












Preview text:
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT 1, Khái niệm:
- Khái niệm “quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học phản ánh sự liên
hệ của các sự vật và tính chỉnh thể của chúng. V.I.Lênin viết: “Khái niệm
quy luật là một trong những giai đoạn của sự nhận thức của con người về
tính thống nhất và về liên hệ, về sự phụ thuộc lẫn nhau và tính chỉnh thể
của quá trình thế giới”.
- Với tư cách là cái tồn tại ngay trong hiện thực, quy luật là mối liên hệ
bản chất, tất nhiên, phổ biến, và lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng, giữa
các đối tượng, giữa các nhân tố tạo thành đối tượng, giữa các thuộc tính
của các sự vật cũng như giữa các thuộc tính của cùng một sự vật hiện tượng.
- Trong quá trình phát triển của tư duy triết học luôn diễn ra cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về quy luật.
+ Trong các hệ thống triết học duy vật phương Đông và Hy Lạp cổ đại,
quy luật được hiểu là một trật tự khách quan, là con đường phát triển tự
nhiên, vốn có của mọi sự vật. Ngược lại, các nhà triết học duy tâm phủ
nhận sự tồn tại khách quan của quy luật. Chẳng hạn, Platôn cho rằng các
tư tưởng đang tồn tại là quy luật đối với các sự vật, vì các sự vật chỉ là
hình ảnh của tư tưởng.
+ Đối với chủ nghĩa duy tâm khách quan, quy luật được giải thích như là
sự thể hiện của “ lý trí thế giới”. “Lý trí thế giới”, theo các nhà duy tâm
khách quan, là quy luật của tự nhiên và xã hội.
- Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng mọi quy luật đều mang tính
khách quan. Các quy luật được phản ánh trong các khoa học không phải
là sự sáng tạo thuần tuý của tư tưởng. Những quy luật do khoa học phát
hiện ra chính là sự phản ánh những quy luật hiện thực của thế giới khách quan và của tư duy. 2, Phân loại:
Các quy luật hết sức đa dạng, muôn vẻ. Chúng khác nhau về mức độ phổ
biến, về phạm vi bao quát, về tính chất, về vai trò của chúng đối với quá
trình vận động và phát triển của sự vật. Do vậy, việc phân loại quy luật là
cần thiết để vận dụng và nhận thức có hiệu quả các quy luật khác nhau
vào các trường hợp khác nhau, nhằm đạt được mục đích khác nhau trong
hoạt động thực tiễn của con người.
* Căn cứ vào trình độ tính phổ biến có thể được chia thành:
- Các quy luật riêng biểu hiện những mối liên hệ đặc trưng cho một phạm
vi nhất định những hiện tượng cùng loại. Thí dụ: những quy luật thuộc
lĩnh vực vận động cơ giới, vận động hoá học, vận động sinh học,.v.v..
- Những quy luật chung có phạm vi tác động rộng hơn so với quy luật
riêng. Chẳng hạn, quy luật bảo toàn khối lượng, bảo toàn năng lượng, bảo
toàn xung lượng, v.v.. Những quy luật này tác động trong tất cả các quá
trình cơ giới, hoá học, sinh học.
- Những quy luật phổ biến là những quy luật tác động trong mọi lĩnh vực
tự nhiên, xã hội, tư duy. Những quy luật của phép biện chứng duy vật
chính là những quy luật như vậy.
* Căn cứ vào lĩnh vực tác động các quy luật được chia thành ba nhóm lớn:
- Quy luật tự nhiên là những quy luật nảy sinh, tác động không cần có sự
tham gia của con người, mặc dù một số quy luật tự nhiên cũng tồn tại trong con người.
- Quy luật xã hội là những quy luật hoạt động của chính con người trong
các hoạt động xã hội. Quy luật đó không thể nảy sinh và tác động bên
ngoài hoạt động có ý thức của con người. Mặc dù vậy, các quy luật xã hội
vẫn mang tính khách quan. Con người không thể sáng tạo ra hay huỷ bỏ quy luật xã hội.
- Quy luật của tư duy là loại quy luật nói lên mối liên hệ nội tại của
những khái niệm, phạm trù, những phán đoán, nhờ đó trong tư tưởng của
con người hình thành tri thức nào đó về sự vật.
