Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về xây dựng hệ thống nhà nước - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

Thông tin:
24 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về xây dựng hệ thống nhà nước - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

27 14 lượt tải Tải xuống
ĐỀ BÀI: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY
DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
TỪ 1986 ĐẾN NAY.
Phần A: CƠ SỞ LÍ LUẬN - THỰC TIỄN
I. Khái quát hệ thống chính trị ở VN
1. Khái niệm hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các
đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết
với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống
xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của
chủ thể giai cấp cầm quyền.
Cấu trúc của hệ thống chính trị: Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức
chính trị hợp pháp trong xã hội, gồm có: Đảng chính trị, Nhà nước, Các tổ chức
chính trị - xã hội.
2.Các thành tố trong hệ thống chính trị VN hiện nay: Gồm có 3 thành tố.
- Đảng cộng sản Việt Nam: là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng Cộng
sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
- Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam: được cấu thành bởi 3 cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Ba cơ quan này thực thi quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà
nước khác với quyền lực của các tổ chức chính trị khác ở tính “độc quyền cưỡng
chế hợp pháp”.
- Mặt trận Tổ quốc VN và các tổ chức chính trị: Là những tổ chức của công dân
được lập ra nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, có thể tác động đến việc thực
hiện quyền lực của Đảng cầm quyền, Nhà nước để bảo vệ lợi ích của tổ chức mình
và lợi ích của các thành viên. Mức độ sự tác động này phụ thuộc vào vị trí, khả
năng, nguồn lực của tổ chức đó trong xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội gồm có: Công đoàn
Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam.
Thuật ngữ “hệ thống chính trị” được chính thức sử dụng ở Việt Nam từ Nghị
quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1989).
Việc chuyển từ “hệ thống chuyên chính vô sản” sang “hệ thống chính trị” có ý
nghĩa nhấn mạnh đến sự tương tác, hợp tác của các chủ thể trong đời sống
chính trị - xã hội, nhằm tạo nên sức mạnh hợp lực của toàn hệ thống và khả
năng thích nghi của hệ thống với những thay đổi của môi trường xã hội.
3. Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị VN
a) Tính nhất nguyên chính trị: Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một
Đảng duy nhất cầm quyền, không tồn tại các Đảng chính trị đối lập.
- Nhất nguyên về tư tưởng: Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt
động trên nền tảng tư tưởng của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
b) Tính thống nhất:
- Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt
Nam.
- Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
- Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân
chủ.
- Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương,
với các bộ phận hợp thành.
c) Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra giám sát của nhân dân.
Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các yếu
tố:
- Đây quy luật tồn tại của Đảng, nguyên tắc tổ chức hoạt động của Đảng
cầm quyền.
- Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của
chính các tầng lớp nhân dân.
- Hệ thống chính trị trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ
thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
d) Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị:
- Đặc điểm nổi bật hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện cho
nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân.
- Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và
bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
- Sự kết hợp giữa tính giai cấp và dân tộc được khẳng định trong bản chất của từng
tổ chức trong hệ thống chính trị. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã
gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ
hệ thống chính trị.
4. Vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị
* : Đảng Cộng sản Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị và là hạt Vị trí
nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị.
* Vai trò: Vừa là người lãnh đạo, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị. Đó là
vai trò đặc biệt của Đảng trong hệ thống chính trị
* Chức năng lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
- Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, chủ trương phát triển kinh
tế, xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh,
đường lối của Đảng.
- Đảng tổ chức, thực hiện tuyên truyền, thuyết phục, vận động các tổ chức và xã
hội ủng hộ, thực hiện đường lối, chủ chương của Đảng.
- Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu
những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ
quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Ðảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và
đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông
qua việc thực hiện, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng
viên.
II. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
hệ thống chính trị.
1. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng hệ thống chính trị.
Trong học thuyết chính trị Mác - Lênin, mặc dù khái niệm hệ thống chính trị chưa
được sử dụng với tư cách là khái niệm khoa học như hiện nay vẫn dùng, nhưng
những nội dung có tính nguyên tắc để phân biệt bản chất của nhà nước, của chế độ
chính trị tư sản với nhà nước, chế độ chính trị kiểu mới của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã được các nhà lý luận
giải quyết thấu đáo. Lý luận về Đảng kiểu mới cầm quyền, về nhà nước chuyên
chính vô sản, về vai trò của các đoàn thể quần chúng (công đoàn, thanh niên, phụ
nữ...) là những di sản lý luận liên quan trực tiếp đến việc xây dựng và củng cố hệ
thống chính trị mà chúng ta đã đề cập hiện nay.
Nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước, xã hội có thể bằng hình thức trực
tiếp (bầu cử các cơ quan nhà nước bằng đầu phiếu phổ thông; hoặc thảo luận, đóng
góp vào các quyết sách chính trị, kinh tế..) hoặc hình thức gián tiếp (thông qua
những đại diện của mình trong các tổ chức chính trị - xã hội. Vì lẽ đó, trong đời
sống chính trị của chế độ xã hội mới, vai trò của quần chúng nhân dân, của các tổ
chức chính trị - xã hội không ngừng được củng cố, nâng cao. Khi hình thức dân
chủ trực tiếp và gián tiếp được củng cố, mở rộng tăng cường, đó sẽ là điều kiện,
động lực nhằm thúc đẩy nhanh quá trình chuyển giao các chức năng xã hội của nhà
nước sang các tổ chức chính trị - xã hội nói riêng, các tổ chức xã hội tự quản nói
chung, và đó cũng chính là quá trình “tự tiêu vong” của nhà nước.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng hệ thống chính trị.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, mặc dù chưa có tác phẩm nào viết riêng hoặc
bàn sâu về xây dựng hệ thống chính trị và các thành tố cấu thành hệ thống chính
trị, song qua nghiên cứu các tư liệu, bài viết của Người, chúng ta có thể khái quát
được những tư tưởng và khát vọng của Người về xây dựng một hệ thống chính trị
mới ở Việt Nam khoa học và hiệu quả nhất. Theo Người, một hệ thống chính trị
hiện đại và hiệu quả phải được xây dựng trên nguyên tắc: “Bao nhiêu lợi ích đều
vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”. Chính trị và hệ thống chính trị phải là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Nền chính trị mới phải khác về chất so với nền chính trị cũ trong quá khứ. Các
thành tố của hệ thống chính trị phải được kết hợp hài hòa, có cơ chế phối hợp hành
động, kiểm tra và giám sát lẫn nhau hết sức chặt chẽ.
Trong quan điểm, tư tưởng của mình, Bác cũng đã chỉ ra các thành tố cấu thành
nên hệ thống chính trị đó là Đảng, Nhà nước và Mặt trân Tổ quốc Việt Nam.
Xuyên suốt tư tưởng của Người, các mục tiêu lớn mà hệ thống chính trị phải
hướng tới, các sứ mệnh lớn phải thực thi đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Với
Người các thành tố của hệ thống chính trị khi đã hình thành và hoạt động phải có
sự gắn kết, phải phối hợp hành động chặt chẽ mới phát huy được hiệu quả, nhờ đó
mà nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tạo được niềm tin vững chắc của nhân dân.
III. Bối cảnh lịch sử
1. Bối cảnh thế giới và trong nước.
a. Thế giới
- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin) tiếp tục
phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân
tộc.
- Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến năm 1991, chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc
tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (trật tự thế
giới hai cực) tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới.
- Toàn cầu hóa là xu thế lớn của thời đại. Hàng trăm quốc gia đã tham gia vào
nhằm tận dụng các nguồn lực được quốc tế hóa để phát triển.
- Các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành cải tổ, đổi mới rầm rộ. Cục diện chính trị
quốc tế thay đổi nhanh chóng.
b. Trong nước
- Các nước đế quốc và thế lực thù địch đang bao vây, cấm vận Việt Nam rất ngặt
nghèo.
- Việt Nam vẫn ở trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
- Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên, trái phép diễn ra khá phổ
biến.
Việc đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước lúc bấy
giờ.
2. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kì trước đổi mới.
a) Giai đoạn 1945 - 1954: Kháng chiến chống thực dân Pháp
Đây là giai đoạn hệ thống chính trị mới được thành lập, hệ thống chính trị Việt
Nam thời kì này mang nhiều tính chất của hệ thống chính trị dân chủ nhân dân với
mục tiêu cai nhất là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành đôc lập dân tộc, làm cho
dân cày có ruộng.
b) Giai đoạn 1954 - 1975: kháng chiến chống đế quốc Mỹ
Giai đoạn này hệ thống chính trị tiếp tục lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc
thống nhất đất nước, song song đó Việt Nam còn tích cực tiến lên chủ nghĩa xã hội
thông qua việc xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản (hệ thống chuyên chính dân
chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản trong phạm vi nửa
nước).
c) Giai đoạn 1975-1986: xây dựng đất nước sau chiến tranh
Sau đại thắng ngày 30/4/1975, hệ thống chính trị Việt Nam bước sang giai đoạn
xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản theo tư tưởng tập thể làm chủ ( hệ thống
chuyên chính vô sản hoạt động trong phạm vi cả nước).
