Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945 - Lịch sử đảng | Trường Đại học Hùng Vương

Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945 - Lịch sử đảng | Trường Đại học Hùng Vương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC 1939-1945
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Tình hình thế giới nửa đầu thế kỷ XX
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ Đalađiê
(Daladier) thi hành một loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ trong nước
phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ.
Tháng 6/1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ của Thủ tướng Pêtanh
(Pétain) văn bản đầu hàng Đức. Tướng Đờ Gôn (Charles De Gaulle) ra nước
ngoài để xây dựng lực lượng kháng chiến chống Đức. Sau khi chiếm một loạt nước
châu Âu, tháng 6/1941 Đức tiến công Liên Xô. Vào thời điểm này, Liên phát
động cuộc kháng chiến chính nghĩa, cuộc chiến tranh vệ quốc để bảo vệ Tổ quốc
làm thay đổi tính chất của thế chiến II: từ tính chất đế quốc chuyển sang tính chất
dân chủ. Mặt trận đồng minh chống phát t được thành lập, gồm hơn 20 nước
trong đó có các nước lớn: Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ.
Từ giữa năm 1941, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển. Ngày 7/12/1941,
Nhật không kích cái hạm đội quân tinh nhuệ của Mỹ Trân Châu Cảng thuộc tiểu
bang Hawaii. Ngay sau đó vào ngày 8/12/1941, tổng thống Mỹ tuyên bố nước Mỹ
nạn nhân của sự xâm lược phát động chiến tranh Thái Bình Dương với Nhật.
Và sau đó, Anh Pháp đồng minh của Mỹ tuyên chiến với Nhật làm chiến tranh Thái
Bình Dương bùng nổ. Quân phiệt Nhật lần lượt đánh chiếm nhiều thuộc địa của Mỹ
Anh ở trên biển và trong đất liền.
1.1.2. Tình hình Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Đông Dương, bộ máy đàn áp được tăng cường, lệnh thiết quân luật được
ban bố. Ngày 28/9/1939 Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cấm tuyên truyền
cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các
1
hội, đoàn, đóng cửa các tờ báo nhà xuất bản, cấm hội họp tụ tập đông
người…
Thực dân Pháp đã thi hành chính sách “Cai trị thời chiến cùng tàn bạo”.
Về chính trị, chúng tăng cường đàn áp, ban bố thiết quân luật, phát xít hoá bộ máy
thống trị. Về kinh tế, chúng tăng cường bóc lột, thực hiện chính sách “kinh tế chỉ
huy” nhằm tăng cường vét sức người, sức của để phục vụ cuộc chiến tranh đế
quốc. Về quân sự, chúng tăng cường bắt lính, trong đó hơn 7 vạn người Việt Nam
đã bị đưa sang Pháp để làm bia đỡ đạn. Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam và thực
dân Pháp ngày càng lên cao và trở nên gay gắt hơn.
Năm 1940, lấy do mở rộng căn cứ chống đồng minh, Nhật Bản đã xâm
lược Đông Dương của Pháp trong đó Việt Nam. Ngày 22/9/1940, Nhật đổ bộ
vào Lạng Sơn. Chỉ sau 3 ngày, quân Pháp thua Lạng Sơn rút chạy. Ngày
27/9/1940, Pháp đã hiệp ước đầu hàng cấu kết với Nhật để thống trị bóc
lột làm cho Việt Nam phải chịu cảnh một cổ hai tròng” , từ đó đẩy nhân dân ta
vào cảnh cùng cực. Nạn đói năm 1945 đã làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói
khiến mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn xã hội thay đổi, toàn bộ tầng
lớp giai cấp trừ bọn tay sai cho Pháp đều thấy quyền lợi của mình bị đe dọa, chính
vì vậy, vấn đề giải phóng dân tộc trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
1.2. Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo nhiệm vụ chiến lược của Đảng
1.2.1. Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
Dựa trên sở phân tích tình hình, Đảng ta đã thực hiện chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược sách lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Chủ
trương đó được thể hiện trong nghị quyết Trung ương 6 (11-/939), nghị quyết
Trung ương 7 (11/1940) và nghị quyết Trung ương 8 (5/1941).
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng (11/1939) diễn ra tại Điểm
(Hóc Môn, Gia Định) từ 6-8/11/1939 do đồng chí Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã xác
2
định kẻ thù chủ yếu trước mắt bọn đế quốc phát xít Pháp. Hội nghị xác định đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu cấp bách nhất của cách mạng Đông
Dương lúc này: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn con
đường nào khác ngoài con đườngtrang bạo động, đánh đổ đế quốc Pháp, chống
tất cả ách ngoại xâm, luận da trắng hay da vàng để giành lấy độc lập”. Khẩu
hiệu “cách mạng ruộng đất” phải tạm gác thay bằng các khẩu hiệu chống địa
cao, chống cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất của đế quốc địa chủ phản bội
quyền lợi dân tộc chia cho dân cày. Hội nghị cũng chủ trương thành lập Mặt trận
dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, thu hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng
phái và cá nhân yêu nước ở Đông Dương. Về phương pháp cách mạng hội nghị xác
định cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Đông Dương thể giành thắng
lợi bằng khởi nghĩa trang. Như vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, đánh dấu sự chuyển hướng trong chỉ
đạo nhiệm vụ chiến lược của Đảng.
Hội nghị lần thứ 7 của Đảng được triệu tập trong thời gian từ 6-9/11/1940 tại
Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh do đồng chí Trường Chinh chủ trì đã khẳng định sự
chuyển hướng đề ra trong hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 là
hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, hội nghị 7 còn bổ sung thêm hai nội dung mới. Một
là, duy trì lực lượng trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích, khi cần thiết
thì chiến đấu chống khủng bố, bảo vệ tài sản cách mạng, tiến tới lập căn cứ địa du
kích, lấy vùng Bắc Sơn – Võ Nhai làm trung tâm. Hai là, chỉ thị cho xứ uỷ Nam Kỳ
hoãn cuộc khởi nghĩa chưa đủ điều kiện đảm bảo cho khởi nghĩa thắng lợi (địch
nhiều, mạnh, ta yếu, ít; địa hình đồng bằng sông nước kẻ địch thể huy động các
phương tiện để đàn áp như máy bay, tàu chiến, xe tăng, ...). Như vậy, Hội nghị 7 đã
tiếp tục kiên quyết phát triển, củng cố nâng cao mục tiêu chiến lược của Đảng được
đề ra tại Hội nghị 6.
3
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 do đồng chí Nguyễn Ái Quốc
chủ trì tại Cao Bằng từ 10-19/5/1941. Nội dung của hội nghị lần thứ 8 xác định tôn
trọng quyền dân tộc tự quyết của nhân dân ba nước Đông Dương, thế, để thi
hành đúng chính sách “dân tộc tự quyết”, mỗi nước thành lập một mặt trận riêng.
Hội nghị đã khẳng định phải xúc tiến công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa
trang giành thắng lợi. Đây nhiệm vụ trọng tâm của Đảng nhân dân ta. Hội
nghị cũng công bố một số văn kiện quan trọng như chương trình hành động của
mặt trận Việt Minh, điều lệ của nông dân cứu quốc, điều lệ của du kích cứu quốc.
Như vậy hội nghị 8 đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng nhiệm vụ chiến lược nhằm
giải quyết mục tiêu quan trọng nhất của cách mạng đề ra nhiều chủ trương sáng
tạo để thực hiện mục tiêu ấy. Hội nghị TW 8 được coi Hội nghị hoàn chỉnh chủ
trương chiến lược của Đảng đã khắc phục triệt để hạn chế của luận cương chính
trị (10/1930), khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn
Ái Quốc đúng đắn của cương lĩnh chính trị 2/1930.
1.2.2. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một
của cách mạng độc lập dân tộc đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện
mục tiêu ấy.
Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi nhân dân Việt Nam yêu nước trong Mặt trận
Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng cả nông thôn thành
thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng lực lượng trang, ngọn cờ dẫn đường
cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật,
giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
4
Đó là chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong điều kiện lịch sử cụ thể
của đất nước; phát huy cao độ tiềm năng, sức mạnh của toàn dân tộc trong nhiệm
vụ đánh Pháp đuổi Nhật giành độc lập tự do; ý nghĩa quyết định chiều hướng
phát triển của cuộc đấu tranh của nhân dân, trực tiếp đưa đến thành công của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945.
CHƯƠNG 2:
PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 1939-1945
2.1. Phong trào chống Pháp - Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc
khởi nghĩa vũ trang
Ngày 27/9/1940, nhân khi quân Pháp Lạng Sơn bị Nhật tiến đánh phải rút
chạy qua đường Bắc Sơn - Thái Nguyên, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ địa phương nổi dậy khởi nghĩa, chiếm đồn Mỏ Nhài, làm chủ châu lỵ Bắc
Sơn. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập. Pháp và Nhật cấu kết với nhau, Nhật cho
Pháp trở lại đóng đồn BốtLạng Sơn, Pháp tiến hành khủng bố, đốt phá làng bản,
bắn giết những người tham gia khởi nghĩa. Mặc thất bại nhưng khởi nghĩa Bắc
Sơn bước phát triển của đấu tranh trang mục tiêu giành độc lập, mở đầu
cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Ở Nam Kỳ, phong trào cách mạng của quần chúng lan rộng ở nhiều nơi. Vào
tháng 11/1940, Pháp bắt thanh niên Việt Nam Cao Miên làm bia đỡ đạn tại biên
giới Thái Lan nên bị nhân dân Nam Kỳ binh lính phản đối. Xứ uỷ Nam Kỳ
chuẩn bị phát động khởi nghĩa cử đại biểu ra Bắc xin chỉ thị của Trung ương. Tuy
nhiên, Hội nghị cán bộ TW họp Bắc Ninh đình chỉ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.
Tuy nhiên, chủ trương hoãn cuộc khởi nghĩa chưa được triển khai thì đêm
23/11/1940, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra trên quy18 tỉnh thành. Quân khởi nghĩa
chiếm nhiều đồn bốt, tiến công nhiều quận ly. Chính quyền cách mạng được thành
lập một số địa phương ban bố các quyền tự do dân chủ, mở phiên tòa xét xử
5
phản cách mạng. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa bị đế quốc Pháp đàn áp khốc liệt làm
cho lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng nề, phong trào cách mạng Nam Kỳ gặp
khó khăn.
Trong bối cảnh binh lính người người Việt trong quân đội Pháp phản đối việc
Pháp đưa người Việt sang Lào đánh nhau với quân Thái Lan, ngày 13/1/1941, Đội
Cung chỉ huy binh nh đồn chợ Rạng (Nghệ An) nổi dậy đánh chiếm đồn Đô
Lương rồi kéo về Vinh, phối hợp với binh lính ở đây chiếm thành. Tuy nhiên do lực
lượng yếu và không có sự chuẩn bị nên Pháp đã nhanh chóng đàn áp.
Mặc cả ba cuộc khởi nghĩa trang đều thất bại nhưng đã thể hiện tinh
thần yêu nước của toàn thể nhân dân Việt Nam; đồng thời còn là “những tiếng súng
báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng võ lực của các
dân tộc một nước Đông Dương”. Đặc biệt, trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
(11/1940) lần đầu tiên xuất hiện lá cờ đỏ sao vàng, sau này được sử dụng làm quốc
kỳ của nước Việt Nam.