=> Với tư cách là một khoa học, phép biện chứng duy vật nghiên cứu
những quy luật phổ biến tác động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã
hội và tư duy con người. Các quy luật cơ bản, phổ biến của phép biện
chứng phản ánh quá trình vận động và phát triển từ những phương diện cơ bản nhất của nó. CHƯƠNG II:
CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
I/ Quy luật lượng – chất:
1, Khái niệm chất, lượng: a, Khái niệm về chất: *
- Chất của các sự vật là do những thuộc tính vốn có của sự vật kết hợp
một cách hữu cơ với nhau tạo thành, bản thân mỗi sự vật có muôn vàn
thuộc tính, mỗi thuộc tính của sự vật cũng có một phức hợp những đặc
trưng về chất của mình, khiến cho mỗi thuộc tính lại trở thành một chất.
- Chất của sự vật không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu
thành sự vật mà còn bởi cấu trúc của sự vật, bởi phương thức liên kết
giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó.
Trong tự nhiên và trong xã hội có không ít sự vật, mà nếu xét riêng về các
yếu tố cấu thành, chúng hoàn toàn đồng nhất, nhưng các sự vật đó lại khác nhau về chất.
b, Khái niệm về lượng:
Sự đồng nhất và khác biệt của các sự vật không chỉ được xác định bởi
những tính quy định về chất mà còn bởi những tính quy định về lượng.
Chẳng hạn, rượu (trong suốt) không chỉ khác với nước cất về mùi vị, tác
dụng sinh học…mà còn về khối lượng riêng của chúng; hai chiếc bàn
giống nhau về chất liệu và hình dáng nhưng lại khác nhau về kích thước..
Như vậy, cùng với những tính quy định về chất, bất kỳ sự vật nào cũng có
những tính quy định về lượng.
Lượng không nói lên sự vật đó là cái gì. Các thông số lượng không ổn
định mà thường xuyên biến đổi cùng với vận động biến đổi của sự vật.
Do đó, lượng nói lên mặt không ổn định của sự vật, mặt liên tục thay đổi
trong sự vận động phát triển của sự vật.
Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng chỉ là tương đối, phụ thuộc vào mối
quan hệ xác định. Nghĩa là có cái trong mối quan hệ này là chất, nhưng
trong mối quan hệ khác nó lại là lượng và ngược lại. Do vậy, cần tránh
quan điểm siêu hình tuyệt đối hoá gianh giới giữa chất và lượng. Xác
định chất và lượng phải căn cứ vào từng mối quan hệ cụ thể.
2,Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất:
* Chất và lượng thống nhất với nhau:
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Chất và lượng của sự
vật đều mang tính khách quan. Trong sự tồn tại khách quan của mình, sự
vật có vô vàn chất, do đó, nó cũng có vô vàn lượng. Tuy nhiên, chất và
lượng là hai mặt quy định lẫn nhau không thể tách rời; một chất nhất định
trong sự vật có lượng tương ứng của nó.
Trong quá trình vận động và phát triển chất và lượng cũng biến đổi. Sự
thay đổi của lượng và chất không diễn ra độc lập đối với nhau, trái lại
chúng có quan hệ với nhau. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của
lượng cũng thay đổi căn bản chất của sự việc. Lượng của sự vật có thể
thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản chất của sự việc đó.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và
chất, nó là khoảng giới hạn mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm
thay đổi căn bản về chất của sự vật. Trong giới hạn của “độ” lượng và
chất tác động biện chứng với nhau làm cho sự vật vận động.
* Lượng thay đổi dần dần dẫn đến sự thay đổi về chất:
Trong giới hạn của “độ”, lượng là yếu tố động, nó thường xuyên biến đổi,
quá trình này diễn ra một cách từ từ theo cách thức tăng dần hoặc giảm
dần. Nhưng sự thay đổi đó chưa làm thay đổi về chất
Chất là yếu tố tương đối ổn định hơn. Khi lượng thay đổi đến giới hạn
nào đó thì chất căn bản của sự vật mới thay đổi, sự vật không còn là nó
nữa, một sự vật mới ra đời thay thế nó. Tại điểm giới hạn mà sự thay đổi
về lượng sẽ làm thay đổi về chất của sự vật được gọi là điểm nút. Bất kỳ
độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút.
* Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng:
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm
nút. Sau khi ra đời, chất mới có sự tác động trở lại sự thay đổi của lượng.
Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp
điệu của sự vận động và phát triển của sự vật đó.
* Các hình thức của bước nhảy:
- Bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần (cơ sở của sự phân chia: dựa
trên thời gian của sự thay đổi về chất và tính chất của bản thân sự thay đổi đó):
+ Những bước nhảy được gọi là đột biến khi chất của sự vật biến đổi một
cách nhanh chóng ở tất cả các bộ phận cấu thành của nó.
+ Những bước nhảy được thực hiện một cách dần dần là quá trình thay
đổi về chất diễn ra bằng con đường tích lũy dần dần những nhân tố của
chất mới và mất đi dần dần những nhân tố của chất cũ. Ví dụ: quá trình
cách mạng đưa nước ta vốn là nước kinh tế lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là một bước nhảy như thế. Bước nhảy dần dần là quá trình phức
tạp, trong đó có cả những quá trình tuần tự và những bước nhảy cục bộ.
- Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ:
+ Bước nhảy toàn bộ là loại bước nhảy làm thay đổi toàn bộ về chất tất cả
các mặt các bộ phận, các yếu tố cấu thành sự vật.
+ Bước nhảy cục bộ là loại bước nhảy làm thay đổi một số mặt một số
yếu tố, một số bộ phận của sự vật đó.
Từ những điều trình bày trên có thể rút ra nội dung cơ bản của quy
luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại như sau:
3, Ý nghĩa phương pháp luận:
Nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và
thay đổi về chất chúng ta sẽ rút ra được ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thức tiễn.
- Để có tri thức đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt
chất của nó. Những nhận thức ban đầu về chất (thấy sự khác nhau) của
các sự vật chỉ trở nên đúng đắn và được làm sâu sắc thêm khi đạt tới tri
thức về sự thống nhất giữa chất và lượng của các sự vật đó.
- Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu bằng quá
trình tích luỹ dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện
bước nhảy để chuyển về chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về
chất theo quy luật và chống cả hai khuynh hướng: tả khuynh và hữu khuynh.
- Trong hoạt động thực tiễn của mình, chúng ta còn phải biết vận dụng
linh hoạt các hình thức của bước nhảy. Sự vận dụng linh hoạt đó sẽ tuỳ
thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan và những
nhân tố chủ quan cũng như sự hiểu biết sâu sắc quy luật này. Tuỳ theo
từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể mà
chúng ta chọn hình thức bước nhảy phù hợp. Chống giáo điều, rập khuôn,
chống bảo thủ ngại khó khi điều kiện thực hiện bước nhảy đã chín muồi.
- Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương
thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động của
mình, chúng ta phải biết cách tác động vào phương thức liên kết giữa các
yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó.
VD: Trên cơ sở hiểu biết về gien, con người có thể tác động vào phương
thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành gien làm cho gien làm biến đổi.
II/ Quy luật mâu thuẫn:
* Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập ( hay còn gọi là
quy luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng. V.I.Lênin viết "có
thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của
các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng,
nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm”.
1, Các tính chất chung của mâu thuẫn và quá trình vận động của mâu thuẫn:
Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập được làm
sáng tỏ thông qua một loạt những phạm trù cơ bản như “mặt đối lập”, “sự
thống nhất của các mặt đối lập”, “sự đấu tranh của các mặt đối lập”.
a, Phạm trù “Mặt đối lập”:
+ Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào, cũng được tạo thành từ nhiều bộ phận,
mang nhiều thuộc tính khác nhau.
Một phân tử nước do hai nguyên tử Hyđrô và một nguyên tử Ôxy tạo thành.
+ Trong số các yếu tố cấu thành sự vật hay trong số các thuộc tính của sự
vật đó không chỉ khác nhau, có cả những cái đối lập nhau.
Trong nguyên tử có hạt mang điện tích dương; có hạt mang điện tích âm.
