Quần chúng nhân dân gì? Vai trò của quần
chúng nhân dân theo quan điểm triết học Mác-
Lênin?
Lịch sử vận động phát triển của hội đã chứng minh rằng con người
chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. Tuy nhiên, vấn đề cần làm vai trò
quyết định sự phát triển của hội thuộc về ai? quần chúng nhân dân đông
đảo hay những nhân những phẩm chất đặc biệt - nhân lãnh tụ.
Những vấn đ đó được triết học Mác Lênin giải quyết một cách khoa học.
1. Khái nim qun chúng nhân dân
Chính hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của
một nhân hay một tổ chức nhằm thực hiện mục đích lợi ích của mình
đã làm cho lịch sử vận động phát triển qua các giai đoạn khác nhau.
Tuỳ vào điều kiện lịch sử hội, tuỳ thuộc vào nhiệm vụ đặt ra cho mỗi thời
đại quần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, những tầng lớp
những giai cấp khác nhau.
Như vậy, quần chúng nhân dân bộ phận cùng chung lợi ích căn bản,
bao gồm những thành phần, những tầng lớp những giai cấp, liên kết lại
thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một nhân, tổ chức hay đảng phái
nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, hội của một thời đại nhất
định.
Khái niệm quần chúng nhân dân được c định bởi các đặc trưng sau:
Thứ nhất, những người lao động ra của cải vật chất các giá trị tinh thần,
đóng vai trò hạt nhân bản của quần chúng nhân dân. Như vậy, quần
chúng nhân dân số lượng đông đảo.
Thứ hai, quần chúng nhân dân - những bộ phận dân chống lại giai cấp
thống trị, áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.
Thứ ba, những giai cấp những tầng lớp hội thúc đẩy sự tiến bộ hội
thông qua c hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên c lĩnh vực
của đời sống hội.
ràng, quần chúng nhân dân một phạm trù lịch sử, vận động, biến đổi
theo sự phát triển của lịch sử hội.
2. Vai t ca qun chúng nhân dân
Các trường phái triết học trước Mác đều chưa nhận thức được vai trò của
quần chúng nhân dân: Họ phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò của quần chúng
nhân dân hoặc cho rằng lịch sử phát triển của hội loài người do lực
lượng siêu nhiên quyết định: tôn giáo cho rằng mọi sự thay đổi trong lịch sử
do ý chí của đấng tối cao, do mệnh trời tạo nên trao quyền cho các
nhân thực hiện. Chủ nghĩa duy tâm trong triết học đề cao, tuyệt đối hoá vai
trò của c nhân lãnh tụ, còn quần chúng nhân dân chỉ công cụ,
phương tiện để sai khiến. Chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn chưa thoát khỏi
quan điểm duy m về hội khi cho rằng: nhân tố quyết định sự phát triển
của hội tưởng, đạo đức của các nhân, chỉ họ mới sớm nhận
thức được chân vĩnh cửu, dẫn dắt quần chúng. nhà tưởng lại đề cao
vai trò của quần chúng nhân dân, phủ nhận vai trò của các nhân, hoặc
không giải một cách khoa học vai trò của quần chúng nhân dân.
Đối lập với quan điểm trên, triết học Mác Lênin khẳng định, quần chúng nhân
dân chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, giữ vai trò quyết định đối với
tiến trình lịch sử. Bởi vì: một tưởng giải phóng hội, giải phóng con người
chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu hoạt động của quần chúng
nhân dân. Hơn nữa tưởng, tự bản thân không làm biến đổi hội
phải thông qua hành động ch mạng, hoạt động thực tiễn của quần chúng
nhân dân, đ biến tưởng, ước thành hiện thực trong đời sống hội.
