













Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ
biện chứng giữa bản chất và hiện tượng và ý nghĩa của
việc nghiên cứu quan điểm đó trong nghiên cứu,
học tập của sinh viên.” Họ và tên : Phạm Văn Hoàng Mã số sinh viên : 11212374 Lớp học phần
: Triết học Mác – Lênin(121)_09
Giáo viên hướng dẫn : T.S Lê Thị Hồng
Bắc Ninh, Ngày 20 Tháng 12 Năm 2021 I. MỞ ĐẦU
Khái quát về phép biện chứng duy vật, Ph. Ăngghen định nghĩa: “Phép biện
chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.”
Trong triết học, có rất nhiều quan điểm khác nhau về quá trình chuyển hóa,
vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng, với hai hình thức chủ yếu là
phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy tâm. Trong đó, phép biện
chứng duy vật do Mác và Ăng ghen sáng lập đã có các quan điểm tương đối
hoàn thiện và được kế thừa đến ngày nay. Khi nhắc đến phép biện chứng này,
không thể không nhắc đến các phạm trù cơ bản, trong đó điển hình là cặp
phạm trù bản chất và hiện tượng.
Thực tế chúng ta thấy, khi quan sát những sự vật và quá trình diễn ra trong tự
nhiên và xã hội sẽ xó những mặt bên ngoài mà giác quan có thể nhận thức
được nhưng cũng có những mặt, những mối liên hệ ở bên trong bị che khuất,
chỉ dùng tư duy trừu tượng mới có thể hiểu được. Mặt bên ngoài đó gọi là
hiện tượng, còn mặt bên trong gọi là bản chất. Trong cuộc sống, sự vật và quá
trình nào cũng có cả hai mặt ấy, chúng luôn luôn vận động và phát triển cùng
nhau. Vì vậy, khi xem xét sự vật và quá trình trong tự nhiên và xã hội, ta cần
phân biệt rõ đâu là bản chất và đâu là hiện tượng.
Việc có thể hiểu được phạm trù bản chất và hiện tượng cũng như ứng dụng nó
sẽ góp phần nâng cao năng suất cũng như hiệu quả trong quá trình nghiên cứu
và học tập của sinh viên. Có được góc nhìn khách quan, toàn diện khi nhìn
nhận vấn đề, từ đó có thể phân tích được các khía cạnh và đưa ra kết luận
chính xác nhất. Hay từ hiện tượng bên ngoài, bằng cách chắt lọc thông tin sau
đó tổng hợp lại có thể tìm ra bản chất sâu xa bên trong của sự vật. Qua đó ta
có thể thấy được ý nghĩa quan trọng của việc vận dụng tri thức của cặp phạm trù này vào đời sống.
Để chứng minh cho luận điểm trên, ta hay cùng đi vào tìm hiểu và phân tích
về quan điểm biện chứng duy vật, mối quan hệ giữa hai cặp phạm trù bản chất
– hiện tường và ý nghĩa của việc nghiên cứu, áp dụng quan điểm đó trong
việc nghiên cứu và học tập của sinh viên hiện nay. pg. 1 II. NỘI DUNG
A. Quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện
chứng giữa bản chất và hiện tượng. 1. Khái niệm.
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ
tất nhiên tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự
vận động và phát triển của sự vật đó. Còn hiện tượng là sự
biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ ấy ra bên ngoài.
Có thể nói bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối
ổn định của hiện thực khách quan. Nó ẩn dấu đằng sau cái vẻ
bề ngoài của hiện tượng và biểu lộ ra ngoài những hiện tượng
ấy. Còn hiện tượng là mặt bên ngoài, mặt di động và biến đổi
hơn của hiện thực khách quan.
Một ví dụ cho cặp phạm trù này là những nguyên tử, bản
thân những hạt nhân, hạt electron bên trong nó là bản chất,
qua đó tùy vào số lượng của các hạt cũng như là bản chất của
nguyên tử mà nguyên tử ấy sẽ có những phản ứng đặc trưng
với những nguyên tử khác, được coi là hiện tượng.
2. Quan hệ giữa bản chất với “cái chung” với tính quy luật.
Phạm trù bản chất và phạm trù cái chung có mối liên hệ hết
sức chặt chẽ với nhau. Cái tạo nên bản chất của một lớp sự
vật nhất định cũng đồng thời là cái chung của các sự vật đó.
Tuy nhiên, không phải cái chung nào cũng là cái bản chất vì
bản chất chỉ là cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và
phát triển của sự vật.
Bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội.
Điều đó đúng với tất cả mọi con người không trừ một ai. Như
vậy, cái bản chất ở đây cũng đồng thời là “cái chung”. Nhưng
không thể nói rằng các đặc điểm như tay, chân, mắt, mũi,
miệng là bản chất của con người. Dù mọi con người đều có pg. 2
các đặc điểm bao quát như vậy, tuy nhiên các thuộc tính
chung đó không được tính là bản chất của con người.
Bên cạnh đó, Lênin còn nói: “Quy luật và bản chất là những
khái niệm cùng một loại (cùng một bậc) hay nói đúng hơn là
cùng một trình độ”. Cái bản chất cũng đồng thời là cái có tính
quy luật. Nói đến bản chất của sự vật là nói đến những quy
luật quyết định sự vận động và phát triển của nó. Vì vậy, bản
chất là phạm trù cùng bậc với phạm trù quy luật.
Tuy nhiên chúng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Quy
luật là mối liên hệ tất nhiên, phổ biến, lặp đi lặp lại và ổn định
giữa các hiện tượng hay giữa các mặt của chúng. Còn bản
chất ngoài những mối quan hệ tất nhiên, phổ biến, chung cho
nhiều hiện tượng, nó còn bao gồm cả những mối quan hệ
không phổ biến, cá biệt nữa. Vì vậy, phạm trù bản chất rộng
hơn và phong phú hơn phạm trù quy luật, mỗi quy luật chỉ có
thể biể hiện được một khía cạnh của bản chất, còn bản chất
được biểu hiện bằng quy luật.
Ví dụ: Bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột giai cấp công
nhân và người lao động bằng những quy luật: Quy luật giá trị
thặng dư, quy luật lợi nhuận,… Nhưng ta không thể nói quy
luật thặng dư là bản chất của giai cấp tư sản, vì nó chỉ phản
ánh được một mặt của giai cấp bóc lột này
3. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng.
a) a. Sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả bản chất và hiện
tượng đều tồn tại khách quan. Bởi vì:
Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố
nhất định. Các yếu tố ấy tham gia vào những mối quan
hệ qua lại đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có
những mối quan hệ tất nhiên, tương đối ổn định.
Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật. pg. 3
Sự vật tồn tại khách quan và những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định này lại ở bên trong sự vật,
nên đương nhiên chúng cũng tồn tại khách quan, do
đó bản chất của sự vật cũng tồn tại khách quan.
Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện bản chất ra bên ngoài,
cũng là cái khách quan không phải do cảm giác chủ
quan của con người quyết định.
b) b. Sự thống nhất của bản chất và hiện tượng.
o Bản chất và hiện tượng liên hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ
với nhau. Sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
o Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ bản chất được
bộc lộ thông qua hiện tượng, còn hiện tượng sẽ được
biểu hiện tùy thuộc vào bản chất. Không có bản chất nào
tồn tại một cách thuần túy mà không cần có hiện tượng.
Ngược lại, cũng không có hiện tượng nào lại không phải
là sự biểu hiện của một bản chất nhất định. Lênin viết :
“Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính chất bản chất”
o Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện
ở chỗ: bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ qua những
hiện tượng tương ứng, và bất kỳ hiện tượng nào cũng là
sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó (hoặc nhiều hoặc ít).
Tóm lại: bản chất và hiện tượng về căn bản phù hợp với
nhau. Lấy ví dụ trong một xã hội có giai cấp, bất kỳ Nhà nước
nào cũng là một bộ máy trấn áp của giai cấp này đối với giai
cấp khác. Bản chất ấy thể hiện ở chỗ bất kỳ Nhà nước nào
cũng có quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù,... Tất cả bộ máy
này đều nhằm mục đích trấn áp sự phản kháng của giai cấp
khác để bảo vệ quyền lợi kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị. pg. 4
Như vậy, bản chất bao giờ cũng tự bộc lộ ra thông qua
những hiện tượng nhất định. Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra
thành những loại hiện tượng khác nhau. Bản chất nào thì có
hiện tượng đó. Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện
nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng
biểu hiện nó cũng biến mất. Bản chất mới ra đời thì hiện
tượng mới cũng ra đời.
c) c. Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa
bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng tuy thống nhất với nhau, nhưng đó
là sự thống nhất biện chứng, nghĩa là trong sự thống nhất ấy
cũng bao hàm cả những sự khác biệt. Nói cách khác, tuy bản
chất và hiện tượng thống nhất với nhau, về căn bản phù hợp
với nhau nhưng chúng không bao giờ phù hợp hoàn toàn. Bởi
vì hiện tượng không hoàn toàn tương đồng với bản chất. Sự
không hoàn toàn trùng khớp đó khiến cho sự thống nhất giữa
bản chất và hiện tượng là một sự thống nhất mang tính mâu
thuẫn.Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và
hiện tượng được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất: bản chất đặc trưng cho cái chung tất yếu quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của sự vật, còn hiện tượng
phản ánh cái cá biệt. Hiện tượng không những bị quy định bởi
bản chất mà còn bởi sự tương tác với các sự vật khác. Vì vậy,
cùng một bản chất có thể được biểu hiện ở nhiều hiện tượng
khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể. Chính vì thế, hiện
tượng phong phú hơn bản chất; ngược lại, bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.
Thứ hai:Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện
tượng khách quan, còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện
thực khách quan ấy.Về cơ bản, hiện tượng phù hợp với bản
chất, nhưng không bao giờ phù hợp hoàn toàn. Chúng biểu
hiện bản chất không dưới dạng y nguyên như bản chất vốn có
mà dưới hình thức cải biến, nhiều khi xuyên tạc nội dung thực pg. 5
sự của bản chất. Do đó, cần phải phân biệt giữa hiện tượng,
giả tượng và ảo tượng
Hàng bao thế kỷ người ta vẫn tin rằng trái đất đứng yên còn
mặt trời quay xung quanh trái đất, và vì vậy mà có ngày và
đêm, nhưng sự thực lại hoàn toàn ngược lại: chính là trái đất
quay xung quanh mặt trời. Việc chúng ta cảm nhận được trái
đất là trung tâm của vũ trụ chỉ là giả tượng mà chúng ta
tưởng lầm nó với hiện tượng. Về bản chất, nó giả tượng ấy
cũng giúp chúng ta hiểu được phần nào bản chất, nhưng lại
có phần xuyên tạc quy luật vốn có của vũ trụ.
Hay nhúng một nửa cái thước vào chậu nước, nhìn vào ta
thấy cái thước gấp khúc, trong khi đó sự thực thước vẫn
thẳng. Ta biết rằng đó là ảo ảnh và không phản ánh đúng bản
chất, khi ấy, ta gọi nó là ảo tượng. Một điều ta biết chắc rằng
nó chỉ phản ánh phần nào bản chất là sự khúc xạ, khác với giả
tượng, ta có thể dễ dàng nắm bắt được mâu thuẫn tồn tại bên
trong mối quan hệ của bản chất và hiện tượng.
Mác nhận xét: “Nếu hình thái biểu hiện bản chất của sự vật
trực tiếp đồng nhất với nhau, thì mọi khoa học sẽ trở nên
thừa”. Vì vậy, khi xem xét sự vật, ta không thể dừng lại ở biểu
hiện bề ngoài mà phải đi sâu vào tìm hiểu bản chất của nó.
Nhưng quá trình tìm hiểu bản chất của sự vật là một quá
trình rất phức tạp, lâu dài. Đó là quá trình con người đi từ hiện
tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc hơn đến bản chất
sâu sắc hơn và cứ thế tiếp tục mãi. Khi nhấn mạnh tính chất
vô tận của quá trình này, V.I. Lênin viết “Tư tưởng của người
ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất , từ
bản chất cấp một, có thể nói như vậy, đến bản chất cấp hai... cứ như thế mãi”.
Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm còn hiện tượng
không ổn định, nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so
với bản chất. Có tình hình đó là do nội dung của hiện tượng
được quyết định không chỉ bởi bản chất của sự vật mà còn bởi
những điều kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi tác động qua lại pg. 6
của nó với sự vật xung quanh. Các điều kiện tồn tại bên ngoài
này cũng như sự tác động qua lại của sự vật này đối sự vật
khác xung quanh lại thường xuyên biến đổi. Vì vậy, hiện
tượng cũng thường xuyên biến đổi trong khi đó bản chất vẫn
giữ nguyên. V.I. Lênin viết “cái không bản chất, cái bề ngoài,
cái trên mặt, thường biến mất, không bám chắc, không ngồi
vững bằng “bản chất”. Sự vận động của một con sông- bọt ở
bên trên và luồng nước ở dưới sâu. Nhưng bọt cũng là biểu hiện của bản chất!”.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là từ lúc ra đời cho đến
khi mất đi, bản chất vẫn giữ nguyên như cũ. Bản chất cũng
thay đổi. Chỉ có điều là bản chất biến đổi chậm hơn hiện
tượng. Trong toàn bộ sự thay đổi, phát triển của sự vật, các
hiện tượng luôn luôn biến đổi, còn bản chất về căn bản vẫn
giữ nguyên như cũ. Nó có thay đổi, nhưng thay đổi ít hơn,
chậm hơn so với hiện tượng.
4. Một số kết luận về mặt phương pháp luận
Vì bản chất là cái tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong
sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật, còn
hiện tượng là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài, là cái
không ổn định và biến đổi nhanh hơn so với bản chất, nên
trong nhận thức, để hiểu đầy đủ và đúng đắn về sự vật, không
nên dừng lại ở hiện tượng mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất
của nó. Còn trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào bản chất
chứ không phải dựa vào hiện tượng.
Nếu trong hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực
tiễn cần nắm được bản chất và dựa vào bản chất của sự vật,
thì nhiệm vụ của nhận thức nói chung và của nhận thức khoa
học nói riêng là phải vạch ra được cái bản chất đó.
Vì bản chất tồn tại khách quan ngay ở trong bản thân sự vật
nên chỉ có thể tìm ra bản chất của sự vật ở trong chính sự vật
chứ không thể ở ngoài nó, và khi kết luận về bản chất của sự
vật cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện. pg. 7
Vì bản chất không tồn tại dưới dạng thuần tuý mà bao giờ
cũng bộc lộ ra ngoài thông qua các hiện tượng tương ứng của
mình nên chỉ có thể tìm ra cái bản chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng.
Nhưng vì hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới
dạng đã cải biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất, nên trong quá
trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều
hiện tượng khác nhau, và từ nhiều góc độ khác nhau. Nhưng
trong cùng một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định
không bao giờ có thể xem xét hết được mọi hiện tượng biểu
hiện bản chất của sự vật. Do vậy, phải ưu tiên cho việc xem
xét trước hết các hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển
hình. Dĩ nhiên, kết quả của một sự xem xét như vậy chưa thể
phản ánh đầy đủ bản chất của sự vật, mà chỉ mới phản ánh
một cấp độ nhất định của nó. Quá trình đi vào nắm bắt các
cấp độ tiếp theo, ngày càng sâu sắc hơn trong bản chất của
sự vật là một quá trình hết sức khó khăn, lâu dài, công phu, không có điểm dừng.
B. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong
nghiên cứu, học tập của sinh viên.
1. Những thành tựu mà sinh viên đạt được.
Trong đời sống xã hội hiện nay, các thế hệ học sinh, sinh
viên đang ngày càng phát triển về mặt nhận thức lẫn tư duy.
Họ là những người năng động, sáng tạo bậc nhất trong xã hội,
đây là nguồn nhân lực chính, cần phải phát huy tối đa tiềm
năng để phục vụ cho quá trình đổi mới, xây dựng đất nước.
Khi nói đến các sinh viên, ta liền nghĩ ngay tới một lớp người
thanh niên với phẩm chất cao đẹp, tinh thần nhiệt huyết luôn
hết mình vì xã hội. Ta có thể dễ dàng nhìn thấy trên các mặt
báo, tivi, các giải thưởng danh giá, cao quý lần lượt được
chinh phục với các con người trẻ trung, tài năng: Hoa hậu Đỗ
Thị Hà - đăng quang hoa hậu Việt Nam 2020 và trở thành đại
diện của Việt Nam tại đấu trường nhan sắc lớn nhất hành tinh
Hoa hậu Thế giới 2021, Nguyễn Quốc Huy – vô địch cuộc thi pg. 8
Tin học văn phòng thế giới MOS 2021, hàng loạt các giải
thưởng khoa học cấp quốc gia, quốc tế đều lần lượt gọi tên
các cá nhân sinh viên Việt Nam. Không chỉ vậy, các thế hệ
sinh viên còn thể hiện sự năng động qua các hoạt động thiện
nguyện, đóng góp cho xã hội, ví dụ như: Các hoạt động hiến
máu tình nguyện, phong trào bảo vệ môi trường, hay các cuộc
thi sinh viên khuyến khích tinh thần học tập, đơn cử như Hành
trình kinh doanh, cuộc thi case study lớn nhất khu vực miền
Bắc được tổ chức bởi các sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Nhưng không thể không nhắc đến những người đang nỗ lực
ngoài kia, dù không mang lại thành tích quá cao, nhưng họ
vẫn là những cá nhân mang trong mình phẩm chất đạo đức
cao cả. Có những sinh viên đã nhận thức được trách nhiệm,
vai trò của mình trong xã hội, “Lao động là vinh quang”, họ
vừa học vừa làm, vừa trau dồi kiến thức vừa bồi đắp thặng dư
cho xã hội. Khi ra trường, sự tự lập của sinh viên được đề cao
hơn hết, các sinh viên phải tự tìm kiếm việc làm, thể hiện bản
thân trước các nhà tuyển dụng. Đó chính là những khía cạnh
được xã hội phát huy và tận dụng.
Hiện tượng bao hàm bản chất, hiện tượng không thoát ly
khỏi bản chất và do đó tất cả những hiện tượng trên đã phản
ánh bản chất tốt đẹp của sinh viên hiện nay là sự kết hợp giữa
những phẩm chất truyền thống và những đức tính hiện đại.
2. Những khía cạnh tiêu cực còn tồn tại.
Tuy rằng thế hệ sinh viên luôn gắn liền với hình ảnh tốt đẹp, nhưng bản
chất thì luôn bao hàm những khía cạnh chứa đựng sự mâu thuẫn. Hiện tượng
phản ánh bản chất, có không ít những hiện tượng lại phản ảnh kía cạnh tiêu
cực của thanh niên sinh viên.
Nạn quay cóp có thế được coi là một vấn đề nhức nhối còn tồn tại trong thế
hệ sinh viên hiện nay. Đây không chỉ là một vấn đề phản ánh sự sai lệch trong
lối nghiên cứu, học tập của sinh viên, đây còn là việc áp dụng phạm trù bản
chất, hiện tượng một cách sai lệch. Mọi người luôn có tâm lý quay cóp để có
thể có điểm số cao trong học tập, làm đẹp hơn hồ sơ xin việc của mình. Hiện pg. 9
tượng mà mọi người thấy ở đây có thể là bạn ấy học rất giỏi, điểm số vô cùng
cao, tuy nhiên thực tế khi áp dụng lại không được như vậy. Các nhà tuyển
dụng nhận thức được điểm số chỉ là giả tượng, phản ảnh sai lệch bản chất của
cá nhân ấy, họ tập trung khai thác những vấn đề khác như khả năng tư duy,
đối đáp, phong cách làm việc, thứ mà điểm số không thể phản ánh, hay việc
quay cóp cũng không làm cho khía cạnh này phát triển hơn.
Một vấn nạn khác cũng đánh vào nhận thức sai lầm của sinh viên, những kẻ
lợi dụng niềm tin của mọi người để chuộc lợi cho bản thân, ở đây chính là
những kẻ kinh doanh đa cấp trá hình, những kẻ dụ dỗ chúng ta vào việc đầu
tư tiền ảo. Chúng đều là những con đường làm giàu mang nhiều hứa hẹn
nhưng hầu hết đều không thể thành thực. Bởi bản chất của những mô hình đó
đều không đáng tin cậy, rủi ro cao, thay vào đó, người được lợi ở đây chính là
người đang lợi dụng bạn. Người ta sử dụng những hiện tượng không phản ánh
đúng bản chất, như những người tham gia đều trở nên thành công, thu được
thu nhập cao. Hàng loạt các đòn tấn công nhắm vào các thế hệ sinh viên,
những người nhẹ dạ cả tin nhưng lại có nguồn tài chính dồi dào. Do đó, để có
thể vượt qua những cám dỗ, ta cần phải biết phân tích bản chất của sự vật,
biết được khía cạnh mà hiện tượng phản ánh, từ đó đưa ra quyết định khách quan và chính xác nhất.
