



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60755984
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIA ĐỊNH
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ TIỂU LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÂY
DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ HIỆN NAY
Nghành: QUẢN TRỊ KINH DOANH
GVHD: TS Phan Văn Thành SVTH:
Đinh Thanh Huy-2101110160
Phạm Quốc Huy-2101110166
Lý Hữu Thịnh-2101110203
Nguyễn Huy Cường-2101110170 Lớp: K15DCQT04
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2023 lOMoAR cPSD| 60755984
Khoa: Kinh tế-Quản trị
Nhận xét và chấm điểm của giảng viên
Tiểu luận môn: Lịch Sử Đảng
1. Họ và tên sinh viên: Đinh Thanh Huy-2101110160, Phạm Quốc Huy-2101110166,
Nguyễn Huy Cường-2101110170, Lý Hữu Thịnh-2101110170
2. Tên đề tài: Đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng hệ thống chính trị hiện nay 3. Nhận xét:
a) Những kết quả đạt được:
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
b) Những hạn chế:
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
4. Điểm đánh giá (theo thang điểm 10, làm tròn đến 0,5):
Sinh viên:…………………………………………………………………………
Điểm số:………… Điểm chữ:…………………………………………………...
TP.HCM, ngày … tháng … năm 20...
Giảng viên chấm thi
(Ký và ghi rõ họ tên) lOMoAR cPSD| 60755984 Mục lục
Lời mở đầu ..................................................................................................................... 3
Lời cam kết..................................................................................................................... 4
Lời cảm ơn ..................................................................................................................... 5
Phần 1: Mở đầu ............................................................................................................. 6
1.1) Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 6
1.2) Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 6
1.3) Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 6
1.4) Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 6
Phần 2: Kiến thức cơ bản ............................................................................................. 6
2.1/ Khái niệm về chính trị ........................................................................................ 6
2.2/ Khái niệm về hệ thống chính trị ........................................................................ 7
2.3/ Đặc điểm hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay ............................................ 10
2.4/ Mục tiêu, quan điểm và nhiệm vụ xây dựng hệ thống chính trị hiện nay ... 12
Phần 3: Kiến thức vận dụng ....................................................................................... 16
của Đảng ................................................................................................................... 16
3.2/ Đề xuất giải pháp đóng góp phần nâng cao của việc thực hiện đường lối
củaĐảng trong việc xây dựng hệ thống chính trị .................................................. 19
Phần 4: Kết luận .......................................................................................................... 23
Mục tài liệu tham khảo: .............................................................................................. 23
3.1/ Đánh giá về việc thực hiện đường lối xây dựng hệ thống chính trị hiện nay lOMoAR cPSD| 60755984 Lời mở đầu
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, hệ thống chính trị luôn đóng vai
trò vô cùng quan trọng, định hình và điều hành các hoạt động của xã hội. Với sự gia tăng
của biến đổi toàn cầu, việc xây dựng một hệ thống chính trị hiện đại và hiệu quả là một
nhiệm vụ cấp thiết. Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng nỗ
lực và định hướng một đường lối mạnh mẽ và linh hoạt để xây dựng hệ thống chính trị
hiện nay - một hệ thống đáp ứng tốt nhất nhu cầu của đất nước và nhân dân Việt Nam.
