-
Thông tin
-
Quiz
Phép biện chứng về cái chung và cái riêng
Việc đạt được những thành tựu to lớn ấy có một phần không nhỏ đóng góp của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là từ việc chúng ta lĩnh hội, nắm bắt và vận dụng hiệu quả phép biện chứng giữa cái chung và cái riêng (cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng triết học Mác-Lênin). Tài liệu giúp bạn tahm khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Lịch sử Đảng(MC) 880 tài liệu
Đại học Nguyễn Tất Thành 1 K tài liệu
Phép biện chứng về cái chung và cái riêng
Việc đạt được những thành tựu to lớn ấy có một phần không nhỏ đóng góp của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là từ việc chúng ta lĩnh hội, nắm bắt và vận dụng hiệu quả phép biện chứng giữa cái chung và cái riêng (cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng triết học Mác-Lênin). Tài liệu giúp bạn tahm khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng(MC) 880 tài liệu
Trường: Đại học Nguyễn Tất Thành 1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:











Tài liệu khác của Đại học Nguyễn Tất Thành
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45650917 MỤC LỤC
MỤC LỤC… ........................................................................................................... 1 LỜI MỞ ĐẦU
.......................................................................................................... 2
NỘI DUNG..............................................................................................................3
I. Phép biện chứng về cái chung và cái riêng
............................................................ 3
1.Biện chứng.............................................................................................................3
2.Phép biện chứng....................................................................................................3
3. Phạm trù cái chung và cái riêng
............................................................................ 4
Quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng.....................................................4
II.Ý nghĩa phương pháp luận...................................................................................6
III.Vận dụng cặp phạm trù cái riêng - cái chung vào nền kinh tế thị trường nước
ta…...........................................................................................................................7
1.Khái niệm nền kinh tế thị trường.........................................................................7
2.Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan...........................8
3. Vận dụng vào thực tiễn ........................................................................................
9 a.Cái chung được vận dụng vào nền kinh tế thị trường..........................................9
b.Cái riêng được vận dụng vào nền kinh tế thị trường...........................................9
4.Thành tựu và hạn chế trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.........................................................................................................10 lOMoAR cPSD| 45650917
5.Một số giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế thị trường Việt Nam dựa trên những
đặc điểm riêng.......................................................................................................11
KẾT LUẬN............................................................................................................12 TÀI LIỆU THAM KHẢO
...................................................................................... 13 NTH 2214818111 1 LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
lấy tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam, đất nước ta đã trải qua nhiều khó
khăn, thử thách. Từ một nước phong kiến lạc hậu với nền kinh tế tiểu nông kém phát
triển, sau khi giành độc lập năm 1945, nước ta tiến hành xây dựng nền kinh tế tập
trung, bao cấp (từ năm 1954) song do những hạn chế to lớn do nó mang lại: hạn chế
về năng suất lao động, về phát triển thị trường.. .đã buộc chúng ta phải tìm ra cách
xây dựng nền kinh tế hiệu quả. Đại hội VI của Đảng (1986) đã định hướng Việt Nam
đi theo con đường xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trải qua 33 năm, bằng sự nỗ lực, sang tạo của quần chúng, các ngành các cấp, chúng
ta đã vượt qua những giai đoạn khó khăn và đạt được những thành tựu to lớn trên
nhiều lĩnh vực đời sống xã hội: tăng trưởng kinh tế nhanh, chính trị ổn định, mở rộng
quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,..