Trong cơ thể sinh vật có yếu tố di truyền, có yếu tố gây biến dị, có quá
trình đồng hoá, có quá trình dị hoá…
Những thuộc tính khác nhau mang tính đối lập trong mỗi sự vật hiện
tượng đó chính là mặt đối lập, là những nhân tố cấu thành mâu thuẫn biện chứng.
* Tính chất của mâu thuẫn biện chứng:
vì mọi sự vật trong tự
nhiên, xã hội và tư duy không phải là cái gì hoàn toàn thuần nhất mà là
một hệ thống các yếu tố, các mặt, các khuynh hướng trái ngược nhau, liên
hệ hữu cơ với nhau, tạo nên những mâu thuẫn vốn có của sự vật. Như vậy
mâu thuẫn không do ai sáng tạo ra, không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người. Nó là cái vốn có của sự vật.
, tồn tại trong cả tự nhiên, xã
hội và tư duy. Không có sự vật nào không có mâu thuẫn, mâu thuẫn này
mất đi thì mâu thuẫn khác xuất hiện, từ đó sự vật phát triển không ngừng.
Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là sự phản ánh mâu thuẫn trong hiện
thực là nguồn gốc phát triển của nhận thức, của tư duy trên con đường
vươn tới chân lý khách quan, chân lý tuyệt đối về hiện thực. b, Phạm trù “
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. .
Nguyên tử nào cũng có hạt mang điện tích âm, hạt mang điện tích dương,
cơ thể nào cũng có đồng hoá và dị hoá…Như vậy, cũng có thể xem xét sự
thống nhất của hai mặt đối lập là tính không thể tách rời của hai mặt đó.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang
nhau của chúng. Song, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một
giai đoạn phát triển, khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập chỉ có tính chất tạm thời, tương đối, chỉ
tồn tại trong một thời gian nhất định. Đó chính là nguyên nhân của trạng
thái đứng im tương đối của các sự vật hiện tượng.
c, Khái niệm “Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập”:
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài
trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức đa dạng. Tính đa dạng đó
tuỳ thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như mối quan hệ qua lại
giữa chúng, phụ thuộc vào lĩnh vực tồn tại của các mặt đối lập, phụ thuộc
vào điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nói lên mặt biến đổi thường xuyên của sự vật, qui định
d, Quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Với tư cách là hai trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại giữa hai
mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau.
+ Sự thống nhất có quan hệ hữu cơ với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của sự vật.
+ Sự đấu tranh có mối quan hệ gắn bó với tính tuyệt đối của sự vận động và sự phát triển.
Do đó sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh của
các mặt đối lập là tuyệt đối Khi xem xét mối quan hệ như vậy, V.I.Lênin viết: * Tóm lại
2, Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong tiến trình nhận thức sự vật, việc nhận thức mâu thuẫn, trước hết
chúng ta nhận sự vật như một thực thể đồng nhất. Từ đó phân tích để phát
hiện ra sự khác nhau, sự đối lập và sự tác động qua lại giữa các mặt đối
lập để biết được nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
- Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo
dõi quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập; nghiên
cứu mối quan hệ tác động qua lại, và điều kiện chuyển hoá của các mặt.
Đồng thời, cũng phải xem xét các mâu thuẫn cụ thể với vai trò, vị trí và
mối quan hệ của nó. Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của
sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh (dưới những hình
thức cụ thể rất khác nhau). Đối với các mâu thuẫn khác nhau phải có
phương pháp giải quyết khác nhau. Điều đó tuỳ thuộc vào bản chất của
mâu thuẫn, vào những điều kiện cụ thể. Phải có biện pháp giải quyết thích
hợp với từng mâu thuẫn.
III/ Quy luật phủ định của phủ định:
1, Phủ định biện chứng và những đặc điểm cơ bản của nó:
* Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng:
- Triết học Mác thấy rõ sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất, sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu
thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi và sự vật mới được ra đời.
- Trong phép biện chứng, phủ định được xem là nhân tố của sự phát triển
đó là phủ định biện chứng.
- Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là
mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
* Đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng:
, là điều kiện của sự phát triển, do
mâu thuẫn bên trong của bản thân sự vật tự quy định. Quá trình đó diễn ra
thường xuyên ngoài ý muốn của con người. Nó là yếu tố tất yếu của sự phát triển.
là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới.