Vai t sáng tạo chân chính ra lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu
hiện ba nội dung sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân giữ vai trò quyết định trong sản xuất ra của
cải vật chất, đảm bảo cho hội tồn tại, phát triển.
sản xuất vật chất nhân tố quyết định sự tồn tại phát triển của hội
loài người, quần chúng nhân dân lực lượng bản để tiến hành sản
xuất vật chất, làm cho lực lượng sản xuất phát triển.
Con người muốn tồn tại phải các điều kiện vật chất cần thiết, những
sản phẩm vật chất đó chỉ thể được đáp ứng thông qua sản xuất. Lực
lượng sản xuất đông đảo lao động trí óc lao động chân tay: họ người
sáng tạo, cải tạo trực tiếp sử dụng công cụ sản xuất tác động vào đối
tượng lao động tạo ra của cải vật chất nuôi sống hội. Cách mạng khoa học
kỹ thuật hiện nay vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Song, vai trò của khoa học chỉ thể được phát huy thông
qua thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất đội n
công nhân hiện đại trí thức trong nền sản xuất hội của thời đại kinh tế
trí thức. Bằng hoạt động thực tiễn của mình, quần chúng nhân dân trực tiếp
biến đường lối chính sách kinh tế thành hiện thực. Điều đó khẳng định rằng,
hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân điều kiện bản để quyết
định sự tồn tại phát triển của hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực bản của mọi cuộc cách mạng
hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, không cuộc chuyển biến
cách mạng o không hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân.
Họ lực lượng bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của
mọi cuộc cách mạng.
Nguyên nhân suy đến cùng của cuộc cách mạng hội giải quyết mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất, nghĩa bắt đầu từ hoạt
động sản xuất vật chất của nhân dân. Trong các cuộc cách mạng làm chuyển
biến hội từ hình thái kinh tế - hội này sang hình thái kinh tế hội khác,
nhân dân lao động lực lượng đông đảo. Cách mạng ngày hội của quần
chúng sự nghiệp của quần chúng. Bởi vậy, nhân dân lao động chủ thể
của các quá trình kinh tế, chính trị, hội, đóng vai t động lực bản của
mọi cuộc cách mạng hội. Thực tế đã chỉ không cuộc cách mạng
hội nào chỉ nhân lãnh tụ, không quần chúng nhân dân.
Thứ ba, quần chúng nhân dân người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh
thần. quần chúng nhân dân người sáng tạo ra đời sống vật chất thì cũng
quyết định đời sống tinh thần của hội. Triết học Mác không phủ nhận vai
trò của các danh nhân văn hóa, nhưng khẳng định vai trò quyết định của
quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân đóng vai t to lớn trong sự
phát triển của khoa học nghệ thuật, văn học đồng thời áp dụng những thành
tựu đó vào thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y
học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức…của nhân dân vừa cội nguồn,
vừa điều kiện đ thúc đẩy sự phát triển của nền n hóa tinh thần của các
dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực
tiễn nguồn cảm hứng tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống
hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa chỉ thể được trường tôn khi được đông
đảo quần chúng nhân dân chấp nhận, truyền sâu rộng gìn giữ để trở
thành giá trị phổ biến.
Tóm lại, từ hoạt động sản xuất vật chất đến hoạt động tinh thần, từ lĩnh vực
kinh tế đến chính trị, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong
lịch sử. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện lịch sử vai t chủ thể của quần
chúng nhân dân cũng biểu hiện khác nhau.
Lịch sử tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai t sức
mạnh của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp dựng nước giữ nước.
Danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi đã khẳng định: “Chở thuyền ng dân, lật
thuyền cũng dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết”. Đảng
cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng: cách mạng sự nghiệp của quần
chúng, quan điểm “lấy dân làm gốc” trở thành tưởng thường trực trong mọi
hoạt động ng tạo của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
3. Khái nim lãnh t
Trong sự phát triển của lịch sử, khi phong trào ch mạng của quần chúng
nhân dân hình thành phát triển dẫn tới sự xuất hiện của lãnh tụ. Đó
những nhân kiệt xuất.
nhân những nhân kiệt xuất, trưởng thành từ phong trào của quần
chúng, nắm bắt được những vấn đề căn bản nhất trong một lĩnh vực nhất
định của hoạt động thực tiễn luận. Đó những nhân kiệt xuất trong
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật.
Như vậy, đ trở thành nh tụ phải người phẩm chất bản sau:
Một , tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân
tộc, quốc tế thời đại.
Hai , năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí hành
động của quần chúng nhân dân vào nhiệm vụ dân tộc, quốc tế thời đại.
Ba , gắn mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh lợi ích của dân
tộc, quốc tế thời đại. những giai đoạn lịch sử khác nhau, dân tộc khác nhau,
thời kỳ khác nhau khi lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết thì tất yếu
sẽ xuất hiện những lãnh tụ từ phong trào quần chúng nhân dân, đáp ứng với
yêu cầu của lịch sử. Lênin viết “Trong lịch sử, chưa hề một giai cấp nào
giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của
mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong đ khả năng tổ
chức lãnh đạo phong trào”.
Lãnh tụ xuất hiện tất yếu vì: hội loài người vận động phát triển theo các
qui luật khách quan vốn của nó. Hoạt động của con người chỉ thực sự
tác dụng thúc đẩy sự phát triển của hội khi họ nắm được hành động
theo qui luật khách quan đó. Nhưng trình độ nhận thức của con người hoàn
toàn khác nhau. Không phải bất cứ ai cũng nắm được qui luật vận động của
lịch sử. Trong quá trình phát triển lâu dài của phong trào quần chúng, khi lịch
sử đòi hỏi, sẽ xuất hiện những nhân đáp ứng được yêu cầu đó. Lãnh tụ
hội tất yếu.
4. Vai t ca lãnh t
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân mỗi giai đoạn cách mạng
hội, lãnh tụ nhiệm vụ chủ yếu sau:
Trước hết, nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế thời đại trên sở hiểu
biết những qui luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa,
hội.
Trên sở đó định hướng chiến lược hoạch định chương trình hoạt
động cách mạng. Từ đó tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng,
thống nhất ý chí hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết
những mục tiêu cách mạng đ ra. Từ nhiệm vụ của lãnh tụ, thấy vai trò của
lãnh tụ đối với phong trào quần chúng như sau:
Một , thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ hội: nắm bắt được qui luật vận
động khách quan của lịch sử t lãnh tụ sẽ thúc đẩy sự phát triển của hội
thông qua lãnh đạo phong trào quần chúng; ngược lại, nếu không nắm bắt
được những qui luật của lịch sử hội thì lãnh tụ sẽ kìm m sự phát triển
của hội, thậm chí th dẫn lịch sử trải qua những bước quanh co, phức
tạp.
Hai , nh tụ với vai trò của mình sáng lập ra c tổ chức chính trị, hội,
linh hồn của tổ chức đó. vậy, lãnh tụ người tổ chức điều khiển quản
các tổ chức chính trị, hội, vai trò ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại, phát
triển hoạt động của các tổ chức ấy.
Ba , lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra
của thời đại đó. Không lãnh tụ cho mọi thời đại, chỉ lãnh t gắn với một
thời đại nhất định. Sau khi hoàn thành vai trò của mình, lãnh tụ trở thành biểu
tượng tinh thần i mãi tồn tại trong nhân dân.
5. Quan h gia qun chúng nhân n vi lãnh t
Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với nh tụ quan hệ biện chứng,
được biểu hiện: Thứ nhất, sự thống nhất giữa quần chúng nhân dân
lãnh tụ. Không phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, không
các quá trình kinh tế, chính trị, hội của đông đảo quần chúng nhân dân, thì
cũng không thể xuất hiện lãnh tụ. Những nhân kiệt xuất, ưu sản phẩm
của thời đại. Vì vậy h sẽ nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
phong trào quần chúng.
Thứ hai, quần chúng nhân dân lãnh tụ thống nhất trong mục đích lợi ích
của mình. Sự thống nhất về các mục tiêu ch mạng, hành động ch mạng
giữa quần chúng nhân dân lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích qui định. Lợi
ích biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau: lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị,
lợi ích văn hóa… quan hệ lợi ích cầu nối, nội lực để liên kết các nhân
cũng n quần chúng nhân dân thành một khối thống nhất về ý chí nh
động. Lợi ích đó cũng vận động, phát triển tuỳ thuộc vào thời đại, vào địa vị
lịch sử của giai cấp cầm quyền lãnh tụ m đại biểu, phụ thuộc vào khả
năng nhận thức vận dụng để giải quyết mối quan hệ giữa các nhân, giai
cấp tầng lớp hội. Như vậy, mức đ thống nhất về lợi ích sở qui
định sự thống nhất hành động giữa lãnh tụ quần chúng nhân dân trong lịch
sử.
Thứ ba, sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân nh tụ biểu hiện trong vai
trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử. Cùng đóng vai trò thúc đẩy lịch sử
phát triển, nhưng quần chúng nhân dân lực lượng quyết định sự phát triển,
còn lãnh tụ người định hướng dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển
của lịch sử.
Bởi vậy, quan hệ giữa quần chúng nhân dân nhân lãnh tụ quan hệ
biện chứng vừa sự thống nhất vừa sự khác biệt.Sự thống nhất biện
chứng sự khác biệt giữa lãnh tụ phong trào quần chúng thể hiện:
Phong trào quần chúng quyết định sức mạnh, đặc điểm của lãnh tụ. Bởi vì:
phong trào cách mạng của quần chúng đòi hỏi phải lãnh tụ để tổ chức lãnh
đạo phong trào đó u cầu khách quan, không yêu cầu đó không
lãnh tụ xuất hiện. Chính phong trào cách mạng của quần chúng đã đào luyện
lãnh tụ của mình. Lãnh t luôn gắn với phong trào quần chúng.
Ngược lại, khi lãnh tụ xuất hiện với tài năng, đức độ, uy tín lãnh t ảnh
hưởng to lớn đến hướng đi, qui mô, tốc độ sắc thái của phong trào cách
mạng, qua đó tác động đến sự phát triển của lịch sử. Đặc biệt, những thời
điểm cách mạng gặp khó khăn, khi thời cách mạng xuất hiện… Sự sáng
suốt, tài giỏi, quyết đoán của lãnh tụ giữ vai trò quyết định thắng lợi của cách
mạng.
Tuy nhiên, ng cần thấy rằng, vai trò của lãnh tụ to lớn đến đâu cũng
không quyết định toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử, vai trò đó thuộc về
quần chúng nhân dân. Lãnh tụ yếu kém, sai lầm đến đâu cũng chỉ kìm
hãm tiến trình phát triển của lịch sử, đến một mức độ nhất định sẽ bị lịch sử
đào thải.
Chủ nghĩa Mác Lênin đánh giá rất cao vai trò của nhân lãnh t trong sự
phát triển của lịch sử, nhưng kiên quyết chống lại tệ sùng bái nhân. Tệ
sùng bái nhân thần thánh hóa nhân người lãnh đạo đi đến chỗ ch
thấy vai trò quyết định tất cả của nhân lãnh đạo thấy hoặc xem nhẹ vai
trò lãnh đạo tập thể quần chúng nhân dân.
Tệ sùng bái nhân tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực như thái độ xu nịnh,
quan liêu, gia trưởng, hành động tham nhũng, cũng như mọi tệ nạn khác.
phá hoại nghiêm trọng mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân nhân
lãnh tụ, p hoại thành quả cách mạng của Đảng nhân dân ta.
Người mắc căn bệnh về sùng bái nhân thường đặt mình cao n tập thể,
đứng ngoài đường lối, chính sách pháp luật của Đảng nhà nước. Họ
không thực hiện đúng nguyên tắc sinh hoạt Đảng, gây chia rẽ, phái, mất
đoàn kết.
vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin luôn luôn coi sùng bái
nhân một hiện tượng hoàn toàn xa lạ với bản chất, mục đích, tưởng của
giai cấp công nhân. Những lãnh t đại của giai cấp công nhân như Mác,
Ăng ghen Lênin trong cả cuộc đời mình luôn khiêm tốn, chân thành, không
hề tách ra khỏi quần chúng nhân dân, mặc họ những lãnh tụ kiệt xuất
được quần chúng tin yêu, n kính.
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ đại của dân tộc đã suốt đời gắn với quần chúng
nhân dân, khơi dậy, đ cao tập hợp sức mạnh quần chúng làm nên những
thành tựu kỳ diệu của nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX.

Preview text:

Quần chúng nhân dân là gì? Vai trò của quần
chúng nhân dân theo quan điểm triết học Mác- Lênin?
Lịch sử vận động và phát triển của xã hội đã chứng minh rằng con người là
chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. Tuy nhiên, vấn đề cần làm rõ là vai trò
quyết định sự phát triển của xã hội là thuộc về ai? quần chúng nhân dân đông
đảo hay những cá nhân có những phẩm chất đặc biệt - vĩ nhân lãnh tụ.
Những vấn đề đó được triết học Mác Lênin giải quyết một cách khoa học.
1. Khái nim qun chúng nhân dân
Chính hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của
một cá nhân hay một tổ chức nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của mình
đã làm cho lịch sử vận động và phát triển qua các giai đoạn khác nhau.
Tuỳ vào điều kiện lịch sử xã hội, tuỳ thuộc vào nhiệm vụ đặt ra cho mỗi thời
đại mà quần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp khác nhau.
Như vậy, quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản,
bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại
thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái
nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi các đặc trưng sau:
Thứ nhất, những người lao động ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần,
đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân. Như vậy, quần
chúng nhân dân có số lượng đông đảo.
Thứ hai, quần chúng nhân dân - những bộ phận dân cư chống lại giai cấp
thống trị, áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.
Thứ ba, những giai cấp những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội
thông qua các hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Rõ ràng, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động, biến đổi
theo sự phát triển của lịch sử xã hội.
2. Vai trò ca qun chúng nhân dân
Các trường phái triết học trước Mác đều chưa nhận thức được vai trò của
quần chúng nhân dân: Họ phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò của quần chúng
nhân dân hoặc cho rằng lịch sử phát triển của xã hội loài người là do lực
lượng siêu nhiên quyết định: tôn giáo cho rằng mọi sự thay đổi trong lịch sử
là do ý chí của đấng tối cao, do mệnh trời tạo nên và trao quyền cho các cá
nhân thực hiện. Chủ nghĩa duy tâm trong triết học đề cao, tuyệt đối hoá vai
trò của các cá nhân lãnh tụ, còn quần chúng nhân dân chỉ là công cụ, là
phương tiện để sai khiến. Chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn chưa thoát khỏi
quan điểm duy tâm về xã hội khi cho rằng: nhân tố quyết định sự phát triển
của xã hội là tư tưởng, đạo đức của các vĩ nhân, và chỉ có họ mới sớm nhận
thức được chân lý vĩnh cửu, dẫn dắt quần chúng. Có nhà tư tưởng lại đề cao
vai trò của quần chúng nhân dân, phủ nhận vai trò của các vĩ nhân, hoặc
không lý giải một cách khoa học vai trò của quần chúng nhân dân.
Đối lập với quan điểm trên, triết học Mác Lênin khẳng định, quần chúng nhân
dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, giữ vai trò quyết định đối với
tiến trình lịch sử. Bởi vì: một lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người
chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng
nhân dân. Hơn nữa tư tưởng, tự bản thân nó không làm biến đổi xã hội mà
phải thông qua hành động cách mạng, hoạt động thực tiễn của quần chúng
nhân dân, để biến lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Vai trò sáng tạo chân chính ra lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân giữ vai trò quyết định trong sản xuất ra của
cải vật chất, đảm bảo cho xã hội tồn tại, phát triển.
Vì sản xuất vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người, mà quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản để tiến hành sản
xuất vật chất, làm cho lực lượng sản xuất phát triển.
Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà những
sản phẩm vật chất đó chỉ có thể được đáp ứng thông qua sản xuất. Lực
lượng sản xuất đông đảo là lao động trí óc và lao động chân tay: họ là người
sáng tạo, cải tạo và trực tiếp sử dụng công cụ sản xuất tác động vào đối
tượng lao động tạo ra của cải vật chất nuôi sống xã hội. Cách mạng khoa học
kỹ thuật hiện nay có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Song, vai trò của khoa học chỉ có thể được phát huy thông
qua thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là đội ngũ
công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội của thời đại kinh tế
trí thức. Bằng hoạt động thực tiễn của mình, quần chúng nhân dân trực tiếp
biến đường lối chính sách kinh tế thành hiện thực. Điều đó khẳng định rằng,
hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng
xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến
cách mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân.
Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng.
Nguyên nhân suy đến cùng của cuộc cách mạng xã hội là giải quyết mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt
động sản xuất vật chất của nhân dân. Trong các cuộc cách mạng làm chuyển
biến xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác,
nhân dân lao động là lực lượng đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần
chúng là sự nghiệp của quần chúng. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể
của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của
mọi cuộc cách mạng xã hội. Thực tế đã chỉ rõ không có cuộc cách mạng xã
hội nào mà chỉ có cá nhân lãnh tụ, không có quần chúng nhân dân.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh
thần. Vì quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra đời sống vật chất thì cũng
quyết định đời sống tinh thần của xã hội. Triết học Mác không phủ nhận vai
trò của các danh nhân văn hóa, nhưng khẳng định vai trò quyết định của
quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự
phát triển của khoa học nghệ thuật, văn học đồng thời áp dụng những thành
tựu đó vào thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y
học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức…của nhân dân vừa là cội nguồn,
vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển của nền văn hóa tinh thần của các
dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực
tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã
hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa chỉ có thể được trường tôn khi được đông
đảo quần chúng nhân dân chấp nhận, truyền bá sâu rộng và gìn giữ để trở
thành giá trị phổ biến.
Tóm lại, từ hoạt động sản xuất vật chất đến hoạt động tinh thần, từ lĩnh vực
kinh tế đến chính trị, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong
lịch sử. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần
chúng nhân dân cũng biểu hiện khác nhau.
Lịch sử tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò sức
mạnh của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi đã khẳng định: “Chở thuyền cũng là dân, lật
thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết”. Đảng
cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng: cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, quan điểm “lấy dân làm gốc” trở thành tư tưởng thường trực trong mọi
hoạt động sáng tạo của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
3. Khái nim lãnh t
Trong sự phát triển của lịch sử, khi phong trào cách mạng của quần chúng
nhân dân hình thành và phát triển dẫn tới sự xuất hiện của lãnh tụ. Đó là
những cá nhân kiệt xuất.
Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất, trưởng thành từ phong trào của quần
chúng, nắm bắt được những vấn đề căn bản nhất trong một lĩnh vực nhất
định của hoạt động thực tiễn và lý luận. Đó là những cá nhân kiệt xuất trong
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật.
Như vậy, để trở thành lãnh tụ phải là người có phẩm chất cơ bản sau:
Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân
tộc, quốc tế và thời đại.
Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành
động của quần chúng nhân dân vào nhiệm vụ dân tộc, quốc tế và thời đại.
Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh vì lợi ích của dân
tộc, quốc tế thời đại. Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, dân tộc khác nhau,
thời kỳ khác nhau khi lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết thì tất yếu
sẽ xuất hiện những lãnh tụ từ phong trào quần chúng nhân dân, đáp ứng với
yêu cầu của lịch sử. Lênin viết “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào
giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của
mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào”.
Lãnh tụ xuất hiện là tất yếu vì: xã hội loài người vận động phát triển theo các
qui luật khách quan vốn có của nó. Hoạt động của con người chỉ thực sự có
tác dụng thúc đẩy sự phát triển của xã hội khi họ nắm được và hành động
theo qui luật khách quan đó. Nhưng trình độ nhận thức của con người hoàn
toàn khác nhau. Không phải bất cứ ai cũng nắm được qui luật vận động của
lịch sử. Trong quá trình phát triển lâu dài của phong trào quần chúng, khi lịch
sử đòi hỏi, sẽ xuất hiện những cá nhân đáp ứng được yêu cầu đó. Lãnh tụ xã hội là tất yếu.
4. Vai trò ca lãnh t
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân ở mỗi giai đoạn cách mạng xã
hội, lãnh tụ có nhiệm vụ chủ yếu sau:
Trước hết, nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu
biết những qui luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Trên cơ sở đó mà định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hoạt
động cách mạng. Từ đó tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng,
thống nhất ý chí hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết
những mục tiêu cách mạng để ra. Từ nhiệm vụ của lãnh tụ, thấy rõ vai trò của
lãnh tụ đối với phong trào quần chúng như sau:
Một là, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ xã hội: nắm bắt được qui luật vận
động khách quan của lịch sử thì lãnh tụ sẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội
thông qua lãnh đạo phong trào quần chúng; ngược lại, nếu không nắm bắt
được những qui luật của lịch sử xã hội thì lãnh tụ sẽ kìm hãm sự phát triển
của xã hội, thậm chí có thể dẫn lịch sử trải qua những bước quanh co, phức tạp.
Hai là, lãnh tụ với vai trò của mình sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là
linh hồn của tổ chức đó. Vì vậy, lãnh tụ là người tổ chức điều khiển và quản lý
các tổ chức chính trị, xã hội, có vai trò và ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại, phát
triển và hoạt động của các tổ chức ấy.
Ba là, lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra
của thời đại đó. Không có lãnh tụ cho mọi thời đại, chỉ có lãnh tụ gắn với một
thời đại nhất định. Sau khi hoàn thành vai trò của mình, lãnh tụ trở thành biểu
tượng tinh thần mãi mãi tồn tại trong nhân dân.
5. Quan hgia qun chúng nhân dân vi lãnh t
Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ là quan hệ biện chứng, nó
được biểu hiện: Thứ nhất, là sự thống nhất giữa quần chúng nhân dân và
lãnh tụ. Không có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, không có
các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân, thì
cũng không thể xuất hiện lãnh tụ. Những cá nhân kiệt xuất, ưu tú là sản phẩm
của thời đại. Vì vậy họ sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần chúng.
Thứ hai, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích
của mình. Sự thống nhất về các mục tiêu cách mạng, hành động cách mạng
giữa quần chúng nhân dân là lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích qui định. Lợi
ích biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau: lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị,
lợi ích văn hóa… quan hệ lợi ích là cầu nối, là nội lực để liên kết các cá nhân
cũng như quần chúng nhân dân thành một khối thống nhất về ý chí và hành
động. Lợi ích đó cũng vận động, phát triển tuỳ thuộc vào thời đại, vào địa vị
lịch sử của giai cấp cầm quyền mà lãnh tụ làm đại biểu, phụ thuộc vào khả
năng nhận thức và vận dụng để giải quyết mối quan hệ giữa các cá nhân, giai
cấp và tầng lớp xã hội. Như vậy, mức độ thống nhất về lợi ích là cơ sở qui
định sự thống nhất hành động giữa lãnh tụ và quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Thứ ba, sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong vai
trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử. Cùng đóng vai trò thúc đẩy lịch sử
phát triển, nhưng quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển,
còn lãnh tụ là người định hướng dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Bởi vậy, quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ là quan hệ
biện chứng vừa có sự thống nhất vừa có sự khác biệt.Sự thống nhất biện
chứng và sự khác biệt giữa lãnh tụ và phong trào quần chúng thể hiện:
Phong trào quần chúng quyết định sức mạnh, đặc điểm của lãnh tụ. Bởi vì:
phong trào cách mạng của quần chúng đòi hỏi phải có lãnh tụ để tổ chức lãnh
đạo phong trào đó là yêu cầu khách quan, không có yêu cầu đó không có
lãnh tụ xuất hiện. Chính phong trào cách mạng của quần chúng đã đào luyện
lãnh tụ của mình. Lãnh tụ luôn gắn với phong trào quần chúng.
Ngược lại, khi lãnh tụ xuất hiện với tài năng, đức độ, uy tín lãnh tụ có ảnh
hưởng to lớn đến hướng đi, qui mô, tốc độ và sắc thái của phong trào cách
mạng, qua đó tác động đến sự phát triển của lịch sử. Đặc biệt, những thời
điểm cách mạng gặp khó khăn, khi thời cơ cách mạng xuất hiện… Sự sáng
suốt, tài giỏi, quyết đoán của lãnh tụ giữ vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, vai trò của lãnh tụ có to lớn đến đâu cũng
không quyết định toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử, vai trò đó thuộc về
quần chúng nhân dân. Lãnh tụ có yếu kém, sai lầm đến đâu cũng chỉ kìm
hãm tiến trình phát triển của lịch sử, đến một mức độ nhất định sẽ bị lịch sử đào thải.
Chủ nghĩa Mác Lênin đánh giá rất cao vai trò của cá nhân lãnh tụ trong sự
phát triển của lịch sử, nhưng kiên quyết chống lại tệ sùng bái cá nhân. Tệ
sùng bái cá nhân là thần thánh hóa cá nhân người lãnh đạo đi đến chỗ chỉ
thấy vai trò quyết định tất cả của cá nhân lãnh đạo mà thấy hoặc xem nhẹ vai
trò lãnh đạo tập thể và quần chúng nhân dân.
Tệ sùng bái cá nhân tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực như thái độ xu nịnh,
quan liêu, gia trưởng, hành động tham nhũng, cũng như mọi tệ nạn khác. Nó
phá hoại nghiêm trọng mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân
lãnh tụ, phá hoại thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Người mắc căn bệnh về sùng bái cá nhân thường đặt mình cao hơn tập thể,
đứng ngoài đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước. Họ
không thực hiện đúng nguyên tắc sinh hoạt Đảng, gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết.
Vì vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin luôn luôn coi sùng bái cá
nhân là một hiện tượng hoàn toàn xa lạ với bản chất, mục đích, lý tưởng của
giai cấp công nhân. Những lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân như Mác,
Ăng ghen và Lênin trong cả cuộc đời mình luôn khiêm tốn, chân thành, không
hề tách ra khỏi quần chúng nhân dân, mặc dù họ là những lãnh tụ kiệt xuất
được quần chúng tin yêu, tôn kính.
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đã suốt đời gắn bó với quần chúng
nhân dân, khơi dậy, đề cao và tập hợp sức mạnh quần chúng làm nên những
thành tựu kỳ diệu của nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX.
Document Outline

  • Quần chúng nhân dân là gì? Vai trò của quần chúng
    • 1. Khái niệm quần chúng nhân dân
    • 2. Vai trò của quần chúng nhân dân
    • 3. Khái niệm lãnh tụ
    • 4. Vai trò của lãnh tụ
    • 5. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