Việc đạt được những thành tựu to lớn ấy có một phần không nhỏ đóng góp của chủ
nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là từ việc chúng ta lĩnh hội, nắm bắt và vận dụng hiệu quả
phép biện chứng giữa cái chung và cái riêng (cặp phạm trù cơ bản của phép biện
chứng triết học Mác-Lênin). Bởi cặp phạm trù biện chứng ấy đã cho chúng ta một
điểm tựa về tư tưởng, định hướng đúng đắn, sát đáng để chúng ta xây dựng nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Qua việc được tiếp thu những tri thức quý báu về triết học Mác-Lênin và mong
muốn tìm hiểu quy luật về sự phát triển của kinh tế Việt Nam cũng như hiểu rõ hơn
về phạm trù “cái chung – cái riêng”, em quyết định chọn đề tài “Biện chứng giữa cái
chung và cái riêng và vận dụng vào việc xây dƣng nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc
ta” làm nội dung cho bài tiểu luận của mình. Do trình độ hiểu biết còn hạn chế và
việc vận dụng các tri thức triết học còn chưa triệt để nên bài tiểu luận của em còn
nhiều sai sót, do vậy em mong cô bỏ qua cho những thiếu sót trong bài tiểu luận này. lOMoAR cPSD| 45650917
Bài tiểu luận gồm có 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận. PHẦN 2: NỘI DUNG
I.Phép biện chứng về cái chung và cái riêng
1. Biện chứng là gì ?
Khái niệm biện chứng trong lịch sử triết học được dùng theo một số nghĩa khác
nhau. Nhưng trong triết học hiện đại, biện chứng được định nghĩa như sau:
Thứ nhất, là phạm trù dùng để chỉ những mối liên hệ qua lại lẫn nhau, sự vận động
và phát triển của bản thân các sự vật, hiện tượng, quá trình tồn tại độc lập bên ngoài ý thức con người.
Thứ hai, là phạm trù dùng để chỉ những mối liên hệ và sự vận động, biến đổi của
chính quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người. Ở nghĩa thứ hai
này biện chứng trở thành quan điểm, phương pháp “... xem xét những sự vật và những
phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong
sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”, tức là thành phép biện chứng.
2.Phép biện chứng là gì ?
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, khi bàn về các quy luật, Ph. Ăngghen định nghĩa:
“phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự
vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”2. Khi chỉ
ra nội dung chủ yếu của phép biện chứng, Ph. Ăngghen định nghĩa: “Phép biện chứng
là khoa học về sự liên hệ phổ biến. Những quy luật chủ yếu: sự chuyển hóa lượng
thành chất, - sự xâm nhập lẫn nhau của các mâu thuẫn đối cực và sự chuyển hóa từ
mâu thuẫn này sang mâu thuẫn khác khi mâu thuẫn đó lên tới cực độ, - sự phát triển
bằng mâu thuẫn hoặc phủ định của phủ định, - phát triển theo hình thức xoáy trôn
ốc”3, “phép biện chứng đã được coi là khoa học về những quy luật phổ biến nhất của
mọi vận động. Điều đó có nghĩa là những quy luật ấy phải có hiệu lực đối với vận
động trong giới tự nhiên và trong lịch sử loài người cũng như đối với vận động của tư duy”.
Có 2 loại nguyên lý của phép biện chứng là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý phát triển.
3.Phạm trù cái chung và cái riêng lOMoAR cPSD| 45650917
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không
những có ở một sự vật, hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện
tượng (nhiều cái riêng) khác.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định. Cái
đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở một sự
vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác.
Ví dụ: một quả bưởi đang ở trong tủ lạnh là cái riêng (A) và một quả bưởi ở trên
bàn là cái riêng (B) => Cái riêng A khác với cái riêng B. => Giữa 2 quả bưởi trên đều
có thuộc tính chung là bưởi và có ngoại hình giống nhau. Cái chung này được lặp lại
ở bất kỳ quả bưởi nào.
