


Preview text:
Phong kiến là gì? Những đặc trưng cơ bản của nhà nước phong kiến Việt Nam
1. Phong kiến là gì?
Trong từ điển Hán Viê ̣t giải thích: "Phong kiến là phong tước và kiến quốc chỉ việc nhà vua phong
tước, chia đất để chư hầu dựng nước ở khu vực đã được phong".
Phong kiến là cấu trúc xã hội xoay quanh những mối quan hệ xuất phát từ việc sở hữu đất đai để đổi lấy lao động.
Phong kiến phản ánh hình thức truyền nối và chiếm hữu đất đai của chế độ quân chủ thời xưa,
trong thời quân chủ chuyên chế. Trong nhiều trường hợp, những thời kỳ quân chủ trước kia cũng
được gọi là thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, trong thời hiện tại, thể chế về chế độ quân chủ thời nay
là chế độ quân chủ lập hiến, cho nên phong kiến chỉ phản ánh một giai đoạn, một thời kỳ hay là
một hình thái của chế độ quân chủ.
Chế độ phong kiến gồm có vua, chư hầu (địa chủ) và phong địa, nông dân. Vua là người đứng đầu
một nước có quyền lực tối cao, tất cả mọi người phải phục tùng. Chư hầu là vua chúa cấp dưới bị
phụ thuộc, phải phục tùng và được một vua chúa lớn mạnh hơn làm thiên tử thống trị tối cao và
phong địa là đất phong cho chư hầu, phòn cho rất nhiều đất có tư cách như một nước độc lập và
truyền từ đời này sang đời khác. Còn nông dân là những người dân nghèo không có đất đai của cải.
2. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước phong kiến Viê ̣t Nam
Chế độ phong kiến là một chế độ quân chủ chuyên chế đứng đầu là vua- người nắm giữ mọi quyền
hành, thâu tóm mọi quyền lực của đất nước, luôn kìm hãm sự phát triển trong mọi tư tưởng tiến
bộ của nhân dân, luôn đặt mọi quyền lợi của mình lên cao, xã hội thường phân chia ra nhiều giai
cấp thống trị khác nhau, là nơi không có sự công bằng về công lí...
Là chế độ quân chủ, cả nước có 1 ông vua trị vì. Truyền ngôi theo nguyên tắc cha truyền con nối.
Những người giúp vua trị nước thì gọi là Quan, Lại. Thủ đô thì gọi là kinh đô. Chính phủ thì gọi
là triều đình. Luật lệ thì gọi là vương pháp. Nhân dân gọi là bách tính.
Chế độ phong kiến là chế độ xã hội mà Vua là người trị vì cao nhất. Người tự phong là thay trời
hành đạo. Ở chế đô ̣ này, hành xử Vua-tôi thì trung quân - ái quốc : quân sử thần tử,thần bất tử bất
trung. Hành xử gia đình, đối với người phụ nữ thì tam tòng tứ đức : Xuất giá tòng phu, xuất gia
tòng phụ, phu tử tòng tử.Công, dung, ngôn, hạnh..
Hình thái xã hội - kinh tế xuất hiện sau chế độ chiếm hữu nô lệ, trong đó giai cấp địa chủ, quý tộc
chiếm hữu đất đai, bóc lột địa tô, chính quyền tập trung trong tay vua chúa, địa chủ. Đây là chế độ
địa chủ bóc lột nông dân. Địa chủ chiếm tư liệu sản xuất, tức là ruộng đất, nông cụ, vân vân, làm
của riêng, nhưng họ không cày cấy. Nông dân buộc phải mướn ruộng đất của địa chủ, phải nộp tô
cho địa chủ, phải hầu hạ và lễ lạt địa chủ. Nông dân giống như nô lệ. Nông dân quanh nǎm làm
viê ̣c, tay lấm chân bùn, đầu tắt mặt tối, nhưng vẫn nghèo khổ. Địa chủ không phải làm, mà lại cửa
cao nhà rộng, phú quý phong lưu, cho thấy mô ̣t xã hô ̣i không công bằng. Nông dân vì nghèo khó,
không thể nâng cao mức sản xuất. Địa chủ thì chỉ lo lấy địa tô, không lo cải thiện sự sản xuất. Vì
vậy, sản xuất không thể nâng cao. Nhà nước phong kiến được xây dựng trên cơ sở của phương
thức sản xuất phong kiến mà nền tảng là nền kinh tế dựa trên sở hữu của giai cấp địa chủ phong
kiến đối với ruộng đất cũng như một số tư liệu sản xuất khác, và sở hữu cá thể của của nông dân
trong sự lệ thuộc vào giai cấp địa chủ.
