



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60755984
I. PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 1939 ĐẾN 1945:
1.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng.
Vào tháng 9 năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai ã bùng nổ. Chính phủ Đala iê
(Daladier) ã thực hiện một loạt biện pháp ể àn áp lực lượng dân chủ trong nước và phong
trào cách mạng trong thuộc ịa. Mặt trận nhân dân Pháp ã tan rã. Tại Đông Dương, bộ máy
àn áp ã ược gia tăng và lệnh thiết quân luật ã ược ban hành. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1939,
toàn quyền Đông Dương ã ban hành nghị ịnh cấm tuyên truyền cộng sản, ưa Đảng Cộng
Sản Đông Dương ra khỏi phạm vi pháp luật, giải tán các hội oàn, óng cửa các tờ báo và
nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập ông người…
Trong tháng 6-1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ của Thủ tướng Pêtanh (Pétain) ký
văn bản ầu hàng Đức. Tướng Đờ Gôn (Charles De Gaulle) ra nước ngoài ể xây dựng lực
lượng kháng chiến chống Đức. Sau khi chiếm một loạt nước châu Âu, tháng 6-1941 Đức tiến công Liên Xô.
Tại Đông Dương, thực dân Pháp ã thực hiện chính sách thời chiến, xâm lược bộ máy
thống trị và dùng biện pháp àn áp mạnh mẽ phong trào cách mạng, họ cũng thực hiện chính
sách “kinh tế chỉ huy” nhằm tăng cường vơ vét sức lao ộng và tài nguyên ể phục vụ cho
cuộc chiến tranh ế quốc. Vào tháng 9 năm 1940, quân phiến quân Nhật ã xâm nhập vào
Đông Dương, thực dân Pháp ã ầu hàng và cấu kết với Nhật ể thống trị và bóc lột nhân dân
Đông Dương, làm cho nhân dân Đông Dương phải chịu cảnh khổ cực.
Từ giữa năm 1941, tình hình trong nước và quốc tế ã có nhiều biến ộng. Vào tháng 12
năm 1941, chiến tranh Thái Bình Dương ã bùng nổ. Quân phiến quân Nhật tiếp tục chiếm
óng nhiều thuộc ịa của Mỹ và Anh trên biển và trên ất liền.
Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai mới bùng nổ, Đảng ã kịp thời rút lui vào hoạt ộng
bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, ồng thời vẫn chú trọng ến các ô thị. Vào
ngày 29 tháng 9 năm 1939, Trung ương Đảng ã gửi một thông báo quan trọng tới toàn bộ
Đảng, chỉ rõ: “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ phát triển vấn ề dân tộc giải phóng”.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11 năm 1939) tại Bà Điểm (Hóc Môn, lOMoAR cPSD| 60755984
Gia Định) ã phân tích tình hình và chỉ rõ: “Bước ường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương
không có con ường nào khác ngoài việc ánh ổ ế quốc Pháp, chống lại mọi hình thức xâm
lược vô lý, ể giành lấy giải phóng và ộc lập”. Hội nghị nhấn mạnh “chiến lược cách mạng
tư sản dân quyền bây giờ cũng phải iều chỉnh ể phù hợp với tình hình mới”. “Đứng trên lập
trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn ề của cuộc cách
mạng, cả vấn ề ất ai cũng phải hướng tới mục tiêu ó ể giải quyết”. Khẩu hiệu “cách mạng
ruộng ất” phải ược tạm gác lại và thay thế bằng các khẩu hiệu chống ịa tô cao, chống cho
vay lãi nặng, tịch thu ruộng ất của ế quốc và ịa chủ phản bội quyền lợi dân tộc ể phân phối
cho dân cày. Hội nghị ã chủ trương thành lập mặt trận dân tộc thống nhất phản ế Đông
Dương, thu hút mọi dân tộc, tầng lớp, ảng phái và cá nhân yêu nước tại Đông Dương nhằm
ánh ổ ế quốc Pháp và tay sai, giành lại ộc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương.
Hình 1. Khẩu hiệu của Việt Minh kêu gọi ồng bào gia nhập Việt Minh và oàn kết
ánh uổi Nhật - Pháp
Sau 30 năm hoạt ộng ở nước ngoài, vào ngày 28 tháng 1 năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc ã trở về nước và làm việc tại Cao Bằng. Tháng 5 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc ã chủ
trì Hội nghị lần thứ tám của Ban chấp hành Trung ương Đảng. “Vấn ề chính là nhận ịnh
cuộc cách mạng trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lập
Mặt trận Việt Minh, khẩu hiệu chính là: Đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp, ấu lOMoAR cPSD| 60755984
tranh cho ộc lập hoãn cách mạng ruộng ất”. Trung ương ã bầu ồng chí Trường Chinh làm
Tổng Bí thư. Hội nghị Trung ương ã nêu rõ những iều sau ây:
Thứ nhất: Cần nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu cần phải giải quyết ngay là mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với các ế quốc phát xít Pháp-Nhật, vì dưới áp lực của hai thế lực
này “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng”.
Thứ hai: Khẳng ịnh quyết tâm “phải thay ổi chiến lược” và giải thích: “Cuộc cách mạng
ở Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, mà là một
cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn ề duy nhất là vấn ề “giải phóng dân tộc”. Trung
ương Đảng khẳng ịnh: “Chưa chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền mà chủ trương
làm cách mạng giải phóng dân tộc”. Để thực hiện nhiệm vụ ó, Hội nghị quyết ịnh tiếp tục
tạm gác khẩu hiệu “ ánh ổ ịa chủ, chia ruộng ất cho dân cày”, thay vào ó là các khẩu hiệu
tịch thu ruộng ất của các thế lực ế quốc và phản dân tộc, phân phối cho những người nông
dân nghèo, phân phối lại ruộng ất công bằng, giảm thuế, giảm lãi. Hội nghị ã chỉ rõ: “Trong
lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải ặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia,
của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết ược vấn ề dân tộc giải phóng, nếu không
òi ược ộc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn
chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp ến vạn năm cũng không òi lại
ược. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn ề dân tộc”.
