Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong thời kì đổi mới từ năm 1986 đến nay | Bài tập nhóm môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam
Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong thời kì đổi mới từ năm 1986 đến nay | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45474828 lOMoAR cPSD| 45474828 Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
PHẦN 1: CƠ SỞ KHOA HỌC....................................................................................2
1. Cơ sở lý luận.............................................................................................................2
1.1. Quan đi m c a ch nghĩa Mác Lênin, T tể ủ ủ
ư ưởng HCM vêề CNH- HĐH 2
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công nghiệp
hóa..........................2 1.1.2. Tư tưởng HCM về
CNH...............................................................................3
1.2. Nh ng vấấn đêề lý lu n chung vêề CNH-HĐHữ ậ 4
1.2.1. Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.................................................4 1.2.2. Nội
dung.................................................................................................. ......5 1.2.3. Mục
đích................................................................................................... .....5
1.2.4. Tính tất yếu khách quan của CNH, HĐH ở nước
ta......................................6
2. Cơ sở thực tiễn.........................................................................................................6
2.1. Bốấi c nh quốcấ têấả : 6
2.1.1. Tình hình chung của thế
giới.........................................................................6
2.1.2. Đặc điểm CNH-HĐH của thế giới trong thời kỳ đổi
mới..............................7 2.1.3. Các mô hình CNH trên thế
giới.....................................................................8
2.2. Bốấi c nh trong nả ước 9
2.3. Th c tênễ th c hi n ch trự ự ệ
ủ ương c a Đ ng vê ề CNH- HĐH trong ủ ả th i kỳ ờ
trướ ổ ớc đ i m i (1960-1985) 9
2.3.1. Đặc điểm của CNH-HĐH trong thời kỳ trước đổi
mới..................................9
2.3.2. Quan điểm của Đảng về CNH-HĐH trong thời kì trước đổi mới (1960-
1985).....................................................................................................................10
2.3.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện chủ trương của Đảng về CNH- HĐH trong
thời kỳ trước đổi mới (1960-1985)........................................................................10 lOMoAR cPSD| 45474828
PHẦN 2: Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về CNH- HĐH ở nước ta trong
thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay...............................................................................12
1. Quá trình đổi mới lý luận về công nghiệp hóa từ năm 1986 đến nay.................12
1.1. Quá trình đ i m i toàn di n quan đi m, ch trổ ớ ệ ểủ ương cống nghi p
hóa c a Đ ng t năm 1986 - ệ ủ ả ừ 1996 12
1.2. Quá trình b sung nh ng n i dung m i vêề đ y m nh cống nghi p hóa - hiổ ữ ộ ớ ẩ ạ ệệ ạn đ i hóa (1996 - 2021) 16
2. Nhận xét chung về quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về CNH - HĐH ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay.......................................................25
3. So sánh quan điểm của Đảng về CNH- HĐH của nước ta ở hai thời kỳ trước
đổi mới (1960 – 1985) và sau đổi mới (sau 1986)...........................................27 3.1. Giốấng nhau27 3.2. Khác nhau 27
4. Đánh giá thực tiễn quan điểm của Đảng về CNH- HĐH ở nước ta trong thời kỳ
đổi mới từ 1986 đến nay đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện tại.......................33 4.1. Thành t uự 33 4.2. H n chêấạ 33 4.3. Nguyên nhấn 34 4.4. Kinh nghi mệ 34
PHẦN 3: Liên hệ đến vai trò của thế hệ trẻ trong quá trình CNH-HĐH..............36
1. Một số hạn chế cần khắc phục.............................................................................36
2. Vai trò, nhiệm vụ của sinh
viên.............................................................................36
KẾT LUẬN................................................................................................................38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................39 lOMoAR cPSD| 45474828 LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá
trình phát triển vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa - xã hội của đất
nước lên trình độ mới. Đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa
có vai trò tạo điều kiện, tiền đề vật chất - kỹ thuật cho chế độ xã hội chủ nghĩa. Ở mỗi
thời kỳ lịch sử, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa có nội dung và
bước đi cụ thể, phù hợp. Đối với Việt Nam, khi chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, và từ
cuối thế kỷ XX đến nay, quá trình này được xác định đầy đủ là công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Đó là một quá trình kinh tế, kỹ thuật - công nghệ và kinh tế - xã hội toàn diện,
sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc
hậu lên trình độ công nghiệp với các trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại,
văn minh.Tại Đại hội VI (12-1986), Đảng ta đặt ra nhiệm vụ cần thiết phải đổi mới nhận
thức và lý luận để tổ chức thực tiễn về CNH-HĐH. Đây được coi là bước ngoặt quan
trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
PHẦN 1: CƠ SỞ KHOA HỌC 1. Cơ sở lý luận
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng HCM về CNH- HĐH
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công nghiệp hóa
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, công nghiệp hóa trong chủ nghĩa xã hội là công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; công nghiệp hóa trong chủ nghĩa tư bản là công nghiệp
hóa tư bản chủ nghĩa; để có công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa thì phải xóa bỏ chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ sản xuất mới dựa trên chế độ công hữu;
phải cơ cấu lại nền kinh tế để hướng tới mục tiêu phục vụ nhân dân, chứ không phải
“chạy theo” mục tiêu lợi nhuận cho các nhà tư bản.
