, trong khi quyền lực chính trị vẫn bị chia cắt theo lãnh thổ, dẫn đến bất
ổn và xung đột quốc tế.
Những mâu thuẫn này không thể được triệt tiêu chỉ bằng những cải cách hay “làm mới”
bề ngoài. Việc hình thành các mô hình “chủ nghĩa tư bản phúc lợi”, “chủ nghĩa tư bản
xanh” hay “chủ nghĩa tư bản điều tiết” ở nhiều nước phát triển cho thấy CNTB chỉ có thể
kéo dài sự tồn tại bằng các điều chỉnh tạm thời, chứ không phải một hệ thống hoàn chỉnh
và vĩnh cửu. Điều đó càng khẳng định tính tất yếu lịch sử của sự thay thế CNTB bằng
một hình thái kinh tế – xã hội tiến bộ hơn, đó là CNXH.
Ngoài những mâu thuẫn cơ bản vốn có, trong giai đoạn hiện nay CNTB còn bộc lộ nhiều
mâu thuẫn toàn cầu mới, thể hiện tính khủng hoảng sâu sắc và không thể khắc phục trong
khuôn khổ của chế độ tư bản, cụ thể là
Khủng hoảng môi trường: Chủ nghĩa tư bản chạy theo lợi nhuận tối đa, khai thác
cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, thải ra lượng lớn khí nhà kính, dẫn đến biến đổi
khí hậu, nước biển dâng, thiên tai khốc liệt.
Khủng hoảng năng lượng và lương thực: Cạnh tranh tài nguyên, xung đột địa –
chính trị và các cuộc chiến tranh thương mại, tranh chấp năng lượng, gây mất ổn
định đời sống hàng tỷ người.
Khủng hoảng đạo đức – xã hội: Tư tưởng vị kỷ, đề cao lợi ích cá nhân, thương
mại hóa mọi lĩnh vực đời sống làm suy thoái các giá trị nhân văn, gia tăng tội
phạm, bạo lực, phân hóa giàu nghèo cực đoan.
Những biểu hiện này cho thấy CNTB không chỉ mang trong nó mâu thuẫn kinh tế
– giai cấp truyền thống, mà còn tạo ra những khủng hoảng toàn cầu đe dọa sự phát
triển bền vững của nhân loại. Điều đó càng khẳng định CNTB không thể là “hình
thái cuối cùng”, mà tất yếu phải được thay thế bởi một hình thái tiến bộ hơn – chủ nghĩa xã hội. lOMoAR cPSD| 45740413
(b) Phản biện bằng thực tiễn
Thực tiễn lịch sử hiện đại đã và đang chứng minh CNTB không thể là hình thái cuối cùng
của xã hội loài người.
Thứ nhất, các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ phơi bày sự bất ổn nội tại của
CNTB. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008–2009, bắt nguồn từ bong bóng
bất động sản và sự đầu cơ tài chính ở Mỹ, đã khiến hàng triệu người mất việc, hàng loạt
doanh nghiệp phá sản, và ngân sách nhà nước phải chi hàng nghìn tỷ USD để giải cứu
các tập đoàn tài chính. Hay như khủng hoảng trong đại dịch COVID-19 (2020–2021) đã
bộc lộ sự mong manh của CNTB: chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy, hàng triệu lao động ở
châu Âu và Mỹ mất việc làm hoặc bị cắt giảm phúc lợi, trong khi các tập đoàn công nghệ
lớn như Amazon, Google, Microsoft lại ghi nhận lợi nhuận kỷ lục. Đây là minh chứng rõ
rệt cho mâu thuẫn giữa lợi ích của số ít nhà tư bản và quyền sống còn của đại bộ phận lao động.
Thứ hai, tình trạng bất bình đẳng xã hội dưới CNTB ngày càng trầm trọng. Theo
báo cáo Oxfam (2023), 1% người giàu nhất thế giới nắm giữ hơn 45% tổng tài sản toàn
cầu, trong khi gần một nửa dân số thế giới sống với chưa đến 6,85 USD/ngày. Ở Mỹ,
chênh lệch thu nhập giữa CEO và công nhân trung bình đã lên tới tỷ lệ hơn 300:1. Chính
sự bất công này đã làm bùng nổ các phong trào phản kháng xã hội như “Occupy Wall
Street” (Mỹ, 2011) hay phong trào “Áo vàng” (Pháp, 2018–2019). Nếu CNTB là hình
thái xã hội “cuối cùng” và “tốt đẹp nhất”, vì sao vẫn tồn tại những mâu thuẫn giai cấp sâu
sắc đến mức dẫn tới bất ổn chính trị – xã hội kéo dài?