Thứ ba: Cần giải quyết vấn ề dân tộc trong phạm vi từng quốc gia ở Đông Dương, áp
dụng chính sách “dân tộc tự quyết”. Sau khi ánh bại Pháp-Nhật, các dân tộc ở Đông Dương
sẽ “tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay ứng riêng thành lập một quốc gia tùy ý”.
“Sự tự do ộc lập của các dân tộc sẽ ược thừa nhận và coi trọng”. Từ quan iểm này, Hội nghị
quyết ịnh thành lập một mặt trận riêng ở mỗi quốc gia ở Đông Dương, thúc ẩy oàn kết từng
dân tộc, ồng thời thúc ẩy oàn kết ba dân tộc chống lại kẻ thù chung.
Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, “không phân biệt thợ thuyền, dân cày,
phú nông, ịa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất
mặt trận, thu góp toàn lực em tất cả ra giành quyền ộc lập, tự do cho dân tộc”. Các tổ chức lOMoAR cPSD| 60755984
quần chúng trong mặt trận Việt Minh ều mang tên “cứu quốc”. Trong việc xây dựng các
oàn thể cứu quốc, “ iều cốt yếu không phải những hội viên phải hiểu chủ nghĩa cộng sản,
mà iều cốt yếu hơn hết là họ có tinh thần cứu quốc và muốn tranh ấu cứu quốc”.
Thứ năm: Chủ trương sau cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa theo tinh thần Tân dân chủ, một hình thức Nhà nước "của chung cả toàn thể dân
tộc". Hội nghị ã chỉ rõ: "không nên nói công nông liên hiệp và lập chính quyền Xôiết mà
phải nói toàn thể nhân dân liên hiệp và thành lập chính phủ dân chủ cộng hòa".
Thứ sáu: Hội nghị xác ịnh chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng
và nhân dân, "phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện
hơn cả ể ánh lại quân thù". Trong những hoàn cảnh nhất ịnh, "với lực lượng sẵn có, ta có
thể lãnh ạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng ịa phương, cũng có thể giành sự
thắng lợi và mở ường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn". Hội nghị còn xác ịnh những
iều kiện chủ quan, khách quan và dự oán thời cơ tổng khởi nghĩa.
Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ã hoàn chỉnh chủ trương
chiến lược ược ề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, khắc phục triệt ể những hạn chế của Luận
cương chính trị tháng 10-1930, khẳng ịnh lại ường lối cách mạng giải phóng dân tộc úng
ắn trong Cương lĩnh chính trị ầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc
của Nguyễn Ái Quốc. Đó là ngọn cờ dẫn ường cho toàn dân Việt Nam ẩy mạnh công cuộc
chuẩn bị lực lượng, tiến lên trong sự nghiệp ánh Pháp, uổi Nhật, giành ộc lập tự do.
1.2. Phong trào chống Pháp-Nhật, ẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc
khởi nghĩa vũ trang:
Ngày 27-9-1940, khi quân Pháp tại Lạng Sơn phải rút chạy qua ường Bắc Sơn-Thái
Nguyên do bị quân Nhật tiến công, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh ạo của ảng bộ ịa phương
ã nổi dậy khởi nghĩa, chiếm ồn Mỏ Nhài và kiểm soát châu lỵ Bắc Sơn. Đội du kích Bắc
Sơn ược thành lập, ánh dấu bước phát triển trong cuộc ấu tranh vũ trang vì mục tiêu giành ộc lập. lOMoAR cPSD| 60755984
Ở Nam Kỳ, phong trào cách mạng của quần chúng lan rộng ở nhiều nơi. Theo chủ trương
của Xứ ủy Nam Kỳ, một kế hoạch khởi nghĩa vũ trang ược gấp rút chuẩn bị. Tháng
111940, Hội nghị cán bộ Trung ương họp tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) quyết
ịnh duy trì và củng cố lực lượng vũ trang ở Bắc Sơn, ồng thời ình chỉ chủ trương phát
ộng khởi nghĩa ở Nam Kỳ. Tuy nhiên, trước khi chủ trương này ược triển khai, cuộc khởi
nghĩa ã nổ ra vào êm ngày 23-11-1940. Quân khởi nghĩa ã chiếm óng nhiều ồn bốt và tiến
công vào nhiều quận lỵ. Chính quyền cách mạng ược thành lập ở một số ịa phương và
ban hành các quyền tự do dân chủ, tổ chức các phiên tòa ể xét xử các phản cách mạng.
Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa bị ế quốc Pháp àn áp mạnh mẽ, làm cho lực lượng cách mạng
gánh chịu tổn thất nặng nề, và phong trào cách mạng ở Nam Kỳ gặp khó khăn trong nhiều năm sau ó.
Ngày 13-1-1941, một cuộc binh biến ã xảy ra tại ồn Chợ Rạng (huyện Đô Lương, tỉnh
Nghệ An), do Đội Cung chỉ huy, nhưng cuộc binh biến này cũng ã bị thực dân Pháp dập tắt nhanh chóng.
Các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Sơn, Nam Kỳ và binh biến tại Đô Lương ược coi là "những
tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước ầu trong cuộc ấu tranh bằng
võ lực của các dân tộc trong một Đông Dương thống nhất".