* Chủ trương xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản mang đặc điểm Việt
Nam:
Một là, xác định quyền làm chủ của nhân dân được thể chế hoá bằng pháp luật và
tổ chức.
Hai là, xác định Nhà nước trong thời kỳ quá độ là “Nhà nước chuyên chính vô sản
thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa”,
Ba là, xác định Đảng là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động xã hội trong điều kiện
chuyên chính vô sản.
Bốn là, xác định nhiệm vụ chung của Mặt trận và các đoàn thể là đảm bảo cho
quần chúng tham gia và kiểm tra công việc của Nhà nước, đồng thời là trường học
về chủ nghĩa xã hội.
Năm là, xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý
là cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội.
Hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản giai đoạn 1975 - 1986 được chỉ đạo
bởi đường lối của Đại hội Đảng IV và V đã góp phần mang lại những thành tựu
bước đầu cho dân tộc ta tuy nhiên còn tồn tại vô vàn các hạn chế, cụ thể:
- Thời kì này các nhà chính trị và nhân dân ta còn gọi là thời “bao cấp”. Đây là
khoảng thời gian đen tối của lịch sử Việt Nam với những yếu kém hết sức rõ ràng.
- Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ở từng đơn vị chưa được xác định
thật rõ; mỗi bộ phận, mỗi tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản chưa làm tốt
chức năng của mình. Chế độ trách nhiệm không nghiêm, pháp chế xã hội chủ nghĩa
còn nhiều thiếu sót.
- Bộ máy nhà nước cồng kềnh và kém hiệu quả mà cơ chế quản lý tập trung quan
liêu, bao cấp là nguyên nhân trực tiếp; các cơ quan dân cử các cấp được lựa chọn,
bầu cử và hoạt động một cách hình thức chủ nghĩa. Không ít cơ quan chính quyền
không tôn trọng ý kiến của nhân dân, không làm công tác vận động quần chúng,
chỉ quen dùng các biện pháp mệnh lệnh hành chính.
- Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm những nhiệm vụ của giai đoạn mới, chưa
đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vần đề kinh tế -xã hội cơ bản và cấp bách.
- Đảng chưa phát huy tốt vai trò và chức năng của các đoàn thể trong việc giáo
dục, động viên quần chúng tham gia quản lý kinh tế - xã hội. Các đoàn thể chưa
tích cực đổi mới phương thức hoạt động đúng với tính chất của tổ chức quần
chúng.
Nguyên nhân chủ quan:
- Duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp.
- Hệ thống chuyên chính vô sản có biểu hện bảo thủ, trì trệ, chậm đổi mới so với
những đột phá trong cơ chế kinh tế đang diễn ra ở các địa phương, các cơ sở trong
toàn quốc. Do đó đã cản trở quá trình đổi mới cơ chế kinh tế.
- Bệnh chủ quan, duy ý chí; tư tưởng tiểu tư sản vừa “tả” khuynh, vừa hữu khuynh
trong vai trò lãnh đạo của Đảng.
Những hạn chế, sai lầm trên đây cùng những yêu cầu của công cuộc đổi mới,
đã thúc đẩy chúng ta phải đổi mới hệ thống chuyên chính vô sản thành hệ
thống chính trị trong thời kỳ mới.
PHẦN B: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY
DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
TỪ 1986 ĐẾN NAY.
I. Giai đoạn 1986 - 1996 (Khởi xướng và thực hiện đường lối đổi mới toàn diện)
Có thể khẳng định rằng, 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V là những
năm đầy thử thách, gian nan đối với Đảng và nhân dân ta trên hầu hết tất cả các
lĩnh vực trong có đó việc tổ chức hệ thống chính trị. Tuy Đảng ta đã đạt được
những thành tựu, kết quả nhất định như tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ có một
bước trưởng thành, đã có nhiều kinh nghiệm mới về xây dựng đảng trong điều kiện
đảng cầm quyền. Nhưng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, trước những biến động và
thử thách của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, hệ thống chính trị nước ta vẫn
còn tồn đọng nhiều sai lầm, khuyết điểm về tư tưởng, tổ chức...không theo kịp
được với yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Trong giai đoạn 1986-1996 – Giai đoạn khởi xướng và thực hiện đường lối đổi
mới toàn diện, Đảng ta đã có những quan điểm mới trong việc xây dựng hệ thống
chính trị. Những quan điểm đó được thể hiện khá rõ nét tại đại hội Đảng lần thứ VI
và thứ VII.
