/6
1.3.2 Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Nắm vững phép biện chứng duy vật luôn theo sát, kịp thời khái quát những
thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
Lênin đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của các quan niệm duy tâm,
siêu hình nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát đúng đắn về mặt triết
học trên hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý thức mối quan hệ
giữa chúng.
Theo quan điểm triết học Mác Lênin, vật chất ý thức mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại
vật chất.
1.3.2.1
Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên những khía
cạnh sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất “sinh” ra ý thức, ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con
người cách đây t 3 đến 7 triệu năm, con người kết quả của một q trình
phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con
người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức một thuộc
tính của bộ óc con người cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu
của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh rằng, giới t nhiên trước con
người; vật chất là cái trước, ý thức cái sau; vật chất tính thứ nhất, ý
thức tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức, nguồn
gốc sinh ra ý thức. Bộ óc con người một dạng vật chất tổ chức cao nhất, là
quan phản ánh, để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động
thần kinh của b não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận
động của thế giới vật chất yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất
duy bộ óc con người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Suy cho cùng, dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều phản ánh hiện thực
khách quan. Ý thức trong nội dung của chẳng qua kết quả của sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác,
thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó,
được phản ánh vào ý thức mới nội dung của ý thức.
Thế giới khách quan, trước hết chủ yếu hoạt động thực tiễn tính hội
lịch sử của loài người, yếu tố quyết định nội dung ý thức phản ánh.
C.Mác Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Ý thức […] không bao giờ có thể cái khác
hơn sự tồn tại được ý thức […]” Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách
quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng chiều sâu động
lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú độ sâu sắc nội dung của duy,
ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới văn minh,
hiện đại.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh sáng tạo hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức.
Nhưng sự phản ánh của con người không phải “soi gương”, “chụp ảnh” hoặc
“phản ánh tâm lý” phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực
tiễn. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như những sự
vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật
chất thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn hoạt động
vật chất tính cải biến thế giới của con người sở để hình thành, phát
triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản
ánh để sáng tạo sáng tạo trong phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi vật chất;
vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người
một sinh vật tính hội ngày càng phát triển cả v thể chất lẫn tinh thần,
thì nhiên ý thức một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về
nội dung hình thức phản ánh. Đời sống hội ngày càng văn minh khoa
học ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó.
Loài người nguyên thủy sống bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên t duy
của họ cũng đơn sơ, giản dị. Cùng với mỗi bước phát triển của sản xuất, duy,
ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh thần của con
người ngày càng phong phú. Con người không chỉ ý thức được hiện tại, còn
ý thức được cả những vấn đ trong q khứ dự kiến được cả tương lai, trên
sở khái quát ngày càng sâu sắc bản chất, quy luật vận động, phát triển của tự
nhiên, hội duy. Sự vận động, biến đổi không ngừng của thế giới vật
chất, của thực tiễn yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của duy, ý thức
con người. Khi sản xuất hội xuất hiện chế độ hữu, ý thức chính trị, pháp
quyền cũng dần thay thế cho ý thức quần cư, cộng đồng thời nguyên thủy.
Trong nền sản xuất bản, tính chất hội hóa của sản xuất phát triển sở
để ý thức hội chủ nghĩa ra đời, đỉnh cao sự hình thành phát triển không
ngừng lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin.
Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu
hiện vai t của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống
tinh thần, tồn tại hội với ý thức hội. Một quốc gia nền kinh tế ổn định,
phát triển t chính trị hội sẽ điều kiện để củng cố, bền vững, đời sống
nhân dân ngày ng ấm no, hạnh phúc. Ngược lại, khi nền kinh tế gặp nhiều bất
ổn, khủng hoảng, suy thoái, lạm phát,… t đời sống chính trị không thể ổn
định, nguy gia tăng nhiều xung đột, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống
của nhân dân. Trong hội, sự phát triển của kinh tế xét đến cùng quy định sự
phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi t sớm muộn đời sống tinh
thần cũng thay đổi theo. dụ, một hội phong kiến đã tích lũy đ sự phát
triển về lượng để dẫn đến s thay đổi về chất, một hình thái xã hội mới
bản chủ nghĩa, tức quan hệ sản xuất phong kiến được thay bằng quan hệ sản
xuất bản chủ nghĩa. Tất yếu, các yếu tố của nền chính trị: Nhà nước, pháp
luật, Đảng phái đều s sự thay đổi tương ứng để bảo vệ quyền lợi của giai
cấp thống trị mới sản, đồng thời đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển của
hội.
Vật chất ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt
nhận thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V.I. nin, rằng
“sự đối lập giữa vật chất ý thức chỉ ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi
hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vẫn đề nhận thức luận
bản thừa nhận cái cái trước cái cái sau? Ngoài giới hạn
đó, thì không còn nghi ngờ nữa rằng sự đối lập đó tương đối”. đây, tính
tương đối của sự đối lập giữa vật chất ý thức thể hiện qua mối quan hệ giữa
thực thể vật chất đặc biệt bộ óc con người thuộc tính của chính nó.
1.3.2.2
Ý thức tính độc lập tương đối tác động trở lại vật chất
Vật chất cái trước, ý thức cái sau, ý thức do vật chất quyết định. Đó
quan điểm của các n duy vật trước Mác đã khẳng định. Nhưng triết học
Mác Lênin không chỉ dừng lại đó còn khẳng định rằng vật chất quyết
định ý thức, song ý thức lại tác động trở lại vật chất, cải tạo lại thế giới vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện chỗ, ý thức sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi
đã ra đời t ý thức “đời sống” riêng, quy luật vận động, phát triển riêng,
không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì
tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức thể thay đổi
nhanh, chậm, song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi
chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức thể làm biến đổi những
điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ
cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi
được hiện thực. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu
biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp,
ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt ý thức
tiến bộ, ch mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân lực lượng vật
chất hội, t vai trò rất to lớn. “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể
thay thế được sự phê phán của khí, lực lượng vật chất chỉ thể bị đánh đổ
bằng lực lượng vật chất; nhưng luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một
khi thâm nhập vào quần chúng”.
Thứ ba, vai t của ý thức thể hiện chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức thể dự báo, tiên
đoán một cách chính xác cho hiện thực, thể hình thành nên những luận
định hướng đúng đắn và những luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp
phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật
chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức thể tác động tiêu cực khi
phản ánh sai lệch, xuyên tạc hiện thực.
Trong các loại ý thức t ý thức luận khoa học vai trò to lớn nhất. Ý thức
luận của giai cấp sản chủ nghĩa Mác Lênin. Đó hệ thống lý luận
khoa học, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của giai cấp công nhân quần
chúng nhân dân lao động trong việc cải tạo thế giới bằng thực tiễn. Tác động
của ý thức rất năng động to lớn. như C. Mác đã khẳng định “…Lý luận
thể trở thành sức mạnh vật chất khi thâm nhập vào lực lượng quần chúng”.
Điều này được thể hiện rất trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nước ta.
Khi nước nhà lâm nguy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến, lời kêu gọi đó đã thấm sâu vào khối óc con tim của hàng triệu
con người Việt Nam, đặc biệt các anh bộ đội cụ Hồ, họ đã không ngại k
khăn gian khổ, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh độc lập, tự do của tổ quốc,
tưởng chủ nghĩa hội. Vật chất quyết định ý thức, ý thức tác động trở lại vật
chất, mối quan hệ biện chứng ấy sở khách quan của phương pháp luận
khoa học: mọi suy nghĩ nh động phải xuất phát từ thực tiễn khách quan
đồng thời phải biết phát huy tính năng động chủ quan.