*Quan hệ biện chứng giữa cái chung và riêng
Trong lịch sử triết học có hai xu hướng là duy thực và duy danh đối lập nhau giải
quyết vấn đề quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Phái duy thực
Các nhà duy thực khẳng định, cái chung tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào cái
riêng. Có hai luận giải: Theo luận giải thứ nhất (khá phổ biến) thì cái chung mang
tính tư tưởng, tinh thần, tồn tại dưới dạng các khái niệm chung; theo cách lý giải thứ
hai thì cái chung mang tính vật chất, tồn tại dưới dạng một khối không đổi, bao trùm
tất cả, tự trùng với mình hoặc dưới dạng nhóm các đối tượng... Còn cái riêng, hoặc
hoàn toàn không có (do xuất phát từ Plato vốn coi các sự vật cảm tính là không thực,
chỉ là cái bóng của những ý niệm), hoặc tồn tại phụ thuộc vào cái chung; là cái thứ
yếu, tạm thời, do cái chung sinh ra. Phái duy danh
Các nhà duy danh cho rằng, cái chung không tồn tại thực trong hiện thực khách quan,
chỉ có sự vật đơn lẻ, cái riêng mới tồn tại thực, chỉ tồn tại trong tư duy con người, chỉ
là tên gọi của các đối tượng đơn lẻ. Tuy cùng coi cái riêng là duy nhất có thực, song
các nhà duy danh giải quyết khác nhau vấn đề hình thức tồn tại của nó. Một số người
(như Occam) cho rằng, cái riêng tồn tại như đối tượng vật chất cảm tính; số khác (như
Berkeley) lại coi cảm giác là hình thức tồn tại của cái riêng...
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục những khiếm khuyết của cả hai xu hướng
đó trong việc lý giải mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Cả cái chung lẫn cái
đơn nhất đều không tồn tại độc lập, tự thân, vì chúng là thuộc tính nên phải gắn với
đối tượng xác định; chỉ cái riêng (đối tượng, quá trình, hiện tượng riêng) mới tồn tại
độc lập. Còn cái chung và cái đơn nhất đều chỉ tồn tại trong cái riêng, như là các mặt của cái riêng. lOMoAR cPSD| 45650917
Cái chung không tồn tại độc lập, mà là một mặt của cái riêng và liên hệ không tách
rời với cái đơn nhất, như cái đơn nhất liên hệ chặt chẽ với cái chung. “Bất cứ cái
chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng
nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung...”. Cái riêng không vĩnh cửu mà xuất
hiện, tồn tại một thời gian xác định rồi biến thành cái riêng khác, rồi lại thành cái
riêng khác nữa... cứ thế đến vô cùng. V.I. Lênin viết: “Bất cứ cái riêng nào cũng thông
qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác (sự vật,
hiện tượng, quá trình)”. Cái riêng “chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung”3
và có khả năng chuyển hóa ở những điều kiện phù hợp thành cái riêng bất kỳ khác.
Mọi cái riêng đều là sự thống nhất của các mặt đối lập, vừa là cái đơn nhất vừa là cái
chung. Thông qua những thuộc tính, những đặc điểm không lặp lại của mình, cái
riêng thể hiện là cái đơn nhất; nhưng thông qua những thuộc tính lặp lại ở các đối
tượng khác - lại thể hiện là cái chung. Trong khi là những mặt của cái riêng, cái đơn
nhất và cái chung không đơn giản tồn tại trong cái riêng, mà gắn bó hữu cơ với nhau
và trong những điều kiện xác định chuyển hóa vào nhau.
Mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái chung thể hiện trước hết ở mối liên hệ lẫn nhau
trong một thể thống nhất gồm các mặt, các yếu tố đơn lẻ vốn có trong một sự vật,
hiện tượng này và các mặt, các yếu tố được lặp lại ở nó và trong các sự vật, hiện
tượng khác. Mối liên hệ giữa cái chung với cái riêng biểu hiện ở mối liên hệ lẫn nhau
giữa các thuộc tính (hay các bộ phận) cùng có ở nhiều đối tượng với từng đối tượng
đó được xét như cái toàn bộ. Như vậy, cái riêng là cái toàn bộ, cái chung chỉ là bộ
phận, bởi bên cạnh cái chung thì bất cứ đối tượng (cái riêng) nào cũng còn có cái đơn
nhất, tức là bên cạnh những mặt được lặp lại còn có những mặt không lặp lại, những
mặt cá biệt; vì vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng riêng lẻ nào cũng là sự thống nhất giữa
các mặt đối lập đó. Trong cùng một lúc, sự vật, hiện tượng đó vừa là cái đơn nhất,
vừa là cái chung; thông qua các đặc điểm cá biệt, các mặt không lặp lại của mình, sự
vật, hiện tượng (cái riêng) đó biểu hiện là cái đơn nhất, nhưng thông qua các mặt lặp
lại trong các sự vật, hiện tượng khác, nó biểu hiện là cái chung.
“Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng trong những điều kiện nhất định,
cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại, cái chung có thể biến thành cái
đơn nhất, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để
cái đơn nhất có lợi cho con người trở thành cái chung và cái chung bất lợi trở thành
cái đơn nhất”. Nói chung việc giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng
không hề đơn giản, Lênin đã cho rằng:
“ Con người bị rối lên chính là ở trong phép biện chứng của cái riêng và cái chung” lOMoAR cPSD| 45650917
II.Ý nghĩa phƣơng pháp luận
Từ việc phát hiện mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. Triết học
Mác-Lênin nêu ra một số phương pháp luận cho mối quan hệ này để ứng dụng vào
thực tế và tư duy. Cụ thể là:
Thứ nhất, chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự
vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người
bên ngoài cái riêng vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu
thị sự tồn tại của mình.
Thứ hai, cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng nên nhận thức phải
nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo
cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý chung (
không hiểu biết lý luận ) sẽ không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt động một cách mò mẫm, mù quáng.
Thứ ba, trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định “cái
đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể biến thành
“cái đơn nhất”, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận
lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở thành “cái chung” và “cái chung” bất
lợi trở thành “cái đơn nhất”. Tuy nhiên, vẫn còn một khó khăn trong tư
duy mà nhiều người biết nhưng thường lảng tránh tìm hiểu, giải đáp thấu đáo, đó là:
Cái riêng và cái chung không nằm trên cùng một mặt bằng cơ sở, không cùng một
đơn vị đo. Cái riêng là đối tượng, còn cái chung và cái đơn nhất chỉ là các thuộc tính
của nhiều (hoặc một) cái riêng đó, cho nên phép biện chứng đích thực phải đẩy chúng
lên thành cặp phạm trù cái đặc thù và cái phổ biến.
Cái đặc thù và cái phổ biến. Cái chung trong tương quan với cái đơn nhất được
hiểu như trên chỉ là cái chung hình thức, cái phổ biến trừu tượng, có rất ít ý nghĩa đối
với nhận thức; trong khi tư duy nhận thức yêu cầu phải đạt đến trình độ hiểu cái chung
biện chứng, cái phổ biến cụ thể, đúng như V.I. Lênin đòi hỏi: ““Không phải chỉ là cái
phổ biến trừu tượng, mà là cái phổ biến bao hàm cả sự phong phú của cái đặc thù, cái
cá thể, cái cá biệt” (tất cả sự phong phú của cái đặc thù và cái cá biệt!)”1. Để làm rõ
cái đơn nhất thì cần phải so sánh đối tượng được xét với tất cả các đối tượng khác,
nhưng thực tế không thể làm được điều đó. Vì thế người ta thường chỉ so sánh một
đối tượng với một số xác định các đối tượng. Do đó cái chung đối lập không hẳn ngay
với cái đơn nhất, mà với cái vừa ít chung hơn, vừa ít đơn nhất hơn, tức là với cái đặc
thù. Việc so sánh thuộc tính của một đối tượng với thuộc tính của tất cả đối tượng sẽ lOMoAR cPSD| 45650917
giúp chúng ta hình dung về cái đơn nhất, nhưng nếu so sánh thuộc tính của một số
đối tượng với thuộc tính của tất cả, sẽ cho hình dung về cái đặc thù. Như vậy, cái đặc
thù chỉ ra sự khác biệt cùng có ở một số cái riêng với cái chung vốn có ở tất cả cái riêng.