Sau Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941), vào ngày 66-
1941, Nguyễn Ái Quốc ã gửi thư kêu gọi ồng bào cả nước: "Trong lúc quyền lợi dân tộc
giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải oàn kết lại ánh ổ bọn ế quốc và bọn Việt gian
ặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng". lOMoAR cPSD| 60755984
Hình 2. Trang ầu bức thư “Kính cáo ồng bào” của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh)
Pháp-Nhật ngày càng tăng cường àn áp phong trào cách mạng tại Việt Nam. Ngày 26-
8-1941, thực dân Pháp ã tiến hành xử bắn Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập,
Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai tại Hóc Môn, Gia Định. Lê Hồng Phong hy sinh trong
nhà tù Côn Đảo vào ngày 6-9-1942. Tháng 8-1942, Nguyễn Ái Quốc ã lấy tên Hồ Chí Minh
khi ang i công tác tại Trung Quốc, nhưng cũng bị quân Trung Hoa dân quốc bắt giữ hơn
một năm (từ tháng 8-1942 ến tháng 9-1943). Trước sự tàn bạo của kẻ thù, các chiến sĩ cộng
sản ã nâng cao tinh thần kiên cường và không khuất phục, giữ vững niềm
tin vào thắng lợi của cách mạng.
Ngày 25-10-1941, Việt Minh ã công bố Tuyên ngôn, với tên gọi rõ ràng: “Việt Nam Độc
lập Đồng minh (Việt Minh) ra ời”. Chương trình của Việt Minh ã áp ứng nguyện vọng cứu
nước của mọi tầng lớp nhân dân, iều này ã khiến phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ,
mặc dù gặp phải sự tấn công khắc nghiệt từ phe ịch. Việt Minh ã trở thành một mặt trận aị
oàn kết của dân tộc Việt Nam, là nơi tập trung, học hỏi và rèn luyện lực lượng chính trị
quyết ịnh, một lực lượng cơ bản và có ý nghĩa quan trọng trong cuộc tổng khởi nghĩa giành quyền lực sau này.
Đảng ã tích cực ầu tư vào việc xây dựng và củng cố tổ chức, mở nhiều lớp huấn luyện
ngắn hạn, ào tạo cán bộ về chính trị, quân sự và binh vận. Nhiều cán bộ và ảng viên trong lOMoAR cPSD| 60755984
các trại giam như Sơn La, Chợ Chu, Buôn Ma Thuột ã tự do vượt ngục và trở về ịa phương
ể tham gia lãnh ạo phong trào.
Tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ã tổ chức cuộc họp tại Võng La (Đông
Anh, Phúc Yên), nay thuộc Hà Nội, và ề ra những biện pháp cụ thể nhằm phát triển phong
trào quần chúng mạnh mẽ và lan rộng khắp nơi, nhằm chuẩn bị iều kiện cho cuộc khởi
nghĩa trong tương lai có thể nổ ra ở những trung tâm chiến lược của quân thù.
Đảng và Việt Minh ã xuất bản nhiều tờ báo như Giải phóng, Cờ giải phóng, Chặt xiềng,
Cứu quốc, Việt Nam ộc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Tiền phong, Kèn gọi lính, Quân giải
phóng, Kháng ịch, Độc lập, và nhiều tờ báo khác. Trong các nhà tù do ế quốc kiểm soát,
những chiến sĩ cách mạng ã sử dụng báo chí như một công cụ ể ấu tranh, phát hành các tờ
báo như Suối reo (Sơn La), Bình Minh (Hòa Bình), Thông reo (Chợ Chu), Dòng sông Công
(Bá Vân)... Năm 1943, Đảng ã công bố bản Đề cương về văn hóa Việt Nam, xác ịnh văn
hóa cũng là một mặt trận cách mạng, ề xuất xây dựng một nền văn hóa mới dựa trên ba
nguyên tắc: dân tộc, khoa học và ại chúng. Cuối năm 1944, Hội Văn hóa cứu quốc Việt
Nam ã ược thành lập, thu hút sự tham gia của các trí thức và nhà hoạt ộng văn hóa vào cuộc
chiến ấu giành ộc lập và tự do.
Đảng ã tiến hành vận ộng và hỗ trợ một số sinh viên và trí thức yêu nước thành lập
Đảng Dân chủ Việt Nam vào tháng 6-1944. Đảng này ã tham gia vào Mặt trận Việt Minh
và hoạt ộng tích cực, óng góp vào việc mở rộng khối ại oàn kết dân tộc. lOMoAR cPSD| 60755984
Ngoài ra, Đảng cũng ã tăng cường công tác vận ộng binh lính người Việt và người Pháp.
Từ cấp Trung ương ến các ịa phương, ều ược thành lập các ban binh vận ể thúc ẩy hoạt ộng này.
Cùng với việc ẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, Đảng cũng ặc biệt chú trọng vào
việc chuẩn bị lực lượng vũ trang và xây dựng các căn cứ ịa cách mạng.
Dưới sự chỉ ạo trực tiếp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, ội du kích Bắc Sơn ã
ược duy trì và phát triển thành Cứu quốc quân. Sau 8 tháng hoạt ộng gian khổ, một phần
của Cứu quốc quân ã vượt ra khỏi vòng vây của quân Pháp, rút lên biên giới phía Bắc, tuy
nhiên trên ường i ã gặp phải phục kích và gánh chịu tổn thất nặng. Phần còn lại của Cứu
quốc quân ã phân tán lực lượng ể tiếp tục hoạt ộng tại chỗ và phát triển cơ sở chính trị.
Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc ã quyết ịnh thành lập một ội vũ trang ở Cao Bằng
nhằm thúc ẩy phát triển cơ sở chính trị và chuẩn bị xây dựng lực lượng vũ trang. Tháng 12-
1941, Trung ương ã ra thông cáo về Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần
kíp của Đảng, chỉ rõ các ảng bộ ịa phương cần phải vận ộng nhân dân tham gia vào cuộc
chiến, chống lại việc bắt lính, bắt phu, chống cướp oạt tài sản của nhân dân, òi tăng lương
và giảm giờ làm cho công nhân, củng cố và mở rộng các ội tự vệ cứu quốc, thành lập các
tiểu tổ du kích ể tiến lên thành lập ội du kích chính thức, mở rộng cơ sở quần chúng và lực
lượng vũ trang ở các khu du kích, và tiến lên phát ộng khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ.