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986)
Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986 với
những mục tiêu đề ra như sau:
- Phải xây dựng Đảng ngang tầm một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân ta tiến
hành cách mạng Xã hội chủ nghĩa.
- Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tăng cường hiệu lực quản của Nhà nước cũng như
của các đoàn thể Chính trị - Xã hội
Hội nghị Trung uơng lần thứ VI (3-1989) đã quyết định dùng khái niệm ‘‘Hệ thống
chính trị’ thay thay cho tên gọi ‘‘Hệ thống chuyên chính vô sản’ trước đó. Đây là
bước tiến mới rất quan trọng trong nhận thức của Đảng về tư duy chính trị. Từ đó
đề ra 6 nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới hệ thống chính trị, cụ thể là:
- Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu ở nước ta, là lựa chọn sáng suốt của
Bác Hồ, là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta.
- Đổi mới nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh và hiệu lực của
các tổ chức trong hệ thống chính trị.
- Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hôi chủ nghĩa của nhân dân ta.
- Xây dựng nền dân chủ xã hô i chủ nghĩa là mục tiêu, là đô ng lực của sự nghiệp
xây dựng xã hô i chủ nghĩa.
- Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế xã hô i chủ nghĩa, kết hợp sức
mạnh dân tô c với sức mạnh thời đại. Đại hội VI của Đảng là một bước ngoặt lịch
sử trong việc nhấn mạnh phát huy dân chủ. Bài học “lấy dân làm gốc” là sự thể
hiện sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh. Các Đại hội tiếp theo của Đảng tiếp tục bổ
sung và đưa ra cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh đó, sự khủng hoảng ở Liên Xô và một số nước Đông Âu (1991) đã ảnh
hưởng tiêu cực đến cách mạng và làm cho một bộ phận người dân hoài nghi đối
với chủ nghĩa xã hội, một số phần tử cơ hội đứng lên đòi chống phá lại sự lãnh đạo
của Đảng. Từ sự khủng hoảng đó, Trung ương xác định phải đổi mới, nâng cao
trình đô lãnh đạo, phải xác định rõ hơn mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã
i ở nước ta; không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng; cảnh giác và kiên
quyết chống âm mưu “diễn biến hoà bình...
Đại hội lần thứ VI phải là Đại hội đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa quyết
định trong việc tăng cường sức mạnh của Đảng, nâng cao uy tín của Đảng trong
quần chúng, bảo đảm cho Đảng vươn lên ngang tầm những nhiệm vụ mới.
Đảng ta phải trở thành một đảng lãnh đạo vững mạnh trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ( 1991)
Sau hơn 4 năm đổi mới, đất nước cơ bản ổn định nhưng chưa thoát ra khỏi khủng
hoảng kinh tế-xã hô i. Công cuô c đổi mới còn nhiều hạn chế, còn nhiều vấn đề kinh
tế - xã hô i nóng bỏng chưa được giải quyết. Chính vì vậy, đại hội Đảng lần thứ VII
được tổ chức nhằm giải quyết các vấn đề cấp bách lúc bấy giờ.
Đại hội lần thứ VII của Đảng được họp tại Hà Nội từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991.
Điểm mới nổi bật của Đại hội VII của Đảng là thông qua văn kiện quan trọng:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội”.
Trong cưỡng lĩnh, Đảng ta đã chỉ rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị,
xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng mặt trận
tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Trong hệ thống chính trị, Đảng Cộng
sản Việt Nam là một bộ phận và là tổ chức lãnh đạo của hệ thống đó. Lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động, lấy tập chung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức căn bản. Xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Sau đại hội VII, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, đất nước đứng trước
những thách thức mới và song song với đó những thuận lợi mới. Hội nghị trung
ương 3 (6/1992) đã thảo luận và đưa ra một số mục tiêu về chính trị:
- Đổi mới chỉnh đốn Đảng: Nguyên tắc đổi mới chỉnh đốn Đảng đóquán
triệt và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân
dân. Xây dựng Đảng về chính trị vàtưởng; chỉnh đốn Đảng về tổ chức; đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng.
| 1/24

Preview text:

ĐỀ BÀI: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY
DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY.