Pháp - Nhật ngày càng tăng cường đàn áp cách mạng Việt Nam. Ngày 26-8-
1941, thực dân Pháp xử bắn Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Huy Tập,
Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai tại Hóc Môn, Gia định. Hồng Phong hy sinh
trong nhà Côn Đảo (6/9/1942). Tháng 8/1942, Nguyễn Ái Quốc lấy tên Hồ
Chí Minh trên đường đi công tác ở Trung Quốc cũng bị quân Trung Hoa dân quốc
bắt giữ hơn một năm (từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943). Trước quân thù tàn bạo
các chiến cộng sản đã nêu cao ý chí kiên cường bất khuất giữ vững niềm tin
vào thắng lợi tất yếu của cách mạng; đồng thời Đảng ta cũng tích cực chuẩn bị lực
lượng về mọi mặt.
Ngày 25/10/1941 Việt Minh công bố Tuyên ngôn, nêu rõ: “Việt Nam độc lập
đồng minh (Việt Minh) ra đời. Chương trình hành động đáp ứng nguyện vọng cứu
nước của mọi giới đồng bào, là nơi tập hợp, giác ngộ, rèn luyện lực lượng chính trị
rộng lớn.
6
Đảng tích cực chăm lo xây dựng đảng củng cố tổ chức, mở nhiều lớp
huấn luyện ngắn ngày, đào tạo cán bộ về chính trị, quân sự, binh vận. Nhiều cán bộ,
đảng viên trong các nhà Sơn La, Chợ Chu, Buôn Ma Thuột... vượt ngục về địa
phương tham gia lãnh đạo phong trào.
Tháng 2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh,
Phúc Yên) nay thuộc Hà Nội, đề ra những biện pháp cụ thể nhằm phát triển phong
trào quần chúng rộng rãi và đều khắp nhằm chuẩn bị điều kiện cho cuộc khởi nghĩa
trong tương lai có thể nổ ra ở những trung tâm đầu não của quân thù.
Đảng Việt Minh cho xuất bản nhiều tờ báo: Giải phóng, Cờ giải phóng,
Chặt xiềng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Tiền phong,
Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập, v.v... Trong các nhà đế
quốc, những chiến sĩ cách mạng cũng sử dụng báo chí làmkhí đấu tranh, ra các
tờ báo Suối reo (Sơn La), Bình Minh (Hòa Bình), Thông reo (Chợ Chu), Dòng sông
Công (Bá Vân)...
Đảng tăng cường tập hợp các lực lượng dân tộc vào cuộc đấu tranh tự giải
phóng. Cụ thể, năm 1943, Đảng Việt Minh thông qua bản Đề cương văn hóa
Việt Nam, nhằm khẳng định tinh thần của nền văn hóa VN: dân tộc, khoa học
đại chúng. Năm 1944, với mục tiêu tập hợp giới trí thức, văn nghệ tham gia vào
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc này, Đảng Việt Minh đã vận động, giúp đỡ
một số sinh viên, trí thức yêuớc thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam đứng trong
Mặt trận Việt Minh. Bên cạnh đó, Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh
lính người Việt người Pháp trong quân đội Pháp, thậm chí cả những ngoại
kiều Đông Dương xu hướng chống phát xít cũng đều tham gia vào cuộc đấu
tranh tự giải phóng ở VN.
Về xây dựng lực lượng trang, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường
vụ Trung ương Đảng, đội du kích Bắc Sơn được duy trì phát triển thành Cứu
quốc quân. Sau 8 tháng hoạt động gian khổ, một bộ phận Cứu quốc quân vượt khỏi
7
vòng vây của quân Pháp, rút lên biên giới phía Bắc, nhưng giữa đường đi bị phục
kích tổn thất nặng. Bộ phận Cứu quốc quân còn lại đã phân tán lực lượng hoạt
động tại chỗ, phát triển cơ sở chính trị.
Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập một đội trang
Cao Bằng để thúc đẩy phát triển cơ sở chính trị và chuẩn bị xây dựng lực lượng
trang. Tháng 12/1941, Trung ương ra thông cáo Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương
và trách nhiệm cần kíp của Đảng, chỉ rõ các đảng bộ địa phương cần phải vận động
nhân dân đấu tranh chống địch bắtnh, bắt phu, chống cướp đoạt tài sản của nhân
dân, đòi tăng lương, bớt giờ làm cho công nhân, củng cố và mở rộng các đội tự vệ
cứu quốc, thành lập các tiểu tổ du kích để tiến lên thành lập đội du kích chính thức,
mở rộngsở quần chúnglực lượngtrang các khu du kích... tiến lên phát
động khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ.
Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do
Nguyên Giáp tổ chức ra đời ở Cao Bằng. Ba ngày sau, đội đánh thắng liên tiếp hai
trận Phai Khắt (25-/121944) Ngần (26/12/1944). Đội đẩy mạnh trang
tuyên truyền, kết hợp chính trị quân sự, xây dựng sở cách mạng, góp phần
củng cố và mở rộng khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng.
Về xây dựng căn cứ địa cách mạng, Bắc Sơn - Võ Nhai, Cứu quốc quân
tiến hành tuyên truyền trang, gây sở chính trị, mở rộng khu căn cứ ra nhiều
huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Yên... Từ Cao Bằng, khu
căn cứ được mở rộng sang các tỉnhGiang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Các đoàn xung
phong Nam tiến đẩy mạnh hoạt động, mở một hành lang chính trị nối liền hai khu
căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn - Vũ Nhai (cuối năm 1943). Tổng bộ Việt Minh ra chỉ
thị Sửa soạn khởi nghĩa. Không khí chuẩn bị cho khởi nghĩa sôi nổi trong khu căn
cứ.
Về mặt trận tưởng - văn hóa, năm 1943, Đảng công bố bản Đề cương
văn hóa Việt Nam, xác định văn hóa cũng một trận địa cách mạng, chủ trương
8
xây dựng một nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: dân tộc - khoa học đại
chúng. Cuối năm 1944, Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, thu hút trí thức
các nhà hoạt động văn hóa vào mặt trận đấu tranh giành độc lập, tự do.
2.2. Cao trào kháng Nhật cứu nước
2.2.1. Bối cảnh lịch sử
Bối cảnh thế giới
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Phe
Phát xít liên tục thất bại trước phe Đồng Minh trên nhiều mặt trận. Hồng quân Liên
truy kích phát xít Đức trên chiến trường châu Âu, giải phóng nhiều nước
Đông Âutiến về phía Berlin (Đức). Nhật thất bại nặng nề ở châu Á - Thái Bình
Dương.
Bối cảnh trong nước
Lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn ráo riết hoạt động chờ thời cơ Đồng minh
đổ bộ vào Đông Dương sẽ nổi dậy tiến công Nhật. Quân Nhật biết những hoạt
động của Pháp nên hành động trước. Vào tối 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, Pháp
đầu hàng. Sự kết cấu của Pháp Nhật để thống trị Đông Dương chấm dứt. Tuy
Nhật thống trị Đông Dương nhưng chính sách cai trị, bóc lột của chúng không có gì
thay đổi. Nhật tuyên bố: “giúp các dân tộc đông Dương xây dựng nền độc lập”,
dựng Chính phủ nhìn Trần Trọng Kim, đưa Bảo đại làm “Quốc trưởng”. Thực
chất là độc chiếm Đông Dương, tăng cường vơ vét, bóc lột và đàn áp dã man những
người cách mạng làm cho đời sống nhân dân phải chịu nhiều áp bức bóc lột
cùng khổ cực.
9
2.2.2. Chỉ thị
Dự đoán đúng tình hình, ngay trước lúc Nhật nổ súng lật đổ Pháp, Tổng
thư Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng
tại làng Đình Bảng để phân tích tình hình đề ra chủ trương chiến lược mới. Hội
nghị nhận định cuộc đảo chính đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu
sắc
1
, làm cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa trang chưa thực sự chín
muồi
2
đang đi đến chín muồi nhanh chóng. Nắm chắc thời cơ, ngày 12-3-1945,
Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Nhật, Pháp bắn nhau hành động
của chúng talàm kim chỉ nam hành động cho các Đảng bộ tích cực xây dựng lực
lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Bản chỉ thị chỉ rõ bản
chất hành động của Nhật một cuộc đảo chính giành lợi ích giữa Nhật Pháp,
xác định kẻ thù cụ thể, trước mắt duy nhất phát xít Nhật; nên chúng ta phải
nhanh chóng thay đổi khẩu hiệu “đánh đuổi thực dân Pháp, phát xít Nhật” thành
“đánh đuổi phát xít Nhật”. Chỉ thị đã phát động cao trào kháng Nhật làm tiền đề
cho Tổng khởi nghĩa với phương châm đấu tranh phát động chiến tranh du kích,
giải phóng từng phần. Chỉ thị cũng đã đưa ra những dự báo về thời tổng khởi
nghĩa giành thắng lợi: “Nếu cách mạng Nhật bùng nổ, chính quyền cách mạng
của nhân dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940,
quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần, thì khi ấy dù quân đồng minh chưa đổ
bộ, cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi”
3
.
Bản chỉ thị ngày 12 -3-1945 đã xác định đúng kẻ thù, dự báo chính xác thời
cách mạng, linh hoạt, sáng tạo chuẩn bị mọi điều kiện làm tiền đề cho Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân khi thời đến. Điều đó thể hiện
1 Giáo trình trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính, Những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản và lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nxb lý luận chính trị, tr.168.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, t.7, tr.365
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, CTQG, 2000, tr. 373
10
tầm nhìn chiến lược, duy khoa học nghệ thuật chỉ đạo cách mạng tài tình của
Đảng. Đó là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào
chống Nhật cứu nước ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
2.2.3. Diễn biến
Phong trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội
dung và hình thức, tấn công Nhật toàn diện trên các mặt chính trị, kinh tế, quân sự,
văn hóa... trên khắp các thành phố, thôn quê, miền núi. Việt Minh (khắp cả 3
vùng chiến lược) thực hiện khởi nghĩa chống Nhật từng phần, mở rộng căn cứ địa,
làm tiền để tiến lên Tổng khởi nghĩa.
Phong trào đã chiếm giữ được nhiều vùng rộng lớn từ tay Nhật, hình thành
nhiều vùng căn cứ cộng sản, trong đó Khu Giải phóng Việt Bắc - bao gồm Cao
Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Giang, một số vùng
ở Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Yên Bái - là rộng lớn nhất, và là căn cứ địa chính
của toàn quốc.
Quân đội Nhật đã mạnh bạo mở các cuộc càn quét, tấn công vào các vùng
Việt Minh. Quân Việt Minh, các đội dân quân - tự vệ, du kích xã đã chống trả quyết
liệt, bảo vệ căn cứ địa, tiêu biểu các trận đánh bảo vệ chiến khu Vần, chiến khu
Hiền Lương, và chiến khu Trần Hưng Đạo. Tại các đô thị, các phong trào đấu tranh
của công nhân, học sinh, viên chức dâng cao. Nhiều tổ chức công nhân cứu quốc
được xây dựng nhiều nghiệp. Cao trào kháng Nhật hoạt động sôi nổi trên cả
nước.
* Khởi nghĩa từng phần:
Tại chiến khu Việt Bắc, liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng quyết định nổi dậy cướp
chính quyền ở những nơi đã đủ điều kiện. Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
11
Cứu quốc quân phối hợp với nhân dân nổi dậy. Hàng loạt các xã, tỉnh, châu
thuộc các vùng Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang đều bị
Việt Minh chiếm giữ.