Trong bút ký Triết học, Lênin viết:
“Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giảo quyết vấn đề chung, thì kẻ
đó, trên mỗi bước đi sẽ không sao tránh khỏi những vấp váp vấn đề chung một cách
không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong trường hợp riêng có
nghĩa là đưa ra những chính sách của mình đến chỗ có sự dao động tồi tệ nhất và mất
đi hẳn những nguyên tắc”
III.Vận dụng cặp phạm trù cái riêng – cái chung vào việc xây dựng nền kinh tế
thị trƣờng ở nƣớc ta 1.Khái niệm nền kinh tế thị trƣờng
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều
loại hình sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh
tranh bình đẳng và ổn định.
Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế thị trường. Theo Xmit
(Adam Smith), với lí thuyết “bàn tay vô hình" thì nền kinh tế thị trường là nền kinh
tế tự điều tiết, vận động theo quy luật của thị trường, hầu như không có sự can thiệp
của Nhà nước. Kinh tế thị trường được hiểu dưới góc độ khác là có sự can thiệp trực
tiếp của Nhà nước “bàn tay hữu hình" mà đại diện cho thuyết này là Kâynơ (J. M.
Keynes) với “Lí thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ".
Ở Việt Nam, xây dựng và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản
lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được đặt ra từ Đại hội lần thứ
VI Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 4986), được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp
năm 1992 và các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Từ việc phát triển kinh tế trong cơ
chế cũ - cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây với hai thành phần kinh tế
là kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể (kinh tế tư bản, tư nhân không được thừa nhận),
đến nay, trong nền kinh tế Việt nam đã có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và
phát triển với những hình thức sở hữu khác nhau, trong đó, đáng chú ý là sự hiện diện
của thành phần tư bản nước ngoài đang đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Nhà nước
Việt Nam khuyến khích và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật, chính sách để các thành
phần kinh tế cùng có cơ hội phát triển trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh.
2.Chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng là một tất yếu khách quan lOMoAR cPSD| 45650917
Xét về hoàn cảnh lịch sử xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là kinh tế phong
kiến. Sau chiến tranh ta tiếp tục xây dựng kinh tế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung dựa
vào hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Sau ngày giải phóng miền nam,
nền kinh tế nước ta tồn tại ở 3 gam màu: kinh tế tự cấp tự túc, kinh tế kế hoạch hoá
tập trung và kinh tế hàng hoá. Lúc này nước ta đồng thời bị cắt giảm nguồn viện trợ
từ các nước Xã hội chủ nghĩa. Tất cả những điều này đã làm cho nền kinh tế nước ta
vào những năm 80 rơi vào khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân giảm sút, thâm
chí một số nơi còn bị nạn đói đe doạ.
Đảng ta đã xác định đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và
trên thực tế đang diễn ra điều đó, tức là chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh
tế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đây là
một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa quan trọng trong thực tế cũng như trong lý luận.
3.Vận dụng vào thực tiễn a.Cái chung đƣợc vận dụng vào nền kinh tế thị trƣờng
Quá trình phát triển mô hình Kinh tế thị trường mỗi quốc gia đều có màu sắc riêng
đó là điều kiện đặc thù về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Bên cạnh đó nhất thiết
có đặc điểm chung mang tính quy luật mà khi theo mô hình kinh tế này đất nước ta buộc phải trải qua.
Một đặc điểm chung cơ bản dễ nhận ra đó là cũng như mọi nước khác chúng ta
cũng chịu sự phân công lao động theo ngành nghề, có sự khác biệt về sở hữu tài sản
và đặc biệt lợi nhuận là động lực cho sự phát triển. Kinh tế thị trường do người lao
động làm chủ. Điều này có thực trên cơ sở nhà nước của dân, do dân và chế độ công
hữu. Trong đó, người lao động đóng vai trò sở hữu tư liệu sản xuất.
