Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng phép biện chứng duy vật vào sự nghiệp đổi mới ở việt nam hiện nay. liên hệ việc nâng cao ý thức trách nhiệm của sinh viên trong giai đoạn hiện nay ở nước ta | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, Triết học Mác Lênin dần đã trở thành môn khoa học của mọi khoa học. Triết học vốn xuất phát từ những quan sát từ thế giới, xã hội để đưa ra những quy luật, nguyên tắc vì vậy Triết đóng một vai trò quan trọng trong xã hội, nó là cơ sở tư duy và lý thuyết định hình cách mọi người hiểu và giải quyết vấn đề xã hội. Trong đó, phép biện chứng duy vật là “linh hồn sống”, là “cái quyết định” của chủ nghĩa Mác, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ SỰ VẬN DỤNG
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI
MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. LIÊN HỆ VIỆC NÂNG
CAO Ý THỨC TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
GVHD: ThS. Chu Thị Hiền Nhóm 5: 1. Võ Minh Thịnh 23142409
2. Lê Thị Bích Thoa 23142410
3. Đỗ Phương Mỹ Duyên 23159008
4. Trương Thị Thảo Nguyên 23142362
5. Nguyễn Thị Mỹ Uyên 23142440
Mã lớp học: LLCT130105_23_2_25
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 05 năm 2024
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
Điểm: …………………………….. GIẢNG VIÊN Chu Thị Hiền
2.2.2. Thay đổi phương pháp học tập phù hợp....................................................24
2.2.3. Phát huy tinh thần tập thể của sinh viên....................................................27
C. PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................30 A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, Triết học Mác Lênin dần đã trở thành
môn khoa học của mọi khoa học. Triết học vốn xuất phát từ những quan sát từ
thế giới, xã hội để đưa ra những quy luật, nguyên tắc vì vậy Triết đóng một vai
trò quan trọng trong xã hội, nó là cơ sở tư duy và lý thuyết định hình cách mọi
người hiểu và giải quyết vấn đề xã hội. Trong đó, phép biện chứng duy vật là
“linh hồn sống”, là “cái quyết định” của chủ nghĩa Mác, bởi khi nghiên cứu các
quy luật phát triển phổ biến của hiện thực khác quan và của nhận thức khoa học,
phép biện chứng duy vật thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất của
hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin khẳng định rằng, thế
giới vật chất tồn tại khách quan, các sự vật và hiện tượng luôn luôn vận động và
biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau, cái cũ mất đi, cái mới ra đời. Do các sự vật và
hiện tượng trong thế giới luôn có sự vận động, biến đổi thường xuyên, nên tư
duy con người cũng phải luôn luôn đổi mới để theo kịp sự vận động, biến đổi
đó. Cho nên khi vận dụng phép biện chứng duy vật vào sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam hiện nay, ta cần xác định trước hết phải đổi mới về tư duy và sau cùng là
nâng cao ý thức trách nhiệm của công dân Việt Nam, đặc biệt là ở học sinh, sinh
viên trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Chính vì vậy, nhóm em quyết định chọn
đề tài “Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng phép biện chứng duy vật vào sự
nghiệp đổi mới ở việt nam hiện nay. Liên hệ việc nâng cao ý thức trách nhiệm
của sinh viên trong giai đoạn hiện nay ở nước ta” để nắm vững bản chất của
phép biện chứng duy vật và áp dụng vào sự nghiệp đổi mới, nâng cao ý thức
trách nhiệm của sinh viên Việt Nam hiện nay. 5 B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT.
1.1. Khái niệm, nguồn gốc, đặc trưng và vai trò của phép biện chứng duy vật
Triết học Mác - Lênin là một hệ thống quan điểm khoa học về thế giới xung
quanh, về những quy luật vận động, phát triển của thế giới, về xã hội và về bản
thân con người trong thế giới ấy.
a) Khái niệm, nguồn gốc
Về nguồn gốc vào những năm 40 do C,Mác và Ph.Ăngghen xây dựng của
thế kỷ XIX sau đó được Lênin phát triển với sự thừa kế tinh hoa của các học
thuyết trước đó. Phép biện chứng được xem như là linh hồn của chủ nghĩa Mác Lenin.