Ở Bắc Sơn-Võ Nhai, Cứu quốc quân ã tiến hành tuyên truyền vũ trang, mở rộng cơ sở
chính trị và mở rộng khu căn cứ ra nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang,
Vĩnh Yên... Từ Cao Bằng, khu căn cứ ã ược mở rộng sang các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn,
Lạng Sơn. Các oàn xung phong Nam tiến ã thúc ẩy hoạt ộng và mở rộng một hành lang
chính trị nối liền hai khu căn cứ ở Cao Bằng và Bắc Sơn-Vũ Nhai (cuối năm 1943). Tổng
bộ Việt Minh ra chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa. Không khí chuẩn bị cho khởi nghĩa sôi nổi trong khu căn cứ.
Tháng 10-1944, Hồ Chí Minh ã gửi thư cho ồng bào toàn quốc, thông báo chủ trương
của Đảng về việc triệu tập Đại hội ại biểu quốc dân. Trong bức thư, ông nêu rõ: “Phe xâm lOMoAR cPSD| 60755984
lược gần ến ngày bị tiêu diệt. Các ồng minh quốc sắp tranh ược sự thắng lợi cuối cùng. Cơ
hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”.
Cuối năm 1944, ở Cao-Bắc-Lạng, cấp ủy ịa phương ã gấp rút chuẩn bị phát ộng chiến
tranh du kích trong phạm vi ba tỉnh. Tuy nhiên, lúc ó, Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở lại
Cao Bằng và kịp thời quyết ịnh ình chỉ phát ộng chiến tranh du kích trên quy mô rộng lớn
vì chưa ủ iều kiện. Sau ó, ông ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân, xác ịnh nguyên tắc tổ chức, phương thức hoạt ộng và phương châm tác chiến của lực
lượng vũ trang. Bản Chỉ thị này có giá trị như một cương lĩnh quân sự tóm tắt của Đảng.
Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp tổ
chức ra ời ở Cao Bằng. Ba ngày sau, ội ã ánh thắng liên tiếp hai trận ở Phai Khắt (2512-
1944) và Nà Ngần (26-12-1944). Đội ã ẩy mạnh hoạt ộng vũ trang tuyên truyền, kết hợp
chính trị và quân sự, xây dựng cơ sở cách mạng, góp phần củng cố và mở rộng khu căn cứ Cao-Bắc-Lạng.
Hình 3. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
Ngày 24-12-1944, Đoàn của Tổng bộ Việt Minh do Hoàng Quốc Việt dẫn ầu ã sang
Trung Quốc ể liên lạc với các nước Đồng Minh nhằm phối hợp chống lại quân Nhật. Tháng
2-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng ã sang Trung Quốc ể tận dụng sự giúp ỡ của các nước
Đồng minh trong cuộc chiến chống lại phát xít Nhật. lOMoAR cPSD| 60755984
1.3. Cao trào kháng Nhật cứu nước:
Đầu năm 1945, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai ang tiến vào giai oạn cuối cùng. Trên
mặt trận châu Âu, Hồng quân Liên Xô ang truy kích phát xít Đức, giải phóng nhiều quốc
gia ở Đông Âu và tiến về phía Berlin, trong khi Anh và Mỹ mở mặt trận thứ hai tại Tây Âu,
ổ quân lên lãnh thổ Pháp và sau ó tiến vào phía Tây của Đức. Paris ã ược giải phóng và
chính phủ lâm thời của Đờ Gôn ã trở về ó.
Ở mặt trận Thái Bình Dương, quân Anh ang tiến vào Miến Điện (nay là Myanmar), trong
khi quân Mỹ ổ bộ lên Philippines. Nhật Bản, ể duy trì ường biển ến các cứ iểm ở Đông
Nam Á, ã phải giữ con ường duy nhất từ Mãn Châu qua Đông Dương. Thực dân Pháp, ủng
hộ chính phủ Đờ Gôn, ang chuẩn bị sẵn sàng chờ ợi quân Đồng minh ánh vào Đông Dương,
hy vọng sẽ khôi phục lại quyền lợi thống trị của họ.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật Bản tiến hành cuộc ảo chính lật ổ Pháp thành công,
chiếm lĩnh Đông Dương. Sự kháng cự từ phía Pháp là không áng kể và họ ã nhanh chóng
ầu hàng. Sau khi chiếm óng, Nhật Bản thực hiện một loạt chính sách nhằm củng cố quyền
thống trị, thành lập chính phủ Bảo Đại-Trần Trọng Kim với tư cách " ộc lập" ể phục vụ cho
nền thống trị của họ.
Dự oán úng tình hình, ngay trước lúc Nhật nổ súng lật ổ Pháp, Tổng Bí thư Trường
Chinh triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại làng Đình
Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) ể phân tích tình hình và ề ra chủ trương chiến lược mới. Ngày
12-3-1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Nhật, Pháp bắn nhau và hành ộng
của chúng ta, chỉ rõ bản chất hành ộng của Nhật ngày 9-3-1945 là một cuộc ảo chính tranh
giành lợi ích giữa Nhật và Pháp; xác ịnh kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân
dân Đông Dương sau cuộc ảo chính là phát xít Nhật; thay khẩu hiệu “ ánh uổi phát xít
Nhật-Pháp” bằng khẩu hiệu “ ánh uổi phát xít Nhật”, nêu khẩu hiệu “thành lập chính
quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương” ể chống lại chính phủ thân Nhật.