Thứ tư, hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khi tri thức khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai t của tri
thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Mỗi một chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ xu hướng phát triển
tất yếu của hội, từ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội. Trong bối cảnh lịch
sử hội hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế thị trường, mỗi bản
thân chúng ta phải xác định cho mình một lý tưởng sống, sống mục đích,
sống không lãng phí. Thật không đơn giản chút nào khi cả cái tích cực tiêu
cực trong hội đang đan xen vào nhau, đang triệt tiêu lẫn nhau thậm chí
những nơi cái tiêu cực còn lấn át cái tích cực. Cái vật chất tầm thường đã làm
gục ngã biết bao nhiêu cán bộ Đảng viên chức quyền, đã làm cho họ
không thể ý thức nổi họ đã phải đánh đổi cả một cuộc đời mới ngày vinh
quang hôm nay. Cuộc sống hôm nay thật phức tạp, nếu thoát ly khỏi cuộc sống
thực tại sẽ trở thành duy tâm chủ nghĩa, còn nếu phù hợp một cách thụ động sẽ
trở nên thực dụng, còn nếu cứ ôm khư khư lấy cái bản lĩnh, lý tưởng một cách
máy móc, cứng thì chắc chắn sẽ gặp không ít k khăn nếu không kịp thích
ứng khi sẽ bị đào thải. Cho nên nói đến vai trò của ý thức thực chất nói
đến vai t của con người, do đó cần phải trang bị ý thức luận khoa học cho
cán bộ, cho đông đảo quần chúng nhân dân bởi “muốn xây dựng hội chủ
nghĩa phải những con người hội chủ nghĩa”.
Tính năng động sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng không thể vượt
qua tính quy định của những tiền đ vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều
kiện khách quan năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên
điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào “vũng bùn” của chủ nghĩa chủ quan, duy tâm,
duy ý chí, phiêu lưu không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
1.3.2.2. Ý thức tác động trở lại vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
ý thức ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức nói đến vai
trò của con người. Bản thân ý thức tự không trực tiếp thay đổi được trong
hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động
vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò
của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất trang
bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên sở ấy con người xác
định mục tiêu, đề ra phương huớng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp,
biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. đ thực hiện mục tiêu của mình. đây, ý
thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực
tiền của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: ch cực
hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, tri thức khoa học, tình cảm
cách mạng, nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các
quy luật khách quan, con người năng lực vượt qua những thách thức trong
quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo đó sự tác động
tích cực cúa ý thức. n nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện
thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành
động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ
tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức thế
quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng
hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai t của vật chất,
của ý thức thể thấy: vật chất nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung
khả năng sáng tạo ý thức; điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ
khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân phải
thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh
của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức,
mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của
con người những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người
hành động theo định hướng của ý thức.
dụ: Khi nhiệt đố 0 đ C thì nước đông thành đá, do đó con người muốn
uống nước đá đã cung cấp một nhiệt độ vừa đ để nước chuyển từ trạng thái
lỏng, sang trạng thái rắn (nước đá).
Link tham khảo: https://luathoangphi.vn/moi-quan-he-giua-vat-chat-va-y-thuc/

Preview text:

1.3.2 Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Nắm vững phép biện chứng duy vật và luôn theo sát, kịp thời khái quát những
thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
– Lênin đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của các quan niệm duy tâm,
siêu hình và nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát đúng đắn về mặt triết
học trên hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng.
Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
1.3.2.1 ​ Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con
người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quá trình
phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con
người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức – một thuộc
tính của bộ óc con người – cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu
của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh rằng, giới tự nhiên có trước con
người; vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, ý
thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức, là nguồn
gốc sinh ra ý thức. Bộ óc con người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là
cơ quan phản ánh, để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động
thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận
động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc con người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Suy cho cùng, dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực
khách quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có
thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó,
được phản ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức.
Thế giới khách quan, trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội
– lịch sử của loài người, là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh.