Thứ ba, khủng hoảng môi trường và năng lượng là thách thức mang tính toàn cầu.
Biến đổi khí hậu, hiện tượng thời tiết cực đoan, khan hiếm năng lượng và ô nhiễm môi
trường đều bắt nguồn từ mô hình phát triển chạy theo lợi nhuận tối đa của CNTB. Nhiều
tập đoàn dầu khí và công nghiệp nặng lớn ở phương Tây tiếp tục chi phối thị trường, kìm
hãm quá trình chuyển đổi sang năng lượng xanh vì lợi ích riêng. Dù các chính phủ tư bản
công bố hàng loạt cam kết giảm phát thải, nhưng lợi nhuận ngắn hạn vẫn được đặt lên
trên sự phát triển bền vững của nhân loại. Điều này càng chứng minh CNTB không thể tự
giải quyết tận gốc những vấn đề toàn cầu mà chính nó gây ra.
Thứ tư, sự tồn tại và phát triển của các mô hình XHCN hiện đại đã bác bỏ luận
điểm “CNTB là cuối cùng”. Trung Quốc trong 40 năm cải cách mở cửa đã đưa hơn 800
triệu người thoát nghèo, năm 2024 GDP vẫn tăng 4,8% bất chấp khó khăn toàn cầu. Việt
Nam năm 2024 đạt mức tăng trưởng 5,6%, tỷ lệ nghèo đa chiều giảm xuống 2,93%, được
Liên Hợp Quốc đánh giá là một trong những quốc gia đi đầu về phát triển bao trùm. Cuba
duy trì hệ thống y tế – giáo dục miễn phí, tuổi thọ trung bình đạt 79,4, cao hơn nhiều
quốc gia tư bản phát triển. Những thành tựu này không chỉ khẳng định sức sống của lOMoAR cPSD| 45740413
CNXH trong bối cảnh mới, mà còn chứng minh sự đa dạng của các con đường
Luận điểm coi CNTB là hình thái cuối cùng mang tính tự huyễn hoặc, phản ánh lợi ích
giai cấp tư sản hơn là thực tiễn khách quan. Nếu CNTB là "tối ưu cuối cùng", tại sao nó
vẫn sản sinh bất bình đẳng, khủng hoảng và mâu thuẫn xã hội? Chính sự tồn tại song
song và thành công của nhiều mô hình CNXH hiện nay đã là câu trả lời bác bỏ quan
điểm này. Do đó, thay vì nhìn CNTB như "đỉnh cao bất biến", cần thấy rõ rằng nó chỉ là
một chặng trên tiến trình phát triển, chắc chắn sẽ bị thay thế bởi hình thái cao hơn –
CNXH. phát triển xã hội, vượt ra ngoài quỹ đạo của CNTB.

3. Đánh giá và phê phán tổng hợp
3.1. Đánh giá tổng hợp 2 luận điểm
Thứ nhất, luận điểm “CNXH là ảo tưởng” có tính xuyên tạc khi phủ nhận cơ sở khoa học
của học thuyết Mác – Lênin. Nó chỉ chăm chăm nhìn vào sự sụp đổ của Liên Xô và Đông
Âu để quy chụp rằng CNXH thất bại về bản chất. Đây là lập luận sai lầm vì:
● Nó đánh đồng một mô hình cụ thể với toàn bộ bản chất CNXH. Trong khi CNXH
không phải là một “công thức cứng nhắc” mà là một hệ thống tư tưởng – thực tiễn
đa dạng, có khả năng thích ứng với bối cảnh lịch sử, văn hóa, kinh tế khác nhau.
● Nó cố tình bỏ qua thực tiễn thành công của nhiều mô hình CNXH hiện đại, đặc
biệt ở Việt Nam, Trung Quốc, Cuba.
Thứ hai, luận điểm “CNTB là hình thái cuối cùng” cũng sai lầm cả về lý luận và thực
tiễn. Nó xuyên tạc khi che giấu mâu thuẫn cơ bản của CNTB (lao động – tư bản, xã hội
hóa sản xuất – chiếm hữu tư nhân), phiến diện khi tuyệt đối hóa thành tựu của CNTB mà
phớt lờ những khủng hoảng chu kỳ, bất bình đẳng xã hội và khủng hoảng môi trường.
Thực chất, đây là cách hợp thức hóa sự thống trị của giai cấp tư sản bằng việc tuyên
truyền rằng “không có lựa chọn nào khác”.