Đặc điểm chung nữa là những vấn đề tiêu cực mà kinh tế thị trường đem lại, đó là
sự phân hoá giàu nghèo sâu sắc, sử dụng cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên gây ô
nhiễm môi trường làm cho kinh tế nước ta phát triển mất cân đối.
b.Cái riêng đƣợc vận dụng vào nền kinh tế thị trƣờng nƣớc ta
Chúng ta đều thống nhất mô hình kinh tế thị trường là mô hình kinh tế chung của
nhiều đất nước nhưng kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng có những cái riêng, đặc thù của Việt Nam. lOMoAR cPSD| 45650917
Nước ta không coi kinh tế thị trường là đặc thù mà chỉ là phương tiện để phát triển
lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội và thiết lập
quan hệ sản xuất mới. Mục đích của chúng ta là xâu dựng nước ta thành một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ văn minh. Nhà nước với chức năng điều tiết, quản lý
nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế cũng như
bảo đảm sự ổn định về chính trị, xã hội, thiết lập khuôn khổ pháp luật thống nhất có
hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh
doanh hoạt động hiệu quả.
Ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mặc dù phân
bố các nguồn lực cho các nhu cầu sử dụng khác nhau chủ yếu được quyết định bởi
thị trường nhưng nhà nước Xã hội chủ nghĩa đóng một vai trò trong việc điều tiết vĩ
mô, bảo đảm giữ vững cân đối khách quan một cách tự giác. Bằng cách này hệ thống
kinh tế có thể hạn chế và khắc phục một số khuyết điểm điểm của kinh tế thị trường
đảm bảo giữ vững các cân đối khách quan một cách tự giác. Kinh tế thị trường ở Việt
Nam là sự tìm tòi thể hiện mới cả về lý luận lẫn thực tiễn của Xã hội chủ nghĩa trong
thời đại ngày nay. Trong Đại hội IX, Đảng ta đã xác định những nội dung lớn trong
việc xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm tới là tiếp tục tạo lập
đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lí kinh tế của Nhà
nước. Thúc đẩy sự hình thành và phát triển, từng bước hoàn thiện các loại thị trường
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Như vậy cùng với sự hoàn thiện và thích đáng dẫn
dến hệ thống kinh tế mới, thuật ngữ kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa
cũng đang ở trong quá trình hoàn thiện về nhận thức.
Theo lý luận của Mac-Lenin, chúng ta đã biết cái riêng phọng phú hơn chung, cái
riêng bao hàm cái chung. Ở đây, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cái
riêng trong nền kinh tế thị trường, nó vận hành theo những quy luật chung của kinh
tế thị trường mà ngoài ra còn có những nét riêng đặc trưng mà chúng ta đã nói ở trên.
4.Thành tựu và hạn chế trong việc xây dựng nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa *Thành tựu
a. Về lĩnh vực con người:
Người Việt nam hiện nay đã thể hiện sự năng động, tinh tế, nhạy cảm (đặc biệt là
với thị trường) hơn hẳn so với những năm 80.
b. Về lĩnh vực kinh tế:
- Nhờ chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo một đường lối đúng đắn,
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh riêng, con người, tự nhiên, xã hội, điều kiện lOMoAR cPSD| 45650917
lịch sử...) của Việt Nam mà nền kinh tế cũng như đời sống của người dân được cải thiện đáng kể.
- Công tác xã hội cũng đang ngày càng được coi trọng. Nhà nước đã và đang
kiểm soát được phần nào những khuyết tật xã hội do kinh tế thị trường mang
lại, bù đắp những mất mát cho các gia đình cách mạng, thực hiện một số phúc
lợi xã hội, tiến hành xây dựng chế độ XHCN trên phương diện xã hội... *Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu to lớn và cơ bản đã đạt được, tình hình kinh tế - xã hội
của Việt Nam vẫn còn những mặt yếu kém:
- Tốc độ tang trưởng kinh tế chung còn ở mức thấp so với kế hoạch đề ra. Chất
lượng tăng trưởng, tính bền vững và độ đồng đều chưa cao.
