lOMoARcPSD| 44985297
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện
chứng giữa nội dung và hình thức và ý nghĩa của việc nghiên
cứu quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên”
Họ và tên: Đỗ Bảo Quyên
Mã số sinh viên: 11217586
Lớp TC: Triết học Mác - Lênin(121)_10
GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng
Thanh Hóa, tháng 11 năm 2021
lOMoARcPSD| 44985297
MỤC LỤCMỞ ĐẦU ......................................... Error! Bookmark not defined.
NỘI DUNG I-CƠ SỞ LÝ LUẬN : QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG DUY
VẬT VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NỘI DUNG VÀ HÌNH
THỨC1 ............................................................................................................. 1
1.Định nghĩa nội dung và hình thức .................................................................. 1
2.Mối quan hệ biện chứng giữa cặp phạm trù nội dung và hình thức .............. 2
3.Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa ..... 5
nội dung và hình thức ........................................................................................ 5
II- Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU QUAN ĐIỂM BIỆN
CHỨNG DUY VẬT VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NỘI
DUNG VÀ HÌNH THỨC TRONG NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP CỦA
SINH VIÊN .................................................................................................. 6
1.Thực trạng nghiên cứu, học tập của sinh viên hiện nay ................................ 6
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ
biện chứng giữa nội dung và hình thức trong nghiên cứu, học tập .................. 7
của sinh viên ...................................................................................................... 7
KẾT LUẬN .................................................................................................. 9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................
lOMoARcPSD| 44985297
1
MỞ ĐẦU
Trong học phần “Triết học Mác-Lênin” có đề cập đến phép biện chứng duy
vật được tạo thành từ một loạt những phạm trù, những nguyên lý, những quy
luật được khái quát từ hiện thực, phù hợp với hiện thực. Một trong những cặp
phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật chính là cặp phạm trù nội dung
và hình thức. Trong cặp phạm trù này, phép biện chứng duy vật chủ yếu muốn
nói đến hình thức bên trong gắn liền với nội dung, là cơ cấu của nội dung chứ
không chỉ nói đến hình thức bề ngoài của sự vật. Năng lực tư duy biện chứng
về cặp phạm trù nội dung và hình thức sẽ giúp cho sinh viên rất nhiều trong
quá trình học tập bởi nó giúp sinh viên luôn tiếp nhận tri thức một cách khoa
học, sáng tạo, giúp sinh viên có một cái nhìn toàn diện, phát triển tri thức
đúng đắn, đồng thời giúp sinh viên tự học, tự nghiên cứu, giải thích thực tiễn
biến đổi và đưa ra những giải pháp mà thực tiễn đặt ra,…Từ quá trình học tập,
mỗi sinh viên sẽ áp dụng được những kiến thức lý thuyết vào trong hoạt động
thực tiễn, cống hiến sức lực, tư duy của bản thân khiến cho đất nước ngày
càng giàu mạnh và phát triển. Qua đây, là cơ sở để em chọn đề tài: “Quan
điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình
thức và ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong nghiên cứu, học
tập của sinh viên”.
NỘI DUNG
I-CƠ SỞ LÝ LUẬN : QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỀ MỐI
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC
1.Định nghĩa nội dung và hình thức
“ Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo
nên sự vật. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ
thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành sự vật”
1
.
Bất kỳ sự vật nào cũng có hình thức của nó nhưng hình thức không phải chỉ là
1
PGS.TS.Bùi Thị Thanh Hương - PGS.TS.Nguyễn Minh Hoàn ( Đồng chủ biên),
(2018 ), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội,
tr.118.
lOMoARcPSD| 44985297
2
cái biểu hiện ở mặt ngoài mà còn là hình thức bên trong của sự vật, tức là
người ta đề cập tới cơ cấu bên trong của nội dung Ví dụ: Một tác phẩm văn
học thì đều được in thành một cuốn sách nào đó đều có kích thước nhất định,
hình dáng, màu sắc nhất định …Rồi chúng ta thấy bề ngoài nó có sự trang trí
bìa,… nhưng chúng ta thấy đó, những điều đó thì nó mới chỉ là hình thức bề
ngoài, nó không đóng vai trò quan trọng. Cái quan trọng là hình thức bên
trong của tác phẩm được in trong cuốn sách ấy, cụ thể đó là bcục của tác
phẩm, là các hình tượng nghệ thuật, là ngôn ngữ, là phong cách, là bút pháp,
… được dùng để diễn đạt nội dung, diễn đạt những tư tưởng, những vấn đề
của cuộc sống mà tác phẩm muốn nói lên. Chính điều đó mới là hình thức mà
chủ nghĩa duy vật biện chứng muốn đề cập đến trong cặp phạm trù nội dung
và hình thức.
2.Mối quan hệ biện chứng giữa cặp phạm trù nội dung và hình thức
Theo quan điểm biện chứng duy vật thì nội dung và hình thức có mối quan
hệ biện chứng như sau:
Thứ nhất, sự thống nhất giữa nội dung với hình thức:
“Ph.Ăngghen đã đưa ra bằng chứng để nói lên rằng giữa nội dung và hình
thức quan hệ biện chứng với nhau và không thể tách rời, ví dụ như quan hệ
giữa các tế bào (hình thức) trong cơ thể với sự phân hóa của vật chất ra cơ,
xương, biểu mô....”
2
. Nội dung và hình thức thì gắn bó chặt chẽ với nhau,
không tách rời nhau, không có một hình thức nào lại không chứa đựng nội
dung, cũng như không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức.