Phần A: CƠ SỞ LÍ LUẬN - THỰC TIỄN
I. Khái quát hệ thống chính trị ở VN
1. Khái niệm hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các
đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết
với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống
xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của
chủ thể giai cấp cầm quyền.
Cấu trúc của hệ thống chính trị: Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức
chính trị hợp pháp trong xã hội, gồm có: Đảng chính trị, Nhà nước, Các tổ chức chính trị - xã hội.
2.Các thành tố trong hệ thống chính trị VN hiện nay: Gồm có 3 thành tố.
- Đảng cộng sản Việt Nam: là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng Cộng
sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
- Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam: được cấu thành bởi 3 cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Ba cơ quan này thực thi quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà
nước khác với quyền lực của các tổ chức chính trị khác ở tính “độc quyền cưỡng chế hợp pháp”.
- Mặt trận Tổ quốc VN và các tổ chức chính trị: Là những tổ chức của công dân
được lập ra nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, có thể tác động đến việc thực
hiện quyền lực của Đảng cầm quyền, Nhà nước để bảo vệ lợi ích của tổ chức mình
và lợi ích của các thành viên. Mức độ sự tác động này phụ thuộc vào vị trí, khả
năng, nguồn lực của tổ chức đó trong xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội gồm có: Công đoàn
Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam.
Thuật ngữ “hệ thống chính trị” được chính thức sử dụng ở Việt Nam từ Nghị
quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1989).
Việc chuyển từ “hệ thống chuyên chính vô sản” sang “hệ thống chính trị” có ý
nghĩa nhấn mạnh đến sự tương tác, hợp tác của các chủ thể trong đời sống
chính trị - xã hội, nhằm tạo nên sức mạnh hợp lực của toàn hệ thống và khả
năng thích nghi của hệ thống với những thay đổi của môi trường xã hội.

3. Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị VN
a) Tính nhất nguyên chính trị: Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một
Đảng duy nhất cầm quyền, không tồn tại các Đảng chính trị đối lập.
- Nhất nguyên về tư tưởng: Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt
động trên nền tảng tư tưởng của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
b) Tính thống nhất:
- Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân chủ.
- Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương,
với các bộ phận hợp thành.
c) Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra giám sát của nhân dân.
Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các yếu tố:
- Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm quyền.
- Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị
xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của
chính các tầng lớp nhân dân.
- Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ
thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
d) Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị:
- Đặc điểm nổi bật hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện cho
nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân.
- Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và
bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
- Sự kết hợp giữa tính giai cấp và dân tộc được khẳng định trong bản chất của từng
tổ chức trong hệ thống chính trị. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã
gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị.
4. Vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị
* Vị trí: Đảng Cộng sản Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị và là hạt
nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị.
* Vai trò: Vừa là người lãnh đạo, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị. Đó là
vai trò đặc biệt của Đảng trong hệ thống chính trị
* Chức năng lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
- Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, chủ trương phát triển kinh
tế, xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
- Đảng tổ chức, thực hiện tuyên truyền, thuyết phục, vận động các tổ chức và xã
hội ủng hộ, thực hiện đường lối, chủ chương của Đảng.
- Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu
những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ
quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Ðảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và
đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông
qua việc thực hiện, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
II. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
hệ thống chính trị.
1. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng hệ thống chính trị.
Trong học thuyết chính trị Mác - Lênin, mặc dù khái niệm hệ thống chính trị chưa
được sử dụng với tư cách là khái niệm khoa học như hiện nay vẫn dùng, nhưng
những nội dung có tính nguyên tắc để phân biệt bản chất của nhà nước, của chế độ
chính trị tư sản với nhà nước, chế độ chính trị kiểu mới của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã được các nhà lý luận
giải quyết thấu đáo. Lý luận về Đảng kiểu mới cầm quyền, về nhà nước chuyên
chính vô sản, về vai trò của các đoàn thể quần chúng (công đoàn, thanh niên, phụ
nữ...) là những di sản lý luận liên quan trực tiếp đến việc xây dựng và củng cố hệ
thống chính trị mà chúng ta đã đề cập hiện nay.
Nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước, xã hội có thể bằng hình thức trực
tiếp (bầu cử các cơ quan nhà nước bằng đầu phiếu phổ thông; hoặc thảo luận, đóng
góp vào các quyết sách chính trị, kinh tế..) hoặc hình thức gián tiếp (thông qua
những đại diện của mình trong các tổ chức chính trị - xã hội. Vì lẽ đó, trong đời
sống chính trị của chế độ xã hội mới, vai trò của quần chúng nhân dân, của các tổ
chức chính trị - xã hội không ngừng được củng cố, nâng cao. Khi hình thức dân
chủ trực tiếp và gián tiếp được củng cố, mở rộng tăng cường, đó sẽ là điều kiện,
động lực nhằm thúc đẩy nhanh quá trình chuyển giao các chức năng xã hội của nhà
nước sang các tổ chức chính trị - xã hội nói riêng, các tổ chức xã hội tự quản nói
chung, và đó cũng chính là quá trình “tự tiêu vong” của nhà nước.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng hệ thống chính trị.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, mặc dù chưa có tác phẩm nào viết riêng hoặc
bàn sâu về xây dựng hệ thống chính trị và các thành tố cấu thành hệ thống chính
trị, song qua nghiên cứu các tư liệu, bài viết của Người, chúng ta có thể khái quát
được những tư tưởng và khát vọng của Người về xây dựng một hệ thống chính trị
mới ở Việt Nam khoa học và hiệu quả nhất. Theo Người, một hệ thống chính trị
hiện đại và hiệu quả phải được xây dựng trên nguyên tắc: “Bao nhiêu lợi ích đều
vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”.
Chính trị và hệ thống chính trị phải là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Nền chính trị mới phải khác về chất so với nền chính trị cũ trong quá khứ. Các
thành tố của hệ thống chính trị phải được kết hợp hài hòa, có cơ chế phối hợp hành
động, kiểm tra và giám sát lẫn nhau hết sức chặt chẽ.
Trong quan điểm, tư tưởng của mình, Bác cũng đã chỉ ra các thành tố cấu thành
nên hệ thống chính trị đó là Đảng, Nhà nước và Mặt trân Tổ quốc Việt Nam.
Xuyên suốt tư tưởng của Người, các mục tiêu lớn mà hệ thống chính trị phải
hướng tới, các sứ mệnh lớn phải thực thi đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Với
Người các thành tố của hệ thống chính trị khi đã hình thành và hoạt động phải có
sự gắn kết, phải phối hợp hành động chặt chẽ mới phát huy được hiệu quả, nhờ đó
mà nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tạo được niềm tin vững chắc của nhân dân.
III. Bối cảnh lịch sử
1. Bối cảnh thế giới và trong nước. a. Thế giới
- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin) tiếp tục
phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc.
- Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến năm 1991, chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc
tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (trật tự thế
giới hai cực) tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới.
- Toàn cầu hóa là xu thế lớn của thời đại. Hàng trăm quốc gia đã tham gia vào
nhằm tận dụng các nguồn lực được quốc tế hóa để phát triển.
- Các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành cải tổ, đổi mới rầm rộ. Cục diện chính trị
quốc tế thay đổi nhanh chóng. b. Trong nước
- Các nước đế quốc và thế lực thù địch đang bao vây, cấm vận Việt Nam rất ngặt nghèo.
- Việt Nam vẫn ở trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
- Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên, trái phép diễn ra khá phổ biến.
⇒ Việc đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước lúc bấy giờ.
2. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kì trước đổi mới.
a) Giai đoạn 1945 - 1954: Kháng chiến chống thực dân Pháp
Đây là giai đoạn hệ thống chính trị mới được thành lập, hệ thống chính trị Việt
Nam thời kì này mang nhiều tính chất của hệ thống chính trị dân chủ nhân dân với
mục tiêu cai nhất là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành đôc lập dân tộc, làm cho dân cày có ruộng.
b) Giai đoạn 1954 - 1975: kháng chiến chống đế quốc Mỹ
Giai đoạn này hệ thống chính trị tiếp tục lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc
thống nhất đất nước, song song đó Việt Nam còn tích cực tiến lên chủ nghĩa xã hội
thông qua việc xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản (hệ thống chuyên chính dân
chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản trong phạm vi nửa nước).
c) Giai đoạn 1975-1986: xây dựng đất nước sau chiến tranh
Sau đại thắng ngày 30/4/1975, hệ thống chính trị Việt Nam bước sang giai đoạn
xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản theo tư tưởng tập thể làm chủ ( hệ thống
chuyên chính vô sản hoạt động trong phạm vi cả nước).