Phủ định biện chứng không phải là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái
bị phủ định. Trái lại, quá trình phủ định biện chứng bao hàm cả việc giữ
lại nội dung tích cực của cái bị phủ định.. Với nghĩa như vậy, phủ định
đồng thời cũng khẳng định. Diễn đạt tư tưởng đó, V.I.Lênin viết: “Không
phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ,
không phải sự phủ định hoài nghi, không phải do dự, cũng không phải sự
nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng mà là sự
phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển,
với sự duy trì cái khẳng định”.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong
sự ra đời của cái mới. Không có cái mới nào lại ra đời từ hư vô. Nhờ việc
giữ lại nhân tố tích cực của cái bị phủ định mà cái mới có tiền đề cho sự xuất hiện của mình.
- Cái quá khứ không biến đi mà nó đã tham gia vào việc tạo ra cái hiện
tại, nó tạo thành mối liên hệ sống động trong thời gian. Trong đời sống xã
hội, một trong những hình thức quan trọng của cái được kế thừa là truyền
thống, đó là cái chứa đựng trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái mới.
Những người theo quan điểm siêu hình coi phủ định như là loại bỏ hoàn
toàn cái cũ, là phủ định sạch trơn, chấm dứt sự vận động và phát triển của
bản thân sự vật, hiện tượng. Nhưng khi cần thì họ lại tiếp thu một cách
nguyên xi, không phê phán, không cải tạo, họ lắp ghép một cách máy móc cái cũ vào cái mới.
2, Nội dung quy luật phủ định của phủ định:
- Quá trình vận động và phát triển của sự vật là quá trình thực hiện sự phủ
định biện chứng. Thông qua sự phủ định biện biện chứng sự vật cũ mất
đi, sự vật mới ra đời. Nhưng sự vận động và phát triển của sự vật vẫn tiếp
tục, đến một lúc nào đó sự vật mới đó lại bị phủ định bởi một sự vật mới khác.
Như vậy, với tư cách là kết quả của “phủ định lần thứ nhất”, sự vật mới ra
đời đã chứa đựng trong bản thân mình xu hướng dẫn tới những lần phủ
định tiếp theo để một sự vật mới hơn ra đời, sự vật mới ra đời sau có lặp
lại một số đặc trưng cơ bản của cái ban đầu, nhưng trên cơ sở cao hơn.
Đến đây sự vật đã hoàn thành một quá trình phủ định của phủ định, hoàn
thành một chu kỳ phát triển.
Ph.Ăngghen đã đưa ra một ví dụ dễ hiểu về quá trình phủ định này: .
Từ ví dụ trên cho thấy:
Hạt ----> cây - phủ định lần thứ nhất.
Cây ----> hạt - phủ định lần thứ hai. Đến đây nó đã thực hiện được quá
trình phủ định của phủ định, sự vật dường như quay lại cái ban đầu nhưng
trên cơ sở cao hơn (số lượng hạt nhiều hơn, chất lượng hạt cũng thay đổi tuy khó nhận ra).
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng, như
trên là sự thống nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) và bổ sung những
nhân tố tích cực mới. Do đó, sự phát triển thông qua những lần phủ định
biện chứng sẽ tạo xu hướng tiến lên không ngừng.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn
trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh
và chuyển hoá giữa mặt khẳng định và mặt phủ định
Do vậy, đặc điểm quan trọng nhất của phủ định của phủ định chính là sự
phát triển dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn. Kết
quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát
triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo.
Sự vật cứ tiếp tục phủ định biện chứng chính mình để phát triển. Chính vì
vậy, tính chất tiến lên của sự phát triển không phải diễn ra theo đường
thẳng, mà theo đường “xoáy ốc”.
- Số lượng các lần phủ định trong một chu kỳ phát triển cụ thể trong thực
tế nhiều hay ít tuỳ theo tính chất của một quá trình phát triển cụ thể,
nhưng có thể khái quát lại là hai lần:
+ Phủ định biện chứng “lần thứ nhất” là loại phủ định biện chứng cái xuất
phát thành cái đối lập với mình.