Chỉ thị quyết ịnh phát ộng một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền ề cho
cuộc tổng khởi nghĩa, ồng thời sẵn sàng chuyển lên tổng khởi nghĩa khi có ủ iều kiện. Bản lOMoAR cPSD| 60755984
chỉ thị ngày 12-3-1945 thể hiện sự lãnh ạo kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó là kim chỉ
nam cho mọi hành ộng của Đảng và Việt Minh trong cao trào chống Nhật cứu nước và có
ý nghĩa quyết ịnh ối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Dưới
sự lãnh ạo của Đảng và Việt Minh, từ giữa tháng 3-1945 trở i, cao trào kháng Nhật cứu
nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ.
Chiến tranh du kích cục bộ và các cuộc khởi nghĩa từng phần bùng nổ ở vùng thượng du
và trung du Bắc Kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân hợp tác với
lực lượng chính trị giải phóng nhiều khu vực, bao gồm các xã, châu, huyện thuộc các tỉnh
Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang… Cuộc khởi nghĩa
ở Ba Tơ (Quảng Ngãi) ã ạt ược thắng lợi, dẫn ến việc thành lập và xây dựng căn cứ Ba Tơ.
Vào ngày 16 tháng 4 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh ã phát i chỉ thị về việc tổ chức Ủy ban giải phóng Việt Nam.
Ngày 15 tháng 5 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ã triệu tập Hội nghị quân
sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang). Hội nghị ã chủ trương thống nhất các lực
lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân, phát triển lực lượng bán vũ trang
và xây dựng bảy chiến khu trên toàn quốc.
Trong tháng 5 năm 1945, Hồ Chí Minh ã trở về Tân Trào (Tuyên Quang) và ra chỉ thị
gấp rút chuẩn bị cho ại hội quốc dân, cũng như thành lập "khu giải phóng". Vào ngày 4
tháng 6 năm 1945, khu giải phóng chính thức ược thành lập, bao gồm hầu hết các tỉnh Cao
Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận
thuộc Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Một ủy ban lâm thời cho khu giải phóng
ược thành lập và thi hành các chính sách của Việt Minh. Khu giải phóng Việt Bắc trở thành
căn cứ chính của cách mạng trên toàn quốc. Nhiều chiến khu mới ã ược xây dựng như chiến
khu Vần-Hiền Lương ở vùng giáp giới giữa hai tỉnh Phú Thọ và Yên Bái, chiến khu Đông
Triều (Quảng Yên), chiến khu Hoà-Ninh-Thanh (ở phía Tây của ba tỉnh
Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa), chiến khu Vĩnh Tuy và Đầu Rái (Quảng Ngãi)… lOMoAR cPSD| 60755984
Hình 4. Lực lượng Việt Minh hỗ trợ dân phá kho thóc
Ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, khẩu hiệu "phá kho thóc, giải quyết nạn ói" ã kích
thích ngọn lửa căm thù trong lòng ông ảo nhân dân và khơi dậy quần chúng với khí thế
cách mạng hừng hực, tiến tới tổ chức tổng khởi nghĩa ể giành lại quyền lực. Tại nhiều ịa
phương, quần chúng tự vũ trang và xung ột với binh lính và chính quyền Nhật, biến các
cuộc khởi nghĩa từng phần thành sự giành quyền tự chủ.
Báo chí cách mạng của Đảng và mặt trận Việt Minh ã phát hành một cách công khai, tạo
ra một ảnh hưởng chính trị lớn.
Từ nhiều người bị giam cầm bởi thực dân, những chiến sĩ cộng sản ã trốn thoát và tham
gia hoạt ộng, tăng thêm số lượng cán bộ lãnh ạo cho phong trào cách mạng.
Cao trào kháng Nhật cứu nước ã không chỉ kích ộng ược ông ảo quần chúng, từ công
nhân, nông dân, tiểu thương, ến học sinh, viên chức..., mà còn thu hút cả tư sản dân tộc và
một số ịa chủ nhỏ tham gia vào hoạt ộng cách mạng. Binh lính và cảnh sát của chính quyền
thân Nhật ã bị lôi kéo, một số ã chuyển sang ủng hộ cách mạng. Nhiều quan chức lớn nhỏ
như lý trưởng, chánh, phó tổng, tri phủ, tri huyện và thậm chí là một số tỉnh trưởng cũng ã
cố gắng tiếp xúc với Việt Minh... Bộ máy chính quyền Nhật ã trở nên yếu uối tại nhiều nơi.
Không khí sôi ộng của sự sửa soạn cho cuộc khởi nghĩa ã lan rộng khắp cả nước.
Ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, khẩu hiệu "phá kho thóc, giải quyết nạn ói" ã gợi
lên cảm giác căm thù trong lòng ông ảo nhân dân và kích thích quần chúng trong vùng nổi lOMoAR cPSD| 60755984
dậy với tinh thần cách mạng hăng hái, tiến tới tổ chức các cuộc khởi nghĩa từng phần nhằm giành quyền tự chủ.
Báo chí cách mạng của Đảng và mặt trận Việt Minh ã phổ biến một cách công khai, tạo
ra sức ảnh hưởng chính trị mạnh mẽ.
Nhiều chiến sĩ cộng sản từ các trại giam do thực dân quản lý ã vượt ngục và tham gia
vào hoạt ộng, từ ó bổ sung thêm vào ội ngũ cán bộ lãnh ạo của phong trào cách mạng.
Cao trào kháng Nhật cứu nước không chỉ ộng viên ược ại chúng gồm công nhân, nông
dân, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, viên chức... mà còn thu hút cả tư sản dân tộc và một
số ịa chủ nhỏ tham gia vào hoạt ộng cách mạng. Một số binh lính và cảnh sát thuộc chính
quyền thân Nhật cũng bị ảnh hưởng và một số ã chuyển sang ủng hộ cách mạng. Nhiều
lãnh ạo ịa phương như lý trưởng, chánh, phó tổng, tri phủ, tri huyện và một số tỉnh trưởng
cũng ã tìm cách tiếp xúc và hỗ trợ Việt Minh... Bộ máy chính quyền Nhật tại nhiều ịa
phương ã bị suy yếu. Không khí chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa ang sôi sục khắp nơi trong cả nước.