* Chủ trương xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản mang đặc điểm Việt Nam:
Một là, xác định quyền làm chủ của nhân dân được thể chế hoá bằng pháp luật và tổ chức.
Hai là, xác định Nhà nước trong thời kỳ quá độ là “Nhà nước chuyên chính vô sản
thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa”,
Ba là, xác định Đảng là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động xã hội trong điều kiện chuyên chính vô sản.
Bốn là, xác định nhiệm vụ chung của Mặt trận và các đoàn thể là đảm bảo cho
quần chúng tham gia và kiểm tra công việc của Nhà nước, đồng thời là trường học về chủ nghĩa xã hội.
Năm là, xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý
là cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội.
Hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản giai đoạn 1975 - 1986 được chỉ đạo
bởi đường lối của Đại hội Đảng IV và V đã góp phần mang lại những thành tựu
bước đầu cho dân tộc ta tuy nhiên còn tồn tại vô vàn các hạn chế, cụ thể:
- Thời kì này các nhà chính trị và nhân dân ta còn gọi là thời “bao cấp”. Đây là
khoảng thời gian đen tối của lịch sử Việt Nam với những yếu kém hết sức rõ ràng.
- Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ở từng đơn vị chưa được xác định
thật rõ; mỗi bộ phận, mỗi tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản chưa làm tốt
chức năng của mình. Chế độ trách nhiệm không nghiêm, pháp chế xã hội chủ nghĩa còn nhiều thiếu sót.
- Bộ máy nhà nước cồng kềnh và kém hiệu quả mà cơ chế quản lý tập trung quan
liêu, bao cấp là nguyên nhân trực tiếp; các cơ quan dân cử các cấp được lựa chọn,
bầu cử và hoạt động một cách hình thức chủ nghĩa. Không ít cơ quan chính quyền
không tôn trọng ý kiến của nhân dân, không làm công tác vận động quần chúng,
chỉ quen dùng các biện pháp mệnh lệnh hành chính.
- Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm những nhiệm vụ của giai đoạn mới, chưa
đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vần đề kinh tế -xã hội cơ bản và cấp bách.
- Đảng chưa phát huy tốt vai trò và chức năng của các đoàn thể trong việc giáo
dục, động viên quần chúng tham gia quản lý kinh tế - xã hội. Các đoàn thể chưa
tích cực đổi mới phương thức hoạt động đúng với tính chất của tổ chức quần chúng.
⇒ Nguyên nhân chủ quan:
- Duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp.
- Hệ thống chuyên chính vô sản có biểu hện bảo thủ, trì trệ, chậm đổi mới so với
những đột phá trong cơ chế kinh tế đang diễn ra ở các địa phương, các cơ sở trong
toàn quốc. Do đó đã cản trở quá trình đổi mới cơ chế kinh tế.
- Bệnh chủ quan, duy ý chí; tư tưởng tiểu tư sản vừa “tả” khuynh, vừa hữu khuynh
trong vai trò lãnh đạo của Đảng.
Những hạn chế, sai lầm trên đây cùng những yêu cầu của công cuộc đổi mới,
đã thúc đẩy chúng ta phải đổi mới hệ thống chuyên chính vô sản thành hệ
thống chính trị trong thời kỳ mới.

PHẦN B: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY
DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY.

I. Giai đoạn 1986 - 1996 (Khởi xướng và thực hiện đường lối đổi mới toàn diện)
Có thể khẳng định rằng, 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V là những
năm đầy thử thách, gian nan đối với Đảng và nhân dân ta trên hầu hết tất cả các
lĩnh vực trong có đó việc tổ chức hệ thống chính trị. Tuy Đảng ta đã đạt được
những thành tựu, kết quả nhất định như tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ có một
bước trưởng thành, đã có nhiều kinh nghiệm mới về xây dựng đảng trong điều kiện
đảng cầm quyền. Nhưng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, trước những biến động và
thử thách của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, hệ thống chính trị nước ta vẫn
còn tồn đọng nhiều sai lầm, khuyết điểm về tư tưởng, tổ chức...không theo kịp
được với yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Trong giai đoạn 1986-1996 – Giai đoạn khởi xướng và thực hiện đường lối đổi
mới toàn diện, Đảng ta đã có những quan điểm mới trong việc xây dựng hệ thống
chính trị. Những quan điểm đó được thể hiện khá rõ nét tại đại hội Đảng lần thứ VI và thứ VII.