+ Phủ định biện chứng “lần thứ hai” là loại phủ định chuyển cái trung
gian thành cái đối lập của nó, làm xuất hiện sự vật dường như lặp lại cái
xuất phát, nhưng trên cơ sở mới cao hơn.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong hoạt động lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần
lưu ý rằng cái mới nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ
chiến thắng cái lạc hậu, cái mới ra đời từ cái cũ, nó kế thừa tất cả những
gì tích cực của cái cũ. Do đó, cần chống thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.
+ Trong công tác, chúng ta phải biết phát hiện và quý trọng cái mới, phải
tin tưởng vào tương lai phát triển của cái mới, mặc dù lúc đầu nó còn yếu
ớt, ít ỏi; phải ra sức bồi dưỡng, phát huy cái mới, tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ.
+ Trong khi đấu tranh với cái cũ, chúng ta vừa phải biết sàng lọc, bỏ thô
lấy tinh, biết giữ lấy những gì là tích cực, là có giá trị của cái cũ, cải tạo
cái cũ cho phù hợp với những điều kiện mới, sử dụng chúng như là tiền
đề cho sự ra đời của cái mới. Do đó, trong hoạt động nhận thức cũng như
trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải chống thái độ “hư vô chủ nghĩa”
trong khi nhìn nhận lịch sử, đánh giá quá khứ, đồng thời cũng phải khắc
phục thái độ bảo thủ, khư khư giữ lại cả những cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử.
Quy luật phủ định của phủ định đã vạch rõ: phát triển là khuynh hướng
chung, nhưng quá trình phát triển diễn ra rất phức tạp bao hàm cả những
bước thụt lùi, những sự lặp lại, phải trải qua nhiều lần phủ định, nhiều
khâu trung gian. Trong lĩnh vực đời sống xã hội, quá trình phát triển càng
phức tạp hơn. Điều đó đòi hỏi trong thực tiễn và trong nhận thức khoa
học không được chủ quan, đơn giản khi xem xét sự vật, mà phải có cái
nhìn biện chứng, đúng với xu thế của thời đại ngày nay. Chủ nghĩa xã hội
hiện đang bị khủng hoảng, phong trào đấu tranh cách mạng trên thế giới
đang gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên tình hình này không ngăn cản được
xu hướng tiến tới chủ nghĩa cộng sản của xã hội loài người. Chủ nghĩa tư
bản không phải là xã hội không thể vượt qua. CHƯƠNG III:
MỐI LIÊN HỆ GIỮA BA QUY LUẬT
3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp
luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn
diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử - cụ thể về phương diện
vạch ra nguồn gốc, động lực, cách thức và xu hướng phát triển tiến lên
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
* Mỗi quy luật cơ bản của phép biện chứng đề cập một phương diện của
quá trình vận động và phát triển:
- Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi
về chất và ngược lại cho biết cách thức của sự vận động và phát triển.
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập làm sáng tỏ nguồn
gốc của sự vận động và phát triển.
- Quy luật phủ định của phủ định cho biết khuynh hướng của quá trình
vận động và phát triển qua việc làm sáng tỏ mối liên hệ giữa những nấc
thang khác nhau của quá trình đó. Nó mang tính chu kì, sau đó phát triển
đến một giai đoạn nào đó dường như giống với ban đầu nhưng cao hơn về chất.
* Trong thực tế, sự vận động và phát triển của bất kỳ một sự vật hay hiện
tượng nào cũng là sản phẩm tác động tổng hợp của tất cả các quy luật của
phép biện chứng. Đó là: trong quá trình tích luỹ về lượng để tiến tới thay
đổi về chất cũng phải chú ý phát hiện mâu thuẫn, tìm ra phương thức và
lực lượng thích hợp để giải quyết mâu thuẫn. Bước nhảy được thực hiện,
mâu thuẫn được giải quyết cũng tức là sự phủ định biện chứng được hoàn thành.
=> Trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta
cần phát hiện ra các yếu tố tích cực đang tồn tại trong sự vật, loại bỏ
những yếu tố lỗi thời ngăn cản sự ra đời của cái mới.
* Nguồn tài liệu tham khảo: - Wikipedia - http://voer.edu.vn/