Dựa trên thực tế sống động của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô,
Lênin đã bàn kỹ hơn về vấn đề công nghiệp hóa. Trước Cách mạng Tháng Mười, nước
Nga là một nước tư bản có trình độ phát triển trung bình; chủ nghĩa tư bản ở Nga “chưa
được phát triển đầy đủ”; công cuộc giải phóng nông nô mới được tiến hành vào năm
1861; cách tiến hành công nghiệp hóa ở nước Nga phải khác so với cách tiến hành công
nghiệp hóa ở các nước Tây Âu. 1 lOMoAR cPSD| 45474828
Vậy nước Nga cần công nghiệp hóa bằng cách nào? Theo Lênin, cách tiến hành
công nghiệp hóa ở nước Nga phải là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng để tạo ra máy
móc, tư liệu sản xuất tiên tiến cho toàn bộ nền kinh tế, để “chuyển nền kinh tế của đất
nước, kể cả nông nghiệp, lên một cơ sở kỹ thuật mới, cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất
lớn hiện đại”. Cụm từ “công nghiệp nặng” đã được Lênin sử dụng rất nhiều lần. Ông nói
rõ: “Công nghiệp nặng là cơ sở chủ yếu của chủ nghĩa xã hội”, “Công nghiệp nặng cần
được nhà nước trợ cấp. Nếu không tìm được khoản trợ cấp đó, thì nhà nước Xôviết sẽ
diệt vong, không còn là một nhà nước văn minh được, chứ đừng nói là nhà nước xã hội chủ nghĩa nữa”.
Không những chỉ rõ cần ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, Lênin còn chỉ rõ
rằng cần ưu tiên phát triển ngành công nghiệp năng lượng. Ở thời điểm máy hơi nước
và động cơ đốt trong vẫn đang được sử dụng một cách phổ biến, Lênin đã nhận thấy
điện lực mới là phương án tối ưu để nước Nga cạnh tranh với chủ nghĩa tư bản, và vì
vậy, “điện khí hóa toàn Nga” đã trở thành nội dung then chốt trong đường lối công
nghiệp hóa của Lênin. Ông đã nói rõ về điều đó trong bài phát biểu tại Đại hội III Quốc
tế Cộng sản (năm 1921): “Cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là nền
đại công nghiệp. Nhưng không thể chỉ đóng khung ở nguyên lý chung đó. Cần phải cụ
thể hóa nguyên lý đó. Một nền đại công nghiệp ở vào trình độ kỹ thuật hiện đại và có
khả năng cải tạo nông nghiệp, đó là điện khí hóa cả nước”. Từ đó, ông đã đưa ra định
nghĩa về chủ nghĩa cộng sản bằng cách kết hợp 2 đặc trưng cơ bản về chính trị và kinh
tế của chế độ đó: “Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô-viết cộng với điện khí hóa toàn quốc”.
Đưa một đất nước rộng lớn, còn nhiều tồn dư của nền kinh tế tiểu nông trở thành
một nước công nghiệp phát triển là sự nghiệp hết sức khó khăn. Để làm được việc khó
khăn đó, Lênin cho rằng, cần phải học hỏi, kế thừa những thành quả ưu việt của chủ
nghĩa tư bản, đặc biệt ở lĩnh vực khoa học và quản lý. Ông kêu gọi những người cộng
sản “hãy dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: chính quyền Xô-viết +
trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các Tờ rớt ở Mỹ + ngành giáo dục
quốc dân Mỹ”; phải nắm được “những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại” để
ứng dụng nó vào quá trình công nghiệp hóa. Theo ông, nếu những người xây dựng chế
độ mới không là những người có học vấn thì “chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một nguyện
vọng mà thôi”; họ phải tẩy bỏ căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản”; phải sử dụng “bằng bất
cứ giá nào và sử dụng trên quy mô lớn” các chuyên gia tư sản với thái độ thực sự trân
trọng; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nên phải động viên toàn thể nhân dân
lao động tích cực tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Chính vì coi trọng
công nghiệp hóa và tiến hành công nghiệp hóa một cách phù hợp, nên Liên Xô đạt được 2 lOMoAR cPSD| 45474828
vị thế cường quốc công nghiệp từ trước chiến tranh thế giới thứ hai. Sự tụt hậu của nền
kinh tế Xô-viết sau này có nguyên nhân ở chỗ không thực hiện đầy đủ những chỉ dẫn
của Lênin về công nghiệp hóa. Mặc dù cách tiến hành công nghiệp hóa bắt đầu bằng
công nghiệp nặng, trước hết là bằng công nghiệp năng lượng, là cách đúng đắn, phù hợp
với nước Nga thế kỷ XIX, nhưng đó cũng chỉ là kinh nghiệm tham khảo chứ không phải
là “khuôn mẫu bất biến” cho mọi nước khi tiến hành công nghiệp hóa. Đúng như Lênin
đã nói, “người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết các vấn đề chung,
thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi “vấp phải” những vấn đề chung đó
một cách không tự giác”.