Thực chất của cao trào kháng Nhật cứu nước là một cuộc khởi nghĩa từng phần và chiến
tranh du kích cục bộ, nhằm giành chính quyền ở những vùng có iều kiện thuận lợi. Đây là
một cuộc chiến ấu vĩ ại, mở rộng trận ịa cách mạng và tăng cường lực lượng cách mạng.
Cuộc kháng chiến ã khiến cho toàn Đảng và toàn dân trở nên sẵn sàng và chủ ộng, sẵn sàng
tận dụng cơ hội ể tổ chức cuộc tổng khởi nghĩa.
1.4. Tổng khởi nghĩa dành chính quyền:
Giữa tháng 8 năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai khép lại. Sau khi phát xít Đức ầu
hàng Liên Xô và Đồng minh (ngày 9 tháng 5 năm 1945) và sau ó Liên Xô tuyên chiến với
Nhật, ánh bại ạo quân Quan Đông của Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc). Mỹ thả hai quả
bom nguyên tử xuống các thành phố Hiroshima (ngày 6 tháng 8 năm 1945) và Nagasaki
(ngày 9 tháng 8 năm 1945). Chính phủ Nhật tuyên bố ầu hàng Đồng minh vô iều kiện vào
ngày 15 tháng 8 năm 1945. Quân Nhật ở Đông Dương ã mất i tinh thần chiến ấu. Chính lOMoAR cPSD| 60755984
quyền do Nhật thiết lập rơi vào tình trạng hoang mang cực ộ. Thời cơ cách mạng bắt ầu xuất hiện.
Một nguy cơ mới bắt ầu nảy sinh. Theo quyết ịnh của Hội nghị Potsdam (Pốtx am, tháng
7 năm 1945), quân ội Trung Quốc dân quốc sẽ xâm nhập vào Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16
và quân ội của Liên hiệp Anh cũng sẽ tiến vào từ vĩ tuyến 16 ể hỗ trợ quân ội Nhật. Pháp,
với sự hỗ trợ của Anh, có kế hoạch trở lại xâm lược Việt Nam, ầu tiên là phục hồi bộ máy
cai trị cũ ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Trong khi ó, những thế lực chống cách mạng bên
trong nước cũng ang tìm cách ối phó. Một số thành viên trong Chính phủ Bảo Đại-Trần
Trọng Kim ã lựa chọn tìm kiếm sự hỗ trợ từ một số cường quốc, với hy vọng duy trì chế ộ quân chủ.
Từ việc hợp tác với Việt Minh chống lại quân phiến quân Nhật trong Chiến tranh thế
giới thứ hai, Chính phủ Mỹ ã không ngần ngại quay lưng với phong trào giải phóng dân
tộc của nhân dân Việt Nam. Tại Hội nghị Yalta (tháng 2 năm 1945), Tổng thống Mỹ
Roosevelt hoàn toàn ồng ý với ề xuất chỉ áp dụng uỷ trị cho các thuộc ịa nếu "mẫu quốc"
ồng ý, với "mẫu quốc" của Đông Dương không ai khác là nước Pháp. Từ ó, Mỹ dần dần
nghiêng về phía Pháp, ủng hộ Pháp trong việc tái chiếm Đông Dương, ặc biệt sau khi
Roosevelt qua ời (ngày 12 tháng 4 năm 1945) và Harry S. Truman lên nắm quyền tại Nhà
Trắng. Mùa hè năm 1945, Mỹ cam kết với Charles De Gaulle rằng sẽ không cản trở Pháp
phục hồi chủ quyền ở Đông Dương. Cuộc ấu tranh cho ộc lập dân tộc của nhân dân Việt
Nam sẽ bị coi là "hoạt ộng phiến loạn do cộng sản cầm ầu". Trong tình hình ó, "ai có thể
dự oán ược diễn biến của lịch sử và với tốc ộ nào?"
Thời cơ giành chính quyền chỉ tồn tại từ khi Nhật tuyên bố ầu hàng Đồng minh cho ến
trước khi quân Đồng minh nhập viện vào Đông Dương, khoảng nửa cuối tháng Tám năm
1945. Trong bối cảnh này, việc giành lấy quyền lực trở thành một cuộc ua với thời gian
trước khi quân Đồng minh vào chiếm lãnh thổ, một cuộc ua mà Đảng và nhân dân Việt
Nam không thể chậm trễ. Họ phải tận dụng mọi cơ hội không chỉ ể bảo vệ thời cơ mà còn
ể vượt qua những rủi ro và ưa cách mạng ến thành công. lOMoAR cPSD| 60755984
Ngày 12 tháng 8 năm 1945, Ủy ban Lâm thời Khu Giải phóng ban hành lệnh khởi nghĩa
trong khu vực. Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành
lập Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc. Vào lúc 23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa Toàn
quốc ra lệnh ban bố "Quân lệnh số 1", tuyên bố tổ chức tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.
Hình 5. Hiệu triệu của Tổng bộ Việt Minh
Ngày 14 và 15 tháng 8 năm 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng ược tổ chức tại Tân
Trào, do lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì, tập trung vào phân
tích tình hình và dự oán: "Quân Đồng minh sắp vào nước ta và ế quốc Pháp lăm le khôi
phục lại ịa vị cũ ở Đông Dương". Hội nghị quyết ịnh phát ộng toàn dân nổi dậy tổng khởi
nghĩa ể giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.
khẩu hiệu ấu tranh tại thời iểm này là: Phản ối xâm lược! Hoàn toàn ộc lập! Chính quyền
nhân dân! Hội nghị xác ịnh ba nguyên tắc chỉ ạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp
thời. Phương hướng hành ộng trong tổng khởi nghĩa là phải ánh chiếm ngay những nơi
chắc chắn, không phân biệt thành phố hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp;
phải làm tan rã tinh thần quân ịch và dụ chúng hàng trước khi ánh. Phải chiếm lấy những
căn cứ chính (bao gồm cả các thành phố) trước khi quân Đồng minh vào, thành lập ủy ban lOMoAR cPSD| 60755984
nhân dân ở những nơi ã giành ược quyền làm chủ... Hội nghị cũng quyết ịnh về những vấn
ề quan trọng về chính sách nội và ngoại, cần thi hành sau khi giành ược chính quyền.
