












Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---------------------------------------- BÀI TẬP LỚN
MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI : Quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng giữa
nội dung và hình thức ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong
nghiên cứu, học tập của sinh viên.
Sinh viên thực hiện : Ngô Thị Minh Nguyệt MSV : 11202929 – STT : 25
Lớp : Triết học Mác-Leenin (220)_21
Giảng viên hướng dẫn : TS. Lê Thị Hồng
Hà Nội, tháng 6 năm 2021. 1 MỤC LỤC
I. NGUYÊN LÝ TRIẾT HỌC..........................................................................1
1. Khái niệm về nội dung và hình thức.............................................................1
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức...................................2
2.1. Sự thống nhất, gắn bó chặt chẽ giữa nội dung và hình thức..................2
2.2. Vai trò quyết định của nội dung đối với hình thức trong quá trình vận
động và phát triển của sự vật...........................................................................3
2.3. Sự tác động tích cực ngược trở lại của hình thức với nội dung.............4
3. Một số kết luận về phương pháp luận...........................................................5 II.
VẬN DỤNG.................................................................................................5
1. Mục tiêu học tập của sinh viên.....................................................................5
2. Tình hình , thực trạng học tập của sinh viên.................................................6
3. Áp dụng quy luật mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức vào
việc giải quyết các vấn đề trong quá trình nghiên cứu và học tập của sinh viên7
3.1. Không tách rời nội dung với hình thức..................................................7
3.2. Căn cứ trước hết vào nội dung để đoán xét sự việc...............................7
3.3. Theo sát mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.................................8
3.4. Sáng tạo lựa chọn các hình thức của sự việc..........................................8 2 LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, không một ai có thể nghi ngờ về vai trò của việc
học tập trong đời sống xã hội cũng như trong quá trình phát triển của toàn nhân
loại. Đối với thế hệ học sinh - sinh viên, học tập chính là một công cụ không thể
thiếu để có thể phát triển bản thân trong thời đại nền kinh tế tri thức. Là một sinh
viên trường kinh tế, em nhận thấy việc nhận thức đúng đắn về bản chất của quá
trình học tập và nghiên cứu, tìm hiểu những những khía cạnh của phạm trù triết
học trong quá trình thu nạp tri thức và trau dồi kỹ năng trên cơ sở phân tích
những đối tượng liên quan là một việc có ý nghĩa rất lớn để từ đó có thể đưa ra
những phương án giải quyết phù hợp là một việc vô cùng cần thiết. Đồng thời,
việc làm đó cũng chính là cơ sở chỉ ra sự thống nhất biện chứng giữa các tri thức
với thực tại khách quan, từ đó chúng ta mới có thể xác lập giá trị nhận thức đúng
đắn để tìm ra những phương hướng giải quyết phù hợp nhằm cải thiện thành tích
cũng như nâng cao những giá trị mà mình nhận được thông qua quá trình nghiên cứu và học tập.
Với ý nghĩa đó, em đã chọn đề tài “Quan điểm biện chứng duy vật về mối
quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức ý nghĩa của việc nghiên cứu
quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên” để trình bày trong bài tập lớn này. NỘI DUNG I.
NGUYÊN LÝ TRIẾT HỌC
1. Khái niệm về nội dung và hình thức
Nội dung là tất cả những mặt, những yếu tố, thuộc tính, quá trình tạo nên sự
vật. Hình thức là phương thức tồn tại và biểu hiện phát triển của sự vật, là hệ
thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó. Nói một cách
ngắn gọn, nếu nội dung là tất cả các yếu tố cấu tạo nên sự vật, hiện tượng thì
hình thức là cấu trúc của sự vật, hiện tượng đó.
Ví dụ, với đối tượng là một chiếc xe máy, nội dung là các bộ phận cấu thành
như bánh xe, động cơ, ốc vít,... và hình thức của nó là trình tự sắp xếp, bố trí và
lắp ráp các bộ phận trên. Tương tự như vậy, nội dung của 1 cái cây là các tế bào,
các bộ phận cấu thành, các hệ thống hô hấp, quang hợp,... còn hình thức là trình
tự sắp xếp, liên kết giữa các tế bào, các hệ thống tương đối bền vững. 1
Ta cần phân biệt giữa khái niệm “hình thức” trong triết học với hình thức bên
ngoài của sự vật. “Hình thức” được đề cập đến trong chủ nghĩa duy vật biện
chứng của triết học chủ yếu là để chỉ hình thức bên trong của sự vật hay còn có
thể gọi là cơ cấu bên trong của nội dung. Hình thức bên ngoài của một cuốn
truyện tranh có thể là hình dáng, kích thước khổ giấy, màu sắc hay những họa
tiết trang trí nhưng nó không quan trọng bằng hình thức bên trong. Hình thức
bên trong ở đây là bố cục tác phẩm, thứ tự sắp xếp các câu chuyện theo mạch
văn hoặc mạch cảm xúc , hệ thống xây dựng nhân vật, ngôn ngữ lời thoại,... Đây
mới là những yếu tố có thể diễn đạt, bộc lộ và truyền tải được nội dung, ý nghĩa
của câu chuyện hay những bài học cuộc sống mà cuốn truyện kia muốn gửi gắm
đến bạn đọc. Và đó cũng chính là “hình thức” mà chủ nghĩa duy vật biện chứng
của triết học muốn bàn luận đến trong cặp phạm trù nội dung và hình thức.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
2.1. Sự thống nhất, gắn bó chặt chẽ giữa nội dung và hình thức
Trước hết, nội dung và hình thức gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau. Nội
dung là những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật. Trong khi đó,
hình thức lại chính là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa những
yếu tố ấy. Có thể thấy rằng, các yếu tố vừa góp phần tạo nên nội dung vừa tham
gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức. Bất kỳ một sự vật nào cũng phải có
đồng thời cả nội dung và hình thức. Không có hình thức nào không chứa nội
dung và cũng không có nội dung nào chỉ tồn tại thuần túy mà không có hình
thức.. Như vậy, nội dung và hình thức phải thống nhất với nhau thì sự vật mới
tồn tại. Nội dung nào có hình thức đó.
Ví dụ như cây gỗ tốt có thể sản xuất ra rất nhiều những bộ bàn ghế với
những kích thước, khuôn khổ và tính chất bề mặt khác nhau phù hợp với từng
nhu cầu và mục đích sử dụng. Những cây gỗ ấy sẽ được sơ chế, mài nhẵn, đẽo
gọt cẩn thận và tất nhiên sẽ cho ra đời những bộ bàn ghế đẹp, sang trọng, mang
lại cảm giác thoải mái, đồng thời tôn vinh phong thái và đẳng cấp của người sử
dụng (nội dung được thể hiện dưới hình thức). Mặt khác, hình thức lại được thể
hiện dưới nội dung. Khi nhìn vào một bộ bàn ghế đẹp, sang trọng, chắc chắn, lại
còn tỏa ra mùi thơm dễ chịu thì chắc chắn bộ bàn ghế ấy phải được làm từ những
loại gỗ tốt, chất lượng cao, khi sử dụng lâu dài gỗ không có dấu hiệu bị mọt hay
ẩm mốc, tạo cảm giác thoải mái và an tâm cho người sử dụng. 2
Nội dung và hình thức không thể tồn tại tách rời nhau, nhưng như vậy
không có nghĩa là nội dung và hình thức lúc nào cũng phù hợp với nhau. Không
phải một nội dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện trong một hình thức nhất định
và ngược lại, không phải một hình thức chỉ chứa đựng được một nội dung nhất
định. Trên thực tế, trong quá trình phát triển, một nội dung có thể có nhiều hình
thức thể hiện. Ví dụ như với cùng các nguyên vật liệu xây dựng, các nội thất
giống nhau nhưng ta có thể xây dựng và thiết kế được nhiều ngôi nhà với nhiều
kiểu kiến trúc khác nhau. Hoặc cùng 1 diện tích đất, ta có thể xây dựng được
nhiều kiểu kiến trúc nhà khác nhau ( 1 tầng, 2 tầng, có sân, không có sân,...). Mặt
khác, một hình thức cũng thể hiện được nhiều nội dung khác nhau. Lấy ví dụ
như trong 1 cuốn tiểu thuyết có thể chứa đựng rất nhiều nội dung với những chủ
đề khác nhau ( chiến tranh, lãng mạn, hài hước, ...)
Chính vì điều đặc biệt đó nên việc tận dụng tất cả mọi loại hình thức có thể,
kể cả một số hình thức cũ để phục vụ cho nội dung mới, được xem là một vấn đề
quan trọng. Lênin đã kịch liệt phê phán thái độ chỉ thừa nhận những hình thức
cũ, đồng thời, ông cũng bác bỏ quan niệm phủ nhận mọi hình thức cũ. Ông đòi
hỏi cần phải khai thác mọi loại hình thức có thể có, cả mới lẫn cũ, tất cả đều như
nhau, lấy cái nọ để bổ sung cho cái kia. Làm như vậy không phải để điều hòa cái
mới và cãi cũ mà là để làm cho bất cứ hình thức nào cũng trở thành một công cụ
giành thắng lợi hoàn toàn và cuối cùng, quyết định dứt khoát cho chủ nghĩa cộng
sản. Cụ thể, Lenin từng viết “ Chủ nghĩa giáo điều hữu huynh cứ khăng khăng
chỉ thừa nhận những hình thức cũ, nó đã hoàn toàn phá sản vì nó không nhận
thấy nội dung mới. Chủ nghĩa giáo điều tả khuynh lại khăng khăng tuyệt đối phủ
nhận những hình thức cũ nhất định nào đó mà không thấy rằng nội dung đang tự
mở lấy một con đường xuyên qua tất cả mọi hình thức, rằng nhiệm vụ của những
người cộng sản chúng ta, là phải nắm lấy hết thảy những hình thức đó, học cách
lấy hình thức này bổ sung hết sức nhanh chóng cho các hình thức khác, lấy hình
thức này thay thế cho các hình thức khác…”
2.2. Vai trò quyết định của nội dung đối với hình thức trong quá trình vận
động và phát triển của sự vật
Nội dung là mặt động nhất của sự vật, khuynh hướng chủ đạo của nó là biến
đổi. Còn hình thức là mặt tương đối ổn định và bền vững của sự vật, khuynh
hướng chủ đạo của hình thức là ổn định. Sự biến đổi, phát triển của sự vật luôn 3
bắt nguồn từ sự biến đổi, phát triển của nội dung. Khi nội dung biến đổi thì hình
thức cũng sẽ phải biến đổi theo để phù hợp với nội dung mới. Vì vậy, có thể nói
rằng nội dung bao giờ cũng giữ vai trò quyết định đối với hình thức. Dưới sự tác
động lẫn nhau của những mặt trong sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau trước
hết sẽ làm cho các yếu tố của nội dung biến đổi trước, còn những mối liên kết
giữa các yếu tố của nội dung là hình thức thì chưa biến đổi ngay. Khi đó, hình
thức sẽ trở nên lạc hậu hơn so với nội dung và trở thành nhân tố kìm hãm nội
dung phát triển. Do xu hướng chung của sự phát triển của sự vật, hình thức
không thể kìm hãm mãi sự phát triển của nội dung mà sẽ phải thay đổi cho phù hợp với nội dung mới.
Ví dụ, nội dung quan hệ giữa anh A là chị B là quan hệ bạn bè thì hình thức
quan hệ giữa 2 người khi đó sẽ là không có giấy chứng nhận, không bị ràng
buộc gì với nhau về mặt pháp lý. Tuy nhiên, khi 2 người kết hôn, nội dung mối
quan hệ đã thay đổi, lúc này hình thức quan hệ sẽ buộc phải thay đổi khi 2 người
bắt buộc phải có giấy chứng nhận kết hôn - bị ràng buộc với nhau về mặt pháp
lý. Mặt khác, vận dụng vào sản phẩm may mặc, nếu chất lượng vải tốt thì sẽ cho
ra đời nhiều loại sản phẩm quần áo với muôn kiểu dáng, mẫu mã bắt mắt, thỏa
mãn những nhu cầu sử dụng khác nhau của con người như đồ công sở, quần áo
cao cấp,... Ngược lại, nếu chất lượng vải kém thì tính ứng dụng của nó sẽ ít đi và
hình thức cũng sẽ không bắt mắt bằng. Trong trường hợp này, người ta sẽ sử
dụng nó để tạo ra những sản phẩm khác như khăn trải, quần áo bảo hộ, chăn
màn,.... để cố gắng thúc đẩy sự phát triển của sản phẩm này.
2.3. Sự tác động tích cực ngược trở lại của hình thức với nội dung
Nội dung giữ vai trò quyết định so với hình thức nhưng điều đó không đồng
nghĩa với việc hình thức chỉ là cái bị động, “ngoan ngoãn” đi theo nội dung. Trái
lại, hình thức cũng có tính độc lập tương đối và tác động ngược trở lại nội dung.
Sự tác động này của hình thức đến nội dung thể hiện ở chỗ : nếu phù hợp với nội
dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy nội dung phát triển, còn nếu
không phù hợp thì hình thức sẽ ngăn cản và kìm hãm sự phát triển của nội dung.
Sự tác động qua lại giữa nội dung và hình thức diễn ra trong suốt quá trình
phát triển của sự vật. Lúc đầu, những biến đổi diễn ra trong nội dung chưa ảnh
hưởng tới hệ thống mối liên hệ tương đối bền vững của hình thức. Tuy nhiên, khi
biến đổi đó tiếp tục diễn ra thì tới một lúc nào đó, hệ thống mối liên hệ tương đối 4
bền vững ấy của hình thức bắt đầu trở nên chật hẹp và sẽ kìm hãm sự phát triển
của nội dung. Khi hình thức không còn phù hợp với nội dung mới nữa, sự không
phù hợp ấy tiếp tục phát triển và tới một mức độ nhất định sẽ xảy ra sự xung đột
giữa nội dung và hình thức : nội dung mới phá bỏ hình thức cũ và trên cơ sở của
hình thức vừa mới hình thành, nó tiếp tục biến đổi, phát triển và chuyển sang
một trạng thái mới về chất.
Ví dụ, khi đi mua sắm, điều đầu tiên đập vào mắt chúng ta là những sản
phẩm với mẫu mã đẹp với kiểu dáng bắt mắt. Chính yếu tố bắt mắt và đẹp đã thu
hút được sự chú ý của chúng ta, sau đó, chúng ta mới quan tâm đến giá cả, nhãn
hiệu và chất lượng của sản phẩm. Ngược lại, nếu sản phẩm có mẫu mã xấu thì dù
chất liệu có tốt, giá cả phải chăng hay có là hàng hiệu đi chăng nữa thì có thể nào
chúng ta cũng không quan tâm tới. Đây chính là tâm lý chung khi đi mua sắm
của hầu hết tất cả mọi người.
3. Một số kết luận về phương pháp luận
Nội dung và hình thức luôn gắn bó với nhau trong quá trình vận động, phát
triển của sự vật, vì vậy nên trong nhận thức không được tách rời tuyệt đối hóa
giữa nội dung và hình thức. Đặc biệt, cần chống chủ nghĩa hình thức. Cùng một
nội dung, trong quá trình phát triển của sự vật có thể có nhiều hình thức và
ngược lại, một hình thức có thể có nhiều nội dung. Chính vì lẽ đó, trong hoạt
động thực tiễn cần chủ động sử dụng nhiều hình thức khác nhau, đáp ứng với
từng yêu cầu cụ thể khác nhau để đạt được hiệu quả cao nhất.
Nội dung quyết định hình thức nên để nhận thức và cải tạo được sự vật, ta
cần căn cứ trước hết vào nội dung. Tuy nhiên, hình thức cũng có tính độc lập
tương đối và tác động ngược trở lại nội dung. Do vậy trong hoạt động thực tiễn
cần phải thường xuyên đối chiếu giữa nội dung và hình thức để từ đó làm cho
hình thức phù hợp với nội dung, có như vậy thì hình thức mới thúc đẩy nội dung cùng phát triển. II. VẬN DỤNG
1. Mục tiêu học tập của sinh viên
Mỗi sinh viên khi bước chân vào ngưỡng cửa đại học đều xác định cho
mình những mục tiêu và trách nhiệm riêng với bản thân. Quãng thời gian học đại
học không hề ngắn, tuy nhiên nó cũng không quá dài nếu như sinh viên không
biết cách tận dụng một cách hợp lý và hiệu quả. Bổ sung kiến thức và trau dồi kỹ 5
năng cần thiết là những yếu tố quan trọng và cũng là mục tiêu lớn nhất mà mỗi
sinh viên hướng đến trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Kiến thức giúp
con người ta trở nên hiểu biết hơn, thông thái hơn, mang tính chuyên môn để áp
dụng vào công việc trong tương lai. Trong khi đó, kỹ năng lại giúp cho ta trở nên
khéo léo và linh hoạt hơn, làm đòn bẩy cho cả 2 lĩnh vực công việc và đời sống.
Chính vì vậy, tìm hiểu và xác lập được cho bản thân một phương pháp học tập
hợp lý sao cho vừa hiểu được bản chất của vấn vừa thể hiện được nó dưới những
góc nhìn khác nhau để đưa ra những phương án giải quyết phù hợp là một việc
vô cùng cần thiết đối với mỗi cá nhân người học.
2. Tình hình học tập của sinh viên
Sinh viên Việt Nam hiện nay đa số học theo chương trình học phần tín chỉ,
học nhiều môn cùng một lúc và mỗi môn chỉ học trong một khoảng thời gian
nhất định. Điều này vừa mang lại lợi ích là có thể thu nạp một lượng kiến thức
lớn trong một thời gian ngắn, tuy nhiên cũng đem đến nhiều thách thức cho sinh
viên. Việc tiếp nhận một lượng kiến thức lớn trong 1 khoảng thời gian ngắn
khiến sinh viên không thể học sâu, chỉ có thể tiếp nhận được một lượng kiến
thức nhất định và sau đó sẽ chuyển sang một môn học khác. Hơn nữa, việc học
và thi nhiều môn cùng một lúc sẽ khiến cho sinh viên nảy sinh hình thức học đối
phó, chỉ học được lượng kiến thức bề nổi chứ không tìm hiểu sâu đểhiểu rõ bản
chất của nội dung môn học. Khi tiếp nhận một vấn đề, sinh viên có xu hướng tìm
cách giải quyết nó sao cho nhanh chứ chưa chắc đã đem lại hiệu quả tốt, thường
chỉ hướng đến những thứ phô trương về mặt hình thức thể hiện chứ không chú
trọng vào bản chất cốt lõi bên trong của vấn đề.
Bên cạnh đó, trong quá trình học tập và nghiên cứu, sinh viên vẫn chưa
thoát khỏi lối mòn tư duy, vẫn lệ thuộc, bám vào những hình thức cũ, giữ mình
trong vùng an toàn chứ chưa chủ động sáng tạo, tiếp thu và áp dụng những cái
mới nhằm nâng cao hiệu quả biểu đạt nội dung.
Trong bối cảnh xã hội hiện đại, nền kinh tế ngày càng phát triển, nhiều sinh
viên lựa chọn kết hợp giữa việc học tập và đi làm ngay từ những năm đầu tiên
của đại học với mục đích “tiếp xúc” với công việc sớm để làm quen, vừa làm
vừa lấy kinh nghiệm cho việc học. Thực chất hình thức này là không hợp lý, bởi
việc làm thêm sẽ phù hợp hơn vào những năm cuối, khi sinh viên đã có đủ kiến
thức nền tảng. Trong trường hợp đi làm quá sớm, sinh viên dễ bị sa đà, chểnh
mảng việc học, kiến cho việc học tập phát triển theo chiều hướng xấu.
Có thể thấy rằng sinh viên trong xã hội hiện đại đang phải đối mặt với rất
nhiều thách thức xét trên cả phương diện chủ quan và khách quan, đòi hỏi bản
thân sinh viên và người học- người tiếp nhận tri thức cần phải chủ động tìm ra 6
phương pháp học tập phù hợp để giải quyết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực
học tập và nghiên cứu của bản thân. 3. Áp
dụng quy luật mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức vào
việc giải quyết các vấn đề trong quá trình nghiên cứu và học tập của sinh viên
3.1. Không tách rời nội dung với hình thức
Do nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau nên trong thực
tiễn, ta cần chống lại mọi khuynh hướng tách rời nội dung với hình thức. Ở đây
cần chống lại hai thái cực sai lầm. Thứ nhất, không tuyệt đối hóa hình thức, xem
thường nội dung. Một số sinh viên hiện nay có xu hướng chú trọng vào giá trị
bên ngoài của ngành học thay vì hiểu rõ bản chất bên trong. Cụ thể, họ chỉ lựa
chọn những ngành học nổi tiếng, nghe có vẻ thú vị, hấp dẫn, có xu hướng được
nhiều người lựa chọn chứ không xuất phát từ mong muốn, mục đích và sở trường
của bản thân, không hiểu rõ ngành học đó sẽ cung cấp tri thức về lĩnh vực nào,
bản chất nội dung tri thức mà mình tiếp nhận được sau quá trình học tập là gì.
Thứ hai, không tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức. Nội dung là cốt
lõi của mọi vấn đề, tuy nhiên không thể vì lẽ đó mà ta chỉ chăm chút vào nội
dung và bỏ qua hình thức. Nhiều sinh viên hiểu rất rõ bản chất vấn đề nhưng lại
không thể tìm được cho nó một hình thức thể hiện phù hợp. Khi tiếp cận vấn đề,
sinh viên có thể phân tích một cách kỹ lưỡng, đào sâu vào mọi ngóc ngách của
nhưng trình bày lại thiếu tính liên kết, thiếu sự mạch lạc, bố cục chưa hợp lý,
diễn đạt khó hiểu khiến việc học tập cũng như nghiên cứu gặp nhiều cản trở.
Chính vì lẽ đó, trong quá trình tìm tòi và tiếp thu tri thức, sinh viên cần phải kết
hợp chặt chẽ giữa nội dung và hình thức, vừa hiểu cặn kẽ bản chất của hiện
tượng, sự việc, vừa tìm được cho nó một hình thức thể hiện phù hợp để biểu đạt
nội dung vấn đề một cách hiệu quả nhất.
3.2. Căn cứ trước hết vào nội dung để đoán xét sự việc
Vì nội dung quyết định hình thức nên để đoán xét một sự việc, vấn đề nào
đấy, ta cần căn cứ trước hết vào nội dung của nó. Nếu muốn làm biến đổi vấn đề
thì trước hết cần tác động để thay đổi nội dung. Trong quá trình học tập, khi tiếp
nhận một vấn đề, sinh viên cần xem xét, phân tích và nghiên cứu kỹ lưỡng để
hiểu rõ nội dung, bản chất vấn đề, từ đó mới có thể tìm ra được phương án giải 7
quyết vấn đề bằng cách tác động vào một khía cạnh nào đó của nội dung sao cho
phù hợp với mục đích mà mình muốn hướng đến.
Ví dụ, khi thấy việc học tập không đem lại hiệu quả cao, sinh viên cần phân
tích các phương pháp học tập, trình tự thời gian biểu cũng như lối tư duy của bản
thân để tìm được “lỗ hổng” trong phương pháp ấy, từ đó mới tìm được căn cứ để
có thể tác động, sửa đổi một khía cạnh nào đó ( ví dụ như thời gian học tập chưa
khoa học thì cần thay đổi khung giờ học, tập trung vào sáng sớm để tăng khả
năng tiếp nhận kiến thức) và tìm ra hướng giải quyết tốt nhất để có thể nâng cao hiệu quả học tập.
3.3. Theo sát mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
Vì hình thức có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của nội dung nên
trong hoạt động thực tiễn, ta luôn cần theo dõi mối quan hệ giữa hình thức và nội
dung của sự vật để có thể kịp thời phát hiện, can thiệp vào tiến trình phát triển
của sự vật theo hướng có lợi nhất. Nếu muốn sự vật phát triển tiếp, cần tạo điều
kiện để hình thức phù hợp với nội dung. Ngược lại, nếu thấy sự vật phát triển
lên sẽ có hại, cần tìm cách để hình thức không phù hợp với nội dung nữa. Khi
học tập, và nghiên cứu, sinh viên căn cứ vào nội dung sự việc và mục đích phát
triển của nó để từ đó tìm cho nó một hình thức thể hiện phù hợp.
Ví dụ khi trình bày một bài luận, nếu lượng kiến thức là quá nhiều và trừu
tượng, sinh viên có thể chèn thêm hình ảnh minh họa, sơ đồ, nêu thêm dẫn chứng
hay ví dụ thực tế, trình bày bài luận theo một bố cục mạch lạc, rõ ràng để người
đọc dễ theo dõi và nắm bắt. Hình thức này khiến cho bài luận phát triển theo
chiều hướng tích cực. Ngược lại, như ví dụ đã nêu ở trên, việc sinh viên lựa chọn
làm thêm ngay từ năm 1 để làm quen với công việc thay vì tập trung vào học tập
để bổ sung kiến thức nền tảng của bản thân sẽ khiến sự việc phát triển theo chiều hướng tiêu cực.
3.4. Sáng tạo lựa chọn các hình thức của sự việc
Cùng một nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau, có thể có nhiều
hình thức. Ngược lại, cùng một hình thức có thể có nhiều nội dung khác nhau.
Do vậy nên sinh viên cần sử dụng một cách sáng tạo mọi loại hình thức có thể có
(cũ và mới), kể cả cải biến những hình thức cũ vốn có, để phục vụ hiệu quả cho
việc thực hiện những nhiệm vụ thực tiễn. Ở đây cũng cần tránh hai thái cực sai 8
lầm. Một mặt là chỉ bám lấy hình thức cũ, bảo thủ, trì trệ mà không áp dụng cái
mới. Mặt khác là phủ nhận, bỏ qua hoàn toàn cái cũ trong hoàn cảnh mới, chủ
quan, nóng vội, thay đổi hình thức một cách tùy tiện, không có căn cứ. Với mỗi
vấn đề, lĩnh vực cụ thể, sinh viên có thể sử dụng những góc nhìn khác nhau, đổi
mới lối tư duy, xoay chuyển để quan sát sự việc dưới nhiều khía cạnh hay kết
hợp những mô hình phân tích cả cũ và mới để có thể đưa ra được những góc
nhìn đa chiều, bao quát sự việc và từ đó hiểu rõ về vấn đề hơn.
Ví dụ, với các dạng bài về toán học, sinh viên có thể áp dụng những hình
thức khác nhau ( trình bày bằng sơ đồ, bảng tính,...) chứ không nhất thiết phải đi
theo hình cũ là trình bày lập luận, miễn sao có thể giải quyết bài toán một cách
ngắn gọn, chính xác và dễ hiểu. KẾT LUẬN
Nói tóm lại, nội dung dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những yếu
tố, những quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng còn phạm trù hình thức dùng để
chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng đó, là hệ thống các
mối liên hệ tương đối bền vững của các yếu tố. Chính vì vậy, nội dung và hình
thức luôn gắn bó chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau. Trong thực tiễn , ta
cần phát huy tác động tích cực của hình thức với nội dung trên cơ sở tạo ra tính
phù hợp giữa 2 yếu tố. Mặt khác, việc thực hiện những thay đổi đối với những
hình thức không còn phù hợp, cản trở sự phát triển của nội dung cũng là một yếu
tố cần thiết. Áp dụng vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo, cụ thể hơn là việc học tập
và nghiên cứu của sinh viên, phạm trù nội dung và hình thức cũng có những ảnh
hưởng nhất định để từ đó đề ra những bài học tối ưu nhất. Thứ nhất, không được
tách rời nội dung với hình thức. Thứ hai, cần căn cứ trước hết vào nội dung để
đoán xét sự vật, vấn đề. Thứ ba, phải theo sát mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức. Thứ tư, cần sáng tạo lựa chọn các hình thức của sự vật. Từ đó, sinh viên -
thế hệ trẻ và cũng là một thế hệ đầy tiềm năng của đất nước, khi đứng trước
những thách thức trong quá trình thu thập tri thức và rèn luyện kĩ năng, sẽ có thể
rút ra được những bài học kinh nghiệm cho bản thân để từ đó hòa nhập, hoàn
thiện và phát triển trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay.
Có thể thấy rằng, việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và
hình thức để vận dụng vào quá trình học tập và nghiên cứu của sinh viên hiện
nay mạng ý nghĩa vô cùng to lớn, mang tính thực tiễn cao. Sinh viên cần có được 9
phương pháp phù hợp để tiếp thu tri thức thời đại để vận dụng thật tốt những tri
thức đó vào thực tế, góp phần xây dựng một xã hội ngày càng phồn vinh, tươi đẹp.
Đây là lần đầu tiên làm bài tập lớn, không thể tránh khỏi những sai sót, em
rất mong nhận được những lời góp ý từ cô để có thể hoàn thiện tốt hơn trong
những lần sau. Em xin chân thành cảm ơn! 10 TÀI LIỆU THAM KHẢO -
Giáo trình Triết học Mác – Lênin -
Recording bài giảng ngày 6/5 trên Microsoft Teams :
https://teams.microsoft.com/_#/mp4/viewer/teams/https:~2F~2Fstneuedu.s
harepoint.com~2Fsites~2FTHMLT61-321HK220-21~2FShared
%20Documents~2FGi%E1%BA%A3ng%20C2-
2~2FRecordings~2FMeeting%20now-20210507_072533-Meeting %20Recording.mp4?
threadId=19:f909bab2cd9444159845b6d7bd4ecf52@thread.tacv2&baseU
rl=https:~2F~2Fstneuedu.sharepoint.com~2Fsites~2FTHMLT61-
321HK220-21&fileId=6615d16e-9894-4fed-8533-
09dc627b39b0&ctx=files&rootContext=items_view&viewerAction=view - Wikipedia :
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%E1%BB%99i_dung_v%C3%A0_h
%C3%ACnh_th%E1%BB%A9c_(Ch%E1%BB%A7_ngh %C4%A9a_Marx-Lenin) -
https://8910x.com/noi-dung-va-hinh-thuc/ 11