Với hơn 90 năm lịch sử hoạt động và sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã có những bước
tiến vượt bậc trong việc xây dựng hệ thống chính trị. Từ lý tưởng và mục tiêu của Đảng
đã đề ra từ khi thành lập, đến những học tập và truyền thống cách mạng từ các nước bạn,
Đảng đã không ngừng hoàn thiện và tiếp thu từ những kiến thức, văn hóa của nước
ngoài. Đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng hệ thống chính trị hiện nay
là một chủ trương tổng thể, có sự phát triển và hoàn thiện liên tục theo tình hình thực tế
của đất nước. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang thực hiện một số nguyên tắc cơ bản
như xây dựng một hệ thống chính trị dân chủ, nhân dân làm chủ, quyền lực tập trung và
phân tán đúng mức, đảm bảo sự phân định rõ ràng giữa các cấp quản lý và sự tương tác
giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị. Đồng thời, Đảng cũng đề cao vai trò lãnh đạo
của Đảng trong xây dựng và điều hành hệ thống chính trị, đảm bảo sự tổ chức và hoạt
động hiệu quả của các cơ quan nhà nước, đảm bảo quyền lợi và lợi ích chung của nhân dân. lOMoAR cPSD| 60755984 Lời cam kết
Với bài tiểu luận của nhóm chúng em, tụi em xin cam đoan những thông tin trong
bài tiểu luận này tụi em dựa vào những trang thông tin uy tín trên mạng, giáo trình chuẩn
của môn. Ngoài ra, còn có những phần do từ những kiến thức của chúng em ứng dụng vào bài. lOMoAR cPSD| 60755984 Lời cảm ơn
Lời đầu tiên chúng em xin chân thành cảm ơn giảng viên hướng dẫn là Thạc sĩ
Phan Văn Thành. Trong quá trình học tập và tìm hiểu bộ môn LỊch Sử Đảng do thầy
giảng dạy, chúng em đã tiếp cận rất nhiều kiến thức về lịch sử hình thành của Đảng và
lượng kiến thức này cũng giúp cho chúng em hiểu rõ hơn về Đảng, về lịch sử hình thành
nên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay. Cảm ơn thầy đã tận tình
giảng dạy và truyền đại những kiến thức quan trọng về Đảng cho chúng em
Tuy nhiên, trong quá trình làm bài tiểu luận này thì việc không xảy ra sai sót là
điều khó xảy ra. Mong thầy xem xét và góp ý cho bài tiểu luận nhóm chúng em được
hoàn thiện nhiều hơn nữa.
Chúng em xin chân thành cám ơn! lOMoAR cPSD| 60755984 Phần 1: Mở đầu 1.1) Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ra đường lối xây dựng hệ thống chính trị hiện nay
dựa nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điểm cốt lõi của đường
lối là xây dựng một hệ thống chính trị dân chủ, công bằng, xã hội chủ nghĩa và phát triển bền vững.
Đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay đối với việc xây dựng hệ thống
chính trị là một vấn đề cực kỳ quan trọng và cấp thiết. Việc nghiên cứu và hiểu rõ về
đường lối chính trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan
hơn về hệ thống chính trị của nước ta và định hướng phát triển trong tương lai.
1.2) Mục tiêu nghiên cứu
Sau quá trình từ thời kỳ thành lập Đàng Cộng Sản tới thời điểm hiện nay, Đảng
đã khẳng định rõ hơn về hệ thống chính trị từ những người tiên phong và thay đổi
chính sách để kịp thích nghi với thời đại và cũng để hòa nhập hơn với cộng đồng quốc tế.
1.3) Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp phân tích và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và kết hợp với phương pháp so sánh.
Làm nổi bật những thành tựu về hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. 1.4) Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng khách thể: Sinh viên trường Đại học Gia Định và những sinh viên Việt Nam khác.
Đối tượng nghiên cứu: cung cấp kiến thức và đanh giá, đề xuất giải pháp góp
phần nâng cao trong việc xây dựng hệ thống chính trị.
Phần 2: Kiến thức cơ bản
2.1/ Khái niệm về chính trị
Chính trị là toàn bộ những hoạt động liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai
cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền,
duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của Nhà nước; sự xác
định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Nhà nước.
Chính trị liên quan đến quyền lợi của giai cấp và nhà nước. Chính trị thuộc kiến
trúc thượng tầng, bao gồm hệ tư tưởng chính trị, nhà nước, đảng phái chính trị xuất hiện lOMoAR cPSD| 60755984
khi xã hội phân chia giai cấp dựa trên cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định. Chính trị còn tồn
tại khi nào còn giai cấp, còn nhà nước.
Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chính trị trước hết là bảo
đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hiệu lực quản lí của Nhà nước, quyền làm chủ
của nhân dân lao động trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
2.2/ Khái niệm về hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là tổng thể các cơ quan, tổ chức nhà nước, đảng phái, đoàn thể
xã hội, nói chung là các lực lượng tham gia, và mối quan hệ giữa các lực lượng đó, chỉ
phối sự tồn tại và phát triển đời sống chính trị của một quốc gia, thể hiện bản chất của
chế độ chính trị của quốc gia, con đường phát triển của xã hội.