Tiếp sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, ngày 16 tháng 8 năm 1945, Đại hội quốc dân
ược tổ chức tại Tân Trào. Đại hội ược dự bởi khoảng 60 ại biểu từ các giới, các ảng phái
chính trị, các oàn thể quần chúng cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo trong nước và ại biểu kiều
bào ở nước ngoài. Đại hội tán thành quyết ịnh tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10
chính sách lớn của Việt Minh và lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh kêu gọi ồng bào cả nước: “Giờ quyết ịnh cho
vận mệnh dân tộc ta ã ến. Toàn quốc ồng bào hãy ứng dậy, sử dụng sức mạnh của chúng ta
ể tự giải phóng mình… Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt
Minh, ồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”.
Hình 6. Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi ồng bào cả nước ược truyền i khắp nơi trước
ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám
Dưới sự lãnh ạo của Đảng, nhân dân cả nước ồng lòng vùng dậy ở cả thành thị và nông
thôn, với quyết tâm dù có hy sinh ến âu, dù phải ốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên
quyết giành ược ộc lập. lOMoAR cPSD| 60755984
Từ ngày 14 ến ngày 18-8-1945, mặc dù chưa nhận ược lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng nhờ
nắm vững tinh thần của các nghị quyết, chỉ thị trước ó của Đảng và dựa vào tình hình thực
tiễn, nhiều ảng bộ ịa phương ã kịp thời, tự chủ, và dẫn dắt nhân dân nổi dậy khởi nghĩa.
Bốn tỉnh nhanh nhất trong việc giành chính quyền là Hải Dương, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam.
Từ ngày 14-8-1945 trở i, các ơn vị Giải phóng quân liên tiếp tiến công các ồn binh Nhật
ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái… hỗ trợ nhân dân nổi
dậy giành chính quyền ở tỉnh lỵ. Ngày 16-8- 1945, một ơn vị Giải phóng quân do Võ
Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên. Từ ngày 14 ến
ngày 18-8, ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và miền Nam, nhân dân
cách mạng nổi dậy giành chính quyền ở cấp xã và huyện.
Dưới sự lãnh ạo của Đảng, nhân dân cả nước ồng lòng vùng dậy ở cả thành thị và nông
thôn, với quyết tâm dù có hy sinh ến âu, dù phải ốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên
quyết giành ược ộc lập.
Từ ngày 14 ến ngày 18-8-1945, mặc dù chưa nhận ược lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng nhờ
nắm vững tinh thần của các nghị quyết, chỉ thị trước ó của Đảng và dựa vào tình hình thực
tiễn, nhiều ảng bộ ịa phương ã kịp thời, tự chủ, và dẫn dắt nhân dân nổi dậy khởi nghĩa.
Bốn tỉnh nhanh nhất trong việc giành chính quyền là Hải Dương, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam.
Từ ngày 14-8-1945 trở i, các ơn vị Giải phóng quân liên tiếp tiến công các ồn binh Nhật
ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái… hỗ trợ nhân dân nổi
dậy giành chính quyền ở tỉnh lỵ. Ngày 16-8- 1945, một ơn vị Giải phóng quân do Võ
Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên. Từ ngày 14 ến
ngày 18-8, ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và miền Nam, nhân dân
cách mạng nổi dậy giành chính quyền ở cấp xã và huyện.
Tại Hà Nội, vào ngày 17-8, Tổng hội viên chức tổ chức một cuộc mít tinh nhằm ủng hộ
chính phủ Trần Trọng Kim. Tuy nhiên, Đảng bộ Hà Nội ã bí mật huy ộng quần chúng từ
các tổ chức cứu quốc trong và ngoại thành ể biến cuộc mít tinh này thành một cuộc mít tinh lOMoAR cPSD| 60755984
ủng hộ Việt Minh. Các ội viên tuyên truyền xung phong bất ngờ giương cao cờ ỏ sao vàng,
kêu gọi nhân dân tham gia khởi nghĩa. Hàng vạn người dân ã tham gia mít tinh, hưởng ứng
nhiệt tình lời kêu gọi của Việt Minh. Ngay cả lính bảo an và cảnh sát của chính quyền Nhật,
có nhiệm vụ bảo vệ cuộc mít tinh, cũng ngả theo Việt Minh. Cuộc mít tinh ã biến thành
một cuộc biểu tình tuần hành rầm rộ, với cờ ỏ sao vàng dẫn ầu, diễu qua các phố ông người,
tiến ến trước phủ toàn quyền cũ, nơi tư lệnh quân Nhật óng trú, rồi chia thành từng nhóm
nhỏ, tiến hành cổ ộng chương trình Việt Minh trên khắp các phố.
Hình 7. Tổng khởi nghĩa dành chính quyền
Sau sự kiện này, Thành ủy Hà Nội ánh giá rằng ã có ủ iều kiện ể phát ộng tổng khởi
nghĩa. Sáng ngày 19-8, Thủ ô Hà Nội tràn ngập cờ ỏ sao vàng khi quần chúng cách mạng
xuống ường tập hợp thành ội ngũ, rộn ràng kéo ến quảng trường Nhà hát thành phố trong
tiếng hát “Tiến quân ca” và cờ ỏ sao vàng ể tham gia cuộc mít tinh lớn do Mặt trận Việt
Minh tổ chức. Ủy ban quân sự cách mạng ọc lời hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh. Cuộc
mít tinh chuyển thành biểu tình vũ trang khi quần chúng cách mạng chia thành nhiều oàn i
chiếm Phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Trại Bảo an binh, Sở Cảnh sát và các công sở của
chính quyền thân Nhật. Trước sức mạnh và khí thế áp ảo của quần chúng, hơn một vạn
quân Nhật ở Hà Nội không dám chống cự, và chính quyền nhanh chóng rơi vào tay nhân
dân. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội lan rộng nhanh chóng ến nhiều tỉnh và thành lOMoAR cPSD| 60755984
phố khác, tạo ra một ộng lực mạnh mẽ cho phong trào giải phóng cả nước, làm cho chính
quyền thân Nhật ở nhiều nơi thêm hoảng loạn, tạo iều kiện thuận lợi cho quá trình tổng khởi nghĩa.
Ngày 23-8, Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế ã kêu gọi quần chúng từ các huyện ngoại
thành, cùng với nhân dân trong nội thành Huế, xuống ường biểu dương lực lượng. Bộ máy
chính quyền và quân ội Nhật hoàn toàn bị tê liệt, và quần chúng ã chiếm các
công sở mà không gặp phải sự kháng cự nào.
Ở Nam Kỳ, sau khi nhận ược tin tức về sự thành công của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội và
Tân An (tỉnh khởi nghĩa thí iểm của Xứ ủy), Xứ ủy Nam Kỳ quyết ịnh tiến hành khởi nghĩa
ở Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Đêm 24-8, các lực lượng khởi nghĩa ã kéo về Sài Gòn từ các
tỉnh lân cận với gậy tầm vông, giáo mác. Vào sáng ngày 25-8, hơn 1 triệu người ã tham gia
cuộc biểu tình tuần hành tại thành phố. Quân khởi nghĩa ã chiếm các công sở một cách
nhanh chóng, và cuộc khởi nghĩa ã thành công.
Các cuộc khởi nghĩa tại Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các ô thị khác ã ánh bại các cơ quan
lãnh ạo của kẻ thù, ánh dấu một bước quan trọng trong chiến thắng của cuộc khởi nghĩa trên toàn quốc.
Ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Ủy ban Dân tộc giải phóng
ã trở về Hà Nội. Sáng ngày 26-8-1945, Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung
ương Đảng, thống nhất các chủ trương về nội và ngoại trạng, chuẩn bị cho việc ra Tuyên
ngôn Độc lập, và tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại Hà Nội ể Chính phủ ra mắt nhân dân,
cũng là ngày mà Việt Nam chính thức công bố quyền ộc lập và thiết lập chế ộ dân chủ cộng
hoà. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh về các nhiệm vụ cần thực hiện trước khi quân ội Trung
Hoa Dân quốc nhập viện Đông Dương.
Trong cuộc họp vào ngày 27-8-1945, Ủy ban Dân tộc Giải phóng ã cải tổ thành Chính
phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với Hồ Chí Minh ược bầu làm Chủ
tịch. Danh sách các thành viên của Chính phủ lâm thời ã ược công bố chính thức vào ngày
28-8-1945 tại Hà Nội. Một số thành viên từ Mặt trận Việt Minh ã tự nguyện rút khỏi Chính
phủ ể mời thêm những nhân sĩ ngoài Việt Minh tham gia. Hành ộng này ược coi là một lOMoAR cPSD| 60755984
biểu hiện của sự vô tư, cao ẹp, không mưu lợi cá nhân, ặt lợi ích của dân tộc và oàn kết
toàn dân lên trên lợi ích cá nhân.
Ngày 30-8-1945, trong một cuộc mít tinh lớn diễn ra tại Ngọ Môn, thành phố Huế, Bảo
Đại ã thoái vị và giao nộp các biểu tượng quyền lực cho ại diện của Chính phủ lâm thời
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trung ương Đảng và Chính phủ lâm thời ã nhận thức rõ ràng về sự cần thiết phải khẩn
trương thực hiện mọi công việc ể xác lập vị thế chủ quyền của nhân dân Việt Nam trước
khi các lực lượng tự xưng là "Đồng minh" có cơ hội ặt chân ến và thực thi ý ồ riêng của họ.
Trong bối cảnh cấp bách ó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh và
Chủ tịch Hồ Chí Minh ã quyết ịnh tổ chức lễ Tuyên bố Độc lập của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa sớm hơn dự kiến. Mọi công việc chuẩn bị ã ược tiến hành với tốc ộ cao.
Trong một căn phòng trên gác nhà số 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội, Hồ Chí Minh ã thực
hiện nhiệm vụ lịch sử trọng ại này, giữa bận rộn công việc, nhưng ã tập trung trí tuệ và tình
cảm ể soạn thảo Bảng tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới. Để tận dụng trí tuệ tập
thể, vào ngày 30-8-1945, Hồ Chí Minh ã mời một số cán bộ từ Ban Thường vụ Trung ương
Đảng và các bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời ến thảo luận, óng góp ý kiến cho bản dự
thảo Tuyên ngôn Độc lập. "Bảng tuyên ngôn Độc lập là hoa, là quả của bao nhiêu máu ã ổ
và bao nhiêu tính mạng ã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà
tù, trong trại tập trung, trên những hải ảo xa xôi, trên chiến trường. Bảng tuyên ngôn Độc
lập là kết quả của bao nhiêu hy vọng, nỗ lực và niềm tin của hơn 20 triệu người dân Việt Nam."
Lễ ộc lập vào ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, ược tổ chức trọng thể.
Chính phủ lâm thời chính thức ra mắt quốc dân trong buổi lễ này. Hồ Chí Minh, thay mặt
cho Chính phủ lâm thời, ọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố một cách trang trọng trước quốc
dân và thế giới rằng Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ã chính thức ra ời.