Về khái niệm của phép biện chứng duy vật C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lenin
đều không có khái niệm cụ thể nào về khái niệm của phép biện chưng duy vật,
nhưng từ nhưng định nghĩa khác nhau có thể tóm gọn lại cơ bản về phép biện
chứng duy vật là môn khoa học về nhưng quy luật sự vận dộng và phát triển của
thế giới tự nhiên, của xã hội loại người, của tư duy.
Biện chứng có thể hiểu là cụm từ dùng để chỉ những mối liên hệ qua lại
tương tác lẫn nhau, sự vận động phát triển của các sự vật, hiện tượng tồn tại độc
lập bên ngoài ý thức con người, nhưng cũng dùng để chỉ những mối liên hệ, sự
vận động biến đổi của những quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào đầu con người.
Biện chứng có 2 loại:
Biện chứng khách quan: là khái niệm dùng để chỉ những loại biện chứng của
chính bản thân thế giới, cái mà tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người. 7
Biện chứng chủ quan: là khái niệm chỉ biện chứng của quá trình nhận thức,
biện chứng của tư duy cái mà phản ánh hiện thực khách quan vào não bộ của con người.
Phương pháp luận biện chứng hay biện chứng tồn tại một mối quan hệ vừa
độc lập vừa thống nhất với nhau giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ
quan. Trong mối quan hệ này Ph. Ăngghen chỉ ra biện chứng khách quan quy
định biện chứng chủ quan nghĩa là bản thân sự vật hiện tượng tồn tại biện chứng
như nào thì tư duy của con người cũng phải như thế đó. b) Đặc trưng
Một là, phép biện chứng duy vật được hình thành từ sự thống nhất hữu cơ
giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng.
Nó không chỉ giải thích sự vật hiện tượng quanh ta, sự vận động và phát
triển của thế giới mà còn là công cụ vĩ đại để con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Hai là, mỗi nguyên lí và luận điểm của phép biện chứng duy vật đều được
xây dựng trên lập trường duy vật, mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật
đều được tống kết và rút ra từ vận hành của thế giới tự nhiên và lịch sử phát
triển của xã hội loài người. c) Vai trò
Phép biện chứng đóng vai trò quan trọng triết học và cả xã hội khái quát
được một cách đủng đắn những đặc trưng bản chất, sâu sắc nhất của các sự vật,
hiện tượng trong thế giới khách quan.
Phân tích các hiện tượng xã hội:
Phép biện chứng duy vật giúp chúng ta hiểu sâu hơn về các mâu thuẫn và sự phát triển trong xã hội.
Nó cho phép chúng ta phân tích tầng lớp xã hội, mâu thuẫn giữa tầng lớp
công nhân và tầng lớp tư sản, và các yếu tố kinh tế, chính trị, và văn hóa ảnh hưởng đến xã hội.
Phản ánh thực tế vật chất: 8
Và triết học Hy lạp đã thể hiện một cách sâu sắc về phép biện chứng tự phát.
Ph.Ăngghen đã viết:” Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện
chứng tự phát, bẩm sinh, và Arixtốt, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học
ấy, cũng đã nghiên cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện chứng...
Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế
giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclit
trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì
mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi sự vật đều không
ngừng phát sinh và tiêu vong”. Có thể thấy các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều
rất tài giỏi. tuy nhiên nhưng lí luận này vẫn còn chưa được tìm hiểu thấu đáo và
vẫn chưa được chứng minh.
Phép biện chứng cận đại: Với sự phát triển của khoa học tự nhiên các triết
học thời kì Trung cổ đã bày được những ý tưởng cơ bản về phép biện chứng
duy tâm một cách có hệ thống phạm trù, có quy luật chung, có logic chặt chẽ
của ý thức và tinh biện chứng này bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần
nên còn được gọi là phép biện chứng duy tâm.
Đỉnh cao của phép biện chứng này phải kể đến phép biện chứng trong triết
học cổ điển Đức, khỏi đầu từ Immanuel Kant và được hoàn thiện bởi Hêghen.