Khi ta nhận thấy hiện tượng, ta không thể lập tức đưa ra kết luận về bản
chất của sự vật đó. Trong mọi sự vật luôn tồn tại những mặt mâu thuẫn, hiện
tượng và bản chất cũng vậy, khi nhìn thấy những mảng hồng của một lời nói,
ta cần phải tìm ra bản chất sâu xa của chúng, để xác định được những mảng
tối, cân nhắc liệu có nên tin vào chúng hay không. Khi được tiếp cận với 1
chủ đề hay sự vật cho trước, để giải đáp được yêu cầu của đề bài cần chúng ta
từ bản chất của đề mà xây dựng, nêu nên những khía cạnh đặc trưng, những
hiện tượng biểu hiện cho chính sự vật đó. Hay khi tìm hiểu về 1 sự vật từ
những thông tin cho trước, ta ngầm hiểu đó chính là những hiện tượng, biết
được chúng phản ánh khía cạnh của bản chất, từ đó suy luận và tìm ra câu trả
lời cuối cùng. Việc vận dụng linh hoạt cặp phạm trù này sẽ giúp ích được cho
quá trình nghiên cứu cũng như học tập của sinh viên trên nhiều khía cạnh. Khi
nắm bắt được, sinh viên sẽ có được một góc nhìn, khả năng suy luận khoa học
và thực tế, có khả năng phân tích và giải đáp các vấn đề, không chỉ giúp ích
cho quá trình học tập mà còn trong các vấn đề mang tính xã hội. pg. 10 III. KẾT THÚC
Như vậy, ta có thể tóm lược lại mối quan hệ biện chứng giữa
bản chất và hiện tượng một cách ngắn gọn và súc tích như
sau: Mỗi một sự vật trong thế giới khách quan đều chứa đựng
sự thống nhất của hai phạm trù bản chất và hiện tượng, bản
chất là thứ sâu sắc, được thể hiện thông qua hiện tượng, hiện
tượng lại là sự phản ánh của bản chất, tuy không phải toàn bộ
nhưng sẽ nói lên một mặt, một khía cạnh của bản chất sự vật.
Hai phạm trù này vừa gắn bó chặt chẽ lại vừa mâu thuẫn đối
lập lẫn nhau, đòi hỏi con người phải có cái nhìn khách quan,
chính xác mỗi phi phân tích, lập luận.
Việc áp dụng triết học sẽ nâng cao năng suất cũng như hiệu
quả vào quá trình nghiên cứu cũng như học tập của sinh viên.
Để có thể phát huy tiềm năng của thế hệ học sinh, sinh viên,
ta cần nâng cao khả năng trong hoạt động nhận thức. Để hiểu
đầy đủ về sự vật, ta không nên dừng lại ở hiện tượng mà phải
đi sâu tìm hiểu bản chất của nó. Phân tích triệt để từ cách tư
duy, suy nghĩ, loại bỏ những nhược điểm, sau đó phát huy
những thế mạnh để phục vụ cho quá trình học tập. pg. 11 CÁC DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác-Lenin, NXB Giáo dục và Đào tạo.
2. Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin (Dành
cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác- Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh). NXB Chính trị quốc gia sự thật.
3. Bản chất và hiện tượng (Chủ nghĩa Marx-Lenin), WikiPedia. 4.
Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, Luật Hoàng Phi,
https://luathoangphi.vn/cap-pham-tru-ban-chat-va-hien-tuong/ 5.
Vận dụng cặp phạm trù bản chất và hiện tượng để phân tích lối sống
của thanh niên, học sinh sinh viên hiện nay ở Việt Nam, Kho tri thức
số, https://khotrithucso.com/doc/p/van-dung-cap-pham-tru-ban-chat-va- hien-tuong-de-phan-tich-56975 6.
Cặp phạm trù bản chất - hiện tượng, Giangvien.net,
https://giangvien.net/shops/Tai-lieu-Mon-Ly-luan-chinh-tri/Van-dung-
cap-pham-tru-ban-chat-hien-tuong-phan-tich-loi-song-cua-Sinh-vien- Viet-Nam-hien-nay-337.html 7.
Dùng cặp phạm trù bản chất - hiện tượng phân tích lối sống của sinh
viên Việt Nam hiện nay, Tailieu.vn, https://tailieu.vn/doc/tieu-luan-
dung-cap-pham-tru-ban-chat-hien-tuong-phan-tich-loi-song-cua-sinh-
vien-viet-nam-hien-na-1692703.html pg. 12 MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU....................................................................................................2
II. NỘI DUNG.................................................................................................3
A. Quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng giữa bản
chất và hiện tượng..........................................................................................3
1. Khái niệm..............................................................................................3
2. Quan hệ giữa bản chất với “cái chung” với tính quy luật.....................3
3. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng..........................4
4. Một số kết luận về mặt phương pháp luận............................................7
B. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập
của sinh viên...................................................................................................7
1. Những thành tựu mà sinh viên đạt được...............................................7
2. Những khía cạnh tiêu cực còn tồn tại...................................................8 III.
KẾT THÚC............................................................................................10 pg. 13