Có tình hình đó là do nội dung bao gồm những mặt, những yếu tố, những quá
trình tạo nên sự vật. Trong khi đó, hình thức lại chính là hệ thống các mối liên
hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố đó. Như vậy là các cái yếu tố vừa góp
phần tạo nên nội dung vừa tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức.
lẽ đó, nội dung và hình thức không tách rời nhau được. Tuy nhiên, cần lưu ý
2
Ph.Ăngghen, “Biện chứng của tự nhiên” trong C. Mác - Ph.Ăngghen toàn tập,
Sđd, t.20, tr.816.
lOMoARcPSD| 44985297
3
không phải nội dung và hình thức bao giờ cũng phù hợp với nhau và do đó
không phải một nội dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện ra trong một hình
thức nhất định và một hình thức bao giờ cũng chỉ chứa đựng một nội dung
nhất định. Thực ra, sự phù hợp giữa nội dung và hình thức không bao giờ có
thể là sự phù hợp hoàn toàn, tuyệt đối chỉ vì một lẽ chúng là những mặt đối
lập nhau, sự thống nhất tương đối giữa nội dung và hình thức sẽ phá vỡ và sự
vật sẽ không còn là sự vật cũ nữa tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Chính vì vậy, vẫn cùng một nội dung trong tình hình phát triển khác nhau có
thể có nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình thức có thể biểu hiện
những nội dung khác nhau. Do đó, một vấn đề quan trọng đặt ra là phải tận
dụng tất cả mọi loại hình thức có thể có kể cả một số hình thức cũ để phục vụ
cho nội dung mới. Lênin đã kịch liệt phê phán thái độ chỉ thừa nhận những
hình thức cũ đồng thời ông cũng bác bỏ quan niệm phủ nhận mọi hình thức
cũ. Ông đòi hỏi phải khai thác mọi loại hình thức có thể có mi cũng như cũ,
lấy cái nọ bổ sung cho cái kia nhưng không phải để điều hòa cái mới với cái
cũ mà là để làm cho bất cứ hình thức nào cũng trở thành công cụ giành thắng
lợi hoàn toàn và cuối cùng quyết định và dứt khoát cho chủ nghĩa cộng sản.
So với hình thức thì nội dung bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Như vậy, ở
khía cạnh thứ nhất, chúng ta thấy rằng nội dung và hình thức không tách rời
nhau, gắn bó với nhau, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn: Nội dung
của một cơ thể động vật là toàn bộ các cái yếu tố vật chất như: Tế bào, các khí
quan cảm giác, các hệ thống, các quá trình hoạt động của hệ thống,.. để tạo
nên cơ thể đó- đó chính là nội dung của cơ thể động vật, hình thức của một cơ
thể động vật chính là trình tự sắp xếp liên kết các tế bào, các cái hệ thống
tương đối, bền vững của cơ thể động vật. Hay mỗi phân tử nước thì các cái
yếu tố vật chất làm cơ sở cấu thành nên nó chính là hai nguyên tử hydro và
một nguyên tử oxy – đó chính là nội dung. Còn cách thức liên kết hóa học của
chúng chính là hình thức.
Thứ hai, nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình
vận động, phát triển của sự vật :
Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là khuynh hướng biến đổi, phát triển.
lOMoARcPSD| 44985297
4
Còn hình thức là mặt tương đối bền vững của sự vật, khuynh hướng chủ đạo
của nó là khuynh hướng ổn định. Vì vậy, sự biến đổi, phát triển của sự vật bao
giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi, phát triển của nội dung còn hình thức thì nó
cũng biến đổi nhưng biến đổi chậm hơn, ít hơn so với nội dung. Khi nội dung
biến đổi thì nó buộc hình thức cũng phải biến đổi theo cho phù hợp với nội
dung mới. Ví dụ thứ nhất: Nội dung giai cấp của nhà nước bao giờ cũng quyết
định hình thức nhà nước phù hợp với nó; nội dung giáo dục của nhà trường xã
hội chủ nghĩa quyết định các hình thức và phương pháp giáo dục tương ứng;
hay không thể diễn tả một nội dung bi thảm dưới hình thức hài hước và ngược
lại. Ví dụ thứ hai: y vào nội dung bài học mà người giảng viên phải quyết
định lựa chọn những hình thức giảng dạy khác nhau, phương pháp phù hợp
như thuyết trình, phát vấn, thảo luận nhóm... Nếu hình thức, phương pháp phù
hợp sẽ giúp cho hiệu quả của buổi học nâng cao và ngược lại.
Thứ ba, sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung: Hình thức luôn có
tính độc lập tương đối và tác động tích cực ngược trở lại nội dung và khi phù
hợp với nội dung nó sẽ mở đường và thúc đẩy sự phát triển của nội dung.
Trong trường hợp ngược lại, hình thức sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung.
Trong quá trình phát triển của sự vật: Lúc đầu, những biến đổi diễn ra trong
nội dung chưa ảnh hưởng đến hệ thống mối liên hệ tương đối bền vững của
hình thức nhưng khi những biến đổi đó tiếp tục diễn ra tới một lúc nào đó hệ
thống mối liên hệ tương đối bền vững ấy của hình thức bắt đầu trở nên chặt
hẹp và bắt đầu kìm hãm sự phát triển của nội dung. Hình thức không còn phù
hợp với nội dung mới nữa, sự không phù hợp ấy tiếp tục phát triển và tới một
lúc nào đó thì xảy ra xung đột giữa nội dung và hình thức. Nội dung mới p
bỏ hình thức cũ và trên cơ sở của hình thức vừa mới hình thành nó tiếp tục
biến đổi, phát triển và chuyển sang trạng thái mới về chất. Mối liên hệ qua lại
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cho chúng ta thấy rất rõ cái mối
quan hệ giữa nội dung và hình thức. Chúng ta biết rằng trong các hình thái
kinh tế xã hội có đối kháng giai cấp lúc đầu quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, là hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất. Nhưng về sau khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ
lOMoARcPSD| 44985297
5
sản xuất không còn phù hợp nữa và bắt đầu kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự không phù hợp ấy tiếp tục tăng lên và cuối cùng dẫn đến
sự xung đột giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm cho cách mạng
xã hội bùng nổ. Cuộc cách mạng ấy xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ tức là xóa bỏ
hình thức cũ và xác lập quan hệ sản xuất mới tức là hình thức mới. Quan hệ
sản xuất mới này phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất -
tức là nội dung mới và mở đường cho nó tiếp tục phát triển.
3.Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa
nội dung và hình thức
Thứ nhất, nếu nội dung và hình thức luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau
thì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải chống lại
mọi khuynh hướng tách rời nội dung và hình thức. Ở đây cần chống lại cả hai
thái cực sai lầm: hoặc là tuyệt đối hóa hình thức xem thường nội dung hoặc là
tuyệt đối hóa nội dung lại xem thường hình thức.
Thứ hai, vì cùng một nội dung trong tình hình phát triển khác nhau có thể
có nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện nhiều nội
dung khác nhau nên cần sử dụng mọi hình thức có thể có mới cũng như cũ kể
cả phải cải biến những hình thức vốn có, lấy cái này bổ sung, thay thế cho cái
kia để phục vụ cho những nhiệm vụ nhất định tùy theo yêu cầu của hoạt động
thực tiễn. Cần chống lại cả hai thái cực sai lầm hoặc chỉ bám lấy hình thức cũ
bảo thủ, trì trệ, chỉ muốn làm theo kiểu cũ hoặc hoàn toàn phủ nhận vai trò
của nó trong hoàn cảnh mới dẫn đến chủ quan, nóng vội, thay đổi hình thức
cũ một cách tùy tiện, không có căn cứ.
Thứ ba, vì nội dung quyết định hình thức nên để xét đoán sự vật nào đó cần
căn cứ trước hết vào nội dung của nó và nếu muốn làm biến đổi sự vật thì cần
tác động làm thay đổi trước hết nội dung của nó. Đồng thời về hình thức có
thể tác động trở lại đối với nội dung thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của
nội dung khi nó phù hợp hay không phù hợp với nội dung nên trong hoạt
động thực tiễn cần luôn luôn theo dõi mối quan hệ giữa hình thức và nội dung
của sự vật để có thể kịp thời can thiệp vào tiến trình phát triển của nó tạo cho
hình thức của sự vật một sự phù hợp hay không phù hợp cần thiết với nội
lOMoARcPSD| 44985297
6
dung đang biến đổi của nó nhằm đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển đó tùy
theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn. “V.I. Lênin đã chỉ ra cần phải thường
xuyên đối chiếu giữa nội dung và hình thức, kế thừa hình thức cũ, xây dựng
hình thức mới cho phù hợp với nội dung”
3
.
II- Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG
DUY VẬT VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NỘI DUNG
HÌNH THỨC TRONG NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
1.Thực trạng nghiên cứu, học tập của sinh viên hiện nay
Nói đến những nguyên nhân khiến quá trình nghiên cứu, học tập của sinh
viên không được hiệu quả, chúng ta xem xét trên các mặt sau để có được nhận
thức toàn diện hơn. Thực trạng hiện nay, những công việc như làm thêm, dạy
kèm, bán hàng, tiếp thị,…làm cho sinh viên chểnh mảng, lơ là trong quá trình
học tập hoặc không theo nổi chương trình học đại học chính là những lý do
khiến sinh viên bị buộc thôi học. Tuy nhiên, đó không phải là lý do chính, vì
có những sinh viên cũng vừa đi học vừa đi làm thêm không gây ảnh hưởng
đến quá trình học tập của bản thân. Nguyên nhân ở đây là do bản thân sinh
viên không chịu tìm tòi, nghiên cứu những quyển sách, tài liệu, những kiến
thức liên quan đến môn học phục vụ cho chuyên môn của bản thân và với tâm
lý của sinh viên là quen với việc thầy cô đọc bài cho chép dẫn đến tình trạng
thụ động trong quá trình nghiên cứu, học tập ngày càng thụt lùi đồng thời
năng lực và kiến thức bị hạn chế của sinh viên hiện nay. Việc sinh viên chỉ
nghe giảng viên nói, thuyết trình một cách ồ ạt mà sinh viên không nghiên
cứu trước giáo trình, không đặt ra những câu hỏi cho giảng viên trong q
trình học tập trên lớp sẽ khiến sinh viên không tiếp thu được bất kỳ lượng
kiến thức nào hoặc lượng kiến thức đọng lại trong não cũng rất ít. Những
nguyên nhân chính khiến sinh viên ngại phát biểu trong quá trình học tập trên
lớp là do cảm giác sợ sai và do sự áp đặt của giảng viên cũng “đóng góp” vào
tâm lý sợ sai của sinh viên.
3
V.I.Lênin (1978), Chủ nghĩa phiêu lưu cách mạng" trong Lênin toàn tập, Sđd, t.6,
tr.476.
lOMoARcPSD| 44985297
7
Thực tiễn khách quan cho thấy, trong quá trình nghiên cứu, học tập của
sinh viên, tuy giảng viên có nhắc nhở về việc xem lỹ nội dung tài liệu và đọc
kỹ giáo trình trước khi đến lớp nhưng một số sinh viên đều không thực hiện,
với nhận thức học cho có-nhận thức cứng nhắc khiến quá trình học không đạt
hiệu quả, năng lực bản thân không phát triển. Tuy giảng viên đã phải hướng
dẫn dưới mọi hình thức khác nhau rồi cho những tệp tài liệu có kiến thức
trọng tâm nhưng một số bạn sinh viên cũng không ôn lại nội dung những kiến
thức đó luôn khiến kiến thức ngày càng chồng chất ảnh hưởng lớn đến quá
trình nghiên cứu, học tập của sinh viên không được hiệu quả. Đồng thời, bên
cạnh nội dung chương trình học tập, nghiên cứu tại đại học hiện nay đã nặng
nề, thì công cụ hay hình thức để truyền tải lượng kiến thức cho quá trình học
tập, nghiên cứu của sinh viên chưa lấy gì làm hài lòng.
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm biện chứng duy vật về mối
quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức trong nghiên cứu, học tập
của sinh viên
Ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm biện chứng duy vật về mối quan
hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức trong nghiên cứu, học tập của sinh
viên, cụ thể như sau: Trong học tập thì nội dung chính là những kiến thức mà
ở ngoài thực tiễn, ở trong sách vở, báo chí hay mình còn học người khác,…
Để học được cái đó thì bản thân sinh viên phải thông qua hình thức – cái hình
thức ở đây chính là phương pháp học tập. Phương pháp học tập gồm có như
phương pháp lắng nghe, ngoài ra còn có những biểu hiện sinh động hơn của
cái phương pháp đó, cái nội dung học tập đó thì còn có nghe nhạc, thuyết
trình…tức cái hình thức chính là cái để sinh viên thể hiện nội dung thì cái
việc học tập, cái kiến thức chính là nội dung. Vậy thì cái mà để sinh viên thể
hiện được nội dung học tập đó là thuyết trình, đọc thì đó là hình thức để sinh
viên biểu hiện cái việc học tập. Trong quá trình học tập, nghiên cứu thì bản
thân sinh viên muốn học tập, nghiên cứu tốt thì phải kết hợp những phương
pháp học tập tốt, những hình thức học tập tốt. Thứ hai, nội dung quyết định
hình thức do vậy mà sinh viên học cái gì thì sinh viên cần có một phương
pháp học tập phù hợp để học kiến thức đó. Chẳng hạn bây giờ sinh viên
lOMoARcPSD| 44985297
8
chúng ta học về triết học Mác – Lênin thì sinh viên phải có phương pháp học
phù hợp với Triết học Mác – Lênin. Đối với môn Triết học Mác - Lênin t
sinh viên phải ghi chép, thiết lập những sợi dây liên kết, sơ đồ tư duy để dễ
nhớ; trong những môn khoa học khác như toán cao cấp thì sinh viên cần phải
tính toán, với tiếng anh thì nó lại khác. Nói đến hình thức tác động ngược trở
lại nội dung thì phải nói đến là việc sinh viên vận dụng phương pháp để sinh
viên học tập. Bản thân sinh viên không nên nhấn mạnh cái mặt nội dung mà
cần phải xem xét thêm về mặt hình thức, đồng thời sinh viên cũng không nên
nhấn mạnh về mặt hình thức và xem nhẹ mặt nội dung trong nghiên cứu cũng
như trong học tập. Nội dung về đề tài nghiên cứu, quá trình học tập quyết
định các hình thức thực hiện trên thực tế tương ứng.
Trong quá trình nghiên cứu và học tập tại trường thì bản thân em là sinh
viên ngành kinh doanh thương mại thì em nhận thấy rằng quá trình nghiên
cứu khoa học hay học tập về chuyên ngành kinh doanh thương mại thì bao
gồm nhiều yếu tố nội dung giống nhau nhưng cách thức tổ chức phân công
giáo viên dạy cho từng lớp hay phương pháp học của mỗi sinh viên trong quá
trình nghiên cứu, học tập có thể khác nhau. Như vậy, nội dung quá trình
nghiên cứu, học tập của sinh viên được diễn ra dưới những hình thức khác
nhau hoặc cùng một hình thức tổ chức giảng dạy như nhau nhưng được thực
hiện trong những ngày, những khu vực với những yếu tố vật chất cũng khác
nhau. Do đó, một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung khác nhau.
Tóm lại, trong nghiên cứu, học tập thì sinh viên phải chú ý sự thống nhất
giữa nội dung và hình thức, không được tách rời, tuyệt đối hóa một mặt, đặc
biệt đề phòng rơi vào chủ nghĩa hình thức. Thứ hai, nội dung quyết định hình
thức nên phải coi trọng nội dung trước đồng thời quan tâm đúng mức đến
hình thức. Chẳng hạn khi sinh viên làm một bài văn, một bài tiểu luận, một
bài luận,…trước hết sinh viên phải chuẩn bị nội dung cho tốt nhưng sinh viên
cũng không được xem nhẹ hình thức, không được xem nhẹ kết cấu câu văn,
dấu chấm, dấu phẩy, các lỗi kỹ thuật,…Nói về điều này thì sinh viên cần nhớ
rằng cha ông chúng ta đã nhắc nhở “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Thứ ba, khi
hình thức đã lạc hậu, mâu thuẫn với nội dung thì kiên quyết thay đổi hình
lOMoARcPSD| 44985297
9
thức để tạo cho nội dung phát triển nhanh chóng, thuận lợi và ngược lại.
Chẳng hạn khi sinh viên muốn lựa chọn sách để nghiên cứu, học tập thì nội
dung chất lượng của các cuốn sách thay đổi cùng với mẫu mã cũng rất đa
dạng, phong phú. Tuy nhiên cũng có không ít cuốn sách mẫu mã thì đẹp,
trông rất bắt mắt, hấp dẫn nhưng nội dung thì lại rất kém mà ta hay gọi đó
hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Trên đây là toàn bộ ý nghĩa của
việc nghiên cứu quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng
giữa nội dung và hình thức trong nghiên cứu, học tập của sinh viên.
KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện
chứng giữa nội dung và hình thức và ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm
đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên khiến em hiểu và nắm rõ hơn mối
lOMoARcPSD| 44985297
10
quan hệ biện chứng giữa cặp phạm trù nội dung và hình thức thể hiện rõ nét ở
ba điểm: Một là, nội dung và hình thức là hai phương tiện cấu thành nên mỗi
sự vật. Không có sự vật nào tồn tại mà chỉ có nội dung mà không có hình thức
nhất định. Hai là, cùng một nội dung nhưng có thể có những phương thức kết
hợp khác nhau ngược lại các nội dung khác nhau nhưng có thể có sự đồng
dạng về phương thức kết hợp giữa chúng tuy nhiên điều đó không phải là
tuyệt đối phi nguyên tắc. Ba là, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là
mối quan hệ biện chứng, trong đó nội dung quyết định hình thức còn hình
thức thì sẽ tác động trở lại nội dung. Giữa nội dung và hình thức không phải
luôn luôn có sự thống nhất. Thông thường quá trình biến đổi phát triển của sự
vật bắt đầu từ sự biến đổi nội dung của nó dưới một hình thức phù hợp. Tới
một giới hạn nhất định sẽ xuất hiện sự không còn phù hợp giữa nội dung
hình thức khi đó xuất hiện nhu cầu thay đổi hình thức tạo nên sự phù hợp
mới… Do vậy, việc nghiên cứu quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ
biện chứng giữa nội dung và hình thức không chỉ giúp bản thân sinh viên có
một nền tảng kiến thức triết lý mà còn giúp sinh viên vận dụng một cách dễ
dàng vào việc nghiên cứu, học tập trở thành những người có ích cho xã hội và
có trình độ năng lực cao trở thành những nhân tài góp phần thúc đẩy sự phát
triển của đất nước ngày càng phồn vinh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS.Bùi Thị Thanh Hương - PGS.TS.Nguyễn Minh Hoàn ( Đồng
chủ biên), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà
Nội, 2018.
2. Ph.Ăngghen, “Biện chứng của tự nhiên” trong C. Mác - Ph.Ăngghen
toàn tập, Sđd, t.20, tr.816.
lOMoARcPSD| 44985297
11
3. V.I.Lênin (1978), “Chủ nghĩa phiêu lưu cách mạng" trong Lênin toàn
tập, Sđd, t.6, tr.476.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44985297
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện
chứng giữa nội dung và hình thức và ý nghĩa của việc nghiên
cứu quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên”
Họ và tên: Đỗ Bảo Quyên
Mã số sinh viên: 11217586
Lớp TC: Triết học Mác - Lênin(121)_10
GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng
Thanh Hóa, tháng 11 năm 2021 lOMoAR cPSD| 44985297
MỤC LỤCMỞ ĐẦU ......................................... Error! Bookmark not defined.
NỘI DUNG I-CƠ SỞ LÝ LUẬN : QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG DUY
VẬT VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NỘI DUNG VÀ HÌNH
THỨC1
............................................................................................................. 1
1.Định nghĩa nội dung và hình thức .................................................................. 1
2.Mối quan hệ biện chứng giữa cặp phạm trù nội dung và hình thức .............. 2
3.Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa ..... 5
nội dung và hình thức ........................................................................................ 5
II- Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU QUAN ĐIỂM BIỆN
CHỨNG DUY VẬT VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NỘI
DUNG VÀ HÌNH THỨC TRONG NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP CỦA
SINH VIÊN .................................................................................................. 6

1.Thực trạng nghiên cứu, học tập của sinh viên hiện nay ................................ 6
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ
biện chứng giữa nội dung và hình thức trong nghiên cứu, học tập .................. 7
của sinh viên ...................................................................................................... 7
KẾT LUẬN .................................................................................................. 9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... lOMoAR cPSD| 44985297 MỞ ĐẦU
Trong học phần “Triết học Mác-Lênin” có đề cập đến phép biện chứng duy
vật được tạo thành từ một loạt những phạm trù, những nguyên lý, những quy
luật được khái quát từ hiện thực, phù hợp với hiện thực. Một trong những cặp
phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật chính là cặp phạm trù nội dung
và hình thức. Trong cặp phạm trù này, phép biện chứng duy vật chủ yếu muốn
nói đến hình thức bên trong gắn liền với nội dung, là cơ cấu của nội dung chứ
không chỉ nói đến hình thức bề ngoài của sự vật. Năng lực tư duy biện chứng
về cặp phạm trù nội dung và hình thức sẽ giúp cho sinh viên rất nhiều trong
quá trình học tập bởi nó giúp sinh viên luôn tiếp nhận tri thức một cách khoa
học, sáng tạo, giúp sinh viên có một cái nhìn toàn diện, phát triển tri thức
đúng đắn, đồng thời giúp sinh viên tự học, tự nghiên cứu, giải thích thực tiễn
biến đổi và đưa ra những giải pháp mà thực tiễn đặt ra,…Từ quá trình học tập,
mỗi sinh viên sẽ áp dụng được những kiến thức lý thuyết vào trong hoạt động
thực tiễn, cống hiến sức lực, tư duy của bản thân khiến cho đất nước ngày
càng giàu mạnh và phát triển. Qua đây, là cơ sở để em chọn đề tài: “Quan
điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình
thức và ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong nghiên cứu, học
tập của sinh viên
”. NỘI DUNG
I-CƠ SỞ LÝ LUẬN : QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỀ MỐI
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC
1.Định nghĩa nội dung và hình thức
“ Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo
nên sự vật. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ
thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành sự vật”1.
Bất kỳ sự vật nào cũng có hình thức của nó nhưng hình thức không phải chỉ là
1 PGS.TS.Bùi Thị Thanh Hương - PGS.TS.Nguyễn Minh Hoàn ( Đồng chủ biên),
(2018 ), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, tr.118. 1 lOMoAR cPSD| 44985297
cái biểu hiện ở mặt ngoài mà còn là hình thức bên trong của sự vật, tức là
người ta đề cập tới cơ cấu bên trong của nội dung Ví dụ: Một tác phẩm văn
học thì đều được in thành một cuốn sách nào đó đều có kích thước nhất định,
hình dáng, màu sắc nhất định …Rồi chúng ta thấy bề ngoài nó có sự trang trí
bìa,… nhưng chúng ta thấy đó, những điều đó thì nó mới chỉ là hình thức bề
ngoài, nó không đóng vai trò quan trọng. Cái quan trọng là hình thức bên
trong của tác phẩm được in trong cuốn sách ấy, cụ thể đó là bố cục của tác
phẩm, là các hình tượng nghệ thuật, là ngôn ngữ, là phong cách, là bút pháp,
… được dùng để diễn đạt nội dung, diễn đạt những tư tưởng, những vấn đề
của cuộc sống mà tác phẩm muốn nói lên. Chính điều đó mới là hình thức mà
chủ nghĩa duy vật biện chứng muốn đề cập đến trong cặp phạm trù nội dung và hình thức.
2.Mối quan hệ biện chứng giữa cặp phạm trù nội dung và hình thức
Theo quan điểm biện chứng duy vật thì nội dung và hình thức có mối quan hệ biện chứng như sau:
Thứ nhất, sự thống nhất giữa nội dung với hình thức:
“Ph.Ăngghen đã đưa ra bằng chứng để nói lên rằng giữa nội dung và hình
thức quan hệ biện chứng với nhau và không thể tách rời, ví dụ như quan hệ
giữa các tế bào (hình thức) trong cơ thể với sự phân hóa của vật chất ra cơ,
xương, biểu mô....”2. Nội dung và hình thức thì gắn bó chặt chẽ với nhau,
không tách rời nhau, không có một hình thức nào lại không chứa đựng nội
dung, cũng như không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức.
Có tình hình đó là do nội dung bao gồm những mặt, những yếu tố, những quá
trình tạo nên sự vật. Trong khi đó, hình thức lại chính là hệ thống các mối liên
hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố đó. Như vậy là các cái yếu tố vừa góp
phần tạo nên nội dung vừa tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức. Vì
lẽ đó, nội dung và hình thức không tách rời nhau được. Tuy nhiên, cần lưu ý
2 Ph.Ăngghen, “Biện chứng của tự nhiên” trong C. Mác - Ph.Ăngghen toàn tập, Sđd, t.20, tr.816. 2 lOMoAR cPSD| 44985297
không phải nội dung và hình thức bao giờ cũng phù hợp với nhau và do đó
không phải một nội dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện ra trong một hình
thức nhất định và một hình thức bao giờ cũng chỉ chứa đựng một nội dung
nhất định. Thực ra, sự phù hợp giữa nội dung và hình thức không bao giờ có
thể là sự phù hợp hoàn toàn, tuyệt đối chỉ vì một lẽ chúng là những mặt đối
lập nhau, sự thống nhất tương đối giữa nội dung và hình thức sẽ phá vỡ và sự
vật sẽ không còn là sự vật cũ nữa tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Chính vì vậy, vẫn cùng một nội dung trong tình hình phát triển khác nhau có
thể có nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình thức có thể biểu hiện
những nội dung khác nhau. Do đó, một vấn đề quan trọng đặt ra là phải tận
dụng tất cả mọi loại hình thức có thể có kể cả một số hình thức cũ để phục vụ
cho nội dung mới. Lênin đã kịch liệt phê phán thái độ chỉ thừa nhận những
hình thức cũ đồng thời ông cũng bác bỏ quan niệm phủ nhận mọi hình thức
cũ. Ông đòi hỏi phải khai thác mọi loại hình thức có thể có mới cũng như cũ,
lấy cái nọ bổ sung cho cái kia nhưng không phải để điều hòa cái mới với cái
cũ mà là để làm cho bất cứ hình thức nào cũng trở thành công cụ giành thắng
lợi hoàn toàn và cuối cùng quyết định và dứt khoát cho chủ nghĩa cộng sản.
So với hình thức thì nội dung bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Như vậy, ở
khía cạnh thứ nhất, chúng ta thấy rằng nội dung và hình thức không tách rời
nhau, gắn bó với nhau, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn: Nội dung
của một cơ thể động vật là toàn bộ các cái yếu tố vật chất như: Tế bào, các khí
quan cảm giác, các hệ thống, các quá trình hoạt động của hệ thống,.. để tạo
nên cơ thể đó- đó chính là nội dung của cơ thể động vật, hình thức của một cơ
thể động vật chính là trình tự sắp xếp liên kết các tế bào, các cái hệ thống
tương đối, bền vững của cơ thể động vật. Hay mỗi phân tử nước thì các cái
yếu tố vật chất làm cơ sở cấu thành nên nó chính là hai nguyên tử hydro và
một nguyên tử oxy – đó chính là nội dung. Còn cách thức liên kết hóa học của
chúng chính là hình thức.
Thứ hai, nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình
vận động, phát triển của sự vật :
Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là khuynh hướng biến đổi, phát triển. 3 lOMoAR cPSD| 44985297
Còn hình thức là mặt tương đối bền vững của sự vật, khuynh hướng chủ đạo
của nó là khuynh hướng ổn định. Vì vậy, sự biến đổi, phát triển của sự vật bao
giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi, phát triển của nội dung còn hình thức thì nó
cũng biến đổi nhưng biến đổi chậm hơn, ít hơn so với nội dung. Khi nội dung
biến đổi thì nó buộc hình thức cũng phải biến đổi theo cho phù hợp với nội
dung mới. Ví dụ thứ nhất: Nội dung giai cấp của nhà nước bao giờ cũng quyết
định hình thức nhà nước phù hợp với nó; nội dung giáo dục của nhà trường xã
hội chủ nghĩa quyết định các hình thức và phương pháp giáo dục tương ứng;
hay không thể diễn tả một nội dung bi thảm dưới hình thức hài hước và ngược
lại. Ví dụ thứ hai: Tùy vào nội dung bài học mà người giảng viên phải quyết
định lựa chọn những hình thức giảng dạy khác nhau, phương pháp phù hợp
như thuyết trình, phát vấn, thảo luận nhóm... Nếu hình thức, phương pháp phù
hợp sẽ giúp cho hiệu quả của buổi học nâng cao và ngược lại.
Thứ ba, sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung: Hình thức luôn có
tính độc lập tương đối và tác động tích cực ngược trở lại nội dung và khi phù
hợp với nội dung nó sẽ mở đường và thúc đẩy sự phát triển của nội dung.
Trong trường hợp ngược lại, hình thức sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung.
Trong quá trình phát triển của sự vật: Lúc đầu, những biến đổi diễn ra trong
nội dung chưa ảnh hưởng đến hệ thống mối liên hệ tương đối bền vững của
hình thức nhưng khi những biến đổi đó tiếp tục diễn ra tới một lúc nào đó hệ
thống mối liên hệ tương đối bền vững ấy của hình thức bắt đầu trở nên chặt
hẹp và bắt đầu kìm hãm sự phát triển của nội dung. Hình thức không còn phù
hợp với nội dung mới nữa, sự không phù hợp ấy tiếp tục phát triển và tới một
lúc nào đó thì xảy ra xung đột giữa nội dung và hình thức. Nội dung mới phá
bỏ hình thức cũ và trên cơ sở của hình thức vừa mới hình thành nó tiếp tục
biến đổi, phát triển và chuyển sang trạng thái mới về chất. Mối liên hệ qua lại
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cho chúng ta thấy rất rõ cái mối
quan hệ giữa nội dung và hình thức. Chúng ta biết rằng trong các hình thái
kinh tế xã hội có đối kháng giai cấp lúc đầu quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, là hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất. Nhưng về sau khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ 4 lOMoAR cPSD| 44985297
sản xuất không còn phù hợp nữa và bắt đầu kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự không phù hợp ấy tiếp tục tăng lên và cuối cùng dẫn đến
sự xung đột giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm cho cách mạng
xã hội bùng nổ. Cuộc cách mạng ấy xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ tức là xóa bỏ
hình thức cũ và xác lập quan hệ sản xuất mới tức là hình thức mới. Quan hệ
sản xuất mới này phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất -
tức là nội dung mới và mở đường cho nó tiếp tục phát triển.
3.Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa
nội dung và hình thức
Thứ nhất, nếu nội dung và hình thức luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau
thì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải chống lại
mọi khuynh hướng tách rời nội dung và hình thức. Ở đây cần chống lại cả hai
thái cực sai lầm: hoặc là tuyệt đối hóa hình thức xem thường nội dung hoặc là
tuyệt đối hóa nội dung lại xem thường hình thức.
Thứ hai, vì cùng một nội dung trong tình hình phát triển khác nhau có thể
có nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện nhiều nội
dung khác nhau nên cần sử dụng mọi hình thức có thể có mới cũng như cũ kể
cả phải cải biến những hình thức vốn có, lấy cái này bổ sung, thay thế cho cái
kia để phục vụ cho những nhiệm vụ nhất định tùy theo yêu cầu của hoạt động
thực tiễn. Cần chống lại cả hai thái cực sai lầm hoặc chỉ bám lấy hình thức cũ
bảo thủ, trì trệ, chỉ muốn làm theo kiểu cũ hoặc hoàn toàn phủ nhận vai trò
của nó trong hoàn cảnh mới dẫn đến chủ quan, nóng vội, thay đổi hình thức
cũ một cách tùy tiện, không có căn cứ.
Thứ ba, vì nội dung quyết định hình thức nên để xét đoán sự vật nào đó cần
căn cứ trước hết vào nội dung của nó và nếu muốn làm biến đổi sự vật thì cần
tác động làm thay đổi trước hết nội dung của nó. Đồng thời về hình thức có
thể tác động trở lại đối với nội dung thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của
nội dung khi nó phù hợp hay không phù hợp với nội dung nên trong hoạt
động thực tiễn cần luôn luôn theo dõi mối quan hệ giữa hình thức và nội dung
của sự vật để có thể kịp thời can thiệp vào tiến trình phát triển của nó tạo cho
hình thức của sự vật một sự phù hợp hay không phù hợp cần thiết với nội 5 lOMoAR cPSD| 44985297
dung đang biến đổi của nó nhằm đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển đó tùy
theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn. “V.I. Lênin đã chỉ ra cần phải thường
xuyên đối chiếu giữa nội dung và hình thức, kế thừa hình thức cũ, xây dựng
hình thức mới cho phù hợp với nội dung”3.
II- Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG
DUY VẬT VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NỘI DUNG VÀ
HÌNH THỨC TRONG NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN

1.Thực trạng nghiên cứu, học tập của sinh viên hiện nay
Nói đến những nguyên nhân khiến quá trình nghiên cứu, học tập của sinh
viên không được hiệu quả, chúng ta xem xét trên các mặt sau để có được nhận
thức toàn diện hơn. Thực trạng hiện nay, những công việc như làm thêm, dạy
kèm, bán hàng, tiếp thị,…làm cho sinh viên chểnh mảng, lơ là trong quá trình
học tập hoặc không theo nổi chương trình học đại học chính là những lý do
khiến sinh viên bị buộc thôi học. Tuy nhiên, đó không phải là lý do chính, vì
có những sinh viên cũng vừa đi học vừa đi làm thêm không gây ảnh hưởng
đến quá trình học tập của bản thân. Nguyên nhân ở đây là do bản thân sinh
viên không chịu tìm tòi, nghiên cứu những quyển sách, tài liệu, những kiến
thức liên quan đến môn học phục vụ cho chuyên môn của bản thân và với tâm
lý của sinh viên là quen với việc thầy cô đọc bài cho chép dẫn đến tình trạng
thụ động trong quá trình nghiên cứu, học tập ngày càng thụt lùi đồng thời
năng lực và kiến thức bị hạn chế của sinh viên hiện nay. Việc sinh viên chỉ
nghe giảng viên nói, thuyết trình một cách ồ ạt mà sinh viên không nghiên
cứu trước giáo trình, không đặt ra những câu hỏi cho giảng viên trong quá
trình học tập trên lớp sẽ khiến sinh viên không tiếp thu được bất kỳ lượng
kiến thức nào hoặc lượng kiến thức đọng lại trong não cũng rất ít. Những
nguyên nhân chính khiến sinh viên ngại phát biểu trong quá trình học tập trên
lớp là do cảm giác sợ sai và do sự áp đặt của giảng viên cũng “đóng góp” vào
tâm lý sợ sai của sinh viên.
3 V.I.Lênin (1978), “Chủ nghĩa phiêu lưu cách mạng" trong Lênin toàn tập, Sđd, t.6, tr.476. 6 lOMoAR cPSD| 44985297
Thực tiễn khách quan cho thấy, trong quá trình nghiên cứu, học tập của
sinh viên, tuy giảng viên có nhắc nhở về việc xem lỹ nội dung tài liệu và đọc
kỹ giáo trình trước khi đến lớp nhưng một số sinh viên đều không thực hiện,
với nhận thức học cho có-nhận thức cứng nhắc khiến quá trình học không đạt
hiệu quả, năng lực bản thân không phát triển. Tuy giảng viên đã phải hướng
dẫn dưới mọi hình thức khác nhau rồi cho những tệp tài liệu có kiến thức
trọng tâm nhưng một số bạn sinh viên cũng không ôn lại nội dung những kiến
thức đó luôn khiến kiến thức ngày càng chồng chất ảnh hưởng lớn đến quá
trình nghiên cứu, học tập của sinh viên không được hiệu quả. Đồng thời, bên
cạnh nội dung chương trình học tập, nghiên cứu tại đại học hiện nay đã nặng
nề, thì công cụ hay hình thức để truyền tải lượng kiến thức cho quá trình học
tập, nghiên cứu của sinh viên chưa lấy gì làm hài lòng.
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm biện chứng duy vật về mối
quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức trong nghiên cứu, học tập của sinh viên
Ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm biện chứng duy vật về mối quan
hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức trong nghiên cứu, học tập của sinh
viên, cụ thể như sau: Trong học tập thì nội dung chính là những kiến thức mà
ở ngoài thực tiễn, ở trong sách vở, báo chí hay mình còn học người khác,…
Để học được cái đó thì bản thân sinh viên phải thông qua hình thức – cái hình
thức ở đây chính là phương pháp học tập. Phương pháp học tập gồm có như là
phương pháp lắng nghe, ngoài ra còn có những biểu hiện sinh động hơn của
cái phương pháp đó, cái nội dung học tập đó thì còn có nghe nhạc, thuyết
trình…tức cái hình thức chính là cái để sinh viên thể hiện nội dung thì cái
việc học tập, cái kiến thức chính là nội dung. Vậy thì cái mà để sinh viên thể
hiện được nội dung học tập đó là thuyết trình, đọc thì đó là hình thức để sinh
viên biểu hiện cái việc học tập. Trong quá trình học tập, nghiên cứu thì bản
thân sinh viên muốn học tập, nghiên cứu tốt thì phải kết hợp những phương
pháp học tập tốt, những hình thức học tập tốt. Thứ hai, nội dung quyết định
hình thức do vậy mà sinh viên học cái gì thì sinh viên cần có một phương
pháp học tập phù hợp để học kiến thức đó. Chẳng hạn bây giờ sinh viên 7 lOMoAR cPSD| 44985297
chúng ta học về triết học Mác – Lênin thì sinh viên phải có phương pháp học
phù hợp với Triết học Mác – Lênin. Đối với môn Triết học Mác - Lênin thì
sinh viên phải ghi chép, thiết lập những sợi dây liên kết, sơ đồ tư duy để dễ
nhớ; trong những môn khoa học khác như toán cao cấp thì sinh viên cần phải
tính toán, với tiếng anh thì nó lại khác. Nói đến hình thức tác động ngược trở
lại nội dung thì phải nói đến là việc sinh viên vận dụng phương pháp để sinh
viên học tập. Bản thân sinh viên không nên nhấn mạnh cái mặt nội dung mà
cần phải xem xét thêm về mặt hình thức, đồng thời sinh viên cũng không nên
nhấn mạnh về mặt hình thức và xem nhẹ mặt nội dung trong nghiên cứu cũng
như trong học tập. Nội dung về đề tài nghiên cứu, quá trình học tập quyết
định các hình thức thực hiện trên thực tế tương ứng.
Trong quá trình nghiên cứu và học tập tại trường thì bản thân em là sinh
viên ngành kinh doanh thương mại thì em nhận thấy rằng quá trình nghiên
cứu khoa học hay học tập về chuyên ngành kinh doanh thương mại thì bao
gồm nhiều yếu tố nội dung giống nhau nhưng cách thức tổ chức phân công
giáo viên dạy cho từng lớp hay phương pháp học của mỗi sinh viên trong quá
trình nghiên cứu, học tập có thể khác nhau. Như vậy, nội dung quá trình
nghiên cứu, học tập của sinh viên được diễn ra dưới những hình thức khác
nhau hoặc cùng một hình thức tổ chức giảng dạy như nhau nhưng được thực
hiện trong những ngày, những khu vực với những yếu tố vật chất cũng khác
nhau. Do đó, một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung khác nhau.
Tóm lại, trong nghiên cứu, học tập thì sinh viên phải chú ý sự thống nhất
giữa nội dung và hình thức, không được tách rời, tuyệt đối hóa một mặt, đặc
biệt đề phòng rơi vào chủ nghĩa hình thức. Thứ hai, nội dung quyết định hình
thức nên phải coi trọng nội dung trước đồng thời quan tâm đúng mức đến
hình thức. Chẳng hạn khi sinh viên làm một bài văn, một bài tiểu luận, một
bài luận,…trước hết sinh viên phải chuẩn bị nội dung cho tốt nhưng sinh viên
cũng không được xem nhẹ hình thức, không được xem nhẹ kết cấu câu văn,
dấu chấm, dấu phẩy, các lỗi kỹ thuật,…Nói về điều này thì sinh viên cần nhớ
rằng cha ông chúng ta đã nhắc nhở “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Thứ ba, khi
hình thức đã lạc hậu, mâu thuẫn với nội dung thì kiên quyết thay đổi hình 8 lOMoAR cPSD| 44985297
thức để tạo cho nội dung phát triển nhanh chóng, thuận lợi và ngược lại.
Chẳng hạn khi sinh viên muốn lựa chọn sách để nghiên cứu, học tập thì nội
dung chất lượng của các cuốn sách thay đổi cùng với mẫu mã cũng rất đa
dạng, phong phú. Tuy nhiên cũng có không ít cuốn sách mẫu mã thì đẹp,
trông rất bắt mắt, hấp dẫn nhưng nội dung thì lại rất kém mà ta hay gọi đó là
hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Trên đây là toàn bộ ý nghĩa của
việc nghiên cứu quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng
giữa nội dung và hình thức trong nghiên cứu, học tập của sinh viên. KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện
chứng giữa nội dung và hình thức và ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm
đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên khiến em hiểu và nắm rõ hơn mối 9 lOMoAR cPSD| 44985297
quan hệ biện chứng giữa cặp phạm trù nội dung và hình thức thể hiện rõ nét ở
ba điểm: Một là, nội dung và hình thức là hai phương tiện cấu thành nên mỗi
sự vật. Không có sự vật nào tồn tại mà chỉ có nội dung mà không có hình thức
nhất định. Hai là, cùng một nội dung nhưng có thể có những phương thức kết
hợp khác nhau ngược lại các nội dung khác nhau nhưng có thể có sự đồng
dạng về phương thức kết hợp giữa chúng tuy nhiên điều đó không phải là
tuyệt đối phi nguyên tắc. Ba là, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là
mối quan hệ biện chứng, trong đó nội dung quyết định hình thức còn hình
thức thì sẽ tác động trở lại nội dung. Giữa nội dung và hình thức không phải
luôn luôn có sự thống nhất. Thông thường quá trình biến đổi phát triển của sự
vật bắt đầu từ sự biến đổi nội dung của nó dưới một hình thức phù hợp. Tới
một giới hạn nhất định sẽ xuất hiện sự không còn phù hợp giữa nội dung và
hình thức khi đó xuất hiện nhu cầu thay đổi hình thức tạo nên sự phù hợp
mới… Do vậy, việc nghiên cứu quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ
biện chứng giữa nội dung và hình thức không chỉ giúp bản thân sinh viên có
một nền tảng kiến thức triết lý mà còn giúp sinh viên vận dụng một cách dễ
dàng vào việc nghiên cứu, học tập trở thành những người có ích cho xã hội và
có trình độ năng lực cao trở thành những nhân tài góp phần thúc đẩy sự phát
triển của đất nước ngày càng phồn vinh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
PGS.TS.Bùi Thị Thanh Hương - PGS.TS.Nguyễn Minh Hoàn ( Đồng
chủ biên), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, 2018. 2.
Ph.Ăngghen, “Biện chứng của tự nhiên” trong C. Mác - Ph.Ăngghen
toàn tập, Sđd, t.20, tr.816. 10 lOMoAR cPSD| 44985297 3.
V.I.Lênin (1978), “Chủ nghĩa phiêu lưu cách mạng" trong Lênin toàn tập, Sđd, t.6, tr.476. 11