- Do cách làm chạy theo lợi nhuận dẫn đến tình trạng trốn thuế, lừa đảo, gian
lận và nhiều tệ nạn xã hội xuất hiện như: ma túy, mại dâm, cướp bóc…
- Mọi vẫn đề xã hội đều thương mại hóa, bị chi phối bởi đồng tiền làm cho tình
cảm giữa người với người đôi khi bị cân đo đong đếm.
5.Một số giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế thị trƣờng Việt Nam dựa trên
những đặc điểm riêng
Dựa trên những đặc điểm trên ta có thể đưa ra một số giải pháp để phát triển kinh
tế thị trường Việt Nam như sau:
- Phải đào tạo “lớp người mới”, quen thuộc khoa học kỹ thuật, máy móc hiện
đại, đòi hỏi người lao động có trình độ cao. Vì thế, ta phải đẩy mạnh phát triển
khoa học, giáo dục đào tạo và nuôi dưỡng nhân tài.
- Nước ta có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, đồng thời có nhiều danh lam thắng
cảnh đẹp nổi tiếng thế giới. Do đó,phải đẩy mạnh phát triển giao thông và du
lịch để xứng với tiềm năng của nó.
- Để giữ vững vị trí là nhân tố bảo đảm nên kinh tế thị trường của nước ta thì
doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao sản xuất, năng động hơn và bám sát
vào tình hình biến động của thị trường và quan tâm đến hiệu quả sản xuất hơn.
- Thiết lập luật pháp chặt chẽ. Đưa con người đến với tự giác tuân thủ pháp luật,
sống văn minh, có văn hóa và cạnh tranh lành mạnh, công bằng.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Tiểu luận với đề tài "Biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam" của tôi đã nêu ra những kiến thức cơ bản về cái chung
và cái riêng, mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Giữa cái chung và cái riêng luôn
có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thong
qua cái riêng để biển hiện sự tồn tại của mình; còn cái riêng tồn tại trong mối liên hệ
dẫn đến cái chung. Vận dụng vào thực tiễn, với vai trò là một “cái riêng”, nền kinh tế lOMoAR cPSD| 45650917
thị trường ở Việt Nam cũng tuân theo những quy luật chung mang tính bản chất của
kinh tế thị trường, đồng thời cũng chưa đựng những đặc điểm bản sắc đặc trưng, vốn
có, riêng của Việt Nam. Thực hiện đúng quy luật phát triển chúng ta đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, đạt mức tăng trưởng kinh tế cao. Tiểu luận đã phân tích
những thành tựu và hạn chế của nền kinh tế đạt được qua việc vận dụng nguyên lý cơ
bản của Mác Lênin qua đó đưa ra mộ số giải pháp để tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Hi vọng tiếp sau tiểu luận này sẽ có nhiều đề tài nghiên cứu sâu hơn vào từng lĩnh
vực, từng ngành kinh tế dựa trên mối liên hệ biện chứng giữa cái riêng vài chung, từ
đó có thể đưa ra những giải pháp cụ thể, mang tính thực tiễn cao hơn góp phần phát
triển nền kinh tế thị trường Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình triết học Mác-Leenin ( Dùng trong các trường đại học,cao đẳng), GS.TS. Nguyễn Hữu Vui
2.Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin (Dành cho sinh
viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí
Minh) – TS. Phạm Văn Sinh, GS.TS. Phạm Quang Phan 3.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.86 - 88 4.
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/thtk/pages_r/l/chi-tiet-tin-tin-hoc-va-
thong- ke?dDocName=MOFUCM147488