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986)
Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986 với
những mục tiêu đề ra như sau:
- Phải xây dựng Đảng ngang tầm một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân ta tiến
hành cách mạng Xã hội chủ nghĩa.
- Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước cũng như
của các đoàn thể Chính trị - Xã hội
Hội nghị Trung uơng lần thứ VI (3-1989) đã quyết định dùng khái niệm ‘‘Hệ thống
chính trị’’ thay thay cho tên gọi ‘‘Hệ thống chuyên chính vô sản’’ trước đó. Đây là
bước tiến mới rất quan trọng trong nhận thức của Đảng về tư duy chính trị. Từ đó
đề ra 6 nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới hệ thống chính trị, cụ thể là:
- Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu ở nước ta, là lựa chọn sáng suốt của
Bác Hồ, là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta.
- Đổi mới nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh và hiệu lực của
các tổ chức trong hệ thống chính trị.
- Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hô •i chủ nghĩa của nhân dân ta.
- Xây dựng nền dân chủ xã hô •i chủ nghĩa là mục tiêu, là đô •ng lực của sự nghiệp
xây dựng xã hô •i chủ nghĩa.
- Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế xã hô •i chủ nghĩa, kết hợp sức
mạnh dân tô •c với sức mạnh thời đại. Đại hội VI của Đảng là một bước ngoặt lịch
sử trong việc nhấn mạnh phát huy dân chủ. Bài học “lấy dân làm gốc” là sự thể
hiện sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh. Các Đại hội tiếp theo của Đảng tiếp tục bổ
sung và đưa ra cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh đó, sự khủng hoảng ở Liên Xô và một số nước Đông Âu (1991) đã ảnh
hưởng tiêu cực đến cách mạng và làm cho một bộ phận người dân hoài nghi đối
với chủ nghĩa xã hội, một số phần tử cơ hội đứng lên đòi chống phá lại sự lãnh đạo
của Đảng. Từ sự khủng hoảng đó, Trung ương xác định phải đổi mới, nâng cao
trình đô • lãnh đạo, phải xác định rõ hơn mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hô •i ở nước ta; không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng; cảnh giác và kiên
quyết chống âm mưu “diễn biến hoà bình...
 Đại hội lần thứ VI phải là Đại hội đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa quyết
định trong việc tăng cường sức mạnh của Đảng, nâng cao uy tín của Đảng trong
quần chúng, bảo đảm cho Đảng vươn lên ngang tầm những nhiệm vụ mới.
Đảng ta phải trở thành một đảng lãnh đạo vững mạnh trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ( 1991)
Sau hơn 4 năm đổi mới, đất nước cơ bản ổn định nhưng chưa thoát ra khỏi khủng
hoảng kinh tế-xã hô •i. Công cuô •c đổi mới còn nhiều hạn chế, còn nhiều vấn đề kinh
tế - xã hô •i nóng bỏng chưa được giải quyết. Chính vì vậy, đại hội Đảng lần thứ VII
được tổ chức nhằm giải quyết các vấn đề cấp bách lúc bấy giờ.
Đại hội lần thứ VII của Đảng được họp tại Hà Nội từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991.
Điểm mới nổi bật của Đại hội VII của Đảng là thông qua văn kiện quan trọng:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội”.
Trong cưỡng lĩnh, Đảng ta đã chỉ rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị,
xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng mặt trận
tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Trong hệ thống chính trị, Đảng Cộng
sản Việt Nam là một bộ phận và là tổ chức lãnh đạo của hệ thống đó. Lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động, lấy tập chung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức căn bản. Xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Sau đại hội VII, tình hình thế giới có diễn biến phức tạp, đất nước đứng trước
những thách thức mới và song song với đó là những thuận lợi mới. Hội nghị trung
ương 3 (6/1992) đã thảo luận và đưa ra một số mục tiêu về chính trị:
- Đổi mới và chỉnh đốn Đảng: Nguyên tắc đổi mới và chỉnh đốn Đảng đó là quán
triệt và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân
dân. Xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng; chỉnh đốn Đảng về tổ chức; đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng.