Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở đất nước ta trong thời kỳ từ năm 1986 đến nay | Bài tập lớn môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở đất nước ta trong thời kỳ từ năm 1986 đến nay | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

Thông tin:
47 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở đất nước ta trong thời kỳ từ năm 1986 đến nay | Bài tập lớn môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở đất nước ta trong thời kỳ từ năm 1986 đến nay | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

57 29 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45474828
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
- - -
- - -
BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG
Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở đất nước ta trong thời kỳ từ năm 1986 đến nay.
Nhóm thực hiện: 01
Lớp: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Lớp học phần: 21
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng Thuận
Hà Nội, tháng 1/2022
lOMoARcPSD| 45474828
2
MỤC LỤC
A. Cơ sở khoa học………………………………………………………………
4
I. Cơ sở lý luận…………………………………………………………………………
4
1. Khái niệm Công nghiệp hóa Hiện đại hóa………………………………..……4
2. Vai trò của Công nghiệp hóa
Hiện đại hóa…………………………………….4
II. Cơ sở thực tiễn………………………………………………………………………
6
1. Bối cảnh Quốc
tế………………………………………………………………..6
2. Bối cảnh trong
nước……………………………………………………………...
B. Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về CNH – HĐH đất nước từ
1986 tới
nay…………………………………………………………………………...7
I. Giai đoạn 1986
1996……………………………………………………………
12
1. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986)………………………….….12
2. Đại hội toàn quốc lần thVII của Đảng (6-1991) ……………………………..14
3. Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1996) ………………………………..16
II. Giai đoạn từ sau năm 1996 tới
nay…………………………………………………18
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001-2005)……………………………18
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X ( 2006-2010)……………………………21
3. Đại hội địa biểu toàn quốc lần thứ XI (2011-2015)
…………………………….23
4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016-
2020)……………………………27
5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(2021)…………………………………32
lOMoARcPSD| 45474828
3
III. Kết
luận…………………………………………………………………………...37
C. Đánh giá quá trình đổi mới quan điểm của
Đảng………………………..40
I. Kết quả đạt
được……………………………………………………………………40
1. Tổng quan……………………………………………………………………..40
2. Thành tựu……………………………………………………………………...41
II. Bài học kinh nghiệm rút ra được về đổi mới CNH HĐH
………………………
42
1. Hạn chế - nguyên
nhân………………………………………………………...42
2. Rút ra kinh nghiệm lịch
sử……………………………………………………..44
III. Liên hệ thực tiễn đối với sinh viên hiện nay trong công cuộc CNH HĐH
đấtnước……………………………………………………………………….................
.46
1. Vai trò của sinh viên…………………………………………………………..46
2. Khó khăn, thách
thức…………………………………………………………..47
3. Phương pháp, giải
pháp………………………………………………………..47
A. CƠ SỞ KHOA HỌC.
I. Cơ sở lý luận.
1. Khái niệm Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
Từ những năm 90 của thế kỷ XX, sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa và kinh tế
tri thức đã làm thay đổi trình tự tiến hành công nghiệp hóa của các ớc. Các nước công
nghiệp hóa sau không thể tiến hành công nghiệp hóa tuần tự từ cơ khí hóa đến tự động
hóa như những nước đi trước, mà phải kết hợp cả hai quá trình đó. Bởi vậy, tại Hội nghị
lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1994), Đảng ta xác định quan
niệm: Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. thể coi đây quan niệm mới, quan niệm công
lOMoARcPSD| 45474828
4
nghiệp hóa trong thời khiện đại. Quan niệm công nghiệp a, hiện đại hóa được Hội
nghị đưa ra: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi một cách căn bản
và toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ
sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp
và khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Quan niệm này của Đảng ta cho thấy: Quá trình công nghiệp hóa không chỉ
phát triển công nghiệp còn là quá trình chuyển dịch cấu kinh tế theo hướng tiến
bộ; đồng thời, phải áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến để tạo ra
những sản phẩm mang làm lượng khoa học công nghệ cao thay thế cho những sản phẩm
truyền thống.
2. Vai trò của công nghiệp hóa và hiện đại hóa
2.1 Tính tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
Muốn cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, đất nước từng bước
phát triển tiến lên CNXH, đi đôi với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiên tiến,
chúng ta nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất với năng suất lao động hội ngày
càng cao. muốn lực ợng sản xuất hùng hậu năng suất lao động hội cao
thì không thể chỉ dựa vào nền nông nghiệp lạc hậu, sử dụng lao động thủ công; trái lại
phải phát triển mạnh công nghiệp cùng với đổi mới công nghệ ngày càng hiện đại tạo
nền tảng cho sự phát triển nhanh, hiệu quả cao bền vững cho toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Nói cách khác, chúng ta phải tiến hành CNH theo hướng HĐH. CNH là một
giai đoạn phát triển tất yếu đối với quốc gia muốn tiến n từ một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu. Đây là xu thế chung của lịch sử.
Đối với Việt Nam, CNH - HĐH nền kinh tế một đòi hỏi tất yếu của việc phát
triển hình kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Quan điểm này khẳng định
CNH - HĐH là vấn đề quan trọng đặc biệt, là bước phát triển tất yếu đối với nước ta khi
nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội kém phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa xây dựng được
bao nhiêu, kinh tế tuy phát triển khá nhưng năng suất, chất ợng hiệu quả còn rất
thấp, còn nhiều yếu tố chưa vững chắc, khả năng cạnh tranh còn quá thấp so với nhiều
nước xung quanh. Thực tế này cho thấy nguy cơ tụt hậu xa hơn vẫn còn lớn cho nên chỉ
có CNH - HĐH mới là con đường cơ bản khắc phục được những yếu kém của nền kinh
tế nước ta, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ được độc lập chủ quyền, sớm thoát khỏi
sự đi xuống của kinh tế và đảm bảo định hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội.
lOMoARcPSD| 45474828
5
Mặt khác, thực tiễn đổi mới kinh tế Việt Nam đã chỉ rõ sự nghiệp đổi mới sự
nghiệp của quần chúng, CNH - HĐH cũng sự nghiệp của toàn dân, lợi ích của nhân
dân và do dân thực hiện. Quần chúng nhân dân khi nhận thức đầy đủ lợi ích của CNH -
HĐH họ sẽ phấn đấu vươn lên học tập để nâng cao trình độ văn hóa, kỷ luật, tay nghề,
sự sáng tạo, sức lao động từ đó làm chủ và thúc đẩy tiến trình CNH - HĐH.
2.2 Vai trò của CNH- HĐH đối với tiến trình xây dựng CNXH ở Việt Nam
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối
công nghiệp hoá và coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa hội. Thực tiễn đã chứng minh quá trình ng nghiệp hóa, hiện đại
hóa sẽ những vai trò to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế - hội của đất
nước, đó là:
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa nước ta trước hết quá trình thực hiện mục
tiêuxây dựng nền kinh tế hội chủ nghĩa. Đó một quá trình thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công
nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện
đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa quá trình tạo ra những điều kiện vật chất - kỹ
thuậtcần thiết về con người và khoa học - công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nhằm huy động sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để không ngừng tăng năng
suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất văn
hoá cho nhân dân, thực hiện ng bằng tiến bộ hội, bảo vệ cải thiện môi trường
sinh thái.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo ra svật chất để làm biến đổi về chất
lựclượng sản xuất, nhờ đó mà nâng cao vai trò của người lao động - nhân tố trung tâm
của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng và phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa sở kinh tế để củng cố phát triển khối
liênminh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân đội ngũ trí thức
trong sự nghiệp ch mạng hội chủ nghĩa. Đặc biệt góp phần tăng cường quyền
lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế
độclập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc
tế.
lOMoARcPSD| 45474828
6
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước thúc đẩy sự phân công lao động xã hội
pháttriển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp theo hướng chuyên canh
tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, các miền trở nên thống nhất cao hơn.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa không những tác dụng thúc đẩy nền kinh tế
tăngtrưởng phát triển cao còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển hiện đại
hoá nền quốc phòng - an ninh. Sự nghiệp quốc phòng an ninh gắn liền với sự nghiệp
phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ
vềkinh tế - chính trị, văn hoá - hội, quốc phòng an ninh. Thành công của sự nghiệp
công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường
hội chủ nghĩa Đảng nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vậy công nghiệp
hoá kinh tế được coi nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Bối cảnh quốc tế
Từ thập kỷ 70, thế kỷ XX, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh; Nhật Bản Tây
Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế giới; xu thế chạy đua phát triển
kinh tế đã dẫn đến cục diện hoà hoãn giữa các nước lớn. Với thắng lợi của cách mạng
Việt Nam (năm 1975) và các nước Đông Dương, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã mở rộng
phạm vi, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh. Đảng ta nhận định: Hệ thống
các nước hội chủ nghĩa đã đang lớn mạnh không ngừng; phong trào độc lập dân
tộc và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân đang trên đà phát triển mãnh liệt.
Tuy nhiên, từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế hội các
nước hội chủ nghĩa xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định. Tình hình quốc tế diễn biến
hết sức phức tạp:
Nhiều nước hội chủ nghĩa Đông Âu Liên tiến hành cải cách nhưng
không thành công. Liên Xô, thành trì của phe xã hội chủ nghĩa bị tan rã.
Nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác ớc đầu những chuyển đổi nền kinh tế
và đường lối phát triển,...
Tình hình khu vực Đông Nam Á cũng những chuyển biến mới. Sau năm 1975,
Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á, khối quân sSEATO tan rã; tháng 2-1976, các nước
lOMoARcPSD| 45474828
7
ASEAN hiệp ước thân thiện hợp tác Đông Nam Á (Hiệp ước Bali), mở ra cục
diện hòa bình, hợp tác trong khu vực
Bối cảnh quốc tế những năm cuối thế kỷ XX tác động đến công nghiệp hóa
hiện đại hóa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới:
Xu thế toàn cầu hóa khu vực hóa nền kinh tế thế giới diễn ra với quy mô ngày
càng lớn nhịp độ cao đã thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập của ớc ta, cho phép
nước ta tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài (vốn, công nghệ và thị trường) để phát
triển kinh tế-xã hội. Bên cạnh đó, cũng đặt nước ta vào thế cạnh tranh quyết liệt bởi các
nền kinh tế phát triển hơn trong khu vực và thế giới nên cần có những chính sách thích
hợp nhằm phát triển ổn định bền vững về mặt Kinh tế - Xã hội.
Trước tình hình đó, Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN từ tháng
71995. ASEAN đã trở thành một liên kết khu vực gồm 10 nước nhân tố quan trọng
để thúc đẩy sự hợp tác toàn diện giữa các nước trong khối. Điều đó đã cho phép nước
ta đẩy mạnh buôn bán, mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực trong đầu tư, khai
thác tài nguyên, chuyển giao KHKT, giao lưu văn hóa,…. Giải quyết các vấn đề về Biển
Đông sông Kông. Tuy nhiên, nước ta cũng chịu sự cạnh tranh bởi các nước trong
khu vực về một số mặt hàng xuất khẩu.
Việc phát triển mạnh mcủa khoa học công nghệ cho phép nước ta tận dụng
các nguồn lực bên ngoài, tiếp thu các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến để thúc
đẩy chuyển dịch cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tiếp
thu khoa học công nghệ tiên tiến nhưng cũng đặt ra thách thức vnguy tụt hậu
nếu chúng ta không nắm bắt cơ hội phát triển
2. Bối cảnh trong nước
2.1. Chủ trương, quan điểm đổi mới của Đảng về công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước từ 1975 - 1986.
a. Chủ trương
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30/4/1975, cả nước
độc lập thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam từ đây một sự thay đổi lớn: đất nước thoát
khỏi thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Nhiệm vụ chính lúc này khôi phục, ổn
định xây dựng phát triển đất nước trong điều kiện hòa bình. Tình hình đó đã đặt ra
một yêu cầu cần phải những chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp với tình
hình mới của đất nước để thúc đẩy kinh tế hội phát triển. Trên thực tế, các chủ
trương, chính sách, biện pháp của Đảng một số mặt trong thời kỳ này chưa đáp ứng
lOMoARcPSD| 45474828
8
được những yêu cầu đặt ra, đặc biệt là những chủ trương, đường lối trong lĩnh vực kinh
tế (những vấn đề liên quan đến lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất).
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, nước ta bước vào thời kỳ
khôi phục kinh tế. Đảng nhận thấy những khó khăn của nền kinh tế đất nước: sở
vật chất kỹ thuật còn yếu kém; năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu
đời sống tích luỹ,… Đảng cũng vạch ra những nguyên nhân sâu xa của tình hình trên
là nền kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ; công tác tổ chức và quản lý kinh tế có nhiều hạn
chế,…Nhưng những điểm bất hợp trong quan hệ sở hữu Đảng lại chưa chỉ ra. miền
Bắc, Đảng chủ trương củng cố hoàn thiện chế độ công hữu về liệu sản xuất dưới
hai hình thức toàn dân tập thể. miền Nam, Đảng chủ trương tiến hành cải tạo
hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế. Chính sách cải tạo hội chủ nghĩa đối
với các thành phần kinh tế đây là: sử dụng, hạn chế và cải tạo công nghiệp bản
doanh chủ yếu bằng hình thức công tư hợp doanh; chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp;
cải tạo thủ công nghiệp bằng con đường hợp tác hoá là chủ yếu; cải tạo thương nghiệp
nhỏ chủ yếu bằng cách chuyển dần sang sản xuất …
Tại Đại hội IV, Đảng đặc biệt quan tâm tới việc hoàn thiện hệ thống quản lý kinh
tế, nhằm vào những vấn đề quan trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong phạm vi cả nước. “Tổ chức lại tất ccác ngành sản xuất công nghiệp, ng nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp,… trong cả ớc theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xoá
bỏ tình trạng phân tán, cục bộ, hình thành những ngành kinh tế kỹ thuật thống nhất và
phát triển trên phạm vi cả nước…”. Đồng thời với việc tổ chức lại nền sản xuất, Đảng
chủ trương cải tiến phương thức quản lý kinh tế, lấy kế hoạch hoá làm chính. Kế hoạch
hoá trên sở đề cao trách nhiệm phát huy tính sáng tạo của các ngành, các địa
phương và các cơ sở. Trong quản lý kinh tế, Đảng cũng đã nhấn mạnh tới việc phải coi
trọng quy luật giá trị; phải thực hiện chế độ hạch toán kinh tế; sử dụng tốt thị trường;…
Nếu so sánh với công tác quản kinh tế được đề ra tại Đại hội III, thì tới Đại hội IV
lần này công tác này đã những bước chuyển biến nhất định, nhất khâu kế hoạch
hoá. Kế hoạch hoá không còn được nhấn mạnh “pháp lệnh” như tại Đại hội III,
đã chú ý hơn tới tính sáng tạo của các ngành, các địa phương các cơ sở. Tuy nhiên,
việc thực hiện công tác quản kinh tế còn nhiều khuyết điểm, đặc biệt là không gắn kế
hoạch với hạch toán kinh tế, do đó kế hoạch chưa thực sự xuất phát từ thực tế lao động
sản xuất, thiếu tính khả thi. Đảng vạch rõ: “về tổ chức thực hiện, khuyết điểm, sai lầm
của chúng ta là quan liêu, xa rời thực tế, không nhạy bén với cuộc sống; bảo thủ, trì
trệ, thiếu trách nhiệm trong quản lý kinh tế”. Trong khi đó, chế quản quan liêu bao
cấp vẫn tiếp tục được duy trì đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền sản xuất, nhất trong
việc phân phối, lưu thông. Nhà nước đóng vai trò điều tiết giá cả nên đã không kích
thích được sản xuất kinh doanh phát triển. chế quản quan liêu bao cấp với đặc
lOMoARcPSD| 45474828
9
điểm “tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động”, kết hợp với
nguyên tắc “phân phối theo lao động” đã làm cho chế độ phân phối mang tính bình
quân, do đó không kích thích được sự nhiệt tình và khả năng tìm tòi sáng tạo của người
lao động.
Tuy Đại hội V này Đảng đã có một số điều chỉnh tương đối hợp lý, nhưng nhìn
chung những điều chỉnh đó so với yêu cầu của thực tế vẫn còn một khoảng cách khá xa,
nhiều điểm bất hợp lý vẫn còn tồn tại trong đường lối kinh tế của đảng, quá trình cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa vẫn tiếp tục được
tiến hành theo hướng mà Đại hội IV đã đề ra. Đảng chủ trương: đối với công nghiệp tư
bản tư doanh vừa sử dụng vừa cải tạo dưới hình thức công tư hợp doanh hoặc các hình
thức khác, đối với tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp các ngành dịch vụ, tùy theo đặc
điểm của từng ngành, nghề mà tổ chức các hình thức làm ăn tập thể hay kinh doanh cá
thể… Như vậy, trong một thời gian nhất định, ở miền Bắc nước ta có 3 thành phần kinh
tế (quốc doanh, tập thể cá thể), miền Nam 5 thành phần kinh tế (quốc doanh,
tập thể, công hợp doanh, thể bản nhân). Mặc thực tiễn đất ớc sau
nhiều năm thực hiện chủ trương cải tạo theo hướng như trên không hợp lý, không
đảm bảo việc phát triển sản xuất, nhưng những chủ trương được đề ra tại Đại hội V về
việc cải tạo các thành phần kinh tế vbản vẫn giống như tại Đại hội IV. Tuy công
cuộc cải tạo đã được tiến hành trong nhiều năm, nhưng chúng ta chưa xác định rõ ràng,
nhất quán những quan điểm, chủ trương và chính sách chỉ đạo công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa. Hơn nữa, trong việc tổ chức thực hiện còn mắc quá nhiều sai lầm, tưởng
nóng vội muốn xoá bỏ ngay chế độ tư hữu để mau chóng xác lập một quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến “cách làm thường theo kiểu chiến dịch, gò ép, chạy theo số
lượng, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả, sau những đợt làm nóng vội, lại buông lỏng. Do
đó, không ít tchức kinh tế được gọi công hợp doanh, hợp tác xã, tổ hợp tác sản
xuất, chỉ có hình thức, không có thực chất của quan hệ sản xuất mới”
b. Quan điểm
Thứ nhất, thực hiện ng cuộc đổi mới nghĩa là thay đổi phương thức, chiến
lược đi lên chủ nghĩa hội, nhưng không xa rời mục tiêu hội chủ nghĩa, mà thực
hiện mục tiêu ấy bằng phương thức, chiến lược mới. Đây quan điểm bản nhất,
nền tảng cho các quan điểm khác. Thực tế cho thấy, Liên các nước Đông Âu
trước đây, thực hiện cải tổ từ bỏ mục tiêu hội chủ nghĩa thì sẽ dẫn đến mất phương
hướng và hỗn loạn.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện mục tiêu hội chủ nghĩa thì tất yếu phải giữ vững
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập, vì đây nhân tố tiên quyết để thực hiện mục tiêu hội chủ nghĩa. Trong quá trình
lOMoARcPSD| 45474828
10
thực hiện cải tổ, ban nh đạo Đảng Cộng sản Liên đã quyết định xóa bỏ Điều 6,
Hiến pháp Liên Xô về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực chất, đó không chỉ
sự tước quyền lãnh đạo của Đảng về mặt pháp lý, thừa nhận đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập, tạo điều kiện cho các lực lượng chính trị khác vươn lên đoạt quyền,
còn là sự từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện mục tiêu hội chủ nghĩa giữ vững vai tlãnh đạo
của Đảng Cộng sản thì tất yếu phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tưởng,
bởi chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ nền tảng ởng của Đảng, còn sở
để xây dựng hệ tư tưởng của toàn xã hội và nhờ đó mới có thể thực hiện được mục tiêu
hội chủ nghĩa. Ngược lại, nếu từ bỏ mục tiêu hội chnghĩa thì tất yếu dẫn đến
phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp nhận hệ tư tưởng tư sản, như Goócba-chốp đã
thực hiện trong công cuộc cải tổ ở Liên Xô trước đây.
Thứ tư, giữ vững vai tlãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà ớc
hội nói chung, nhất đối với lực lượng trang (quân đội và công an). Đảng phải lãnh
đạo toàn diện, tuyệt đối trực tiếp lực lượng trang. Bởi vì, nếu lực lượng trang
bị trung lập hóa, chỉ trách nhiệm bảo vệ độc lập chủ quyền an ninh quốc gia,
không phụ thuộc vào đảng phái nào, thì thực chất là tước quyền lãnh đạo của Đảng đối
với lực lượng vũ trang. Cách thức này đã được áp dụng ở Liên Xô thời kỳ cải tổ.
Thứ năm, hội nhập quốc tế, nhưng độc lập về chính trị, giữ vững chủ quyền quốc
gia, tiếp tục thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa hội. Thực tiễn gần 30 năm
qua đã chứng minh đó quan điểm đúng đắn. Chúng ta đã làm bạn với nhiều ớc trên
thế giới thiết lập quan hệ ngày càng tốt đẹp, nhân dân ta giao lưu với nhân dân các
nước, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta được các nước trân trọng, sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước được cộng đồng quốc tế đồng tình ủng hộ. Thực tiễn cũng cho thấy,
việc thực hiện công cuộc cải tổ của Liên trước đây sự chi phối sao chép
tưởng chính trị từ bên ngoài, vậy đã y nên sự sụp đổ chế độ chính trị - hội
hội chủ nghĩa.
Thứ sáu, công cuộc đổi mới cần có những bước đi thích hợp để bảo đảm vừa đổi
mới, vừa ổn định. Đổi mới phải bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, sau đó đến đổi mới về chính
trị. Ngay trong đổi mới kinh tế cũng đi từ đổi mới lĩnh vực nông nghiệp rồi đến các lĩnh
vực khác. Trong đổi mới chính trị, việc xác định xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa đã tác động đến đổi mới toàn bộ hệ thống chính trị. Nhờ vậy, gần 30 năm qua
đất nước ta vừa ổn định, vừa phát triển. Công cuộc cải tổ của Liên Xô trước đây đã thực
hiện một cách cấp thời, thiếu trình tự, cụ thể là: ban đầu đổi mới doanh nghiệp, rồi đến
100 ngày thực hiện nhân hóa, áp dụng nền dân chủ sản vào hội Xô-viết,... Kết
cục, dẫn đến hỗn loạn và sụp đổ chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa.
lOMoARcPSD| 45474828
11
2.2. Kết quả và hạn chế.
a. Hạn chế
sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu, những ngành công nghiệp then chốt còn
nhỏ lẻ, chưa được y dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh
tế quốc dân.
Nền kinh tế nước ta cùng khó khăn. Bị các nước bao vây cấm vận. Liên
Đông Âu bắt đầu cải cách mở cửa nên cắt giảm viện trợ. Trong nước sản xuất đình
đốn, đời sống nhân dân đói nghèo đến cùng cực. Tiềm lực kinh tế vô cùng nhỏ bé.
Lực lượng sản xuất nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp chưa
đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội
Nhiệm vụ mục tiêu do đại hội IV và V mà Đảng đề ra vẫn chưa hoàn thành, đất
nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - hội từ những năm 70 kéo dài trong những
năm với các biểu hiện như:
- Sản xuất tăng trưởng chậm, không ổn định
- Nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích lũy
- Lạm phát tiếp tục tăng cao, kéo dài trong nhiều năm
- Đất nước bị bao vây, cô lập, đời sống nhân dân khó khăn, lòng tin đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ bị giảm sút nghiêm trọng
b. Kết quả
Trước tình hình đó, Tổng Bí thư Trường Chinh tiến hành các cuộc khảo sát thực
tế và tập hợp các nhà khoa học để vấn. Từ đó nhận ra, đã đến lúc phải đổi mới tư duy
về lý luận cũng như tư duy kinh tế. Đó là phải xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, phải
chế tự hạch toán, tự chủ tài chính, phải bắt đầu áp dụng nền kinh tế có sự quản của
nhà nước.
Đại hội Đảng lần thứ 6 (tháng 12 năm 1986), khi đề ra đường lối đổi mới, Đảng
bắt đầu từ việc đổi mới tư duy, mà “trước hếttư duy kinh tế”. Kinh tế được điều tiết
theo chuyển động thị trường - vấn đề tưởng như nguyên nhưng đặt vào bối cảnh
khởi động Đổi mới năm 1986 khi đất nước đang lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội,
mới thấy hết giá trị mang tính mở đường, tính mới mẻ hiện đại của những chủ trương
chưa từng có trong tư duy của những người Cộng sản.
B. Quá trình đổi mới quan điểm của đảng về CNH – HĐH đất nước từ
1986 đến nay.
lOMoARcPSD| 45474828
12
I. Giai đoạn 1986 1996.
1. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986)
Trên thế giới, từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại phát triển mạnh, tác động lớn đến thế giới. Quá trình toàn cầu hóa về kinh
tế xuất hiện đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên các nước XHCN
đều tiến hành cải tổ, cải cách.
Tại Việt Nam, đất nước đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - hội:
sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được; tài
nguyên bị lãng phí; phân phối u thông rối ren, nhiều người lao động chưa việc làm,
hàng tiêu dùng không đủ, nhà điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Những mất cân đối
trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất của hội chủ nghĩa chậm được
củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh bị suy yếu. Đời sống nhân dân nhất
công nhân viên chức, lực lượng vũ trang gặp nhiều khó khăn.
Nhìn chung, Việt Nam chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần
thứ V đề ra bản ổn định tình hình kinh tế - hội, ổn định đời sống nhân dân.
Nguyên nhân được chỉ ra khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất
nước, trong việc xác định mục tiêu bước đi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
hội. Trong 5 m 1976-1980, trên thực tế đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá
trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết; vừa nóng vội, vừa buông lỏng trong công tác
cải tạo hội chủ nghĩa; chậm đổi mới chế quản kinh tế không n phù hợp. Trong
5 năm 1981-1985, đã không nghiêm chỉnh thực hiện những kết luận đúng đắn của Đại
hội lần thứ V của Đảng về cụ thể hoá đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên,
chưa kiên quyết khắc phục chủ quan nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh
tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế.
Thực trạng đất nước c bấy giờ đặt ra một yêu cầu khách quan bức thiết
phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để ổn định tình
hình kinh tế - xã hội của đất nước, vượt ra khỏi khủng hoảng để tiến lên.
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã phân tích kỹ tình hình trong
ngoài nước dựa trên những kết quả bước đầu trong đổi mới từng mặt, từng lĩnh
vực ở giai đoạn 1975- 1986 đã quyết đổi mới toàn diện đường lối xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nước. Trong đó, về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa hội, Đại hội xác định:
“Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu
tiên ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần
thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”.
Đảng ta đặt ra nhiệm vụ cần thiết phải đổi mới nhận thức luận để tổ chức thực tiễn
lOMoARcPSD| 45474828
13
về CNH. Nội dung đổi mới chuyển hướng chiến ợc CNH từ lựa chọn hình CNH
hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây sang mô hình CNH hỗn hợp (hướng về xuất
khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu) đã đang được áp dụng phổ biến khá thành
công tại nhiềuớc châu Á với chủ trương “lấy nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm” thay vì “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” ở
giai đoạn trước.
Đại hội VI của Đảng đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa hội
chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên thực hiện 3 chương trình lương thực, thực
phẩm; hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu trong những năm còn lại của chặng đường đầu
tiên của thời kỳ quá độ. Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu nhằm đạt mục tiêu dưới đây khi kết thúc
chặng đường đầu tiên:
- Bảo đảm nhu cầu lương thực của xã hội và có dự trữ; đáp ứng một cách ổn định
nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm đủ tái sản
xuất sức lao động.
- Đáp ứng được nhu cầu của nhân dân về những hàng tiêu dùng thiết yếu.
- Tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu
để đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng
những hàng hoá cần thiết.
Ba chương trình y định hướng cho việc sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo
cấu hợp lý, trước hết là bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư nhằm
khai thác có hiệu quả khả năng lao động, đất đai và cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có.
Nhận thức được bối cảnh mới của đất nước, đồng thời đón bắt hội phát triển, từ
kinh nghiệm của những nước đi trước, lý luận về CNH nền kinh tế quốc dân của Đảng
ta đã sự điều chỉnh. Bên cạnh việc tập trung đầu , giải quyết vấn đề cấp thiết
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng, Đảng ta chủ trương gắn CNH với HĐH, phát
triển ngành kinh tế dịch vụ và phát triển kinh tế vùng.
Như vậy, đường lối chiến ợc của Đảng coi Công nghiệp hóa nhiệm vụ trọng
tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội không đổi, nhưng thay dồn
sức, tập trung trực diện vào thực hiện CNH như trước đây, Đảng quan tâm nhiều hơn
trước tiên đến khâu tạo dựng tiền đề, cơ sở của CNH. Đây sự chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược của Đảng về CNH. điểm khởi đầu hết sức quan trọng cho quá trình
đổi mới tư duy về công nghiệp hóa ở Việt Nam.
2. Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991)
lOMoARcPSD| 45474828
14
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến
hành trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp. Đó là sự
khủng hoảng trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống
phá nhiều phía vào chủ nghĩa hội, vào chủ nghĩa c Lênin Đảng Cộng sản,
những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ chủ nghĩa
hội hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những người cộng sản trên
thế giới đã tác động đến tưởng tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên
nhân dân Việt Nam.
Đất nước ta cũng phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các lực lượng
thù địch ở cả trong và ngoài nước. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân vẫn còn
khó khăn, đất nước vẫn trong nh trạng khủng hoảng kinh tế hội. Tuy nhiên, công
cuộc đổi mới được Đảng ta đề ra từ Đại hội lần thứ VI (12/1986), bước đầu đã đạt được
những thành tựu đáng kể, nhờ đó mà nước ta đã đứng vững và tiếp tục phát triển.
Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa hội; Chiến ợc ổn định phát triển kinh tế - hội đến năm 2000. Cương
lĩnh xác định quá độ n chủ nghĩa hội nước ta một quá trình lâu dài, trải qua
nhiều chặng đường; trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội bảo vệ Tổ quốc cần
nắm vững 7 phương hướng bản. Một trong số đó phát triển lực lượng sản xuất,
công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện nhiệm vụ trung tâm nhằm từng ớc xây dựng sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động hội cải thiện
đời sống nhân dân. Như vậy, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) tiếp tục có những nhận
thức mới, ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII(1-1994), lý luận mới về
CNH có sự thay đổi căn bản. Đảng ta chủ trương “công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện
đại hóa”, phải “đẩy tới một bước công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”
với mục tiêu được xác định là nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Quan
điểm CNH nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH nay được xác định lại
cho đúng và sát thực hơn. Sở dĩ như vậy, là vì “công nghiệp hóa và hiện đại hóa là con
đường thoát khỏi nguy tụt hậu xa hơn so với các nước chung quanh, giữ được ổn
định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền định hướng phát triển hội
chủ nghĩa”. CNH thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Đó không
chỉ đơn giản tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế,
mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng
cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu qucao lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc n.
lOMoARcPSD| 45474828
15
Trong quá trình thực hiện, phải kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc
tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình
độ tiên tiến của khoa học và công nghệ thế giới.
Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa VII(7-1994),luận về CNH của Đảng ta tiếp
tục được bổ sung, làm sáng tỏ đi vào thực chất hơn. Đại hội nêu quan niệm về
CNH, HĐH đất nước như sau:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ quản kinh tế, hội, từ sử dụng sức lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện
phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp tiến bộ khoa
học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”
Định nghĩa đã phản ánh được phạm vi rộng lớn của CNH, HĐH; gắn CNH với
HĐH; xác định được vai trò của khoa học, công nghệ trong quá trình này; chỉ ra cái cốt
lõi của CNH cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên
tiến, hiện đại để đạt ng xuất lao động cao...Định nghĩa trên đã đánh dấu bước phát
triển vượt bậc trong nhận thức của Đảng về CNH trong thời kỳ phát triển mới của đất
nước.
Đồng thời tại Hội nghị Trung ương 7 khóa VII cũng xác định mục tiêu của
CNH, HĐH với hai tầm nhìn:
Trong dài hạn: thông qua CNH, HĐH, phấn đấu tạo ra một trình độ phát triển
mới về kinh tế - hội, xây dựng svật chất - kỹ thuật của CNXH, cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân, củng cố quốc phòng - an ninh, nâng cao khả năng
hợp tác phát triển với bên ngoài.
Trong ngắn hạn: CNH, HĐH phải nhằm đạt vượt các mục tiêu đã xác định trong
Chiến lược phát triển kinh tế -hội 1991-2000, chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho
bước phát triển cao n trong thập kỷ sau, mức tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP)
từ 2 đến 2,5 lần so với năm 1990, trong đó công nghiệp tăng bình quân hằng năm 13%-
15%, đưa tỷ trọng công nghiệp trong GDP lên trên 30% vào năm 2000(8).
Quan điểm CNH, HĐH ở Việt Nam được gắn với các nội dung cụ thể nhằm định
hướng đúng và chỉ đạo tốt việc tổ chức thực hiện: đầu chiều sâu để khai thác tối đa
năng lực sản xuất hiện có; ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, thu hồi vốn
nhanh, đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả;
tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; quan tâm đáp
ứng những nhu cầu phát triển thiết yếu của mọi vùng trong nước; chính sách hỗ trợ
những vùng khó khăn.
lOMoARcPSD| 45474828
16
Như vậy, Đại hội VII đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong nhận thức của
Đảng về CNH, HĐH trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
3. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996)
3.1. Bối cảnh chung
Quốc tế:
- Chế độ XHCN Liên các ớc Đông Âu sụp đổ khiến CNXH tạm thời
lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại; loài
người vẫn đang trong thời đại quá độ lên CNXH.
- Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, chiến
tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
- Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càngcao.
Trong nước:
- Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước đã đạt những thắng
lợi nổi bật trên nhiều mặt. Đời sống vật chất của đại bộ phận nhân dân được cải
thiện. Dân chủ được phát huy. Lòng tin của nhân dân đối với chế độ tiền đồ
của đất nước, với Đảng và Nhà nước được khẳng định. Nước ta đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế-xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc.
3.2. Quan điểm của Đảng về CNH - HĐH đất nước
Với chủ đề “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa hội.”, Ðại hội tổng kết 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
5 năm thực hiện Nghị quyết Ðại hội VII của Ðảng, đề ra mục tiêu, phương hướng, giải
pháp thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bổ sung, sửa đổi Ðiều
lệ Ðảng.
Đại hội VIII nhận định: Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá đô
chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã bản hoàn thành cho phép chuyể sang
thời kỳ mới: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tại Đại hội VIII, Đảng
ta xác định: Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta trong thời kỳ mới của sự nghiệp xây
dựng và bảo vê tổ quốc mà nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại
hóa đất nước. Ở đây công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo quan niệm hiện đại Đảng ta
xác định là: Quá trình chuyển đổi một cách căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất,
lOMoARcPSD| 45474828
17
kinh doanh, dịch vụ quản kinh tế hội từ sử dụng lao động thủ công chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với phương tiện, phương pháp tiên
tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp khoa học công nghê, tạo ra năng
suất lao động xã hội cao.
Từ quan niệm trên, Đảng ta xác định mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp sở vật chất, kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan sản xuất tiến bphù hợp với trình độ phát triển củạ lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân
giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Đồng thời, Đại hội VIII của Đảng xác
định mục tiêu đến năm 2020 là ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp
Đại hội cũng đã nêu n các định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về phát triển chuyển dịch cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Đại hội nêu các quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau:
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước chính đi đôi với
tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu
bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố bản cho sự phát triển nhanh
bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng
tăng tích lũy cho đầu phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống
nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ công bằng hội,
bảo vệ môi trường.
- Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết hợp
công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại
ở những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát
triển, lựa chọn dự án đầu công nghệ. Đầu chiều sâu để khai thác tối đa
năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy vừa nhỏ, công
nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một
số công trình quy lớn thật cần thiết hiệu quả. Tạo ra những mũi nhọn
trong từng bước phát triển. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các
lOMoARcPSD| 45474828
18
địa bàn trọng điểm; đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng
trong nước; chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn, tạo điều kiện cho các
vùng đều phát triển.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta
sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với
nhân dân các nước trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân
tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI. II. Giai
đoạn từ sau 1996 - 2021
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001 - 2005)
1.1. Bối cảnh
Quốc tế:
Toàn cầu hóa hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế khách quan, lôi cuốn
các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh
tranh và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế.
Cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt và công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học, tiếp tục bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, thúc đẩy so phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cấu kinh tế
và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong nước:
Sau 15 năm đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và
lực để thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải đối
phó với những thách thức: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực
trên thế giới, chệch hướng hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng quan liêu, “diễn biến
hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra.
1.2. Quan điểm của Đảng về CNH - HĐH đất nước
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đi sâu phân tích những đặc điểm của thế
kỷ XX, với những dấu ấn sâu sắc trong lịch sủ loài người dự báo tình hình thế giới
những thập kỷ đầu thế kỷ XXI. Đại hội khẳng định những thắng lợi to lớn mà nhân dân
ta đã giành được trong hơn 70 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, đưa nước ta “từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa”, quyết tâm xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ
lOMoARcPSD| 45474828
19
nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội cũng tiến
hành kiểm điểm, đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm (1996 2000), 10 năm thực
hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 -
2000), nêu lên những thành tựu to lớn cũng nnhững yếu kém, khuyết điểm của 15
năm đổi mới 1986 - 2000. Từ đó hoạch định đường lối cho sự phát triển của đất nước
trong những năm 2001- 2005 và 2001-2010.
Với chủ đề “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, Ðại
hội thông qua đường lối phát triển kinh tế là: Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu
tiên phát triển lực ợng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng hội
chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền
với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển
kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Trong 5 năm tới (2001 - 2005), lấy phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhiệm vụ trung tâm, với những chủ trương:
Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công ngh
thông tin công nghệ sinh học, ng dụng những thành tựu mới về khoa học công
nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả bền vững, chuyển dịch cấu kinh tế,
cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mọi hoạt động kinh tế được
đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, hội, môi trường, quốc phòng
và an ninh.
Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ng nghiệp ng thôn. Tiếp tục
phát triển và đưa nông nghiệp, m nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng
dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Đầu nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế hội nông thôn. ng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống
nông dân và dân cư ở nông thôn.
lOMoARcPSD| 45474828
20
Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào
một số ngành, lĩnh vực công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triển mạnh công
nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc, da - giầy, một số sản phẩm khí, điện
tử, công nghiệp phần mềm... Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa nhỏ; xây
dựng một số tập đoàn doanh nghiệp lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hoá.
Phát triển mạnh nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, kể cả
thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính - viễn thông, du lịch, tài chính, ngân
hàng, kiểm toán, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, vấn pháp lý, thông tin thị trường...
Xây dựng đồng bộ từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng: giao
thông, điện lực, thông tin, thủy lợi, cấp nước, thoát nước...
Phát triển mạng lưới đô thị phân bố hợp trên các vùng. Hiện đại hoá dần các
thành phố lớn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006-2010).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng diễn ra trong thời điểm lịch sử
ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo đã trải qua 20 năm. Toàn Đảng, toàn dân toàn quân ta vừa kết thúc 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, cũng 5 năm đầu tiên của thế kỷ XXI. Đại hội
nhiệm vụ kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu yếu kém,
đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX
của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 2005); Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) và nhìn lại 20 năm đổi mới.
Đại hội lần thứ X của Đảng đã xác định mục tiêu phương hướng tổng quát
của 5 năm 2006-2010 là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới huy động sử dụng
tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển văn hoá; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ
đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị
hội, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng m phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.”
Để thực hiện được mục tiêu nói trên, nền kinh tế ở nước ta phải có lực lượng sản
xuất đạt trình độ phát triển cao có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại - đại công nghiệp
khí phát triển trên sở khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đại. Muốn vậy phải
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa . Rõ ràng là xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự
| 1/47

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45474828
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN - - - - - -
BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG Đề bài:
Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở đất nước ta trong thời kỳ từ năm 1986 đến nay.
Nhóm thực hiện: 01
Lớp: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Lớp học phần: 21
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng Thuận
Hà Nội, tháng 1/2022 1 lOMoAR cPSD| 45474828 MỤC LỤC
A. Cơ sở khoa học……………………………………………………………… 4
I. Cơ sở lý luận………………………………………………………………………… 4
1. Khái niệm Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa………………………………..……4 2. Vai trò của Công nghiệp hóa – Hiện
đại hóa…………………………………….4
II. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………………………… 6 1. Bối cảnh Quốc
tế………………………………………………………………..6 2. Bối cảnh trong
nước……………………………………………………………...
B. Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về CNH – HĐH đất nước từ 1986 tới
nay…………………………………………………………………………...7 I. Giai đoạn 1986 –
1996……………………………………………………………… 12
1. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986)………………………….….12
2. Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) ……………………………..14
3. Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1996) ………………………………..16 II. Giai đoạn từ sau năm 1996 tới
nay…………………………………………………18
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001-2005)……………………………18
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X ( 2006-2010)……………………………21
3. Đại hội địa biểu toàn quốc lần thứ XI (2011-2015)
…………………………….23 4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016-
2020)……………………………27 5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(2021)…………………………………32 2 lOMoAR cPSD| 45474828 III. Kết
luận…………………………………………………………………………...37
C. Đánh giá quá trình đổi mới quan điểm của
Đảng………………………..40 I. Kết quả đạt
được……………………………………………………………………40
1. Tổng quan……………………………………………………………………..40
2. Thành tựu……………………………………………………………………...41 II.
Bài học kinh nghiệm rút ra được về đổi mới CNH – HĐH
………………………… 42 1. Hạn chế - nguyên
nhân………………………………………………………...42 2. Rút ra kinh nghiệm lịch
sử……………………………………………………..44 III.
Liên hệ thực tiễn đối với sinh viên hiện nay trong công cuộc CNH – HĐH
đấtnước………………………………………………………………………................. .46
1. Vai trò của sinh viên…………………………………………………………..46 2. Khó khăn, thách
thức…………………………………………………………..47 3. Phương pháp, giải
pháp………………………………………………………..47
A. CƠ SỞ KHOA HỌC.
I. Cơ sở lý luận.
1. Khái niệm Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
Từ những năm 90 của thế kỷ XX, sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa và kinh tế
tri thức đã làm thay đổi trình tự tiến hành công nghiệp hóa của các nước. Các nước công
nghiệp hóa sau không thể tiến hành công nghiệp hóa tuần tự từ cơ khí hóa đến tự động
hóa như những nước đi trước, mà phải kết hợp cả hai quá trình đó. Bởi vậy, tại Hội nghị
lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1994), Đảng ta xác định quan
niệm: Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Có thể coi đây là quan niệm mới, quan niệm công 3 lOMoAR cPSD| 45474828
nghiệp hóa trong thời kỳ hiện đại. Quan niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa được Hội
nghị đưa ra: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi một cách căn bản
và toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ
sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp
và khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.

Quan niệm này của Đảng ta cho thấy: Quá trình công nghiệp hóa không chỉ là
phát triển công nghiệp mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến
bộ; đồng thời, phải áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến để tạo ra
những sản phẩm mang làm lượng khoa học công nghệ cao thay thế cho những sản phẩm truyền thống.
2. Vai trò của công nghiệp hóa và hiện đại hóa
2.1 Tính tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
Muốn cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, đất nước từng bước
phát triển tiến lên CNXH, đi đôi với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiên tiến,
chúng ta nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất với năng suất lao động xã hội ngày
càng cao. Mà muốn có lực lượng sản xuất hùng hậu và năng suất lao động xã hội cao
thì không thể chỉ dựa vào nền nông nghiệp lạc hậu, sử dụng lao động thủ công; trái lại
phải phát triển mạnh công nghiệp cùng với đổi mới công nghệ ngày càng hiện đại tạo
nền tảng cho sự phát triển nhanh, hiệu quả cao và bền vững cho toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Nói cách khác, chúng ta phải tiến hành CNH theo hướng HĐH. CNH là một
giai đoạn phát triển tất yếu đối với quốc gia muốn tiến lên từ một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu. Đây là xu thế chung của lịch sử.
Đối với Việt Nam, CNH - HĐH nền kinh tế là một đòi hỏi tất yếu của việc phát
triển mô hình kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Quan điểm này khẳng định
CNH - HĐH là vấn đề quan trọng đặc biệt, là bước phát triển tất yếu đối với nước ta khi
nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội kém phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa xây dựng được
bao nhiêu, kinh tế tuy phát triển khá nhưng năng suất, chất lượng và hiệu quả còn rất
thấp, còn nhiều yếu tố chưa vững chắc, khả năng cạnh tranh còn quá thấp so với nhiều
nước xung quanh. Thực tế này cho thấy nguy cơ tụt hậu xa hơn vẫn còn lớn cho nên chỉ
có CNH - HĐH mới là con đường cơ bản khắc phục được những yếu kém của nền kinh
tế nước ta, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ được độc lập chủ quyền, sớm thoát khỏi
sự đi xuống của kinh tế và đảm bảo định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. 4 lOMoAR cPSD| 45474828
Mặt khác, thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã chỉ rõ sự nghiệp đổi mới là sự
nghiệp của quần chúng, CNH - HĐH cũng là sự nghiệp của toàn dân, vì lợi ích của nhân
dân và do dân thực hiện. Quần chúng nhân dân khi nhận thức đầy đủ lợi ích của CNH -
HĐH họ sẽ phấn đấu vươn lên học tập để nâng cao trình độ văn hóa, kỷ luật, tay nghề,
sự sáng tạo, sức lao động từ đó làm chủ và thúc đẩy tiến trình CNH - HĐH.
2.2 Vai trò của CNH- HĐH đối với tiến trình xây dựng CNXH ở Việt Nam
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối
công nghiệp hoá và coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã chứng minh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa sẽ có những vai trò to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đó là: -
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục
tiêuxây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công
nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện
đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. -
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất - kỹ
thuậtcần thiết về con người và khoa học - công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để không ngừng tăng năng
suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn
hoá cho nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. -
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi về chất
lựclượng sản xuất, nhờ đó mà nâng cao vai trò của người lao động - nhân tố trung tâm
của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng và phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. -
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển khối
liênminh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là góp phần tăng cường quyền
lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước. -
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế
độclập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế. 5 lOMoAR cPSD| 45474828 -
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước thúc đẩy sự phân công lao động xã hội
pháttriển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh
tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, các miền trở nên thống nhất cao hơn. -
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế
tăngtrưởng phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển và hiện đại
hoá nền quốc phòng - an ninh. Sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn liền với sự nghiệp
phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội. -
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ
vềkinh tế - chính trị, văn hoá - xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành công của sự nghiệp
công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường
xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp
hoá kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Bối cảnh quốc tế
Từ thập kỷ 70, thế kỷ XX, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh; Nhật Bản và Tây
Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế giới; xu thế chạy đua phát triển
kinh tế đã dẫn đến cục diện hoà hoãn giữa các nước lớn. Với thắng lợi của cách mạng
Việt Nam (năm 1975) và các nước Đông Dương, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã mở rộng
phạm vi, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh. Đảng ta nhận định: Hệ thống
các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang lớn mạnh không ngừng; phong trào độc lập dân
tộc và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân đang trên đà phát triển mãnh liệt.
Tuy nhiên, từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế – xã hội ở các
nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định. Tình hình quốc tế diễn biến hết sức phức tạp:
Nhiều nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô tiến hành cải cách nhưng
không thành công. Liên Xô, thành trì của phe xã hội chủ nghĩa bị tan rã.
Nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác bước đầu có những chuyển đổi nền kinh tế
và đường lối phát triển,...
Tình hình khu vực Đông Nam Á cũng có những chuyển biến mới. Sau năm 1975,
Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á, khối quân sự SEATO tan rã; tháng 2-1976, các nước 6 lOMoAR cPSD| 45474828
ASEAN ký hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Bali), mở ra cục
diện hòa bình, hợp tác trong khu vực
Bối cảnh quốc tế những năm cuối thế kỷ XX có tác động đến công nghiệp hóa
hiện đại hóa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới:
Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế giới diễn ra với quy mô ngày
càng lớn và nhịp độ cao đã thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập của nước ta, cho phép
nước ta tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài (vốn, công nghệ và thị trường) để phát
triển kinh tế-xã hội. Bên cạnh đó, cũng đặt nước ta vào thế cạnh tranh quyết liệt bởi các
nền kinh tế phát triển hơn trong khu vực và thế giới nên cần có những chính sách thích
hợp nhằm phát triển ổn định bền vững về mặt Kinh tế - Xã hội.
Trước tình hình đó, Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN từ tháng
71995. ASEAN đã trở thành một liên kết khu vực gồm 10 nước và là nhân tố quan trọng
để thúc đẩy sự hợp tác toàn diện giữa các nước trong khối. Điều đó đã cho phép nước
ta đẩy mạnh buôn bán, mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực trong đầu tư, khai
thác tài nguyên, chuyển giao KHKT, giao lưu văn hóa,…. Giải quyết các vấn đề về Biển
Đông và sông Mê Kông. Tuy nhiên, nước ta cũng chịu sự cạnh tranh bởi các nước trong
khu vực về một số mặt hàng xuất khẩu.
Việc phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ cho phép nước ta tận dụng
các nguồn lực bên ngoài, tiếp thu các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến để thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tiếp
thu khoa học và công nghệ tiên tiến nhưng cũng đặt ra thách thức về nguy cơ tụt hậu
nếu chúng ta không nắm bắt cơ hội phát triển
2. Bối cảnh trong nước
2.1. Chủ trương, quan điểm đổi mới của Đảng về công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước từ 1975 - 1986. a. Chủ trương
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30/4/1975, cả nước
độc lập thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam từ đây có một sự thay đổi lớn: đất nước thoát
khỏi thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Nhiệm vụ chính lúc này là khôi phục, ổn
định xây dựng và phát triển đất nước trong điều kiện hòa bình. Tình hình đó đã đặt ra
một yêu cầu là cần phải có những chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp với tình
hình mới của đất nước để thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển. Trên thực tế, các chủ
trương, chính sách, biện pháp của Đảng ở một số mặt trong thời kỳ này chưa đáp ứng 7 lOMoAR cPSD| 45474828
được những yêu cầu đặt ra, đặc biệt là những chủ trương, đường lối trong lĩnh vực kinh
tế (những vấn đề liên quan đến lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất).
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, nước ta bước vào thời kỳ
khôi phục kinh tế. Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của nền kinh tế đất nước: cơ sở
vật chất kỹ thuật còn yếu kém; năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu
đời sống và tích luỹ,… Đảng cũng vạch ra những nguyên nhân sâu xa của tình hình trên
là nền kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ; công tác tổ chức và quản lý kinh tế có nhiều hạn
chế,…Nhưng những điểm bất hợp lý trong quan hệ sở hữu Đảng lại chưa chỉ ra. Ở miền
Bắc, Đảng chủ trương củng cố và hoàn thiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới
hai hình thức toàn dân và tập thể. Ở miền Nam, Đảng chủ trương tiến hành cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế. Chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với các thành phần kinh tế ở đây là: sử dụng, hạn chế và cải tạo công nghiệp tư bản tư
doanh chủ yếu bằng hình thức công tư hợp doanh; chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp;
cải tạo thủ công nghiệp bằng con đường hợp tác hoá là chủ yếu; cải tạo thương nghiệp
nhỏ chủ yếu bằng cách chuyển dần sang sản xuất …
Tại Đại hội IV, Đảng đặc biệt quan tâm tới việc hoàn thiện hệ thống quản lý kinh
tế, nhằm vào những vấn đề quan trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong phạm vi cả nước. “Tổ chức lại tất cả các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp,… trong cả nước theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xoá
bỏ tình trạng phân tán, cục bộ, hình thành những ngành kinh tế – kỹ thuật thống nhất và
phát triển trên phạm vi cả nước…”. Đồng thời với việc tổ chức lại nền sản xuất, Đảng
chủ trương cải tiến phương thức quản lý kinh tế, lấy kế hoạch hoá làm chính. Kế hoạch
hoá trên cơ sở đề cao trách nhiệm và phát huy tính sáng tạo của các ngành, các địa
phương và các cơ sở. Trong quản lý kinh tế, Đảng cũng đã nhấn mạnh tới việc phải coi
trọng quy luật giá trị; phải thực hiện chế độ hạch toán kinh tế; sử dụng tốt thị trường;…
Nếu so sánh với công tác quản lý kinh tế được đề ra tại Đại hội III, thì tới Đại hội IV
lần này công tác này đã có những bước chuyển biến nhất định, nhất là khâu kế hoạch
hoá. Kế hoạch hoá không còn được nhấn mạnh là “pháp lệnh” như tại Đại hội III, mà
đã chú ý hơn tới tính sáng tạo của các ngành, các địa phương và các cơ sở. Tuy nhiên,
việc thực hiện công tác quản lý kinh tế còn nhiều khuyết điểm, đặc biệt là không gắn kế
hoạch với hạch toán kinh tế, do đó kế hoạch chưa thực sự xuất phát từ thực tế lao động
sản xuất, thiếu tính khả thi. Đảng vạch rõ: “về tổ chức thực hiện, khuyết điểm, sai lầm
của chúng ta là quan liêu, xa rời thực tế, không nhạy bén với cuộc sống; là bảo thủ, trì
trệ, thiếu trách nhiệm trong quản lý kinh tế”. Trong khi đó, cơ chế quản lý quan liêu bao
cấp vẫn tiếp tục được duy trì đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền sản xuất, nhất là trong
việc phân phối, lưu thông. Nhà nước đóng vai trò điều tiết giá cả nên đã không kích
thích được sản xuất kinh doanh phát triển. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp với đặc 8 lOMoAR cPSD| 45474828
điểm “tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động”, kết hợp với
nguyên tắc “phân phối theo lao động” đã làm cho chế độ phân phối mang tính bình
quân, do đó không kích thích được sự nhiệt tình và khả năng tìm tòi sáng tạo của người lao động.
Tuy ở Đại hội V này Đảng đã có một số điều chỉnh tương đối hợp lý, nhưng nhìn
chung những điều chỉnh đó so với yêu cầu của thực tế vẫn còn một khoảng cách khá xa,
nhiều điểm bất hợp lý vẫn còn tồn tại trong đường lối kinh tế của đảng, quá trình cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa vẫn tiếp tục được
tiến hành theo hướng mà Đại hội IV đã đề ra. Đảng chủ trương: đối với công nghiệp tư
bản tư doanh vừa sử dụng vừa cải tạo dưới hình thức công tư hợp doanh hoặc các hình
thức khác, đối với tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và các ngành dịch vụ, tùy theo đặc
điểm của từng ngành, nghề mà tổ chức các hình thức làm ăn tập thể hay kinh doanh cá
thể… Như vậy, trong một thời gian nhất định, ở miền Bắc nước ta có 3 thành phần kinh
tế (quốc doanh, tập thể và cá thể), ở miền Nam có 5 thành phần kinh tế (quốc doanh,
tập thể, công tư hợp doanh, cá thể và tư bản tư nhân). Mặc dù thực tiễn đất nước sau
nhiều năm thực hiện chủ trương cải tạo theo hướng như trên là không hợp lý, không
đảm bảo việc phát triển sản xuất, nhưng những chủ trương được đề ra tại Đại hội V về
việc cải tạo các thành phần kinh tế về cơ bản vẫn giống như tại Đại hội IV. Tuy công
cuộc cải tạo đã được tiến hành trong nhiều năm, nhưng chúng ta chưa xác định rõ ràng,
nhất quán những quan điểm, chủ trương và chính sách chỉ đạo công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa. Hơn nữa, trong việc tổ chức thực hiện còn mắc quá nhiều sai lầm, tư tưởng
nóng vội muốn xoá bỏ ngay chế độ tư hữu để mau chóng xác lập một quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến “cách làm thường theo kiểu chiến dịch, gò ép, chạy theo số
lượng, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả, sau những đợt làm nóng vội, lại buông lỏng. Do
đó, không ít tổ chức kinh tế được gọi là công tư hợp doanh, hợp tác xã, tổ hợp tác sản
xuất, chỉ có hình thức, không có thực chất của quan hệ sản xuất mới” b. Quan điểm
Thứ nhất, thực hiện công cuộc đổi mới có nghĩa là thay đổi phương thức, chiến
lược đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng không xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà thực
hiện mục tiêu ấy bằng phương thức, chiến lược mới. Đây là quan điểm cơ bản nhất, là
nền tảng cho các quan điểm khác. Thực tế cho thấy, ở Liên Xô và các nước Đông Âu
trước đây, thực hiện cải tổ mà từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì sẽ dẫn đến mất phương hướng và hỗn loạn.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu phải giữ vững
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập, vì đây là nhân tố tiên quyết để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình 9 lOMoAR cPSD| 45474828
thực hiện cải tổ, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã quyết định xóa bỏ Điều 6,
Hiến pháp Liên Xô về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực chất, đó không chỉ là
sự tước quyền lãnh đạo của Đảng về mặt pháp lý, thừa nhận đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập, tạo điều kiện cho các lực lượng chính trị khác vươn lên đoạt quyền, mà
còn là sự từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa và giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản thì tất yếu phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng,
bởi chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là nền tảng tư tưởng của Đảng, mà còn là cơ sở
để xây dựng hệ tư tưởng của toàn xã hội và nhờ đó mới có thể thực hiện được mục tiêu
xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, nếu từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu dẫn đến
phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp nhận hệ tư tưởng tư sản, như Goócba-chốp đã
thực hiện trong công cuộc cải tổ ở Liên Xô trước đây.
Thứ tư, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã
hội nói chung, nhất là đối với lực lượng vũ trang (quân đội và công an). Đảng phải lãnh
đạo toàn diện, tuyệt đối và trực tiếp lực lượng vũ trang. Bởi vì, nếu lực lượng vũ trang
bị trung lập hóa, chỉ có trách nhiệm bảo vệ độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia,
không phụ thuộc vào đảng phái nào, thì thực chất là tước quyền lãnh đạo của Đảng đối
với lực lượng vũ trang. Cách thức này đã được áp dụng ở Liên Xô thời kỳ cải tổ.
Thứ năm, hội nhập quốc tế, nhưng độc lập về chính trị, giữ vững chủ quyền quốc
gia, tiếp tục thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn gần 30 năm
qua đã chứng minh đó là quan điểm đúng đắn. Chúng ta đã làm bạn với nhiều nước trên
thế giới và thiết lập quan hệ ngày càng tốt đẹp, nhân dân ta giao lưu với nhân dân các
nước, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta được các nước trân trọng, sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước được cộng đồng quốc tế đồng tình ủng hộ. Thực tiễn cũng cho thấy,
việc thực hiện công cuộc cải tổ của Liên Xô trước đây có sự chi phối và sao chép tư
tưởng chính trị từ bên ngoài, vì vậy đã gây nên sự sụp đổ chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu, công cuộc đổi mới cần có những bước đi thích hợp để bảo đảm vừa đổi
mới, vừa ổn định. Đổi mới phải bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, sau đó đến đổi mới về chính
trị. Ngay trong đổi mới kinh tế cũng đi từ đổi mới lĩnh vực nông nghiệp rồi đến các lĩnh
vực khác. Trong đổi mới chính trị, việc xác định xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa đã tác động đến đổi mới toàn bộ hệ thống chính trị. Nhờ vậy, gần 30 năm qua
đất nước ta vừa ổn định, vừa phát triển. Công cuộc cải tổ của Liên Xô trước đây đã thực
hiện một cách cấp thời, thiếu trình tự, cụ thể là: ban đầu đổi mới doanh nghiệp, rồi đến
100 ngày thực hiện tư nhân hóa, áp dụng nền dân chủ tư sản vào xã hội Xô-viết,... Kết
cục, dẫn đến hỗn loạn và sụp đổ chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa. 10 lOMoAR cPSD| 45474828
2.2. Kết quả và hạn chế. a. Hạn chế
Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu, những ngành công nghiệp then chốt còn
nhỏ lẻ, chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế nước ta vô cùng khó khăn. Bị các nước bao vây cấm vận. Liên Xô
và Đông Âu bắt đầu cải cách mở cửa nên cắt giảm viện trợ. Trong nước sản xuất đình
đốn, đời sống nhân dân đói nghèo đến cùng cực. Tiềm lực kinh tế vô cùng nhỏ bé.
Lực lượng sản xuất nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp chưa
đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội
Nhiệm vụ mục tiêu do đại hội IV và V mà Đảng đề ra vẫn chưa hoàn thành, đất
nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội từ những năm 70 và kéo dài trong những
năm với các biểu hiện như:
- Sản xuất tăng trưởng chậm, không ổn định
- Nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích lũy
- Lạm phát tiếp tục tăng cao, kéo dài trong nhiều năm
- Đất nước bị bao vây, cô lập, đời sống nhân dân khó khăn, lòng tin đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ bị giảm sút nghiêm trọng b. Kết quả
Trước tình hình đó, Tổng Bí thư Trường Chinh tiến hành các cuộc khảo sát thực
tế và tập hợp các nhà khoa học để tư vấn. Từ đó nhận ra, đã đến lúc phải đổi mới tư duy
về lý luận cũng như tư duy kinh tế. Đó là phải xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, phải có
cơ chế tự hạch toán, tự chủ tài chính, phải bắt đầu áp dụng nền kinh tế có sự quản lý của nhà nước.
Đại hội Đảng lần thứ 6 (tháng 12 năm 1986), khi đề ra đường lối đổi mới, Đảng
bắt đầu từ việc đổi mới tư duy, mà “trước hết là tư duy kinh tế”. Kinh tế được điều tiết
theo chuyển động thị trường - vấn đề tưởng như là nguyên lý nhưng đặt vào bối cảnh
khởi động Đổi mới năm 1986 khi đất nước đang lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội,
mới thấy hết giá trị mang tính mở đường, tính mới mẻ và hiện đại của những chủ trương
chưa từng có trong tư duy của những người Cộng sản.
B. Quá trình đổi mới quan điểm của đảng về CNH – HĐH đất nước từ 1986 đến nay. 11 lOMoAR cPSD| 45474828
I. Giai đoạn 1986 – 1996.
1. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986)
Trên thế giới, từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ hiện đại phát triển mạnh, tác động lớn đến thế giới. Quá trình toàn cầu hóa về kinh
tế xuất hiện và đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước XHCN
đều tiến hành cải tổ, cải cách.
Tại Việt Nam, đất nước đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội:
sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được; tài
nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc làm,
hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Những mất cân đối
trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất của xã hội chủ nghĩa chậm được
củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh bị suy yếu. Đời sống nhân dân nhất là
công nhân viên chức, lực lượng vũ trang gặp nhiều khó khăn.
Nhìn chung, Việt Nam chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần
thứ V đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Nguyên nhân được chỉ ra là khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất
nước, trong việc xác định mục tiêu và bước đi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Trong 5 năm 1976-1980, trên thực tế đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá
trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết; vừa nóng vội, vừa buông lỏng trong công tác
cải tạo xã hội chủ nghĩa; chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế không còn phù hợp. Trong
5 năm 1981-1985, đã không nghiêm chỉnh thực hiện những kết luận đúng đắn của Đại
hội lần thứ V của Đảng về cụ thể hoá đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên,
chưa kiên quyết khắc phục chủ quan nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh
tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế.
Thực trạng đất nước lúc bấy giờ đặt ra một yêu cầu khách quan và bức thiết là
phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để ổn định tình
hình kinh tế - xã hội của đất nước, vượt ra khỏi khủng hoảng để tiến lên.
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã phân tích kỹ tình hình trong
và ngoài nước và dựa trên những kết quả bước đầu trong đổi mới từng mặt, từng lĩnh
vực ở giai đoạn 1975- 1986 đã quyết đổi mới toàn diện đường lối xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nước. Trong đó, về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội xác định:
“Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu
tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần
thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”.
Đảng ta đặt ra nhiệm vụ cần thiết phải đổi mới nhận thức và lý luận để tổ chức thực tiễn 12 lOMoAR cPSD| 45474828
về CNH. Nội dung đổi mới là chuyển hướng chiến lược CNH từ lựa chọn mô hình CNH
hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây sang mô hình CNH hỗn hợp (hướng về xuất
khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu) đã và đang được áp dụng phổ biến và khá thành
công tại nhiều nước châu Á với chủ trương “lấy nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm” thay vì “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” ở giai đoạn trước.
Đại hội VI của Đảng đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là thực hiện 3 chương trình lương thực, thực
phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu trong những năm còn lại của chặng đường đầu
tiên của thời kỳ quá độ. Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu nhằm đạt mục tiêu dưới đây khi kết thúc
chặng đường đầu tiên:
- Bảo đảm nhu cầu lương thực của xã hội và có dự trữ; đáp ứng một cách ổn định
nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm đủ tái sản xuất sức lao động.
- Đáp ứng được nhu cầu của nhân dân về những hàng tiêu dùng thiết yếu.
- Tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu
để đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng và
những hàng hoá cần thiết.
Ba chương trình này định hướng cho việc sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ
cấu hợp lý, trước hết là bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư nhằm
khai thác có hiệu quả khả năng lao động, đất đai và cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có.
Nhận thức được bối cảnh mới của đất nước, đồng thời đón bắt cơ hội phát triển, từ
kinh nghiệm của những nước đi trước, lý luận về CNH nền kinh tế quốc dân của Đảng
ta đã có sự điều chỉnh. Bên cạnh việc tập trung đầu tư, giải quyết vấn đề cấp thiết là
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng, Đảng ta chủ trương gắn CNH với HĐH, phát
triển ngành kinh tế dịch vụ và phát triển kinh tế vùng.
Như vậy, đường lối chiến lược của Đảng coi Công nghiệp hóa là nhiệm vụ trọng
tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là không đổi, nhưng thay vì dồn
sức, tập trung trực diện vào thực hiện CNH như trước đây, Đảng quan tâm nhiều hơn
và trước tiên đến khâu tạo dựng tiền đề, cơ sở của CNH. Đây là sự chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược của Đảng về CNH. Là điểm khởi đầu hết sức quan trọng cho quá trình
đổi mới tư duy về công nghiệp hóa ở Việt Nam.
2. Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) 13 lOMoAR cPSD| 45474828
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến
hành trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp. Đó là sự
khủng hoảng trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống
phá nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng sản,
những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ chủ nghĩa xã
hội hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những người cộng sản trên
thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam.
Đất nước ta cũng phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các lực lượng
thù địch ở cả trong và ngoài nước. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân vẫn còn
khó khăn, đất nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, công
cuộc đổi mới được Đảng ta đề ra từ Đại hội lần thứ VI (12/1986), bước đầu đã đạt được
những thành tựu đáng kể, nhờ đó mà nước ta đã đứng vững và tiếp tục phát triển.
Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Cương
lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua
nhiều chặng đường; trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc cần
nắm vững 7 phương hướng cơ bản. Một trong số đó là phát triển lực lượng sản xuất,
công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện
đời sống nhân dân. Như vậy, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) tiếp tục có những nhận
thức mới, ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII(1-1994), lý luận mới về
CNH có sự thay đổi căn bản. Đảng ta chủ trương “công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện
đại hóa”, phải “đẩy tới một bước công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”
với mục tiêu được xác định là nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Quan
điểm CNH là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH nay được xác định lại
cho đúng và sát thực hơn. Sở dĩ như vậy, là vì “công nghiệp hóa và hiện đại hóa là con
đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước chung quanh, giữ được ổn
định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng phát triển xã hội
chủ nghĩa”. CNH thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Đó không
chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế,
mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng
cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 14 lOMoAR cPSD| 45474828
Trong quá trình thực hiện, phải kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc
tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình
độ tiên tiến của khoa học và công nghệ thế giới.
Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa VII(7-1994), lý luận về CNH của Đảng ta tiếp
tục được bổ sung, làm sáng tỏ và đi vào thực chất hơn. Đại hội nêu rõ quan niệm về
CNH, HĐH đất nước như sau:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện
và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa
học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”
Định nghĩa đã phản ánh được phạm vi rộng lớn của CNH, HĐH; gắn CNH với
HĐH; xác định được vai trò của khoa học, công nghệ trong quá trình này; chỉ ra cái cốt
lõi của CNH là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên
tiến, hiện đại để đạt năng xuất lao động cao...Định nghĩa trên đã đánh dấu bước phát
triển vượt bậc trong nhận thức của Đảng về CNH trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Đồng thời tại Hội nghị Trung ương 7 khóa VII cũng xác định rõ mục tiêu của
CNH, HĐH với hai tầm nhìn:
Trong dài hạn: thông qua CNH, HĐH, phấn đấu tạo ra một trình độ phát triển
mới về kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân, củng cố quốc phòng - an ninh, nâng cao khả năng
hợp tác phát triển với bên ngoài.
Trong ngắn hạn: CNH, HĐH phải nhằm đạt và vượt các mục tiêu đã xác định trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000, chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho
bước phát triển cao hơn trong thập kỷ sau, mức tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP)
từ 2 đến 2,5 lần so với năm 1990, trong đó công nghiệp tăng bình quân hằng năm 13%-
15%, đưa tỷ trọng công nghiệp trong GDP lên trên 30% vào năm 2000(8).
Quan điểm CNH, HĐH ở Việt Nam được gắn với các nội dung cụ thể nhằm định
hướng đúng và chỉ đạo tốt việc tổ chức thực hiện: đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa
năng lực sản xuất hiện có; ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, thu hồi vốn
nhanh, đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả;
tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; quan tâm đáp
ứng những nhu cầu phát triển thiết yếu của mọi vùng trong nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn. 15 lOMoAR cPSD| 45474828
Như vậy, Đại hội VII đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong nhận thức của
Đảng về CNH, HĐH trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
3. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996)
3.1. Bối cảnh chung Quốc tế:
- Chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến CNXH tạm thời
lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại; loài
người vẫn đang trong thời đại quá độ lên CNXH.
- Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, chiến
tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
- Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càngcao. Trong nước:
- Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước đã đạt những thắng
lợi nổi bật trên nhiều mặt. Đời sống vật chất của đại bộ phận nhân dân được cải
thiện. Dân chủ được phát huy. Lòng tin của nhân dân đối với chế độ và tiền đồ
của đất nước, với Đảng và Nhà nước được khẳng định. Nước ta đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế-xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc.
3.2. Quan điểm của Đảng về CNH - HĐH đất nước
Với chủ đề “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội.”, Ðại hội tổng kết 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
5 năm thực hiện Nghị quyết Ðại hội VII của Ðảng, đề ra mục tiêu, phương hướng, giải
pháp thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bổ sung, sửa đổi Ðiều lệ Ðảng.
Đại hội VIII nhận định: Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá đô
là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyểṇ sang
thời kỳ mới: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tại Đại hội VIII, Đảng
ta xác định: Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta trong thời kỳ mới của sự nghiệp xây
dựng và bảo vê tổ quốc mà nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh công nghiệp ̣ hóa, hiện đại
hóa đất nước. Ở đây công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo quan niệm hiện đại mà Đảng ta
xác định là: Quá trình chuyển đổi một cách căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất, 16 lOMoAR cPSD| 45474828
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với phương tiện, phương pháp tiên
tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và khoa học công nghê, tạo ra năng
suất lao động xã hội cao.
Từ quan niệm trên, Đảng ta xác định mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hê sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển củạ lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân
giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Đồng thời, Đại hội VIII của Đảng xác
định mục tiêu đến năm 2020 là ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
Đại hội cũng đã nêu lên các định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Đại hội nêu các quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau:
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với
tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu
bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng
tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống
nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
- Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết hợp
công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại
ở những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát
triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa
năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công
nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một
số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tạo ra những mũi nhọn
trong từng bước phát triển. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các 17 lOMoAR cPSD| 45474828
địa bàn trọng điểm; đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng
trong nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn, tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta
sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với
nhân dân các nước trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân
tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI. II. Giai
đoạn từ sau 1996 - 2021
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001 - 2005)
1.1. Bối cảnh Quốc tế:
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế khách quan, lôi cuốn
các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh
tranh và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế.
Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt và công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học, tiếp tục có bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, thúc đẩy so phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế
và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong nước:
Sau 15 năm đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và
lực để thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải đối
phó với những thách thức: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng quan liêu, “diễn biến
hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra.
1.2. Quan điểm của Đảng về CNH - HĐH đất nước
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đi sâu phân tích những đặc điểm của thế
kỷ XX, với những dấu ấn sâu sắc trong lịch sủ loài người và dự báo tình hình thế giới
những thập kỷ đầu thế kỷ XXI. Đại hội khẳng định những thắng lợi to lớn mà nhân dân
ta đã giành được trong hơn 70 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, đưa nước ta “từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa”, quyết tâm xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ 18 lOMoAR cPSD| 45474828
nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội cũng tiến
hành kiểm điểm, đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm (1996 2000), 10 năm thực
hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 -
2000), nêu lên những thành tựu to lớn cũng như những yếu kém, khuyết điểm của 15
năm đổi mới 1986 - 2000. Từ đó hoạch định đường lối cho sự phát triển của đất nước
trong những năm 2001- 2005 và 2001-2010.
Với chủ đề “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, Ðại
hội thông qua đường lối phát triển kinh tế là: Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu
tiên phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội
chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền
với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển
kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Trong 5 năm tới (2001 - 2005), lấy phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
nhiệm vụ trung tâm, với những chủ trương:
Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ
thông tin và công nghệ sinh học, ứng dụng những thành tựu mới về khoa học và công
nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mọi hoạt động kinh tế được
đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội, môi trường, quốc phòng và an ninh.
Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục
phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế và xã hội ở nông thôn. nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống
nông dân và dân cư ở nông thôn. 19 lOMoAR cPSD| 45474828
Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào
một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triển mạnh công
nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc, da - giầy, một số sản phẩm cơ khí, điện
tử, công nghiệp phần mềm... Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ; xây
dựng một số tập đoàn doanh nghiệp lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hoá.
Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, kể cả
thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính - viễn thông, du lịch, tài chính, ngân
hàng, kiểm toán, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường...
Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng: giao
thông, điện lực, thông tin, thủy lợi, cấp nước, thoát nước...
Phát triển mạng lưới đô thị phân bố hợp lý trên các vùng. Hiện đại hoá dần các
thành phố lớn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006-2010).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng diễn ra trong thời điểm lịch sử có
ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo đã trải qua 20 năm. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vừa kết thúc 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, cũng là 5 năm đầu tiên của thế kỷ XXI. Đại hội
có nhiệm vụ kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu và yếu kém,
đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX
của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 2005); Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) và nhìn lại 20 năm đổi mới.
Đại hội lần thứ X của Đảng đã xác định mục tiêu và phương hướng tổng quát
của 5 năm 2006-2010 là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới huy động và sử dụng
tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển văn hoá; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ
đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị xã
hội, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.”
Để thực hiện được mục tiêu nói trên, nền kinh tế ở nước ta phải có lực lượng sản
xuất đạt trình độ phát triển cao và có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại - đại công nghiệp
cơ khí phát triển trên cơ sở khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Muốn vậy phải
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa . Rõ ràng là xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự 20