Để làm rõ tính chất, quy mô tham gia đời sống chính trị của các cơ quan, tổ chức
gọi chung là các thiết chế, về lí luận và trong thực tiễn thường có sự phân biệt:
1) Những thiết chế mang tính chất hoàn toàn, thuần túy như Nhà Nước, Đảng
2) Những tổ chức chính trị-xã hội tức là không hoàn toàn, thuần túy chính trị, có
tính chất là những đoàn thể tập hợp các tầng lớp, bộ phận dân cư theo giới, lứa tuổi, nghề nghiệp,…
Nét đặc trưng tiêu biểu cho loại thiết chế thứ nhất là mối quan hệ chặt chẽ, gắn
bó với đường lối, chính sách của quốc gia, sự tác động trực tiếp của các thiết chế đó lên
đường lối, chính sách của quốc gia. Có thể nói, mục đích trực tiếp phản ánh, chi phối, lí
do tồn tại của các thiết chế này là mục tiêu chính trị thể hiện ở sự để xuất, xây dựng
đường lối, chính sách về đối nội, đối ngoại của quốc gia trên từng giai đoạn phát triển
khác nhau và tổ chức, triển khai thực hiện đường lối, chính sách đó, là sự tác động về
mặt tư tưởng, ý thức hệ lên các tầng lớp dân cư, giai cấp khác nhau đang tồn tại trong
xã hội, bảo đảm thực hiện các lợi ích chính trị của tầng lớp cầm quyền và ở những mức
độ nhất định khác nhau cả nhu cầu, lợi ích chung của toàn xã hội.
Loại thứ hai là các tổ chức ra đời, tồn tại trực tiếp từ nhu cầu tập hợp, những bộ
phận dân cư nhất định nhằm theo đuổi những lợi ích trực tiếp mà trước hết là về kinh tế
- xã hội và có khi không hoàn toàn gắn với chính trị như các tổ chức công đoàn, đoàn
thanh niên, hội phụ nữ...
Một bộ phận khác là những tổ chức có tính chất hội, đoàn thuần tuý nghề nghiệp
hoặc theo đuổi những nhu cầu về sở thích, tuy vẫn mang màu sắc chính trị nhưng đó
không phải là mục tiêu chủ yếu, Trong tổng thể các thiết chế đó, nhà nước đóng vai trò
trụ cột, công cụ chủ yếu, các chính đảng giữ vai trò là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu lOMoAR cPSD| 60755984
của các bộ phận dân cư mà chính đảng là người phát ngôn, nói tiếng nói phản ánh lợi
ích của bộ phận dân cư đó.
Cần phân biệt hệ thống chính trị trong xã hội tư sản và hệ thống chính trị trong
các xã hội đang xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hệ thống chính trị trong các xã hội tư sản trước hết bao gồm hệ thống các cơ quan
nhà nước, các chính đảng của giai cấp cầm quyền và các tổ chức, đoàn thể tập hợp các
bộ phận dân cư thuộc giai cấp cầm quyền hoặc đi theo đường lối chính trị của giai cấp
đó. Đây là những lực lượng xã hội với những cấp độ khác nhau trực tiếp tham gia vào
việc thực hiện quyền lực nhà nước thuộc giai cấp cầm quyển.
Đồng thời, trong các xã hội còn tồn tại các lực lượng xã hội ở vị thế đối lập mà ở
vị thế hàng đầu là các chính đẳng của giai cấp công nhân, của các tầng lớp lao động
khác, của các lực lượng dân chủ đấu tranh vì các quyền dân sinh, dân chủ, chống độc
quyền, giành các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống, nâng cao phúc lợi xã hội...
Cuộc đấu tranh của các lực lượng xã hội này có khi chỉ vì lợi ích trước mắt nhưng
vẫn mang đậm sắc thái chính trị và ở những mức độ khác nhau tham gia vào đời sống
chính trị, có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống chính trị của xã hội tư sản. Với tính chất
đó, các thiết chế xã hội của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động trở thành một
bộ phận của đời sống chính trị, hệ thống chính trị của xã hội tư sản, nhất là khi trực tiếp
tham gia vào công việc nhà nước, tham gia chính quyền của giai cấp tư sản.
Trong các xã hội đang phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính
trị bao gồm tất cả các thiết chế chính trị, chính trị-xã hội, chính trị-xã hội-nghề nghiệp,
các tổ chức hội, đoàn bằng các phương thức khác nhau tập hợp các tầng lớp dân cư,
đoàn kết họ và đoàn kết hợp tác với nhau để cùng theo đuổi một mục đích chung là xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước.
Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là tính chất rộng rãi,
bao gồm các tổ chức của tất cả các tầng lớp dân cư kết thành khối đại đoàn kết toàn dân,
trở thành cơ sở xã hội của chính quyển nhân dân và hệ thống chính trị. Đặc trưng khác
cũng rất cơ bản là cả hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa được đặt dưới sự lãnh đạo của
đảng cộng sản, đẳng công nhân được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin được vận
dụng thích hợp vào từng nước. Nội dung hoạt động cơ bản của hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa là thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xây
dựng một nhà nước pháp quyền xã hội thực sự của dân, do dân, vì dân. lOMoAR cPSD| 60755984
Khái niệm “hệ thống chính trị” được xem xét từ nhiều góc độ nghiên cứu khác
nhau. Chẳng hạn, từ góc độ nghiên cứu nội dung và hình thức biểu hiện của các quan hệ
chính trị trong xã hội,1 hệ thống chính trị được định nghĩa là phương thức thể hiện và
phương tiện thực hiện các quan hệ chính trị. Từ góc độ nghiên cứu cơ cấu - chức năng
của hệ thống chính trị thì hệ thống chính trị được quan niệm là tổng thể các tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội trực tiếp nắm giữ hoặc tham gia thực thi quyền lực
chính trị dưới sự lãnh đạo của một đảng cầm quyền hay liên minh các đảng cầm quyền.
Quan hệ chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội liên quan tới việc
giành, giữ và thực hiện quyền lực nhà nước…
Hệ thống chính trị là khái niệm đã xuất hiện trong sách báo chính trị pháp lý từ
lâu. ở nước ta, vấn đề về hệ thống chính trị cũng đã được quan tâm nghiên cứu ở những
góc độ khác nhau. Từ tháng 3 năm 1989, khái niệm này đã được sử dụng chính thức
trong văn kiện của Đảng.
Hệ thống chính trị là một khái niệm có nội dung phong phú, được xem xét dưới
nhiều góc độ khác nhau. Ở góc độ khái quát nhất, hệ thống chính trị được hiểu là một
phạm trù thể hiện hình thức tổng quát nhất của chính trị và dân chủ, có nội dung chủ yếu
là xác lập cơ chế thực hiện quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước. Xét ở góc độ cấu
trúc, hệ thống chính trị là một hệ thống thiết chế chính trị có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Xét theo góc độ chính trị - pháp lý gắn với mục tiêu và giá trị, hệ thống chính trị
được hiểu là “một cơ cấu bao gồm nhà nước, các đảng phái, các đoàn thế, các tố chức
xã hội chính trị tôn tại và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật hiện hành, được chế
định theo tư tưởng giai cấp cầm quyền, nhằm tác động vào các quá trình kinh tế - xã
hội với mục đích duy trì và phát triển chế độ đó"
Chính trị là một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, vì vậy các Vấn đề về hệ thống
chính trị cũng cần được xem xét trong mối quan hệ chung giữa chính trị với kinh tế, văn
hoá và xã hội. Theo đó, ứng với mỗi mô hình kinh tế - xã hội, tuỳ thuộc vào điều kiện
và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có một mô hình tổ chức chính trị và dân chủ tương ứng. Ở
nước ta, mô hình kinh tế - xã hội trước thời kì đổi mới được đặc trưng bằng cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, bao cấp và tương ứng với nó là hệ thống chuyên chính vô sản. Khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng chủ xã hội chủ nghĩa với những nhiệm
vụ và mục tiêu cụ thể đòi hỏi phải có một hệ thống chính trị với những đặc trưng mới,
phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế - xã hội trong tình hình mới. lOMoAR cPSD| 60755984
Kết quả tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị có tác động trực tiếp và mạnh
mẽ đến sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sự tác động đó có thể là tích cực nếu hệ thống
chính trị được tổ chức và hoạt động phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của mô
hình kinh tế - xã hội. Ngược lại, nếu hệ thống chính trị được tổ chức không phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của kinh tế - xã hội thì nó sẽ có tác động tiêu cực tới quá
trình phát triển của kinh tế - xã hội.
Xuất phát từ bản chất của chế độ chính trị và những điều kiện lịch sử cụ thể, hệ
thống chính trị của mỗi nước cũng có những đặc thù riêng. Hệ thống chính trị của nước
ta hình thành và phát triển trong quá trình đấu tranh cách mạng, chính thức ra đời từ
Cách mạng tháng Tám và ngày càng hoàn thiện. Theo những quy định trong Chương I
Hiến pháp năm 2013, hệ thống chính trị của nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Hội cựu chiến
binh Việt Nam, trong đó Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân chính trị lãnh đạo và Nhà
nước là trụ cột của hệ thống chính trị.
2.3/ Đặc điểm hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
Tính chất nguyên chính trị:
- Không có chính đảng đối lập: Chế độ chính trị ở Việt Nam là thể chế chính trị một
đảng duy nhất cầm quyền. Trong những giai đoạn lịch sử nhất định, ngoài Đảng Cộng
sản Việt Nam, còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Tuy nhiên, hai đảng này được tổ
chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa
nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ
thống chính trị ở Việt Nam là thể chế nhất nguyên chính trị, không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
- Nhất nguyên về tổ chức (các thành phần đều là “cánh tay nối dài” của Đảng): Hệ
thống chính trị ở Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt
Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân (Nhà nước),
tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng
(Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội), vừa là tổ chức mà qua đó Đảng
Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với xã hội. lOMoAR cPSD| 60755984
- Nhất nguyên về tư tưởng: Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị được
thể hiện ở tính nhất nguyên tư tưởng. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và
hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính thống nhất:
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò,
chức năng khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể
thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về tổ chức, phương
thức hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát huy sức mạnh tổng
hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị ở nước ta được xác định bởi các yếu tố sau:
+ Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
+ Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân chủ.
+ Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương,
với các bộ phận hợp thành.
Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Đây là đặc điểm
có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đặc điểm này khẳng định hệ thống
chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính trị, mà còn gắn với xã
hội. Trong hệ thống chính trị, có các tồ chức chính trị (như Đảng, Nhà nước), các tổ
chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội khác). Do vậy, hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã
hội (như những lực lượng chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc lột), mà là một
bộ phận của xã hội, gắn bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã
hội chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thực hiện trên các yếu tố: lOMoAR cPSD| 60755984
+ Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm quyền.
+ Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của
chính các tầng lớp nhân dân.
+ Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ thống
chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị:
+ Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện
cho nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại diện bởi
các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất giai cấp công nhân
và tính dân tộc sâu sắc.
+ Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và
bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các giai cấp, dân tộc
đoàn kết trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, hợp tác để cùng phát triển.
Sự tồn tại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là thành viên quan trọng của hệ
thống chính trị là yếu tố quan trọng tăng cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc.
+ Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất của
từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề
dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị.
Sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.
2.4/ Mục tiêu, quan điểm và nhiệm vụ xây dựng hệ thống chính trị hiện nay
a) Mục tiêu hệ thống chính trị
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định mục tiêu, quan
điểm, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. lOMoAR cPSD| 60755984
Mục tiêu cuối cùng của việc xây dựng hệ thống chính trị là nhằm thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân: Tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện mô hình của hệ
thống chính trị; xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các tổ
chức trong hệ thống chính trị; quan tâm đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội”.
b) Quan điểm hệ thống chính trị
Một là, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị thể
hiện trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự
đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Trong những năm đầu, Đảng ta đã tập
trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng
hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng, củng cố
niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị. Quá trình phát triển của sự nghiệp đổi mới đã khẳng
định sự kết hợp nhuần nhuyễn và bước đi đúng đắn đó. Đại hội XIII của Đảng khẳng
định tiếp tục đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị.
Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thông chính trị nhằm
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Đó là quá trình làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động,
có hiệu quả hơn, phù hợp với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước. Trong giai
đoạn hiện nay, để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế trí thức, chủ động tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, cần tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới,
xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục
tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà lOMoAR cPSD| 60755984
nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện đồng bộ, có kế thừa, có bước
đi, hình thức và cách làm phù hợp. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Kiên trì và quyết
liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp.
Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị
với nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tác động, thúc đẩy xã
hội phát triển; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
c) Nhiêm vụ xây dựng hệ thống chính trị hiện nay
Một, xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) của Đảng đã xác định rõ bản chất của Đảng: Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc.
Về vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh chỉ rõ: "Đảng lãnh
đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với
nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây
dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật. Điều đó là cơ sở của sự gắn bó giữa xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống
chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị.
Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ các chủ trương, giải pháp giữ vững và tăng cường
vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân; nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường
kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; làm cho nước ta phát triển nhanh và bền
vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và lOMoAR cPSD| 60755984
chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ với đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng;
kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ; thực hiện dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội, đẩy nhanh phân
cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu.
Hai, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
Chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và
thừa nhận nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Nó không phải là sản phẩm riêng
của chủ nghĩa tư bản mà là sản phẩm phát triển của loài người, của nền văn minh nhân
loại. Đảng Cộng sản Việt Nam định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam theo năm đặc điểm sau: -
Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực
nhànước thuộc về nhân dân. -
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm
soátgiữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. -
Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và
bảođảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan
hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. -
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng
caotrách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng
cường kỷ cương, kỷ luật. -
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy nhất
lãnhđạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính
cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật; xây dựng, hoàn thiện cơ chế
kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
Ba là, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội trong hệ thống chính trị: lOMoAR cPSD| 60755984
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan
trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện
cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,…
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện
tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Luật Thanh niên, Luật Công đoàn... quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các tổ chức
chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ
thống chính trị; thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và dân thụ hưởng
những thành quả của sự nghiệp đổi mới.
Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội
khắc phục tình trạng hành chính hóa, nhà nước hóa, phô trương, hình thức để nâng cao
chất lượng hoạt động, làm tốt công tác dân vận theo phong cách "trọng dân, gần dân,
hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin".
Nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị.
Phần 3: Kiến thức vận dụng
3.1/ Đánh giá về việc thực hiện đường lối xây dựng hệ thống chính trị hiện nay của Đảng
Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta đã có nhiều đổi mới góp
phần xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền
lực thuộc về nhân dân. Hoạt động của hệ thống chính trị ngày càng hướng về cơ sở.
Quốc hội, Chính phủ, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp đã có nhiều đổi mới
theo hướng phát huy dân chủ, cải cách hành chính, công khai các hoạt động của chính
quyền, tăng cường đối thoại, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Dân chủ trong
xã hội có bước phát triển trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên.
Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội đã có nhiều đổi mới về tổ chức, bộ máy;
đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức để tập hợp ngày
càng đông đảo các tầng lớp nhân dân; phát huy dân chủ; chăm lo và bảo vệ lợi ích chính
đáng của nhân dân; tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tham gia xây dựng và củng cố lOMoAR cPSD| 60755984
chính quyền; hướng mạnh hoạt động về cơ sở bước đầu thực hiện nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội.
Đảng đã thường xuyên coi trọng việc đổi mới và tự chỉnh đốn, giữ vững và nâng
cao vai trò lãnh đạo của Đảng đổi với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong điều
kiện mới. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị có nhiều đổi mới
và tiến bộ; dân chủ trong Đảng được phát huy, quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố.
Tóm lại 25 năm qua, hệ thống chính trị đã thực hiện có kết quả một số đổi mới
quan trọng, đặc biệt quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính
trị, tư tưởng, văn hóa được phát huy.
Các kết quả đạt được đã khẳng định đường lối đổi mới nói chung, đường lối đổi
mới hệ thống chính trị nói riêng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn, bước đầu đáp
ứng yêu cầu của tình hình mới, khắc phục dần những khuyết, nhược điểm của hệ thống
chuyên chính vô sản trước đây. Kết quả đổi mới hệ thống chính trị đã góp phần làm nên
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở nước ta.
Tuy nhiên, trong thực tế vận hành hệ thống chính trị nước ta còn nhiều nhuợc
điểm. Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà
nước, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa
ngang tầm với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới
Tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng, nhất là bao biện làm thay, chưa phát
huy tốt vai trò của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã
hội vẫn còn diễn ra ở một số cấp ủy, tổ chức đảng.
Kết quả cải cách nền hành chính quốc gia còn rất hạn chế. Bộ máy hành chính
còn nhiều tầng nấc làm cho việc quản lý các quá trình kinh tế - xã hội chưa thật nhanh,
nhạy và có hiệu quả cao. Tình trạng quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu của một bộ phận
công chức nhà nước chưa được khắc phục; kỷ cương, phép nước bị xem thường ở nhiều
nơi. Nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội còn chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh.
Phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính
trị-xã hội vẫn chưa thoát khỏi tình trạng hành chính, xơ cứng; một số cán bộ bị "viên
chức hóa", chưa thật gắn bó với quần chúng. Nạn tham nhũng trong hệ thống chính trị
còn trầm trọng, bệnh cục bộ, bản vị, địa phương còn khá phổ biến. Quyền làm chủ của lOMoAR cPSD| 60755984
nhân dân ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Không ít trường hợp, việc
phát huy dân chủ còn mang tính hình thức.
Vai trò giảm sát, phản biện của Mặt trân Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
còn yếu, chưa có cơ chế thật hợp lý để phát huy vai trò này. Đội ngũ cán bộ của hệ thống
chính trị nói chung, của Mặt trân Tổ quốc vả các tổ chức chính trị - xã hội nói riêng, chất
lượng còn hạn chế, nhất là ở các cấp cơ sở. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động của hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt lúng túng.
Những hạn chế nêu trên xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu là, nhận thức về đổi
mới hệ thống chính trị chưa có sự thống nhất cao, trong hoạch định và thực hiện một số
chủ trương, giải pháp còn có sự ngập ngừng, lúng túng, thiếu dứt khoát, không triệt để.
Việc đổi mới hệ thống chính trị chưa được quan tâm đúng mức, còn chậm trễ so với đổi mới kinh tế.
Lý luận về hệ thống chính trị và về đổi mới hệ thổng chính trị ở nước ta còn nhiều
điểm chưa sáng tỏ. Thực tiễn cho thấy, xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau; trong đó,
xây dựng, chỉnh đốn Đảng có vai trò hạt nhân, quan trọng vì Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đến lượt mình, khi Nhà nước vững mạnh, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được củng cố sẽ phát huy vai trò tham gia,
giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tạo nên sức mạnh tổng hợp
của cả hệ thống chính trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, chỉ
khi nào Nhà nước mạnh, liêm chính, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội phát huy mạnh mẽ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình thì mới đưa được
những đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống.
Đánh giá vai trò, tác động của việc xây dựng hệ thống chính trị gắn với công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Việt Nam, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã nhấn mạnh,
trong thời gian qua đã “huy động được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và sự
đồng tình, ủng hộ của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc xây dựng hệ thống chính trị gắn
với xây dựng, chỉnh đốn Đảng vẫn còn những hạn chế nhất định như “Hoạt động giám
sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với lOMoAR cPSD| 60755984
việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả; chưa phát huy
đầy đủ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”. Đây là những nhận định
rất khách quan, trên tinh thần “nhìn thẳng sự thật, nói đúng sự thật” luôn được Đảng ta
quán triệt nghiêm túc. Những hạn chế đó đã đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục gắn xây
dựng hệ thống chính trị với xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.2/ Đề xuất giải pháp đóng góp phần nâng cao của việc thực hiện
đường lối của Đảng trong việc xây dựng hệ thống chính trị
Để khắc phục những khuyết điểm hạn chế trên theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng: Cái mới của Nghị quyết Trung ương 4 khoá XIII lần này đã mở rộng phạm vi,
không chỉ trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà còn bao gồm cả trong xây dựng hệ thống
chính trị đúng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; cùng với ngăn chặn,
đẩy lùi thì phải chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực... Đồng
thời, bổ sung, làm rõ hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và
đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, “tiêu cực” sát hợp tình hình mới.
Trong đó nhấn mạnh, nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên
định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan
điểm, đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy
sai không dám đấu tranh; thậm chí còn phụ hoạ theo những nhận thức, quan điểm sai
trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức
trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng và tổ chức sinh
hoạt đảng. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện ở chỗ: Sống ích kỷ, thực dụng, cơ
hội, vụ lợi, hám danh, hám quyền lực, tham nhũng, tiêu cực; bè phái cục bộ, mất đoàn
kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của dân. “Từ suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” chỉ là một
bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu
kết với các thế lực xấu, thù địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc”-Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Hội nghị Trung ương 4 khẳng định, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ có cả