1.1.2. Tư tưởng HCM về CNH
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm đến chủ nghĩa Mác
Lênin. Nếu chủ nghĩa Mác - Lênin tạo ra bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng
Hồ Chí Minh, thì quan điểm của các nhà kinh điển về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
chính là cơ sở lý luận để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Do Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bằng mô hình “rút ngắn”, gián tiếp - cụ thể,
tức “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, nên mâu thuẫn lớn nhất của ở Việt Nam trong
quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước
theo hướng hiện đại và thực trạng kinh tế - xã hội thấp kém của đất nước. Mâu thuẫn đó
chỉ được giải quyết bằng quá trình công nghiệp hóa. Bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc từ năm 1960, Hồ Chí Minh đã xác định rõ ràng, công nghiệp hóa là “con
đường phải đi của chúng ta”, “là con đường no ấm thực sự của nhân dân”.
Chủ động thực hiện một nhiệm vụ mang tính quy luật, nhưng do thấu hiểu đặc
điểm của Việt Nam (một nước nông nghiệp với cơ sở vật chất kỹ thuật hết sức lạc hậu
và đang có chiến tranh ác liệt), Hồ Chí Minh đã đề ra bước đi trong công nghiệp hóa.
Người nói: trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, nước ta “phải lấy việc
phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”; phải phát triển cả tiểu thủ công nghiệp và
công nghiệp nhẹ để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu cho dân và tạo sự tích lũy từng
bước; khi các ngành kinh tế đó đã ổn định thì phải đầu tư cho công nghiệp nặng, “công
nghiệp nặng là đầu mối để mở mang các ngành công nghiệp khác và cung cấp máy móc
cho nông nghiệp. Cho nên, chưa có công nghiệp nặng, thì chưa thể gọi là công nghiệp
hóa. Chưa có công nghiệp nặng thì chưa thể có một nền kinh tế tự chủ và giàu mạnh
được”. Rõ ràng là, Hồ Chí Minh đã nhận thấy tầm quan của công nghiệp nặng, nhưng 3 lOMoAR cPSD| 45474828
Người cũng linh hoạt trong việc lựa chọn cơ cấu, bước đi đầu tiên để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa.
Về vấn đề tốc độ công nghiệp hóa, ngay ở thời điểm Trung Quốc và Liên Xô chủ
trương tăng tốc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh vẫn cho rằng: “Công nghiệp
hóa phải tiến hành dần dần. Nếu muốn công nghiệp hóa gấp thì là chủ quan” vì điều kiện
của nước ta rất khó khăn. Rất tiếc là, trong một thời gian khá dài, tư tưởng đúng đắn đó
của Hồ Chí Minh về cơ cấu và bước đi trong công nghiệp hóa đã không được thực hiện.
Kết quả là, nền nông nghiệp Việt Nam không phát huy được thế mạnh, và công nghiệp
nặng phát triển không hiệu quả. Với một nước có thế mạnh về nông nghiệp thì “nông
suy - bách nghệ bại”. Trong khi nông nghiệp còn yếu kém mà lại quá chú trọng đầu tư
vào công nghiệp nặng, thì cách tiến hành công nghiệp hóa như vậy là sai lầm.
1.2. Những vấn đề lý luận chung về CNH-HĐH
1.2.1. Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cuộc cách mạng kĩ thuật lần thứ nhất gắn với quá trình chuyển từ lao động thủ
công lên lao động cơ khí, từ đó xuất hiện khái niệm công nghiệp hóa: Công nghiệp hóa
là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất từ sử dụng sức lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động dựa trên sự phát
triển của công nghiệp cơ khí.
Cuộc cách mạng kĩ thuật lần thứ hai gắn với quá trình chuyển từ lao động cơ khí
lên lao động dựa trên công cụ tự động hóa, sử dụng rộng rãi người máy và những công
nghệ hiện đại khác, từ đó xuất hiện khái niệm hiện đại hóa: Hiện đại hóa là quá trình
ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến hiện đại vào quá
trình sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế.
Ở thế kỷ XVII, XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây Âu,
công nghiệp hoá được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc. Khái niệm công nghiệp hoá mang tính lịch sử, tức là luôn có sự thay đổi
cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, của khoa học công nghệ. Do đó, việc phát
triển của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to lớn về cả lý luận và thực tiễn.
Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút những kinh
nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá, và từ thực tiễn công nghiệp hoá ở Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung - ương lần thứ bảy khoá VI
và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động 4 lOMoAR cPSD| 45474828
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế- xã hội từ sử dụng sức lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương
tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
1.2.2. Nội dung
Một là, tạo lập những điều kiện để có thể thực hiện chuyển đổi từ nền sản xuất,
xã hội lạc hậu sang nền sản xuất – xã hội tiến bộ. Muốn thực hiện chuyển đổi trình độ
phát triển, đòi hỏi phải dựa trên những tiền đề trong nước, quốc tế. Do đó, nội dung quan
trọng hàng đầu để thực hiện thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phải thực hiện tạo
lập các điều kiện cần thiết trên tất cả các mặt của đời sống sản xuất xã hội. Tuy vậy,
không có nghĩa là chờ chuẩn bị đầy đủ mới thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
thực tế phải thực hiện các nhiệm vụ một cách đồng thời.
Hai là, thực hiện các nhiệm vụ để chuyển đổi nền sản xuất – xã hội lạc hậu sang
nền sản xuất – xã hội hiện đại. Cụ thể:
Đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ mới, hiện đại.
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lí và hiệu quả.
Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
1.2.3. Mục đích
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hiện đại hóa là cải tiến nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống cao, dân chủ,
công bằng. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện
đại theo xã hội chủ nghĩa Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những
mục tiêu cụ thể. Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển;
tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
1.2.4. Tính tất yếu khách quan của CNH, HĐH ở nước ta
Do yêu cầu phải xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Cơ sở
vật chất – kỹ thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp
với trình độ kỹ thuật công nghiệp thích ứng của nó mà lực lượng lao động xã hội sử
dụng để sản xuất ra của cải vật chất. Đối với các nước đang phát triển, việc xây dựng cơ 5 lOMoAR cPSD| 45474828
sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một trong những nhiệm vụ kinh tế
to lớn và là một yêu cầu khách quan.
Do yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách tụt hậu xa về kinh tế, kỹ thuật và công
nghệ giữa Việt Nam và thế giới. Công nghiệp hoá góp phần tạo nên nền kinh tế hiện đại
với những ưu thế nổi bật như: năng suất cao, cơ cấu sản xuất đa dạng, công ăn việc làm
phong phú hơn nhiều so với một nền kinh tế bao cấp. Việc có công nghiệp hóa hiện đại
hóa giúp xã hội phát triển kinh tế đi lên. Khoảng cách giàu nghèo cũng được thu hẹp lại.
Do yêu cầu phải tạo ra năng suất lao động xã hội cao, đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển của xã hội.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Bối cảnh quốc tế:
2.1.1. Tình hình chung của thế giới
Quan điểm toàn diện coi bối cảnh quốc tế là một mặt, một mối liên hệ quan trọng
không thể thiếu, có tác động lớn đến sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung cũng như sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta nói riêng vẫn tiếp tục phát triển trong tình trạng
kinh tế thế giới diễn biến nhanh chóng và chưa đựng những yếu tố khó lường.
Thứ nhất, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc.
Đến năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ dẫn đến những biến
đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai trên cơ sở hai khối độc lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu (trật tự thế giới
hai cực) tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới. Trên phạm vi thế giới,
những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung của
thế giới là hòa bình và hợp tác phát triển. Các quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính
trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động
cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thế giới. Xu thế chạy đua
phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát triển đã đổi mới tư duy
đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; mở rộng
và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công
nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh.
Các tiêu chí tổng hợp trong đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu 6 lOMoAR cPSD| 45474828
Thứ hai, nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ
trang, chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động
can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi.
Thứ ba, cách mạng khoa học và công nghệ vẫn tiếp tục phát triển với trình độ
ngày càng cao hơn, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa kinh tế và đời sống xã hội.
Thứ tư, cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu (bảo vệ môi
trường, bùng nổ dân số, bệnh tật hiểm nghèo, phân hóa giàu nghèo) không thể một quốc
gia riêng lẻ nào có thể giải quyết, mà cần có sự hợp tác đa phương giữa các quốc gia.
Thứ năm, Châu Á – Thái Bình Dương đang có những bước phát triển đầy năng
động. Tuy vẫn tồn tại những bất ổn nhưng khu vực này vẫn được đánh giá là khu vực
ổn định. Châu Á — Thái Bình Dương có tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh
tế. Xu thế hòa bình và hợp tác trong khu vực phát triển mạnh.
2.1.2. Đặc điểm CNH-HĐH của thế giới trong thời kỳ đổi mới
Đến nay, lịch sử nhân loại đã trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp, cũng là các
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật nói chung.
Xuyên suốt thời kỳ đổi mới từ năm 1985 cho đến nay, thế giới chứng kiến những
sự thay đổi vượt bậc của CNH, HĐH qua hai cuộc cách mạng công nghiệp thứ ba và thứ
tư. Cuộc thứ ba, vào giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX, mở ra thời đại điện tử hóa, tin học
hóa. Cuộc thứ tư, từ đầu thế kỷ XXI, được xây dựng dựa trên nền tảng cuộc cách mạng
số, sự phổ biến của các công nghệ như vạn vật kết nối, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám
mây,…,đang dần xóa nhòa mọi ranh giới và giúp con người, sản phẩm và máy móc tự
kết nối, giao tiếp với nhau
Đặc điểm chung của hai cuộc cách mạng nêu trên cũng như nền CNH của thế
giới trong thời kỳ đổi mới đó là đã có sự tác động làm thay đổi cơ cấu của nền sản xuất
xã hội cũng như những mối tương quan giữa các khu vực nông - lâm - thủy sản, công
nghiệp và xây dựng, dịch vụ của nền sản xuất xã hội. Làm thay đổi tận gốc các lực lượng
sản xuất, cuộc Cách mạng KH&CN đã tác động tới mọi lĩnh vực đời sống và tinh thần
của xã hội loài người. Các công nghệ kỹ thuật mới không ngừng được nghiên cứu, nhằm
tạo ra các sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh. Khoa
học công nghệ đã trở thành sức sản xuất của xã hội, hình thành một cơ chế tương đối hoàn chỉnh. 7 lOMoAR cPSD| 45474828
Trên cơ sở tổng kết công cuộc CNH, HĐH từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến
nay và bám sát bối cảnh, nền CNH của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới cũng đã có những
biến chuyển cũng như nhiệm vụ mới: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”. Công nghiệp hóa ở
Việt Nam chuyển dịch nền kinh tế nông nghiệp và thủ công, sang định hướng nền kinh
tế công nghiệp với các máy móc, thiết bị công nghệ cao, dịch vụ hiện đại. Nguồn lao
động trong thời kỳ công nghiệp hóa cũng được đào tạo nhằm phát triển nền kinh tế tri
thức, áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất.