Ông cho rằng: "ý niệm tuyệt đối" là điểm khởi đầu của tồn tại, tự "tha hóa"
thành tự nhiên và trở về bản thân nó trong tồn tại tinh thần, "... tinh thần, tư
tưởng, ý niệm là cái có trước, còn thế giới hiện thực chỉ là một bản sao chép của
ý niệm". Hêghen đã phê phán tư duy siêu hình và là người đầu tiên trình bày
toàn bộ giới xã hội, tự nhiên và tư duy một cách biện chứng. Mặc dù hệ thống
triết học của Hêghen đã trình bày được những phạm trù quy luật của phép biện
chứng nhưng vẫn còn nhiều hạn chế như tính duy tâm, tính chất gò ép, thần bí cần phải khắc phục.
Phép biện chứng duy vật: Là hình thái cuối cùng của phép biện chứng tính từ
khi nó ra đời cho tới hiện tại. Phép biện chứng duy vật được C.Mác và 10
Ph.Ăngghen kế thừa phát triển từ những hạt nhân hợp lí trong các hình thái triết
học trước và được V.I.Lênin và các nhà triết học hậu thế tiếp tục cải thiện.
C,Mác và Ph.Ăngghen đã xây với tư cách là học thuyết khoa học về mối liên
hệ phổ biến và những quy luật của sự phát triển vận động dưới hình thức hoàn
thiện nhất. Hai nhà triết học vĩ đại này còn tạo ra được sự thống nhất giữa phép
biện chứng và chủ nghĩa duy vật làm cho phép biện chứng trở thành phép biện
chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật trở thành chủ nghĩa duy vật biện chứng.
V.I.Lenin đã tổng kết toàn diện nhưng thành tựu khoa học mới nhất, ông đã đấu
tranh chống lại những thành phần chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm đang chống lại
và xuyên tạc những luận điểm của nền khoa học biện chứng duy vật, bảo vệ và
phát triển tiếp quan niệm duy vật biện chứng. Tóm lại C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lenin đã đem lại những đóng góp to lớn cho chủ nghĩa duy vật biện chứng
nói riêng và nền khoa học triết học nói chung.
1.3. Các nội dung cơ bản, ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng duy vật.
Nội dung của phép biện chứng duy vật gồm 2 nguyên lý, 3 quy luật và 6 cặp phạm trù.
1.3.1. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
a) Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương
hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối
tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Ví dụ: Mối liên hệ của bản thân như
với bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, sự nghiệp,…
Theo quan điểm biện chứng duy vật cho rằng, các sự vật, hiện tượng của thế
giới tồn tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, quy định lẫn nhau, thâm nhập,
chuyển hóa lẫn nhau, không tách biệt nhau. Đó là nội dung của nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến. Cơ sở của sự tồn tại đa dạng các mối liên hệ là tính thống 11
Tính khách quan: Người phải lấy khí O2 và thải ra khí CO2.
Tính phổ biến: Khi đi làm bản thân sẽ có mối liên hệ với đồng nghiệp, khách hàng, sếp.
Tính đa dạng, phong phú: Khi ở trường học thì có mối liên hệ với bạn bè,
thầy cô; ở công ty có mối liên hệ với khách hàng, sếp, đồng nghiệp.
Ý nghĩa của phương pháp luận:
Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong mối liên hệ với nhau, vì vậy trong quá
trình nhận thức bắt buộc ta phải tôn trọng quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải xem xét
các sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận,
các yếu tố, các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác động qua lại
giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác. Chỉ trên cơ sở đó
mới có thể nhận thức đúng, chính xác về sự vật, hiện tượng và xử lý có hiệu quả
các vấn đề của cuộc sống thực tiễn.
Quan điểm lịch sử - cụ thể: Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong không
gian, thời gian nhất định và mang dấu ấn của không gian, thời gian đó. Vì vậy, ta
nhất thiết phải quán triệt quan điểm lịch sử- cụ thể khi xem xét, giải quyết mọi
vấn đề do thực tiễn đặt ra. Từ đó, đòi hỏi chúng ta khi nhận thức và tác động về
sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong
đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Trong lịch sử triết học, khi xem xét các hệ
thống triết học bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của
các hệ thống đó. Phải xét đến những tính chất đặc thù, xác định rõ vị trí, vai trò
khác nhau của đối tượng đó trong mối liên hệ cụ thể, ở những tình huống cụ thể.
Từ đó, chúng ta mới có được những giải pháp đúng đắn và đạt hiệu quả trong
việc xử lý các vấn đề thực tiễn.
b) Nguyên lý về sự phát triển
“Phát triển” là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn. Phát triển là khuynh
hướng chung của thế giới. Trong vận động và phát triển có cả sự đứng im, thậm 13
chí là thụt lùi. Phát triển trên cơ sở kế thừa và có chọn lọc các cũ, là sự thay đổi
về chất, sự thay đổi từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát
triển không diễn ra theo đường thẳng mà diễn ra theo đường xoáy ốc. Quá trình
đó diễn ra vừa dần dần, vừa có bước nhảy vọt…làm cho sự phát triển mang tính
quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự tiến lên.
Nguyên lý về sự phát triển có các tính chất cơ bản như: Tính khách quan,
tính phổ biến, tính kế thừa, tính đa dạng, phong phú.
Cũng như mối liên hệ phổ biến, “phát triển’’ có tính khách quan thể hiện ở
chỗ, nguồn gốc của nó nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng chứ không
phải do tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thức, ý muốn
chủ quan của con người. Ví dụ: Sự vận động của Trái đất diễn ra theo quy luật
nhất định, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Phát triển có tính phổ biến, sự phát triển có mặt ở khắp mọi nơi trong các
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy . Ví dụ: Trong tự nhiên, con người và xã hội
luôn vận động, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Tính kế thừa là sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, chứ
không phải ra đời từ hư vô. Trong sự vật, hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn
lọc và cải tạo các yếu tố còn tác dụng, còn thích hợp chúng trong khi gạt bỏ mặt
tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở sự vật, hiện
tượng cũ đang gây cản trở sự vật, hiện tượng mới tiếp tục phát triển . Ví dụ: Con
cái kế thừa những yếu tố tốt đẹp của bố mẹ, gạt bỏ những yếu tố không còn phù
hợp với hoàn cảnh mới.
Tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy,
nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tính
đa dạng, phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và thời gian,
các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó.. . Ví dụ: Khi học chung cùng
một thầy cô nhưng cách tiếp thu, sự suy nghĩ, sự phát triển của mỗi bạn sinh viên là khác nhau.
Ý nghĩa phương pháp luận: 14
lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao và thấp, tốc độ vận động
nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt…
Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau
giữa lượng và chất, là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó thay
đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn là nó chưa
chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.
Điểm nút là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá vỡ
độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời
điểm mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy.
Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất
của sự vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước
ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng .
Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại. Mọi
đối tượng đều có sự thống nhất của hai mặt đối lập chất và lượng, những thay
đổi về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua
bước nhảy, chất mới ra đời tiếp tục tác động trở lại duy trì sự thay đổi của lượng.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải biết tích lũy về lượng để biến
đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Khi đã tích lũy
đủ về lượng thì phải quyết tâm thực hiện bước nhảy, chuyển sự thay đổi về
lượng thành sự thay đổi về chất. Khi thực hiện bước nhảy cần vận dụng linh
hoạt, tùy theo điều kiện mà lựa chọn bước nhảy phù hợp. Quy luật yêu cầu phải
nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa
các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng. Phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp
tác động vào phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
b) Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để
chỉ sự liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu tranh, vừa đòi hỏi, 16
loại trừ và chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập.Yếu tố tạo thành mâu thuẫn
biện chứng là các mặt đối lập, các bộ phận, các thuộc tính…có khuynh hướng
biến đổi trái ngược nhau, nhưng cùng tồn tại khách quan trong mỗi sự vật, hiện
tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy .
Nếu nói về vai trò của mâu thuẫn, nguyên nhân chính cũng là nguyên nhân
cuối cùng tạo nên nguồn gốc của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
là sự tác động lẫn nhau giữa chúng và giữa các mặt đối lập trong chúng.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật, hiện tượng là có
mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là sự tác
động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng…đối lập nằm trong chính mỗi sự
vật, hiện tượng; có vai trò quy định trực tiếp quá trình vận động và phát triển của
sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn bên ngoài xuất hiện trong mối liên hệ giữa các sự
vật, hiện tượng với nhau; tuy cũng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của
chúng, nhưng phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy tác dụng. Mối
quan hệ giữa các khái niệm của quy luật chỉ ra rằng, mâu thuẫn giữa các mặt đối
lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân, giải quyết mâu thuẫn đó là động lực
của sự vận động, phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Tìm ra
phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn. Phân tích
mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng
loại mâu thuẫn, vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện
chuyển hóa chúng và đề ra phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó. Nắm vững
nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập, không
nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã
đủ và chín muồi hay chưa.