Trong xã hội có hai giai cấp chính là nông dân và địa chủ. Đặc điểm của chế độ phong kiến là:
nông dân sản xuất một cách rời rạc. Địa chủ bóc lột một cách tàn ác. Nhà nước phong kiến là nhà
nước của giai cấp địa chủ, lấy vua chúa làm trung tâm, bóc lô ̣t nhân dân, dùng mồ hôi nước mắt
của nông dân để nuôi một bầy quan lại và quân lính, áp bức bóc lột nông dân.
* Những biến đổi trong đời sống xã hội:
- Bằng quyền lực của mình, cửa cải tâ ̣p trung vào những quan lại và một số nông dân giàu, họ còn
tước đoạt thêm nhiều ruộng đất công. Từ đó, xuất hiê ̣n một giai cấp mới bao gồm những kẻ có
ruộng tư là những quan lại và những nông dân giàu có, gọi giai cấp địa chủ.
- Cùng với quá trình hình thành giai cấp địa chủ, nông dân cũng bị phân hoá: Nông dân giàu có
trở thành địa chủ: nông dân giữ dân giữ được một số ruộng đất gọi là nông dân tự canh: số còn lại
là nông dân công xã, rất nghèo, không có hoặc có quá ít ruộng đất trở thành nông dân lĩnh canh.
Như vậy, quan hệ chủ yếu trứơc kia là quan hệ bóc lột của quý tộc đối với nông dân đầu tiên
nhường chỗ cho quan hệ bóc lột của địa chủ với nông dân lĩnh canh - quan hệ phong kiến xuất hiện.
Tổ chức bộ máy nhà nước :
- Đứng đầu là vua (Hoàng đế),người tối cao có quyền lực tuyệt đối.
- Ở Trung ương: Bộ máy chính quyền có hệ thống quan văn quan võ, Thừa tướng đứng đầu các
quan văn, Thái uý đứng đầu các quan võ, ngoài ra còn có các chức quan coi binh mã, tiền tài, lương thực, tư pháp.
- Ở địa phương: Hoàng đế chia thành quận huyện, đặt các chức quan Thái thú ở quận và Huyện
lệnh ở huyện (tuyển dụng quan lại chủ yếu là hình thức tiến cử).
Xã hội chia thành bốn đẳng cấp là quan lại, nông dân, thợ thủ công, thương nhân nhưng không
chặt chẽ, một người có khả năng thay đổi địa vị trong hệ thống đẳng cấp này.
- Hệ thống chính trị có thể là phân quyền cát cứ hay tập quyền theo chính thể quân chủ.
- Nông nghiệp dựa trên sản xuất nhỏ của nông dân là cơ sở kinh tế chủ yếu, những giai đoạn cuối,
kinh tế hàng hoá phát triển mạnh dẫn đến sự ra đời của kết cấu kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa.
Kinh tế lãnh địa và quan hệ lãnh chúa - nông nô không phát triển, chế độ quân chủ tập quyền ra
đời sớm và tồn tại lâu dài, bên cạnh sở hữu tư nhân còn có sở hữu nhà nước về ruộng đất, kinh tế
địa chủ với quan hệ địa chủ - tá điền chiếm ưu thế,...
Nho giáo trở thành công cụ tinh thần sắc bén phục vụ cho nhà nước phong kiến tập quyền, bảo vê ̣
cho chế đô ̣, trở thành cơ sở lí luận và tư tưởng của chế độ phong kiến. Các quan niệm về quan hệ
phục tùng giữa vua - tôi, chồng - vợ, cha - con là kỉ cương của xã hội, là đạo đức phong kiến. Nho
giáo, một mặt đề xướng con người phải tu thân, rèn luyện đạo đức phẩm chất; mặt khác, giáo dục
con người phải thực hiện đúng bổn phận đối với quốc gia là trung quân. Đồng thời, Nho giáo cũng
buộc con người phải giữ chữ hiếu và người cha là người có vai trò quyết định nhất trong gia
đình. Sau này học thuyết của Nho giáo trở nên bảo thủ, ràng buộc tư tưởng tình cảm con người
vào những khuôn khổ lỗi thời và kìm hãm sự phát triển xã hội.
* Pháp luâ ̣t phong kiến
- Pháp luâ ̣t giai cấp và đặc quyền: trao quyền lực cao nhất cho Vua, sau đó là địa chủ và tăng lữ.
Những giai cấp cosd nhiều quyền xét xử và đưa ra luâ ̣t lê ̣ đối với nông dân. Những người có hành
vi xâm phạm cấp trên sẽ bị trừng trị rất nặng với những hình thức dã man, tàn bạo. Những hình
phạt đặt ra thường nhằm mục đích gây đau đớn về thể xác và ảnh hưởng lớn đến tinh thần.