Việt Nam đã và đang dần khắc phục những điểm yếu của công nghiệp truyền
thống, gắn kết việc công nghiệp hóa với phát triển nền kinh tế và công nghệ, tiếp cận
kinh tế tri thức, đẩy mạnh phát triển các ngành công nghệ cao, chú trọng phát triển bền
vững, vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ an ninh xã hội và vấn đề môi trường.
2.1.3. Các mô hình CNH trên thế giới
Các quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới đều trải qua quá trình công
nghiệp hóa. Tuy nhiên ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, quá trình công nghiệp hóa
có những nét đặc trưng khác nhau, từ đó hình thành một số mô hình công nghiệp hóa chủ yếu sau: -
Mô hình CNH cổ điển: CNH theo mô hình cổ điển diễn ra vào giữa thế kỷ
XVIII đến thể kỷ XIX đầu tiên ở nước Anh sau đó được mở rộng sang nước Pháp. -
Mô hình CNH theo hướng thay thế nhập khẩu: Chiến lược công nghiệp
hóa thay thế nhập khẩu có thể nói là chiến lược của các nước đang phát triển, ra đời
trong thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ II. -
Mô hình CNH hướng về xuất khẩu: Chiến lược này ra đời trong điều kiện
quốc tế đã có những biến đổi sâu sắc. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước
kém phát triển đã làm tan rã toàn hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. -
Mô hình CNH theo hướng hội nhập quốc tế: Từ những năm 90 đến nay,
tình hình thế giới đã thay đổi theo những xu hướng mới. Hòa bình, phát triển đang trở
thành xu thế chính, một nền công nghệ mới có tính toàn cầu đang hình thành rõ rệt và
trở thành cơ sở cho xu hướng toàn cầu hóa phát triển. Tình hình mới này cho phép các
quốc gia thực hiện công nghiệp hóa theo hướng hội nhập khu vực và toàn cầu.
Các quốc gia công nghiệp phát triển và các quốc gia công nghiệp hóa mới đều
thành công trên con đường công nghiệp hóa nhờ biết xác định kịp thời mô hình công
nghiệp hóa phù hợp với bối cảnh thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước. Chỉ tính từ 8 lOMoAR cPSD| 45474828
giữa thế kỷ XX đến nay, đã có 2 mô hình công nghiệp hóa rất thành công. Mô hình thay
thế nhập khẩu đã biến các quốc gia Brazil, Mexico, Argentina và Chile thành các “con
hổ” Mỹ La tinh. Sau đó, mô hình hướng xuất khẩu đã đem lại sự phát triển thần kỳ cho
các “con hổ” Đông Á: Singapore, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan.
Trong quá trình CNH-HĐH, nước ta có thuận lợi cơ bản là nước đi sau, có thể
học hỏi được kinh nghiệm thành công của những nước đi trước và có cơ hội rút ngắn
thời gian thực hiện quá trình này.
Đến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo phương châm hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu ở những lĩnh
vực, mặt hàng có lợi thế, giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với hợp tác, mở rộng, hợp tác
quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế. Bên cạnh việc vào nguồn
lực trong nước là chính, Việt Nam còn tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng
một nền kinh tế mở cửa hội nhập hướng mạnh về sản xuất cho xuất khẩu, đồng thời thay
thế sản phẩm nhập khẩu hiệu quả.
2.2. Bối cảnh trong nước
Trước những thay đổi lớn của thế giới đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nước ta (cả
tích cực và tiêu cực ). Đảng ta xác định thời cơ và những thách thức to lớn đang đặt ra
cho đất nước ta. Thuận lợi đó là những thành tựu của công cuộc đổi mới tạo ra thế và
lực để chuyển sang giai đoạn phát triển cao hơn. Mặt khác, trong môi trường hoà bình
và ổn định của khu vực, sự phát triển năng động của vùng Châu Á - Thái Bình Dương,
đặc biệt xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới trong hòa bình ổn định và hợp tác đang
trở thành một xu thế chung, chủ yếu của thời đại thì quan hệ của nước ta đổi với nước
ngoài và khả năng hội nhập cộng đồng thế giới được mở rộng hơn bao giờ hết.
Bên cạnh những thuận lợi đó, chúng ta cũng đang đứng trước thách thức với bốn
nguy cơ chính : nguy cơ về chệch hướng XHCN, nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ nạn
quan liêu, nguy cơ về diễn biến hoà bình của thế lực thù định. Các nguy cơ trên có mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau và đều nguy hiểm không thể xem nhẹ nguy cơ nào.
2.3. Thực tiễn thực hiện chủ trương của Đảng về CNH- HĐH trong thời kỳ trước đổi mới (1960-1985)
2.3.1. Đặc điểm của CNH-HĐH trong thời kỳ trước đổi mới
Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III (tháng 9-
1960) của Đảng. Quá trình công nghiệp hóa của nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình
trong nước và quốc tế luôn diễn biến phức tạp và không thuận chiều. Thực hiện công 9 lOMoAR cPSD| 45474828
nghiệp hóa được 4 năm (1960 – 1964) thì đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra
miền Bắc. Đất nước phải trực tiếp thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Miền
Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng kinh tế, miền Nam thực
hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Khi đất nước vừa thống nhất (1975), cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội được vài năm thì lại xảy ra chiến tranh biên giới phía bắc, rồi kết thúc
cuộc chiến này lại kéo theo sự cấm vận của Mỹ. Như vậy, trước thời kỳ đổi mới, nước
ta có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa theo 2 giai đoạn: từ 1960 đến 1975 công
nghiệp hóa ở miền Bắc và từ 1975 – 1985 công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước, hai
giai đoạn này có mục tiêu, phương hướng rõ rệt.
2.3.2. Quan điểm của Đảng về CNH-HĐH trong thời kì trước đổi mới (1960- 1985)
Đại hội Đảng III xác định rõ mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu xây
dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài,
phải thực hiện qua nhiều giai đoạn. uu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp
lý, kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp, phát triển công
nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng..
Đại hội IV của Đảng (1976) đã có thay đổi chút ít “Đẩy mạnh công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh
tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.Những thay đổi trong chính
sách CNH dù còn chưa thật rõ nét song cũng đã tạo một sự thay đổi nhất định trong phát triển.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiên của
thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, đó là nội dung chính của công nghiệp hóa trong
chặng đường trước mắt.Nhờ vậy, nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ này đã có sự tăng
trưởng khá hơn so với thời kỳ 5 năm trước đó.
2.3.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện chủ trương của Đảng về CNH- HĐH trong thời kỳ
trước đổi mới (1960-1985)
2.3.3.1. Khó khăn, hạn chế trong việc thực hiện
Bên cạnh những kết quả đạt được, công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới còn
nhiều hạn chế. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn hết sức lạc hậu. Những ngành công nghiệp
then chốt còn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững
chắc cho nền kinh tế quốc dân. 10 lOMoAR cPSD| 45474828
Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp
chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội. Đất nước vẫn trong
tình trạng nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, rơi vào khủng hoảng kinh tế xã hội.
2.3.3.2. Ưu, nhược điểm
Nhìn lại quá trình nhận thức lý luận về CNH đất nước những năm trước Đổi mới
cho thấy, mặc dù chúng ta đã xác định đúng sự cần thiết phải CNH trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, nhận thức đúng mục tiêu của CNH nhằm hướng tới một xã hội tiến bộ, vì
lợi ích của toàn dân, xác định được nội dung cơ bản và tiền đề của CNH, nhưng chúng
ta đã nóng vội và thiếu tính thiết thực trong lựa chọn hướng đi và nội dung CNH, thiên
về phát triển công nghiệp nặng và phát triển hướng nội, trong khi các nguồn lực nhất là
vốn và nhân lực còn vô cùng khó khăn, thiếu thốn bởi điểm xuất phát là một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, trải qua nhiều năm chiến tranh; tiến hành CNH chỉ bó hẹp ở việc
sử dụng khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tập thể, các khu vực kinh tế khác
tuy có nhiều tiềm năng nhưng không được phát huy... 2.3.3.3. Nguyên nhân
Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu,
nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không thể
tập trung sức người sức của cho công nghiệp hóa.
Về chủ quan, chúng ta mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục
tiêu, bước đi về cơ sở vật chất kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư… Đó là
những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý chí trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa.
2.3.3.4. Đánh giá nhận xét
Lý luận về công nghiệp hóa (CNH) của Việt Nam được hình thành từ những năm
đầu thập kỷ 60 trong điều kiện toàn Đảng, toàn dân phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: đẩy mạnh xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Điểm xuất phát của miền Bắc nước ta khi đó là một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất thấp; hoạt động kinh tế mang đậm tính tự
nhiên, tự cung, tự cấp; và phải thực hiện nhiệm vụ chiến lược là tiến thẳng lên CNXH
không qua phát triển CNTB trong bối cảnh vừa xây dựng CNXH vừa chiến đấu chống
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. 11 lOMoAR cPSD| 45474828
Nhận thức về tính tất yếu của con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam, Đảng ta
xác định phải thực hiện CNH nền kinh tế quốc dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và
nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến”. Người yêu cầu: “Muốn đảm
bảo đời sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng
công nghiệp nặng”. Từ đó, đường lối CNH XHCN ở miền Bắc được xác định rõ tại Đại
hội III của Đảng (1960): “Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước
ta là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng”. Theo đó, nhiệm vụ CNH XHCN ở miền Bắc được cụ thể: “Xây dựng một nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy
công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý,
đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một
nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện
đại”. Trong giai đoạn này, Đảng ta đã xác định đúng sự cần thiết phải CNH nền kinh tế
quốc dân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam và coi đó là nhiệm vụ trọng tâm.
Trong quá trình tổ chức thực tiễn, những nhận thức về nội dung, bước đi trong
tiến hành CNH gắn với điều kiện thực tế Việt Nam cũng dần được hình thành trong tư
duy của Đảng. Hội nghị Trung ương 7 khóa III của Đảng bàn về nhiệm vụ, phương
hướng xây dựng và phát triển công nghiệp đã khẳng định cần xây dựng một nền công
nghiệp tương đối hoàn chỉnh làm nền tảng cho nền kinh tế tự chủ của nước ta.
Sau năm 1975, đường lối, chủ trương về CNH ở miền Bắc được thực hiện trên
phạm vi cả nước. Tuy lý luận về CNH đã có một số điều chỉnh tại Đại hội IV và Đại hội
V của Đảng, nhưng về cơ bản vẫn không có nhiều thay đổi so với trước.
PHẦN 2: Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về CNH- HĐH ở nước ta trong
thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay
1. Quá trình đổi mới lý luận về công nghiệp hóa từ năm 1986 đến nay
1.1. Quá trình đổi mới toàn diện quan điểm, chủ trương công nghiệp hóa của Đảng từ năm 1986 - 1996
Tại Đại hội VI (12/1986), Đảng đặt nhiệm vụ cần thiết đổi mới nhận thức và
lý luận để tổ chức thực tiễn về công nghiệp hóa.
Trong bối cảnh thời kỳ diễn ra kế hoạch năm năm 1981-1985, chúng ta không
thực hiện được mục tiêu đã đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định 12 lOMoAR cPSD| 45474828
đời sống của nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 đã
đưa nền kinh tế của đất nước ta đến những khó khăn mới. Nền kinh tế - xã hội nước ta
đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình đất nước đang đòi hỏi Đảng phải tích cực
chuẩn bị và tiến hành Đại hội lần thứ VI theo yêu cầu đổi mới mạnh mẽ, phải nhìn thẳng
vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng thực trạng của đất nước. Từ đó xác định đúng
mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng trong chặng đường trước mắt, đề ra chủ trương,
chính sách đúng để xoay chuyển tình thế, đưa đất nước vượt qua khó khăn, tiến lên phía trước.
Giữa bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI được tổ chức ở Hà Nội
và tại đây, Đại hội đã nghiêm khắc nêu ra rằng nguyên nhân chủ quan của tình hình khó
khăn, khủng hoảng là do những sai lầm, khuyết điểm trong sự lãnh đạo, quản lý của
Đảng và Nhà nước. Đại hội nhận định trong những năm 1976-1980, trên thực tế ta đã
chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết; vừa
nóng vội, vừa buông lỏng trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa; chậm đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế không còn phù hợp. Trong những năm 1981-1985, Đảng chưa cụ thể hoá
đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên, chưa kiên quyết khắc phục chủ quan,
nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản
lý kinh tế, lại phạm sai lầm mới, nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông, đã
buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế, xã hội, trong đấu tranh tư tưởng,
văn hoá, trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại thâm độc của kẻ thù.
"Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ
đạo chiến lược và về tổ chức thực hiện".
Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”, tại đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI, Đảng ta đã thừa nhận sai lầm trong việc bố trí cơ cấu nền kinh tế, mà
nguyên nhân cơ bản là tư tưởng chủ quan, nóng vội, bỏ qua những bước cần thiết. Song
song với việc thừa nhận những sai lầm, Đảng ta quyết định đổi mới toàn diện quan điểm
tiến hành công nghiệp hóa với những nội dung cơ bản như sau:
Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng tiền đề cần thiết
cho đẩy mạnh công nghiệp hóa ở các thời kỳ tiếp theo.
Quá trình công nghiệp hóa phải tiến hành từng bước phù hợp với yêu cầu phát
triển của nền kinh tế và lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
phải xuất phát từ nhu cầu, đòi hỏi của nền kinh tế, chú trọng tính khả thi và hiệu quả của
các chương trình kinh tế. 13 lOMoAR cPSD| 45474828
Chặng đường tiếp theo không phải là công - nông nghiệp và dịch vụ mà phải là
nông - công nghiệp và dịch vụ.
Thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, tương ứng
với đó là nhiều thành phần kinh tế.
Xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện kế hoạch hóa theo
phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Về mục tiêu, Đảng ta đặt ra nhiệm vụ cần thiết phải đổi mới nhận thức và lý luận
để tổ chức thực tiễn về CNH. Nội dung đổi mới là chuyển hướng chiến lược công nghiệp
hóa từ lựa chọn mô hình công nghiệp hóa hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây
sang mô hình công nghiệp hóa hỗn hợp (hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập
khẩu) đã và đang được áp dụng phổ biến và khá thành công tại nhiều nước châu Á với
chủ trương “lấy nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng
tâm” thay vì “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” ở giai đoạn trước. Nội dung chính
của công nghiệp hóa được cụ thể bằng việc thực hiện 3 chương trình: lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Trong đó, phát triển lương thực thực phẩm và
hàng tiêu dùng nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho đời sống nhân dân sau mấy chục
năm chiến tranh ác liệt và trong bối cảnh nền kinh tế trong tình trạng thiếu hụt hàng hóa
nghiêm trọng, góp phần ổn định kinh tế - xã hội; phát triển hàng xuất khẩu là yếu tố
quyết định khuyến khích sản xuất và đầu tư trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ để nhập
khẩu máy móc thiết bị phục vụ sản xuất. Đồng thời, trong nhận thức và tổ chức thực
tiễn, chúng ta đã chuyển hướng nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từ cơ cấu kinh tế khép kín chuyển sang cơ
cấu mở và phát huy nguồn lực của nền kinh tế có nhiều thành phần.
Nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn, nền kinh tế nước ta có những chuyển biến
tích cực như tốc độ tăng trưởng đạt mức cao và tương đối ổn định; lạm phát được đẩy
lùi và kiểm soát; nền kinh tế bước đầu có tích lũy nội bộ. Từ một nước khủng hoảng
thiếu lương thực trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn hàng đầu thế giới và đời sống
nhân dân từng bước được ổn định, nâng cao.
Với những quan điểm đổi mới kể trên, Đại hội VI đã bước đầu định hướng cho
việc chuyển mô hình công nghiệp hóa theo kiểu cũ sang xây dựng mô hình công nghiệp
hóa kiểu mới phù hợp với điều kiện của đất nước và xu thế phát triển của thời đại.
Tháng 6/1991, Đảng ta tổ chức họp Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
chủ trương gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, phát triển ngành kinh tế dịch vụ 14 lOMoAR cPSD| 45474828
và phát triển kinh tế vùng. Tại Đại hội, lần đầu tiên phạm trù “kinh tế dịch vụ” được
ghi trong nghị quyết và hiện thực hóa thành chủ trương của Đảng: “Mở mang kinh tế
dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, tăng tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động”.
Thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội tại Đại hội, Đảng nhấn mạnh chủ trương: “Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước
mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến về căn bản
tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, chiến thắng những lực lượng sản xuất, công
nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại, gắn liền với một nền kinh tế nông nghiệp phát
triển toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.”
Nếu như Đại hội VI tập trung tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt động kinh tế
nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, thì tại Đại hội VII, Đảng ta chủ trương
tập trung đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu nhằm tạo chuyển biến rõ nét về cơ cấu kinh
tế. Đại hội chủ trương phải phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế; đẩy mạnh ba
chương trình kinh tế với nội dung cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế
mới theo yêu cầu công nghiệp hóa; đẩy nhanh nhịp độ ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ
thuật, hình thành cơ bản và vận hành tương đối thông suốt cơ chế quản lý mới.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994), lý luận mới
về công nghiệp hóa có sự thay đổi căn bản.
Đảng ta chủ trương “công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa”, phải “đẩy tới
một bước công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước” với mục tiêu được xác
định là nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải
thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Quan điểm công nghiệp hóa
là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa nay được xác định lại cho
đúng và sát thực hơn. Sở dĩ như vậy, là vì “công nghiệp hóa và hiện đại hóa là con đường
thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước chung quanh, giữ được ổn định chính
trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa”.
Công nghiệp hóa thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong
nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ,
tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Trong quá trình thực hiện, phải kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ 15 lOMoAR cPSD| 45474828
với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển
theo trình độ tiên tiến của khoa học và công nghệ thế giới.
Nếu như trước đây, công nghiệp hóa được hiểu như quá trình phát triển công
nghiệp, nhất là công nghiệp nặng thì ngày nay, công nghiệp hóa - hiện đại hóa có nội
dung rộng lớn hơn và toàn diện hơn. Đó là là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp
và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động của xã hội cao.
Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7-1994), lý luận về công nghiệp hóa của
Đảng ta tiếp tục được bổ sung, làm sáng tỏ và đi vào thực chất hơn. Đại hội nêu rõ quan
niệm về công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) đất nước và xác định rõ mục tiêu
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa với hai tầm nhìn:
Trong dài hạn: thông qua CNH - HĐH, phấn đấu tạo ra một trình độ phát triển
mới về kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, cải thiện
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, củng cố quốc phòng - an ninh, nâng cao khả
năng hợp tác phát triển với bên ngoài.
Trong ngắn hạn: CNH, HĐH phải nhằm đạt và vượt các mục tiêu đã xác định
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000, chuẩn bị những tiền đề cần thiết
cho bước phát triển cao hơn trong thập kỷ sau, mức tăng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) từ 2 đến 2,5 lần so với năm 1990, trong đó công nghiệp tăng bình quân hằng năm
13%-15%, đưa tỷ trọng công nghiệp trong GDP lên trên 30% vào năm 2000.
Với những quan điểm, chủ trương nêu trên, Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung Ương đã
đánh dấu bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng về công nghiệp hóa phù hợp
với đặc điểm nước ta xu thế phát triển của thời đại.
1.2. Quá trình bổ sung những nội dung mới về đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa (1996 - 2021)
Đến Đại hội VIII (1996), Đảng ta xác định, Việt Nam đã thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội và hoàn thành nhiệm vụ của chặng đường đầu thời kỳ quá độ,
bắt đầu chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. 16