Tại Bắc Giang, nhiều thuộc vùng Thượng Yên Thế, Hữu Lũng, ...quần
chúng nổi dậy biểu tình thị uy vũ trang, lập Ủy ban giải phóng. Việt Minh huy động
hàng ngàn quần chúng kéo đi cướp khí của lính đồn, nhiều tri huyện, tri phủ
phải bỏ chạy. Toàn bộ huyện Hiệp Hòa, một phần Yên Thế, Phú Bình đều do quân
nổi dậy kiểm soát.
Tại Bắc Ninh, sau đêm Nhật đảo chính Pháp, chi bộ Đảng của xã Trung Màu
(Tiên Du) lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa lập chính quyền 2 Trung Màu
Dương Hút. Trong tình hình đó, tỉnh ủy Bắc Ninh chủ trương đẩy mạnh công tác
tuyên truyền đưa phong trào quần chúng tiến lên. Do đó, chỉ trong tháng 3 và tháng
4, số hội viên Việt Minh trong tỉnh đã tăng lên hàng vạn người.
Tại Hưng Yên, đêm 11/3/1945, đội dân quân - tự vệ du kích địa phương
đã đánh đồn Bần Yên Nhân, cướp được toàn bộ vũ khí.
Hàng ngàn đảng viên cộng sản, cán bộ Việt Minh đang bị giam trong các nhà
Nghĩa Lộ, Sơn La, Hỏa (Hà Nội), Buôn Ma Thuột, Hội An (Quảng Nam) ...
nhân hội Nhật - Pháp bắn nhau tình hình hỗn loạn đã đấu tranh đòi tự do,
hoặc nổi dậy phá nhà lao, vượt ngục ra ngoài hoạt động.
Tại Quảng Ngãi, ngày 11/3/1945, những đảng viên, cán bộ cộng sản đang bị
giam trong trại tập trung Ba Tơ, khi nghe tin Nhật đảo chính Pháp, đã phá trại
giam, cướp súng, thành lập đội du kích Ba Tơ. Đây là đội du kích đầu tiên của miền
Trung do Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức, lãnh đạo, trở thành lực lượng nòng
cốt trong cuộc nổi dậy giành chính quyền ở Quảng Ngãi và các tỉnh khác.
Tại Nam Kỳ, trong tháng 3 tháng 4, chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương chưa đến được, nhưng một số địa phương phong trào mạnh từ
12
trước cũng những hình thức đấu tranh chống lại nhiều quận trưởng, tỉnh trưởng,
như ở Mỹ Tho.
* Phá kho thóc cứu đói:
Khi phong trào khởi nghĩa từng phần lên cao, cũng là lúc Bắc Kỳ, Bắc Trung
Kỳ, diễn ra nạn đói trầm trọng do chính sách vét, tích trữ lương thực của Nhật
và Pháp. Để giải quyết nạn đói và thúc đẩy phong trào đi lên, Hội nghị Ban thường
vụ Trung ương quyết định tiến hành phá kho thóc, giải quyết nạn đói.
Tại Bắc Giang, Bắc Ninh, hàng ngàn quần chúng đi phá kho thóc của Nhật,
Pháp; thu hàng ngàn tấn thóc chia cho nông dân. Tại Vĩnh Yên, Phúc Yên, hàng
chục kho thóc bị phá. Tại Phú Thọ trong một thời gian ngắn có 14 kho thóc bị phá.
Tại Ninh Bình, ngày 15/3 quần chúng các huyện Nho Quan, Gia Viễn đã phá
12 kho thóc, thu hàng trăm tấn thóc chia cho dân nghèo.Tại Thái Bình, trong tháng
3 và tháng 4, nhân dân các huyện Phụ Dực, Thư Trì, Tiền Hải, Vũ Tiên, Tiên Hưng
đã thu 1.000 tấn thóc chia cho dân. Tại Hải Dương, nhân dân phả 39 kho thóc
lấy 43 thuyền gạo với 2.000 tấn. Riêng các huyện phía Nam đã phá 26 kho thóc,
thu 26 thuyền với >1.000 tấn gạo. Tại Hưng Yên, Hòn Gai, Đông, Sơn Tây,
người dân phá kho thóc, gạo của Nhật.
Tại ngoại thành Hà Nội, người dân tiến hành phá các kho thóc, gạo của Nhật
phố Bắc Ninh, phố Lợi, phố Phà Đen, thu hàng trăm tấn. Tại các tỉnh Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình cũng diễn ra nhiều cuộc phá kho thóc.
Phong trào phá kho thóc, cứu đói dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương một trong những hình thức tập ợt quần chúng đấu tranh từ thấp đến
cao, kết hợp đấu tranh kinh tế, chính trị, vũ trang, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.
* Đấu tranh ở thành thị và các khu công nghiệp:
13
Trong phong trào phá kho thóc, công nhân và dân nghèo Hà Nội cũng đi phá
các kho thóc của Nhật. Công nhân bến cảng Hải Phòng mật đốt phá các kho
lương thực bến Sáu Kho, cho đồng bào vào lấy gạo. Công nhân mỏ Đông Triều
chặn bắt tàu thuyền chở gạo của người Nhật, công nhân Sài Gòn quyên góp gạo,
tiền gửi ra Bắc giúp đồng bào cứu đói.
Phong trào công nhân đấu tranh tiến lên hình thức cao hơn, như phá hoại kế
hoạch của Nhật, tự tạo khí, ớp súng, đạn của Nhật cung cấp cho bộ đội du
kích các chiến khu. Công nhân Nội tổ chức cướp súng của Nhật Phà Đen,
Ngọc Hà. Tại Quảng Yên, công nhân khởi nghĩa chiếm mỏ Mạo Khê, Tràng Bạch,
Uông Bí. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Huế, Sài Gòn, công nhân tuyên truyền
gây thanh thế cho Việt Minh. Nhiều hoạt động treo cờ diễn thuyết chỗ đông
người, các rạp hát, trường học, ngã 3 đường trên tàu điện đã diễn ra Nội. Tại
đây, học sinh thanh niên bất hợp tác với Nhật, không học tiếng Nhật, tổ chức
những cuộc mít tinh, tuyên truyền tinh thần yêu nước tại Mễ Trì, chợ Canh, Chợ
Láng. Thanh niên tổ chức tuyên truyền xung phong tại các trường Gia Long, Kỹ
nghệ thực hành. Đông đảo giáo viên, học sinh đã hưởng ứng phong trào Việt Minh.
Tại Sài Gòn các tỉnh miền Nam, từ tháng 5/1945 xuất hiện phong trào
Thanh niên Tiền phong. Dưới hình thức hoạt động công khai hợp pháp, tổ chức, tập
hợp, rèn luyện quần chúng yêu nước, chuẩn bị đón thời khởi nghĩa. Chỉ vài
tháng sau, Sài Gòn miền Nam Việt Nam hàng vạn người tham gia tổ chức
Thanh niên tiền phong. Đến ngày 22/8/1945, Đoàn Thanh niên Tiền phong ra tuyên
bố đứng trong Mặt trận Việt Minh trở thành một lực lượng quan trọng của Việt
Minh trong những ngày khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám giành chính quyền ở Sài
Gòn và miền Nam Việt Nam.
14
2.2.4. Kết quả
Cao trào kháng Nhật nổ ra đã động viên được đông đảo quần chúng công
nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, viên chức…
Hơn nữa, cao trào kháng Nhật khiến cho tầng lớp trung gian ngả hẳn về phía
cách mạng, tin đi theo cách mạng, điển hình các sản dân tộc và một số địa
chủ nhỏ đã được lôi kéo tham gia hoạt động cách mạng. Binh lính, cảnh sát của
chính quyền thân Nhật dao động, một số ngả theo cách mạng. Nhiều trưởng,
chánh, phó tổng, tri phủ, tri huyện cả một số tỉnh trưởng cũng tìm cách liên lạc
với Việt Minh…
Dưới phong trào kháng Nhật diễn ra trên toàn quốc, bộ máy chính quyền
Nhật nhiều nơi liệt. Không khí sửa soạn khởi nghĩa sục sôi trong cả nước. Qua
cao trào, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang cả nước phát triển mạnh, tạo thời
cơ cho Tổng khởi nghĩa mau chóng chín muồi.
2.2.5. Ý nghĩa
Thực chất của cao trào kháng Nhật cứu nước là một cuộc khởi nghĩa từng
phần và chiến tranh du kích cục bộ, giành chính quyền ở những nơi có điều kiện.
Đó là một cuộc chiến đấu đại, làm cho trận địa cách mạng được mở rộng,
lực lượng cách mạng được tăng cường, làm cho toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng, chủ
động, tiến lên chớp thời cơ tổng khởi nghĩa.
2.3. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
2.3.1. Bối cảnh thế giới và trong nước
Về bối cảnh quốc tế
Từ tháng 5/1945, Đức đầu hàng quân Liên Xô và Đồng minh. Tiếp đến, ngày
8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật và đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật
15
Mãn Châu (Trung Quốc). Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống các thành phố
Hiroshima (6-8-1945) Nagasaki (9-8-1945) buộc Chính phủ Nhật tuyên bố đầu
hàng Đồng minh vô điều kiện vào ngày 15-8-1945.
Hai sự kiện trên đã đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh thế giới thứ hai, tạo
điều kiện khách quan thuận lợi cho việc phát động tổng khởi nghĩa giành chính
quyền.
Về bối cảnh trong nước
Từ tháng 9/1940, Nhật tiến vào Đông Dươngtừ đó cùng Pháp cai trị Việt
Nam. Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp và độc chiếm Đông Dương.
Sau khi chính phủ Nhật đầu hàng Đồng minh, quân Nhật ở Đông Dương mất
hết tinh thần chiến đấu, chính quyền Nhật hoang mang. Tháng 7/1945, Hội nghị
Potsdam quyết định để quân đội Trung Hoa dân quốc quân đội Liên hiệp Anh
giải giáp quân đội Nhật. Thực dân Pháp dưới sự ủng hộ của Anh, ý đồ trở lại
xâm lược Việt Nam. Đế quốc Mỹ ban đầu hợp tác với Việt Minh chống quân Nhật
sau cũng dần ủng hộ Pháp tái chiếm Đông Dương.
Sự căm giận của nhân dân đối với phát xít Nhật và tay sai lên đến đỉnh điểm,
lực lượng trung gian ngả về phía cách mạng. Khi đó, Đảng Cộng sản Đông Dương
đã sẵn sàng lãnh đạo quần chúng nhân dân đứng lên khởi nghĩa.
Sự đầu hàng của chính phủ Nhật và âm mưu tái xâm lược của thực dân Pháp
tạo động lực cho cách mạng, vì vậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ
cần thiết và cấp bách.
16
2.3.2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa
Ngày 12/8/1945, Ủy ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong
khu. 13/8, Trung Ương Đảng Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa
toàn quốc, gồm 5 đồng chí trong đó Tổng thư Trường Chinh trực tiếp chỉ huy.
Tiếp đó, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã ban bố “Quân lệnh số 1” phát lệnh tổng
khởi nghĩa toàn quốc. Quyết định trên thể hiện sự nhạy bén, quyết đoán, nhận diện
tốt thời của Đảng Cộng sản Đông Dương, khi phát lệnh khởi nghĩa ngay cả
trước thời điểm Nhật đầu hàng quân Đồng minh.