c) Quy luật phủ định của phủ định
Là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, quy luật phủ định của
phủ định chỉ ra khuynh hướng đi lên, hình thức ( xoáy ốc), kết quả ( sự vật, hiện 17
triển. Quy luật này còn giúp nhận thức đúng về xu hướng phát triển, đó là quá
trình diễn ra quanh co, phức tạp, không đều đặn thẳng tắp, không va vấp, không
có những bước thụt lùi. Cần ủng hộ sự vật, hiện tượng mới, tạo điều kiện cho nó
phát triển hợp quy luật; biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực và hợp lý
của sự vật, hiện tượng cũ làm cho nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng mới.
1.3.3. Khái quát sáu cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật
Phạm trù triết học là hình thức hoạt động trí ốc phổ biến của con người, là
những mô hình tư tưởng phản ánh những thuộc tính và mối liên hệ vốn có ở tất
cả các đối tượng hiện thực.
a) Cái riêng và cái chung
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không
những có ở một sự vật, hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật,
hiện tượng ( nhiều cái riêng ) khác. Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để
chỉ các mặt, các đặt điểm chỉ vốn có ở một sự vật, hiện tượng ( một cái riêng )
nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác . Ví dụ: Mỗi người đều có
một thể lực, sức chịu đựng riêng biệt không ai giống ai. Bên trong mỗi người
đều có điểm chung như có đầu óc để quan sát, suy luận, điều khiển hành vi của mình.
Theo phép biện chứng duy vật: cái riêng, cái chung, cái đơn nhất tồn tại
khách quan. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, không tồn tại độc lập, tách rời
cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung. Cái riêng phong
phú, đa dạng hơn cái chung. Cái chung là bộ phận nên sâu sắc, bản chất hơn cái riêng.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Cần phải nhận thức cái chung để vận dụng vào cái riêng trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn. Trong nhận thức phải tìm ra cái chung và trong hoạt
động thực tiễn phải đưa cái chung vào để tạo ra cái riêng. Trong hoạt động thực 19
tiễn, phải vận dụng linh hoạt sự chuyển hóa giữa cái chung và cái đơn nhất: cần
tạo điều kiện cho cái đơn nhất có lợi trở thành cái chung và cái riêng .
b) Nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tương tác lẫn nhau giữa
các mặt trong một sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất
định. Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự
tương tác giữa các yếu tố mang tính nguyên nhân gây ra . Ví dụ: Gieo gió ắt sẽ gặp bão,…
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, phổ biến và tất yếu. Nguyên nhân
sinh ra kết quả, nên bao giờ nguyên nhân cũng có trước kết quả. Nguyên nhân
có thể sinh ra một hay nhiều kết quả, ngược lại kết quả có thể do một hay nhiều
nguyên nhân tạo ra. Sự tác động của nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hình thành
kết quả có thể diễn ra theo khuynh hướng thuận, nghịch đều ảnh hưởng lớn đến
kết quả. Trên thực tế, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra, do vậy
sự phân loại nguyên nhân thành nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thứ yếu,
nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài,… đối với một kết quả vừa
mang ý nghĩa lý luận, vừa mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Sự vật, hiện tượng nào cũng có nguyên nhân và do nguyên nhân quyết định,
để nhận thức được sự vật, hiện tượng ấy nhất thiết phải tìm ra nguyên nhân xuất
hiện; muốn loại bỏ một sự vật, hiện tượng nào đó không cần thiết, thì phải bỏ
nguyên nhân sinh ra nó. Nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả và ngược lại,
một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân tạo ra nên trong hoạt động thực tiễn và
nhận thức, cần lựa chọn phương pháp thích hợp nhất với điều kiện, để giải quyết
và vận dụng quan hệ nhân quả. Mối liên hệ nhân quả rất phức tạp, đa dạng do
vậy nên phân biệt chính xác các loại nguyên nhân để có cách giải quyết đúng đắn .
c) Tất nhiên và ngẫu nhiên 20