Hai luận điểm này có sức ảnh hưởng vì được rao giảng rộng rãi trên truyền thông tư sản,
đôi khi lại đánh trúng vào tâm lý hoài nghi của một bộ phận quần chúng trước khó khăn
trong xây dựng CNXH. Tuy nhiên, nếu tiếp cận bằng tư duy khoa học, biện chứng thì sẽ lOMoAR cPSD| 45740413
thấy: cả hai đều mang tính cắt xén, phiến diện, xuất phát từ động cơ chính trị nhiều hơn là
từ phân tích khách quan. Đây là những quan điểm cần kiên quyết bác bỏ, đồng thời biến
quá trình phê phán thành cơ hội củng cố niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa.
3.2. Khẳng định triển vọng của Chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh hiện nay
Cơ sở lý luận và niềm tin khoa học:
Theo PGS.TS. Lưu Ngọc Khải (Tạp chí Cộng sản, 2018), lựa chọn đi lên CNXH của Việt
Nam không phải ngẫu nhiên hay chủ quan, mà là sự lựa chọn khoa học, dựa trên cả cơ sở
lý luận Mác – Lênin và thực tiễn lịch sử dân tộc. Niềm tin vào triển vọng CNXH không
chỉ đến từ lý tưởng mà còn từ những kết quả cụ thể trong hơn 35 năm Đổi mới.
Thành tựu thực tiễn tại Việt Nam năm 2024:
Kinh tế: GDP tăng trưởng 5,6%, thuộc nhóm cao trong khu vực
Xã hội: Tỷ lệ nghèo đa chiều giảm xuống 2,93%
Con người: HDI 0,726, tuổi thọ trên 73,7 tuổi
Y tế: Bảo hiểm y tế bao phủ vượt 93% dân số
So sánh với các quốc gia CNXH khác:
Trung Quốc: Tăng trưởng GDP 4,8% (2024), đưa 800 triệu người thoát nghèo trong 40 năm, HDI đạt 0,797.
Cuba: Duy trì hệ thống y tế miễn phí được WHO công nhận, tuổi thọ 79,4 năm, cao hơn
mức trung bình toàn cầu.
Những thách thức đặt ra:
Thách thức khách quan:
Biến đổi khí hậu: Việt Nam thiệt hại khoảng 3,2% GDP mỗi năm do các tác động của biến
đổi khí hậu (World Bank, 2022) lOMoAR cPSD| 45740413
Cạnh tranh quốc tế: Áp lực từ các nước có chi phí lao động thấp hơn và các nền kinh tế có
lợi thế công nghệ vượt trội
Thách thức nội tại:
Năng suất lao động: 229 triệu đồng/người/năm, thấp hơn Malaysia, Thái Lan
Tham nhũng và thể chế: CPI 40/100, xếp thứ 88/180 (Transparency International, 2024)
Phát triển không đều: Chênh lệch đô thị-nông thôn, chất lượng nguồn nhân lực chưa đồng đều
Triển vọng lâu dài và khẳng định con đường chủ nghĩa xã hội:
Bất chấp khó khăn, triển vọng đi lên CNXH của Việt Nam vẫn sáng rõ. Mục tiêu Đại hội
XIII đặt ra là đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp
hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội, giữa hội nhập quốc tế và
giữ vững độc lập dân tộc, giữa phát triển thị trường và quản lý theo định hướng xã hội
chủ nghĩa chính là con đường độc đáo mà Việt Nam đang đi. Đây là sự cụ thể hóa tư
tưởng "phát triển vì con người, lấy con người làm trung tâm" – đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội.
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 3.1.Kết luận
Từ những phân tích ở các phần trước, có thể khẳng định rõ ràng luận điểm cho rằng
“chủ nghĩa xã hội chỉ là ảo tưởng, không thể trở thành hiện thực” là một quan điểm sai trái,
phiến diện và không phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Thực tiễn trong suốt quá
trình đổi mới và phát triển của Việt Nam đã chứng minh con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
vừa phù hợp với khát vọng dân tộc, vừa có tính khả thi khi gắn kết chặt chẽ với tiến trình
hội nhập quốc tế và đổi mới sáng tạo.
Những luận điệu cho rằng “chủ nghĩa tư bản là hình thái kinh tế - xã hội cuối cùng
của lịch sử” cũng đã bộc lộ hạn chế. Bản thân chủ nghĩa tư bản, dù có những điều chỉnh để
thích ứng, vẫn tồn tại mâu thuẫn giai cấp, bất công xã hội, khủng hoảng môi trường và