Ngày 14 15/8, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào do lãnh tụ
Hồ Chí Minh Tổng thư Trường Chinh chủ trì quyết định phát động toàn dân
giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Hội nghị đã xác định và phân tích tình hình
quân Đồng Minh sắp vào nước ta âm mưu khôi phục vị trí Đông Dương của
đế quốc Pháp, đồng thời đưa ra khẩu hiệu đấu tranh “Phản đối xâm lược! Hoàn
toàn độc lập! Chính quyền nhân dân!”. Hội nghị xác định ba nguyên tắc chỉ đạo
khởi nghĩa tập trung, thống nhất kịp thời. Phương hướng hành động trong
khởi nghĩa: phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay
nông thôn; quân sự chính trị phải phối hợp, phải làm tan tinh thần quân địch
và dụ chúng hàng trước khi đánh. Phải nắm bắt những căn cứ chính trước khi quân
Đồng minh vào, thành lập uỷ ban nhân dân ở những nơi giành được quyền làm chủ.
Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội đối
ngoại cần thi hành sau khi giành được chính quyền.
Ngày 16/8/1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào với khoảng 60 đại biểu
của các giới, các đảng phái chính trị, các đoàn thể quần chúng cứu quốc, các dân
tộc tôn giáo trong nước đại biểu kiều bào nước ngoài đã nhất trí với chủ
trương Tổng khởi nghĩa của Đảng thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, lập
Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Ngay sau Đại
17
hội quốc dân, Hồ Chí Minh kêu gọi “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã
đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta tự giải phóng cho ta…
Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Tiến lên. Dưới cờ Việt Minh,
đồng bào hãy dũng cảm tiến lên ”.
4
2.3.3. Diễn biến và kết quả cuộc tổng khởi nghĩa
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước nhất tề vùng dậy cả thành
thị nông thôn theo đúng hiệu triệu, tinh thần chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu
gọi: “Dù hy sinh đến đâu, phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết
giành cho được độc lập”
Ngày 14-18/8, nhiều địa phương đã phát động khởi nghĩa, bốn tỉnh giành
được chính quyền sớm nhất là Hải Dương, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam.
Chiều ngày 16/8, đồng chíNguyên Giáp đã chỉ huy đội giải phóng quân
từ Tân Trào tiến thẳng xuống giải phóng thị xã Thái Nguyên.
Ngày 17/8, Đảng bộ Hà Nội huy động quần chúng biến cuộc mít tinh ủng hộ
chính phủ Trần Trọng Kim thành ủng hộ Việt Minh, kêu gọi nhân dân tham gia
khởi nghĩa. Sáng ngày 19/8, quần chúng cách mạng kéo đến quảng trường Nhà hát
thành phố, chiếm được Phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Trại Bảo an binh, Sở Cảnh
sát các công sở của chính quyền thân Nhật. Trước khí thế sức mạnh áp đảo
của quần chúng, hơn một vạn quân Nhật Nội không dám chống cự, Nội
giành được chính quyền.
Ngày 23-25/8, nhân dân tiếp tục giành được chính quyền tại Huế và Sài Gòn.
Những thắng lợi trong các cuộc khởi nghĩa Nội, Huế, Sài Gòn đã đập tan các
quan đầu não của kẻ thù ý nghĩa to lớn quyết định thắng lợi trong khởi
nghĩa toàn quốc.
4 Hồ Chí Minh Toàn Tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, trang 596.
18
Ngày 26/8, Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng
thống nhất chủ trương trong tình hình mới, đề nghị mở rộng thành phần Chính phủ
lâm thời và lên kế hoạch soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Ngày 27/8, Ủy ban dân tộc giải phóng cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 28/8 danh sách
Chính phủ lâm thời được công bố tại Nội, đến ngày 30/8 vua Bảo Đại thoái vị,
chế độ phong kiến Việt Nam hoàn toàn sụp đổ. Cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc
chính thức giành thắng lợi.
Ngày 31/8, bản Tuyên ngôn độc lập chính thức được hoàn thiện. Ngày
2/9/1945, thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội.
Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử có giá trị tư tưởng to lớn, thể hiện tinh thần
ý chí đấu tranh quật cường của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp giữ gìn độc lập
tự do dân tộc.
CHƯƠNG 3:
TÍNH CHẤT, Ý NGHĨA CỦA CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
3.1. Tính chất của Cách mạng Tháng 8 năm 1945
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 “một cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc mang tính chất dân chủ mới. một bộ phận khăng khít của cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân Việt Nam” .
5
Trước hết, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 một cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc điển hình, thể hiện:
5 Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tập 1, trang 172.
19
Thứ nhất, tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng giải
phóng dân tộc, tập trung giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của hội Việt Nam lúc đó
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với đế quốc xâm lược tay sai; đáp ứng đúng
yêu cầu khách quan của lịch sử ý chí, nguyện vọng độc lập tự do của quần
chúng nhân dân.
Thứ hai, lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết chặt chẽ
trong mặt trận Việt Minh với những tổ chức quần chúng mang tên “cứu quốc”,
động viên đến mức cao nhất mọi lực lượng dân tộc lên trận địa cách mạng. Cuộc
tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là sự vùng dậy của lực lượng toàn dân tộc.
Thứ ba, thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc” theo chủ
trương của Đảng, với hình thức cộng hoà dân chủ, chỉ trừ tay sai của đế quốc
những kẻ phản quốc, “còn ai người dân sống trên giải đất Việt Nam đều thảy
được một phần tham gia giữ chính quyền, phải một phần nhiệm vụ giữ lấy
bảo vệ chính quyền ấy” .
6
“Cách mạng tháng Tám Việt Nam một cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc. Mục đích củalà làm cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đế quốc, làm cho
nước Việt Nam thành một nước độc lập tự do” . Nhưng Cách mạng tháng Tám năm
7
còn có .tính chất dân chủ
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nammột bộ phận của phe dân
chủ chống phát xít. “Nó chống lại phát xít Nhật bọn tay sai phản động, là
một bộ phận của cuộc chiến đấu đại của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế
giới chống phát xít xâm lược”.
Hai là, cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực lượng
đông đảo nhất trong dân tộc. Do Cách mạng tháng Tám, một phần ruộng đất của đế
6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, trang 114.
7 Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tập 1, trang 169
20
quốc và Việt gian đã bị tịch thu, địa tô được tuyên bố giảm 25%, một số nợ lưu cữu
được xoá bỏ.
Ba là, cuộc cách mạng đã xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên Việt Nam, xóa bỏ chế độ quân chủ phong kiến. Các tầng lớp nhân dân
được hưởng quyền tự do, dân chủ.
Cách mạng Tháng Tám - cuộc cách mạng triệt để, mang đậm tính nhân văn
Thứ nhất, hầu như diễn biến khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương
không tiếng súng, ít đổ máu, nhân dân giành chính quyền một cách nhanh
chóng. Lực lượng chủ yếu tham gia khởi nghĩa lực lượng chính trị của quần
chúng, hình thức chủ yếu của khởi nghĩa biểu tình, tuần hành thị uy trang
bằng các loại khí tự tạo, tự mua sắm, bằng đấu tranh chính trị. Lực lượng
trang chủ yếu đóng vai trò hỗ trợ, ít phải sử dụng hành động quân sự. Vì thế, nhiều
nhà nghiên cứu nhận xét rằng: Cuộc Tổng khởi nghĩa - cách mạng diễn ra một cách
tương đối hòa bình. Lý do quan trọng lúc đó là Pháp đã chạy, Nhật đầu hàng, chính
quyền thân Nhật thì bất lực, vương triều nhà Nguyễn ở Huế đã suy tàn.
Thứ hai, do một cuộc cách mạng ít đổ máu, quần chúng nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng chỉ cần gây áp lực thì chính quyền thân Nhật từ Trung ương đến
các địa phương hoặc đầu hàng hoặc bỏ nhiệm sở chạy trốn, ít hành động
chống đối bằng vũ lực, nên chúng ta đã giành thắng lợi nhanh chóng. Điển hình của
tính nhân văn chínhsự kiện vị vua cuối cùng của triều đình nhà Nguyễn Vĩnh
Thụy (tức Bảo Đại), làm lễ thoái vị, trao ấn, kiếm, tượng trưng cho quyền lực của
vương triều, cho đại diện chính quyền cách mạng, cùng lời tuyên bố trước nhân
dân: Thà làm công dân một nước tự do hơn là làm vua một nước nô lệ. Đại diện của
triều Nguyễn, đại diện của Chính phủ Trần Trọng Kim ở Hà Nội, Sài Gòn cũng như
một số địa phương cũng nhanh chóng trao quyền cho đại diện Mặt trận Việt Minh.
Chính quyền cách mạng mới thành lập đã chủ trương không trả thù, truy bức
những người từng chống lại cách mạng, những người từng làm việc cho chính
21
quyền cũ. Trái lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn mời Bảo Đại, mời Giám mục Lê Hữu
Từ, một người vốn không ưa cộng sản, làm Cố vấn cho Chính phủ lâm thời của
nước Việt Nam mới. Nhiều nhân sĩ, trí thức nổi tiếng cũng được Người mời tham
gia Chính phủ, ứng cử vào Quốc hội.
Thứ ba, đây một cuộc cách mạng quy tụ được đông đảo các tầng lớp nhân
dân, không phân biệt đảng phái, dân tộc, tôn giáo, giới tính, lứa tuổi, ngành nghề,
vùng miền, tham gia khởi nghĩa giành chính quyền lại cùng nhau đoàn kết xây
dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền mới, chế độ mới do bản thân mình làm chủ theo
10 nội dung lớn trong Chương trình của Mặt trận Việt Minh. Tuy không phải không
những mâu thuẫn, xung đột về quyền lợi, địa vị, về tưởng cách thức xây
dựng quản lý, điều hành chính quyền mới, chế độ mới nhưng một thực tế không thể
bác bỏ đại đa số nhân dân trên cả nước đã đoàn kết, ủng hộ Chính phủ Hồ Chí
Minh, tỏ quyết tâm bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng, phải tiếp tục
chiến đấu, hy sinh cũng không sờn lòng.
Cách mạng Tháng Tám “chưa làm cách mạng ruộng đất, chưa thực hiện khẩu
hiệu người cày ruộng”, “chưa xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất,
chưa xoá bỏ những tàn tích phong kiến nửa phong kiến để cho công nghiệp
điều kiện phát triển mạnh... quan hệ giữa địa chủ nông dân nói chung vẫn như
cũ. Chính thế Cách mạng tháng Tám tính chất dân chủ, nhưng tính chất đó
chưa được đầy đủ và sâu sắc”.
3.2. Ý nghĩa
Khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh
viết: “Chẳng những giai cấp lao động nhân dân Việt Nam ta thể tự hào,
giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần
này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địanửa thuộc
22
địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền
toàn quốc”.
Đối với Việt Nam:
Cách mạng tháng Tám năm 1945 ý nghĩa quan trọng: đập tan xiềng xích
lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ
quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nhà nước của nhân dân đầu tiên Đông Nam Á, giải quyết thành công vấn đề
bản của một cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô
lệ bước lên địa vị người chủ đất nước, quyền quyết định vận mệnh của mình.
Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập chủ
quyền, vươn lên cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu cao cả
của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đảng Cộng sản
Đông Dương từ chỗ phải hoạt động mật trở thành một đảng cầm quyền. Từ đây,
Đảng nhân dân Việt Nam chính quyền nhà nước cách mạng làm công cụ sắc
bén phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình
lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do và hướng tới chủ nghĩa xã hội và góp phần
cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Đối với thế giới:
Cách mạng tháng Tám một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc lần đầu
tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa, đã đột phá một khâu quan trọng trong hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp tan của chủ
nghĩa thực dân cũ.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám không chỉ chiến công của dân tộc
Việt Nam còn chiến công chung của các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh
23
vì độc lập tự do, vì thế nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng
đắn, sáng tạo của Đảng tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh. chứng tỏ
rằng: một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo hoàn
toàn khả năng thắng lợi một nước thuộc địa trước khi giai cấp công nhân
“chính quốc” lên nắm chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc.
24
| 1/24

Preview text:

HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 1939-1945
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Tình hình thế giới nửa đầu thế kỷ XX
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ Đalađiê
(Daladier) thi hành một loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và
phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ.
Tháng 6/1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ của Thủ tướng Pêtanh
(Pétain) ký văn bản đầu hàng Đức. Tướng Đờ Gôn (Charles De Gaulle) ra nước
ngoài để xây dựng lực lượng kháng chiến chống Đức. Sau khi chiếm một loạt nước
châu Âu, tháng 6/1941 Đức tiến công Liên Xô. Vào thời điểm này, Liên Xô phát
động cuộc kháng chiến chính nghĩa, cuộc chiến tranh vệ quốc để bảo vệ Tổ quốc
làm thay đổi tính chất của thế chiến II: từ tính chất đế quốc chuyển sang tính chất
dân chủ. Mặt trận đồng minh chống phát xít được thành lập, gồm hơn 20 nước
trong đó có các nước lớn: Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ.
Từ giữa năm 1941, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển. Ngày 7/12/1941,
Nhật không kích cái hạm đội quân tinh nhuệ của Mỹ ở Trân Châu Cảng thuộc tiểu
bang Hawaii. Ngay sau đó vào ngày 8/12/1941, tổng thống Mỹ tuyên bố nước Mỹ
là nạn nhân của sự xâm lược và phát động chiến tranh Thái Bình Dương với Nhật.
Và sau đó, Anh Pháp đồng minh của Mỹ tuyên chiến với Nhật làm chiến tranh Thái
Bình Dương bùng nổ. Quân phiệt Nhật lần lượt đánh chiếm nhiều thuộc địa của Mỹ
và Anh ở trên biển và trong đất liền.
1.1.2. Tình hình Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Ở Đông Dương, bộ máy đàn áp được tăng cường, lệnh thiết quân luật được
ban bố. Ngày 28/9/1939 Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cấm tuyên truyền
cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các 1
hội, đoàn, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người…
Thực dân Pháp đã thi hành chính sách “Cai trị thời chiến vô cùng tàn bạo”.
Về chính trị, chúng tăng cường đàn áp, ban bố thiết quân luật, phát xít hoá bộ máy
thống trị. Về kinh tế, chúng tăng cường bóc lột, thực hiện chính sách “kinh tế chỉ
huy” nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ cuộc chiến tranh đế
quốc. Về quân sự, chúng tăng cường bắt lính, trong đó hơn 7 vạn người Việt Nam
đã bị đưa sang Pháp để làm bia đỡ đạn. Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam và thực
dân Pháp ngày càng lên cao và trở nên gay gắt hơn.
Năm 1940, lấy lý do mở rộng căn cứ chống đồng minh, Nhật Bản đã xâm
lược Đông Dương của Pháp trong đó có Việt Nam. Ngày 22/9/1940, Nhật đổ bộ
vào Lạng Sơn. Chỉ sau 3 ngày, quân Pháp thua ở Lạng Sơn và rút chạy. Ngày
27/9/1940, Pháp đã ký hiệp ước đầu hàng và cấu kết với Nhật để thống trị và bóc
lột làm cho Việt Nam phải chịu cảnh “ một cổ hai tròng” , từ đó đẩy nhân dân ta
vào cảnh cùng cực. Nạn đói năm 1945 đã làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói
khiến mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn xã hội thay đổi, toàn bộ tầng
lớp giai cấp trừ bọn tay sai cho Pháp đều thấy quyền lợi của mình bị đe dọa, chính
vì vậy, vấn đề giải phóng dân tộc trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
1.2. Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo nhiệm vụ chiến lược của Đảng
1.2.1. Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
Dựa trên cơ sở phân tích tình hình, Đảng ta đã thực hiện chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược và sách lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Chủ
trương đó được thể hiện trong nghị quyết Trung ương 6 (11-/939), nghị quyết
Trung ương 7 (11/1940) và nghị quyết Trung ương 8 (5/1941).
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng (11/1939) diễn ra tại Bà Điểm
(Hóc Môn, Gia Định) từ 6-8/11/1939 do đồng chí Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã xác 2
định kẻ thù chủ yếu trước mắt là bọn đế quốc phát xít Pháp. Hội nghị xác định đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và cấp bách nhất của cách mạng Đông
Dương lúc này: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn con
đường nào khác ngoài con đường võ trang bạo động, đánh đổ đế quốc Pháp, chống
tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy độc lập”. Khẩu
hiệu “cách mạng ruộng đất” phải tạm gác và thay bằng các khẩu hiệu chống địa tô
cao, chống cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội
quyền lợi dân tộc chia cho dân cày. Hội nghị cũng chủ trương thành lập Mặt trận
dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, thu hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng
phái và cá nhân yêu nước ở Đông Dương. Về phương pháp cách mạng hội nghị xác
định cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Đông Dương có thể giành thắng
lợi bằng khởi nghĩa vũ trang. Như vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, đánh dấu sự chuyển hướng trong chỉ
đạo nhiệm vụ chiến lược của Đảng.
Hội nghị lần thứ 7 của Đảng được triệu tập trong thời gian từ 6-9/11/1940 tại
Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh do đồng chí Trường Chinh chủ trì đã khẳng định sự
chuyển hướng đề ra trong hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 là
hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, hội nghị 7 còn bổ sung thêm hai nội dung mới. Một
là, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích, khi cần thiết
thì chiến đấu chống khủng bố, bảo vệ tài sản cách mạng, tiến tới lập căn cứ địa du
kích, lấy vùng Bắc Sơn – Võ Nhai làm trung tâm. Hai là, chỉ thị cho xứ uỷ Nam Kỳ
hoãn cuộc khởi nghĩa vì chưa đủ điều kiện đảm bảo cho khởi nghĩa thắng lợi (địch
nhiều, mạnh, ta yếu, ít; địa hình đồng bằng sông nước kẻ địch có thể huy động các
phương tiện để đàn áp như máy bay, tàu chiến, xe tăng, ...). Như vậy, Hội nghị 7 đã
tiếp tục kiên quyết phát triển, củng cố nâng cao mục tiêu chiến lược của Đảng được
đề ra tại Hội nghị 6. 3
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 do đồng chí Nguyễn Ái Quốc
chủ trì tại Cao Bằng từ 10-19/5/1941. Nội dung của hội nghị lần thứ 8 xác định tôn
trọng quyền dân tộc tự quyết của nhân dân ba nước Đông Dương, vì thế, để thi
hành đúng chính sách “dân tộc tự quyết”, mỗi nước thành lập một mặt trận riêng.
Hội nghị đã khẳng định phải xúc tiến công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ
trang giành thắng lợi. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhân dân ta. Hội
nghị cũng công bố một số văn kiện quan trọng như chương trình hành động của
mặt trận Việt Minh, điều lệ của nông dân cứu quốc, điều lệ của du kích cứu quốc.
Như vậy hội nghị 8 đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng nhiệm vụ chiến lược nhằm
giải quyết mục tiêu quan trọng nhất của cách mạng và đề ra nhiều chủ trương sáng
tạo để thực hiện mục tiêu ấy. Hội nghị TW 8 được coi là Hội nghị hoàn chỉnh chủ
trương chiến lược của Đảng vì đã khắc phục triệt để hạn chế của luận cương chính
trị (10/1930), khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn
Ái Quốc đúng đắn của cương lĩnh chính trị 2/1930.
1.2.2. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một
của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu ấy.
Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi nhân dân Việt Nam yêu nước trong Mặt trận
Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành
thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn đường
cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật,
giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân. 4
Đó là chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong điều kiện lịch sử cụ thể
của đất nước; phát huy cao độ tiềm năng, sức mạnh của toàn dân tộc trong nhiệm
vụ đánh Pháp đuổi Nhật giành độc lập tự do; có ý nghĩa quyết định chiều hướng
phát triển của cuộc đấu tranh của nhân dân, trực tiếp đưa đến thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. CHƯƠNG 2:
PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 1939-1945
2.1. Phong trào chống Pháp - Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang
Ngày 27/9/1940, nhân khi quân Pháp ở Lạng Sơn bị Nhật tiến đánh phải rút
chạy qua đường Bắc Sơn - Thái Nguyên, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ địa phương nổi dậy khởi nghĩa, chiếm đồn Mỏ Nhài, làm chủ châu lỵ Bắc
Sơn. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập. Pháp và Nhật cấu kết với nhau, Nhật cho
Pháp trở lại đóng đồn Bốt ở Lạng Sơn, Pháp tiến hành khủng bố, đốt phá làng bản,
bắn giết những người tham gia khởi nghĩa. Mặc dù thất bại nhưng khởi nghĩa Bắc
Sơn là bước phát triển của đấu tranh vũ trang vì mục tiêu giành độc lập, mở đầu
cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Ở Nam Kỳ, phong trào cách mạng của quần chúng lan rộng ở nhiều nơi. Vào
tháng 11/1940, Pháp bắt thanh niên Việt Nam và Cao Miên làm bia đỡ đạn tại biên
giới Thái Lan nên bị nhân dân Nam Kỳ và binh lính phản đối. Xứ uỷ Nam Kỳ
chuẩn bị phát động khởi nghĩa cử đại biểu ra Bắc xin chỉ thị của Trung ương. Tuy
nhiên, Hội nghị cán bộ TW họp ở Bắc Ninh đình chỉ cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ.
Tuy nhiên, chủ trương hoãn cuộc khởi nghĩa chưa được triển khai thì đêm
23/11/1940, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra trên quy mô 18 tỉnh thành. Quân khởi nghĩa
chiếm nhiều đồn bốt, tiến công nhiều quận ly. Chính quyền cách mạng được thành
lập ở một số địa phương và ban bố các quyền tự do dân chủ, mở phiên tòa xét xử 5
phản cách mạng. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa bị đế quốc Pháp đàn áp khốc liệt làm
cho lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng nề, phong trào cách mạng Nam Kỳ gặp khó khăn.
Trong bối cảnh binh lính người người Việt trong quân đội Pháp phản đối việc
Pháp đưa người Việt sang Lào đánh nhau với quân Thái Lan, ngày 13/1/1941, Đội
Cung chỉ huy binh lính đồn chợ Rạng (Nghệ An) nổi dậy đánh chiếm đồn Đô
Lương rồi kéo về Vinh, phối hợp với binh lính ở đây chiếm thành. Tuy nhiên do lực
lượng yếu và không có sự chuẩn bị nên Pháp đã nhanh chóng đàn áp.
Mặc dù cả ba cuộc khởi nghĩa vũ trang đều thất bại nhưng đã thể hiện tinh
thần yêu nước của toàn thể nhân dân Việt Nam; đồng thời còn là “những tiếng súng
báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng võ lực của các
dân tộc ở một nước Đông Dương”. Đặc biệt, trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
(11/1940) lần đầu tiên xuất hiện lá cờ đỏ sao vàng, sau này được sử dụng làm quốc kỳ của nước Việt Nam.
Pháp - Nhật ngày càng tăng cường đàn áp cách mạng Việt Nam. Ngày 26-8-
1941, thực dân Pháp xử bắn Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập, Võ
Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai tại Hóc Môn, Gia định. Lê Hồng Phong hy sinh
trong nhà tù Côn Đảo (6/9/1942). Tháng 8/1942, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ
Chí Minh trên đường đi công tác ở Trung Quốc cũng bị quân Trung Hoa dân quốc
bắt giữ hơn một năm (từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943). Trước quân thù tàn bạo
các chiến sĩ cộng sản đã nêu cao ý chí kiên cường bất khuất và giữ vững niềm tin
vào thắng lợi tất yếu của cách mạng; đồng thời Đảng ta cũng tích cực chuẩn bị lực lượng về mọi mặt.
Ngày 25/10/1941 Việt Minh công bố Tuyên ngôn, nêu rõ: “Việt Nam độc lập
đồng minh (Việt Minh) ra đời. Chương trình hành động đáp ứng nguyện vọng cứu
nước của mọi giới đồng bào, là nơi tập hợp, giác ngộ, rèn luyện lực lượng chính trị rộng lớn. 6
Đảng tích cực chăm lo xây dựng đảng và củng cố tổ chức, mở nhiều lớp
huấn luyện ngắn ngày, đào tạo cán bộ về chính trị, quân sự, binh vận. Nhiều cán bộ,
đảng viên trong các nhà tù Sơn La, Chợ Chu, Buôn Ma Thuột... vượt ngục về địa
phương tham gia lãnh đạo phong trào.
Tháng 2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh,
Phúc Yên) nay thuộc Hà Nội, đề ra những biện pháp cụ thể nhằm phát triển phong
trào quần chúng rộng rãi và đều khắp nhằm chuẩn bị điều kiện cho cuộc khởi nghĩa
trong tương lai có thể nổ ra ở những trung tâm đầu não của quân thù.
Đảng và Việt Minh cho xuất bản nhiều tờ báo: Giải phóng, Cờ giải phóng,
Chặt xiềng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Tiền phong,
Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập, v.v... Trong các nhà tù đế
quốc, những chiến sĩ cách mạng cũng sử dụng báo chí làm vũ khí đấu tranh, ra các
tờ báo Suối reo (Sơn La), Bình Minh (Hòa Bình), Thông reo (Chợ Chu), Dòng sông Công (Bá Vân)...
Đảng tăng cường tập hợp các lực lượng dân tộc vào cuộc đấu tranh tự giải
phóng. Cụ thể, năm 1943, Đảng và Việt Minh thông qua bản Đề cương văn hóa
Việt Nam, nhằm khẳng định tinh thần của nền văn hóa VN: dân tộc, khoa học và
đại chúng. Năm 1944, với mục tiêu tập hợp giới trí thức, văn nghệ sĩ tham gia vào
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc này, Đảng và Việt Minh đã vận động, giúp đỡ
một số sinh viên, trí thức yêu nước thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam đứng trong
Mặt trận Việt Minh. Bên cạnh đó, Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh
lính người Việt và người Pháp trong quân đội Pháp, thậm chí có cả những ngoại
kiều ở Đông Dương có xu hướng chống phát xít cũng đều tham gia vào cuộc đấu
tranh tự giải phóng ở VN.
Về xây dựng lực lượng vũ trang, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường
vụ Trung ương Đảng, đội du kích Bắc Sơn được duy trì và phát triển thành Cứu
quốc quân. Sau 8 tháng hoạt động gian khổ, một bộ phận Cứu quốc quân vượt khỏi 7
vòng vây của quân Pháp, rút lên biên giới phía Bắc, nhưng giữa đường đi bị phục
kích và tổn thất nặng. Bộ phận Cứu quốc quân còn lại đã phân tán lực lượng hoạt
động tại chỗ, phát triển cơ sở chính trị.
Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập một đội vũ trang ở
Cao Bằng để thúc đẩy phát triển cơ sở chính trị và chuẩn bị xây dựng lực lượng vũ
trang. Tháng 12/1941, Trung ương ra thông cáo Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương
và trách nhiệm cần kíp của Đảng, chỉ rõ các đảng bộ địa phương cần phải vận động
nhân dân đấu tranh chống địch bắt lính, bắt phu, chống cướp đoạt tài sản của nhân
dân, đòi tăng lương, bớt giờ làm cho công nhân, củng cố và mở rộng các đội tự vệ
cứu quốc, thành lập các tiểu tổ du kích để tiến lên thành lập đội du kích chính thức,
mở rộng cơ sở quần chúng và lực lượng vũ trang ở các khu du kích... tiến lên phát
động khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ.
Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do Võ
Nguyên Giáp tổ chức ra đời ở Cao Bằng. Ba ngày sau, đội đánh thắng liên tiếp hai
trận ở Phai Khắt (25-/121944) và Nà Ngần (26/12/1944). Đội đẩy mạnh vũ trang
tuyên truyền, kết hợp chính trị và quân sự, xây dựng cơ sở cách mạng, góp phần
củng cố và mở rộng khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng.
Về xây dựng căn cứ địa cách mạng, ở Bắc Sơn - Võ Nhai, Cứu quốc quân
tiến hành tuyên truyền vũ trang, gây cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ ra nhiều
huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Yên... Từ Cao Bằng, khu
căn cứ được mở rộng sang các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Các đoàn xung
phong Nam tiến đẩy mạnh hoạt động, mở một hành lang chính trị nối liền hai khu
căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn - Vũ Nhai (cuối năm 1943). Tổng bộ Việt Minh ra chỉ
thị Sửa soạn khởi nghĩa. Không khí chuẩn bị cho khởi nghĩa sôi nổi trong khu căn cứ.
Về mặt trận tư tưởng - văn hóa, năm 1943, Đảng công bố bản Đề cương
văn hóa Việt Nam, xác định văn hóa cũng là một trận địa cách mạng, chủ trương 8
xây dựng một nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: dân tộc - khoa học và đại
chúng. Cuối năm 1944, Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, thu hút trí thức và
các nhà hoạt động văn hóa vào mặt trận đấu tranh giành độc lập, tự do.
2.2. Cao trào kháng Nhật cứu nước
2.2.1. Bối cảnh lịch sử Bối cảnh thế giới
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Phe
Phát xít liên tục thất bại trước phe Đồng Minh trên nhiều mặt trận. Hồng quân Liên
Xô truy kích phát xít Đức trên chiến trường châu Âu, giải phóng nhiều nước ở
Đông Âu và tiến về phía Berlin (Đức). Nhật thất bại nặng nề ở châu Á - Thái Bình Dương. Bối cảnh trong nước
Lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn ráo riết hoạt động chờ thời cơ Đồng minh
đổ bộ vào Đông Dương sẽ nổi dậy tiến công Nhật. Quân Nhật biết rõ những hoạt
động của Pháp nên hành động trước. Vào tối 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, Pháp
đầu hàng. Sự kết cấu của Pháp và Nhật để thống trị Đông Dương chấm dứt. Tuy
Nhật thống trị Đông Dương nhưng chính sách cai trị, bóc lột của chúng không có gì
thay đổi. Nhật tuyên bố: “giúp các dân tộc đông Dương xây dựng nền độc lập”,
dựng Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, đưa Bảo đại làm “Quốc trưởng”. Thực
chất là độc chiếm Đông Dương, tăng cường vơ vét, bóc lột và đàn áp dã man những
người cách mạng làm cho đời sống nhân dân phải chịu nhiều áp bức bóc lột và vô cùng khổ cực. 9 2.2.2. Chỉ thị
Dự đoán đúng tình hình, ngay trước lúc Nhật nổ súng lật đổ Pháp, Tổng bí
thư Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng
tại làng Đình Bảng để phân tích tình hình và đề ra chủ trương chiến lược mới. Hội
nghị nhận định cuộc đảo chính đã tạo ra “một cuộc khủng hoảng chính trị sâu
sắc”1, làm cho “những điều kiện của cuộc khởi nghĩa vũ trang chưa thực sự chín
muồi”2 đang đi đến chín muồi nhanh chóng. Nắm chắc thời cơ, ngày 12-3-1945,
Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta” làm kim chỉ nam hành động cho các Đảng bộ tích cực xây dựng lực
lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Bản chỉ thị chỉ rõ bản
chất hành động của Nhật là một cuộc đảo chính giành lợi ích giữa Nhật và Pháp,
xác định kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy nhất là phát xít Nhật; nên chúng ta phải
nhanh chóng thay đổi khẩu hiệu “đánh đuổi thực dân Pháp, phát xít Nhật” thành
“đánh đuổi phát xít Nhật”. Chỉ thị đã phát động cao trào kháng Nhật làm tiền đề
cho Tổng khởi nghĩa với phương châm đấu tranh là phát động chiến tranh du kích,
giải phóng từng phần. Chỉ thị cũng đã đưa ra những dự báo về thời cơ tổng khởi
nghĩa giành thắng lợi: “Nếu cách mạng Nhật bùng nổ, và chính quyền cách mạng
của nhân dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940, và
quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần, thì khi ấy dù quân đồng minh chưa đổ
bộ, cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi”3.
Bản chỉ thị ngày 12 -3-1945 đã xác định đúng kẻ thù, dự báo chính xác thời
cơ cách mạng, linh hoạt, sáng tạo và chuẩn bị mọi điều kiện làm tiền đề cho Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân khi thời cơ đến. Điều đó thể hiện
1 Giáo trình trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính, Những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản và lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nxb lý luận chính trị, tr.168.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, t.7, tr.365
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, CTQG, 2000, tr. 373 10
tầm nhìn chiến lược, tư duy khoa học và nghệ thuật chỉ đạo cách mạng tài tình của
Đảng. Đó là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào
chống Nhật cứu nước và có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 2.2.3. Diễn biến
Phong trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội
dung và hình thức, tấn công Nhật toàn diện trên các mặt chính trị, kinh tế, quân sự,
văn hóa... trên khắp các thành phố, thôn quê, và miền núi. Việt Minh (khắp cả 3
vùng chiến lược) thực hiện khởi nghĩa chống Nhật từng phần, mở rộng căn cứ địa,
làm tiền để tiến lên Tổng khởi nghĩa.
Phong trào đã chiếm giữ được nhiều vùng rộng lớn từ tay Nhật, hình thành
nhiều vùng căn cứ cộng sản, trong đó Khu Giải phóng Việt Bắc - bao gồm Cao
Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, và một số vùng
ở Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Yên Bái - là rộng lớn nhất, và là căn cứ địa chính của toàn quốc.
Quân đội Nhật đã mạnh bạo mở các cuộc càn quét, tấn công vào các vùng
Việt Minh. Quân Việt Minh, các đội dân quân - tự vệ, du kích xã đã chống trả quyết
liệt, bảo vệ căn cứ địa, tiêu biểu là các trận đánh bảo vệ chiến khu Vần, chiến khu
Hiền Lương, và chiến khu Trần Hưng Đạo. Tại các đô thị, các phong trào đấu tranh
của công nhân, học sinh, viên chức dâng cao. Nhiều tổ chức công nhân cứu quốc
được xây dựng ở nhiều xí nghiệp. Cao trào kháng Nhật hoạt động sôi nổi trên cả nước.
* Khởi nghĩa từng phần:
Tại chiến khu Việt Bắc, liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng quyết định nổi dậy cướp
chính quyền ở những nơi đã đủ điều kiện. Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân 11
và Cứu quốc quân phối hợp với nhân dân nổi dậy. Hàng loạt các xã, tỉnh, châu
thuộc các vùng Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang đều bị Việt Minh chiếm giữ.
Tại Bắc Giang, nhiều xã thuộc vùng Thượng Yên Thế, Hữu Lũng, ...quần
chúng nổi dậy biểu tình thị uy vũ trang, lập Ủy ban giải phóng. Việt Minh huy động
hàng ngàn quần chúng kéo đi cướp vũ khí của lính đồn, nhiều tri huyện, tri phủ
phải bỏ chạy. Toàn bộ huyện Hiệp Hòa, một phần Yên Thế, Phú Bình đều do quân nổi dậy kiểm soát.
Tại Bắc Ninh, sau đêm Nhật đảo chính Pháp, chi bộ Đảng của xã Trung Màu
(Tiên Du) lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa lập chính quyền ở 2 xã Trung Màu và
Dương Hút. Trong tình hình đó, tỉnh ủy Bắc Ninh chủ trương đẩy mạnh công tác
tuyên truyền đưa phong trào quần chúng tiến lên. Do đó, chỉ trong tháng 3 và tháng
4, số hội viên Việt Minh trong tỉnh đã tăng lên hàng vạn người.
Tại Hưng Yên, đêm 11/3/1945, đội dân quân - tự vệ và du kích địa phương
đã đánh đồn Bần Yên Nhân, cướp được toàn bộ vũ khí.
Hàng ngàn đảng viên cộng sản, cán bộ Việt Minh đang bị giam trong các nhà
tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Hỏa Lò (Hà Nội), Buôn Ma Thuột, Hội An (Quảng Nam) ...
nhân cơ hội Nhật - Pháp bắn nhau và tình hình hỗn loạn đã đấu tranh đòi tự do,
hoặc nổi dậy phá nhà lao, vượt ngục ra ngoài hoạt động.
Tại Quảng Ngãi, ngày 11/3/1945, những đảng viên, cán bộ cộng sản đang bị
giam trong trại tập trung Ba Tơ, khi nghe tin Nhật đảo chính Pháp, đã phá trại
giam, cướp súng, thành lập đội du kích Ba Tơ. Đây là đội du kích đầu tiên của miền
Trung do Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức, lãnh đạo, trở thành lực lượng nòng
cốt trong cuộc nổi dậy giành chính quyền ở Quảng Ngãi và các tỉnh khác.
Tại Nam Kỳ, trong tháng 3 và tháng 4, chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương chưa đến được, nhưng một số địa phương có phong trào mạnh từ 12
trước cũng có những hình thức đấu tranh chống lại nhiều quận trưởng, tỉnh trưởng, như ở Mỹ Tho.
* Phá kho thóc cứu đói:
Khi phong trào khởi nghĩa từng phần lên cao, cũng là lúc Bắc Kỳ, Bắc Trung
Kỳ, diễn ra nạn đói trầm trọng do chính sách vơ vét, tích trữ lương thực của Nhật
và Pháp. Để giải quyết nạn đói và thúc đẩy phong trào đi lên, Hội nghị Ban thường
vụ Trung ương quyết định tiến hành phá kho thóc, giải quyết nạn đói.
Tại Bắc Giang, Bắc Ninh, hàng ngàn quần chúng đi phá kho thóc của Nhật,
Pháp; thu hàng ngàn tấn thóc chia cho nông dân. Tại Vĩnh Yên, Phúc Yên, hàng
chục kho thóc bị phá. Tại Phú Thọ trong một thời gian ngắn có 14 kho thóc bị phá.
Tại Ninh Bình, ngày 15/3 quần chúng các huyện Nho Quan, Gia Viễn đã phá
12 kho thóc, thu hàng trăm tấn thóc chia cho dân nghèo.Tại Thái Bình, trong tháng
3 và tháng 4, nhân dân các huyện Phụ Dực, Thư Trì, Tiền Hải, Vũ Tiên, Tiên Hưng
đã thu 1.000 tấn thóc chia cho dân. Tại Hải Dương, nhân dân phả 39 kho thóc và
lấy 43 thuyền gạo với 2.000 tấn. Riêng các huyện phía Nam đã phá 26 kho thóc,
thu 26 thuyền với >1.000 tấn gạo. Tại Hưng Yên, Hòn Gai, Hà Đông, Sơn Tây,
người dân phá kho thóc, gạo của Nhật.
Tại ngoại thành Hà Nội, người dân tiến hành phá các kho thóc, gạo của Nhật
ở phố Bắc Ninh, phố Lê Lợi, phố Phà Đen, thu hàng trăm tấn. Tại các tỉnh Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình cũng diễn ra nhiều cuộc phá kho thóc.
Phong trào phá kho thóc, cứu đói dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương là một trong những hình thức tập dượt quần chúng đấu tranh từ thấp đến
cao, kết hợp đấu tranh kinh tế, chính trị, vũ trang, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.
* Đấu tranh ở thành thị và các khu công nghiệp: 13
Trong phong trào phá kho thóc, công nhân và dân nghèo Hà Nội cũng đi phá
các kho thóc của Nhật. Công nhân bến cảng Hải Phòng bí mật đốt phá các kho
lương thực ở bến Sáu Kho, cho đồng bào vào lấy gạo. Công nhân mỏ Đông Triều
chặn bắt tàu thuyền chở gạo của người Nhật, công nhân Sài Gòn quyên góp gạo,
tiền gửi ra Bắc giúp đồng bào cứu đói.
Phong trào công nhân đấu tranh tiến lên hình thức cao hơn, như phá hoại kế
hoạch của Nhật, tự tạo vũ khí, cướp súng, đạn của Nhật cung cấp cho bộ đội du
kích ở các chiến khu. Công nhân Hà Nội tổ chức cướp súng của Nhật ở Phà Đen,
Ngọc Hà. Tại Quảng Yên, công nhân khởi nghĩa chiếm mỏ Mạo Khê, Tràng Bạch,
Uông Bí. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Huế, Sài Gòn, công nhân tuyên truyền
gây thanh thế cho Việt Minh. Nhiều hoạt động treo cờ diễn thuyết ở chỗ đông
người, các rạp hát, trường học, ngã 3 đường trên tàu điện đã diễn ra ở Hà Nội. Tại
đây, học sinh và thanh niên bất hợp tác với Nhật, không học tiếng Nhật, tổ chức
những cuộc mít tinh, tuyên truyền tinh thần yêu nước tại Mễ Trì, chợ Canh, Chợ
Láng. Thanh niên tổ chức tuyên truyền xung phong tại các trường Gia Long, Kỹ
nghệ thực hành. Đông đảo giáo viên, học sinh đã hưởng ứng phong trào Việt Minh.
Tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam, từ tháng 5/1945 xuất hiện phong trào
Thanh niên Tiền phong. Dưới hình thức hoạt động công khai hợp pháp, tổ chức, tập
hợp, rèn luyện quần chúng yêu nước, chuẩn bị đón thời cơ khởi nghĩa. Chỉ vài
tháng sau, ở Sài Gòn và miền Nam Việt Nam có hàng vạn người tham gia tổ chức
Thanh niên tiền phong. Đến ngày 22/8/1945, Đoàn Thanh niên Tiền phong ra tuyên
bố đứng trong Mặt trận Việt Minh và trở thành một lực lượng quan trọng của Việt
Minh trong những ngày khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám giành chính quyền ở Sài
Gòn và miền Nam Việt Nam. 14 2.2.4. Kết quả
Cao trào kháng Nhật nổ ra đã động viên được đông đảo quần chúng công
nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, viên chức…
Hơn nữa, cao trào kháng Nhật khiến cho tầng lớp trung gian ngả hẳn về phía
cách mạng, tin và đi theo cách mạng, điển hình là các tư sản dân tộc và một số địa
chủ nhỏ đã được lôi kéo tham gia hoạt động cách mạng. Binh lính, cảnh sát của
chính quyền thân Nhật dao động, một số ngả theo cách mạng. Nhiều lý trưởng,
chánh, phó tổng, tri phủ, tri huyện và cả một số tỉnh trưởng cũng tìm cách liên lạc với Việt Minh…
Dưới phong trào kháng Nhật diễn ra trên toàn quốc, bộ máy chính quyền
Nhật nhiều nơi tê liệt. Không khí sửa soạn khởi nghĩa sục sôi trong cả nước. Qua
cao trào, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang cả nước phát triển mạnh, tạo thời
cơ cho Tổng khởi nghĩa mau chóng chín muồi. 2.2.5. Ý nghĩa
Thực chất của cao trào kháng Nhật cứu nước là một cuộc khởi nghĩa từng
phần và chiến tranh du kích cục bộ, giành chính quyền ở những nơi có điều kiện.
Đó là một cuộc chiến đấu vĩ đại, làm cho trận địa cách mạng được mở rộng,
lực lượng cách mạng được tăng cường, làm cho toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng, chủ
động, tiến lên chớp thời cơ tổng khởi nghĩa.
2.3. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
2.3.1. Bối cảnh thế giới và trong nước Về bối cảnh quốc tế
Từ tháng 5/1945, Đức đầu hàng quân Liên Xô và Đồng minh. Tiếp đến, ngày
8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật và đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật 15
ở Mãn Châu (Trung Quốc). Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống các thành phố
Hiroshima (6-8-1945) và Nagasaki (9-8-1945) buộc Chính phủ Nhật tuyên bố đầu
hàng Đồng minh vô điều kiện vào ngày 15-8-1945.
Hai sự kiện trên đã đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh thế giới thứ hai, tạo
điều kiện khách quan thuận lợi cho việc phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Về bối cảnh trong nước
Từ tháng 9/1940, Nhật tiến vào Đông Dương và từ đó cùng Pháp cai trị Việt
Nam. Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp và độc chiếm Đông Dương.
Sau khi chính phủ Nhật đầu hàng Đồng minh, quân Nhật ở Đông Dương mất
hết tinh thần chiến đấu, chính quyền Nhật hoang mang. Tháng 7/1945, Hội nghị
Potsdam quyết định để quân đội Trung Hoa dân quốc và quân đội Liên hiệp Anh
giải giáp quân đội Nhật. Thực dân Pháp dưới sự ủng hộ của Anh, có ý đồ trở lại
xâm lược Việt Nam. Đế quốc Mỹ ban đầu hợp tác với Việt Minh chống quân Nhật
sau cũng dần ủng hộ Pháp tái chiếm Đông Dương.
Sự căm giận của nhân dân đối với phát xít Nhật và tay sai lên đến đỉnh điểm,
lực lượng trung gian ngả về phía cách mạng. Khi đó, Đảng Cộng sản Đông Dương
đã sẵn sàng lãnh đạo quần chúng nhân dân đứng lên khởi nghĩa.
Sự đầu hàng của chính phủ Nhật và âm mưu tái xâm lược của thực dân Pháp
tạo động lực cho cách mạng, vì vậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ cần thiết và cấp bách. 16
2.3.2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa
Ngày 12/8/1945, Ủy ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong
khu. 13/8, Trung Ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa
toàn quốc, gồm 5 đồng chí trong đó Tổng bí thư Trường Chinh trực tiếp chỉ huy.
Tiếp đó, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã ban bố “Quân lệnh số 1” phát lệnh tổng
khởi nghĩa toàn quốc. Quyết định trên thể hiện sự nhạy bén, quyết đoán, nhận diện
tốt thời cơ của Đảng Cộng sản Đông Dương, khi phát lệnh khởi nghĩa ngay cả
trước thời điểm Nhật đầu hàng quân Đồng minh.
Ngày 14 và 15/8, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào do lãnh tụ
Hồ Chí Minh và Tổng bí thư Trường Chinh chủ trì quyết định phát động toàn dân
giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Hội nghị đã xác định và phân tích tình hình
quân Đồng Minh sắp vào nước ta và âm mưu khôi phục vị trí ở Đông Dương của
đế quốc Pháp, đồng thời đưa ra khẩu hiệu đấu tranh “Phản đối xâm lược! Hoàn
toàn độc lập! Chính quyền nhân dân!”. Hội nghị xác định ba nguyên tắc chỉ đạo
khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời. Phương hướng hành động trong
khởi nghĩa: phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay
nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp, phải làm tan rã tinh thần quân địch
và dụ chúng hàng trước khi đánh. Phải nắm bắt những căn cứ chính trước khi quân
Đồng minh vào, thành lập uỷ ban nhân dân ở những nơi giành được quyền làm chủ.
Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối
ngoại cần thi hành sau khi giành được chính quyền.
Ngày 16/8/1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào với khoảng 60 đại biểu
của các giới, các đảng phái chính trị, các đoàn thể quần chúng cứu quốc, các dân
tộc tôn giáo trong nước và đại biểu kiều bào ở nước ngoài đã nhất trí với chủ
trương Tổng khởi nghĩa của Đảng thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, lập
Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Ngay sau Đại 17
hội quốc dân, Hồ Chí Minh kêu gọi “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã
đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta…
Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Tiến lên. Dưới lá cờ Việt Minh,
đồng bào hãy dũng cảm tiến lên4”.
2.3.3. Diễn biến và kết quả cuộc tổng khởi nghĩa
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước nhất tề vùng dậy ở cả thành
thị và nông thôn theo đúng hiệu triệu, tinh thần mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu
gọi: “Dù có hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết
giành cho được độc lập”
Ngày 14-18/8, nhiều địa phương đã phát động khởi nghĩa, bốn tỉnh giành
được chính quyền sớm nhất là Hải Dương, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam.
Chiều ngày 16/8, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã chỉ huy đội giải phóng quân
từ Tân Trào tiến thẳng xuống giải phóng thị xã Thái Nguyên.
Ngày 17/8, Đảng bộ Hà Nội huy động quần chúng biến cuộc mít tinh ủng hộ
chính phủ Trần Trọng Kim thành ủng hộ Việt Minh, kêu gọi nhân dân tham gia
khởi nghĩa. Sáng ngày 19/8, quần chúng cách mạng kéo đến quảng trường Nhà hát
thành phố, chiếm được Phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Trại Bảo an binh, Sở Cảnh
sát và các công sở của chính quyền thân Nhật. Trước khí thế và sức mạnh áp đảo
của quần chúng, hơn một vạn quân Nhật ở Hà Nội không dám chống cự, Hà Nội
giành được chính quyền.
Ngày 23-25/8, nhân dân tiếp tục giành được chính quyền tại Huế và Sài Gòn.
Những thắng lợi trong các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã đập tan các
cơ quan đầu não của kẻ thù và có ý nghĩa to lớn quyết định thắng lợi trong khởi nghĩa toàn quốc.
4 Hồ Chí Minh Toàn Tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, trang 596. 18
Ngày 26/8, Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng
thống nhất chủ trương trong tình hình mới, đề nghị mở rộng thành phần Chính phủ
lâm thời và lên kế hoạch soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Ngày 27/8, Ủy ban dân tộc giải phóng cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 28/8 danh sách
Chính phủ lâm thời được công bố tại Hà Nội, đến ngày 30/8 vua Bảo Đại thoái vị,
chế độ phong kiến ở Việt Nam hoàn toàn sụp đổ. Cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc
chính thức giành thắng lợi.
Ngày 31/8, bản Tuyên ngôn độc lập chính thức được hoàn thiện. Ngày
2/9/1945, thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội.
Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử có giá trị tư tưởng to lớn, thể hiện tinh thần
ý chí đấu tranh quật cường của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp giữ gìn độc lập tự do dân tộc. CHƯƠNG 3:
TÍNH CHẤT, Ý NGHĨA CỦA CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
3.1. Tính chất của Cách mạng Tháng 8 năm 1945
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc mang tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”5.
Trước hết, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc điển hình, thể hiện:
5 Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tập 1, trang 172. 19
Thứ nhất, tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải
phóng dân tộc, tập trung giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó
là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai; đáp ứng đúng
yêu cầu khách quan của lịch sử và ý chí, nguyện vọng độc lập tự do của quần chúng nhân dân.
Thứ hai, lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết chặt chẽ
trong mặt trận Việt Minh với những tổ chức quần chúng mang tên “cứu quốc”,
động viên đến mức cao nhất mọi lực lượng dân tộc lên trận địa cách mạng. Cuộc
tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là sự vùng dậy của lực lượng toàn dân tộc.
Thứ ba, thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc” theo chủ
trương của Đảng, với hình thức cộng hoà dân chủ, chỉ trừ tay sai của đế quốc và
những kẻ phản quốc, “còn ai là người dân sống trên giải đất Việt Nam đều thảy
được một phần tham gia giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và
bảo vệ chính quyền ấy”6.
“Cách mạng tháng Tám Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc. Mục đích của nó là làm cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đế quốc, làm cho
nước Việt Nam thành một nước độc lập tự do”7. Nhưng Cách mạng tháng Tám năm
còn có tính chất dân chủ.
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của phe dân
chủ chống phát xít. “Nó chống lại phát xít Nhật và bọn tay sai phản động, và nó là
một bộ phận của cuộc chiến đấu vĩ đại của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế
giới chống phát xít xâm lược”.
Hai là, cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực lượng
đông đảo nhất trong dân tộc. Do Cách mạng tháng Tám, một phần ruộng đất của đế
6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, trang 114.
7 Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tập 1, trang 169 20
quốc và Việt gian đã bị tịch thu, địa tô được tuyên bố giảm 25%, một số nợ lưu cữu được xoá bỏ.
Ba là, cuộc cách mạng đã xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Việt Nam, xóa bỏ chế độ quân chủ phong kiến. Các tầng lớp nhân dân
được hưởng quyền tự do, dân chủ.
Cách mạng Tháng Tám - cuộc cách mạng triệt để, mang đậm tính nhân văn
Thứ nhất, hầu như diễn biến khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương
không có tiếng súng, ít đổ máu, nhân dân giành chính quyền một cách nhanh
chóng. Lực lượng chủ yếu tham gia khởi nghĩa là lực lượng chính trị của quần
chúng, hình thức chủ yếu của khởi nghĩa là biểu tình, tuần hành thị uy có vũ trang
bằng các loại vũ khí tự tạo, tự mua sắm, bằng đấu tranh chính trị. Lực lượng vũ
trang chủ yếu đóng vai trò hỗ trợ, ít phải sử dụng hành động quân sự. Vì thế, nhiều
nhà nghiên cứu nhận xét rằng: Cuộc Tổng khởi nghĩa - cách mạng diễn ra một cách
tương đối hòa bình. Lý do quan trọng lúc đó là Pháp đã chạy, Nhật đầu hàng, chính
quyền thân Nhật thì bất lực, vương triều nhà Nguyễn ở Huế đã suy tàn.
Thứ hai, do là một cuộc cách mạng ít đổ máu, quần chúng nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng chỉ cần gây áp lực thì chính quyền thân Nhật từ Trung ương đến
các địa phương hoặc là đầu hàng hoặc bỏ nhiệm sở chạy trốn, ít có hành động
chống đối bằng vũ lực, nên chúng ta đã giành thắng lợi nhanh chóng. Điển hình của
tính nhân văn chính là sự kiện vị vua cuối cùng của triều đình nhà Nguyễn là Vĩnh
Thụy (tức Bảo Đại), làm lễ thoái vị, trao ấn, kiếm, tượng trưng cho quyền lực của
vương triều, cho đại diện chính quyền cách mạng, cùng lời tuyên bố trước nhân
dân: Thà làm công dân một nước tự do hơn là làm vua một nước nô lệ. Đại diện của
triều Nguyễn, đại diện của Chính phủ Trần Trọng Kim ở Hà Nội, Sài Gòn cũng như
một số địa phương cũng nhanh chóng trao quyền cho đại diện Mặt trận Việt Minh.
Chính quyền cách mạng mới thành lập đã có chủ trương không trả thù, truy bức
những người từng chống lại cách mạng, những người từng làm việc cho chính 21
quyền cũ. Trái lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn mời Bảo Đại, mời Giám mục Lê Hữu
Từ, một người vốn không ưa cộng sản, làm Cố vấn cho Chính phủ lâm thời của
nước Việt Nam mới. Nhiều nhân sĩ, trí thức nổi tiếng cũng được Người mời tham
gia Chính phủ, ứng cử vào Quốc hội.
Thứ ba, đây là một cuộc cách mạng quy tụ được đông đảo các tầng lớp nhân
dân, không phân biệt đảng phái, dân tộc, tôn giáo, giới tính, lứa tuổi, ngành nghề,
vùng miền, tham gia khởi nghĩa giành chính quyền và lại cùng nhau đoàn kết xây
dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền mới, chế độ mới do bản thân mình làm chủ theo
10 nội dung lớn trong Chương trình của Mặt trận Việt Minh. Tuy không phải không
có những mâu thuẫn, xung đột về quyền lợi, địa vị, về tư tưởng và cách thức xây
dựng quản lý, điều hành chính quyền mới, chế độ mới nhưng một thực tế không thể
bác bỏ là đại đa số nhân dân trên cả nước đã đoàn kết, ủng hộ Chính phủ Hồ Chí
Minh, tỏ rõ quyết tâm bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng, dù có phải tiếp tục
chiến đấu, hy sinh cũng không sờn lòng.
Cách mạng Tháng Tám “chưa làm cách mạng ruộng đất, chưa thực hiện khẩu
hiệu người cày có ruộng”, “chưa xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất,
chưa xoá bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến để cho công nghiệp có
điều kiện phát triển mạnh... quan hệ giữa địa chủ và nông dân nói chung vẫn như
cũ. Chính vì thế Cách mạng tháng Tám có tính chất dân chủ, nhưng tính chất đó
chưa được đầy đủ và sâu sắc”. 3.2. Ý nghĩa
Khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh
viết: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà
giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần
này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc 22
địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Đối với Việt Nam:
Cách mạng tháng Tám năm 1945 có ý nghĩa quan trọng: đập tan xiềng xích
nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ
quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nhà nước của nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, giải quyết thành công vấn đề cơ
bản của một cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô
lệ bước lên địa vị người chủ đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình.
Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập có chủ
quyền, vươn lên cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu cao cả
của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đảng Cộng sản
Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật trở thành một đảng cầm quyền. Từ đây,
Đảng và nhân dân Việt Nam có chính quyền nhà nước cách mạng làm công cụ sắc
bén phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình
lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do và hướng tới chủ nghĩa xã hội và góp phần
cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Đối với thế giới:
Cách mạng tháng Tám là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc lần đầu
tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa, đã đột phá một khâu quan trọng trong hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám không chỉ là chiến công của dân tộc
Việt Nam mà còn là là chiến công chung của các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh 23
vì độc lập tự do, vì thế nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng
đắn, sáng tạo của Đảng và tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh. Nó chứng tỏ
rằng: một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo hoàn
toàn có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa trước khi giai cấp công nhân ở
“chính quốc” lên nắm chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc. 24