C.Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Ý thức […] không bao giờ có thể là cái gì khác
hơn là sự tồn tại được ý thức […]” Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách
quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động
lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của tư duy,
ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện đại.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức.
Nhưng sự phản ánh của con người không phải là “soi gương”, “chụp ảnh” hoặc
là “phản ánh tâm lý” mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực
tiễn. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những sự
vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật
chất là thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động
vật chất có tính cải biến thế giới của con người – là cơ sở để hình thành, phát
triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản
ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi vật chất;
vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người
– một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần,
thì dĩ nhiên ý thức – một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về
nội dung và hình thức phản ánh. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa
học ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó.
Loài người nguyên thủy sống bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư duy
của họ cũng đơn sơ, giản dị. Cùng với mỗi bước phát triển của sản xuất, tư duy,
ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh thần của con
người ngày càng phong phú. Con người không chỉ ý thức được hiện tại, mà còn
ý thức được cả những vấn đề trong quá khứ và dự kiến được cả tương lai, trên
cơ sở khái quát ngày càng sâu sắc bản chất, quy luật vận động, phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Sự vận động, biến đổi không ngừng của thế giới vật
chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức
con người. Khi sản xuất xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, ý thức chính trị, pháp
quyền cũng dần thay thế cho ý thức quần cư, cộng đồng thời nguyên thủy.
Trong nền sản xuất tư bản, tính chất xã hội hóa của sản xuất phát triển là cơ sở
để ý thức xã hội chủ nghĩa ra đời, đỉnh cao là sự hình thành và phát triển không
ngừng lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu
hiện ở vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống
tinh thần, tồn tại xã hội với ý thức xã hội. Một quốc gia có nền kinh tế ổn định,
phát triển thì chính trị xã hội sẽ có điều kiện để củng cố, bền vững, đời sống
nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Ngược lại, khi nền kinh tế gặp nhiều bất
ổn, khủng hoảng, suy thoái, lạm phát,… thì đời sống chính trị không thể ổn
định, nguy cơ gia tăng nhiều xung đột, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống
của nhân dân. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế xét đến cùng quy định sự
phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh
thần cũng thay đổi theo. Ví dụ, một xã hội phong kiến đã tích lũy đủ sự phát
triển về lượng để dẫn đến sự thay đổi về chất, là một hình thái xã hội mới – tư
bản chủ nghĩa, tức là quan hệ sản xuất phong kiến được thay bằng quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Tất yếu, các yếu tố của nền chính trị: Nhà nước, pháp
luật, Đảng phái đều sẽ có sự thay đổi tương ứng để bảo vệ quyền lợi của giai
cấp thống trị mới – tư sản, đồng thời đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển của xã hội.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt
nhận thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V.I. Lênin, rằng
“sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi
hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vẫn đề nhận thức luận
cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn
đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối”. Ở đây, tính
tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện qua mối quan hệ giữa
thực thể vật chất đặc biệt – bộ óc con người và thuộc tính của chính nó.
1.3.2.2 ​ Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, ý thức do vật chất quyết định. Đó
là quan điểm của các nhà duy vật trước Mác đã khẳng định. Nhưng triết học
Mác – Lênin không chỉ dừng lại ở đó mà nó còn khẳng định rằng vật chất quyết
định ý thức, song ý thức lại tác động trở lại vật chất, cải tạo lại thế giới vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi
đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng,
không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có
tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi
nhanh, chậm, song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi
chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những
điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ
cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi
được hiện thực. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu
biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp,
ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức
tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân – lực lượng vật
chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn. “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể
thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ
bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một
khi nó thâm nhập vào quần chúng”.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên
đoán một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận
định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp
phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật
chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó
phản ánh sai lệch, xuyên tạc hiện thực.
Trong các loại ý thức thì ý thức lý luận khoa học có vai trò to lớn nhất. Ý thức
lý luận của giai cấp vô sản là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là hệ thống lý luận
khoa học, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của giai cấp công nhân và quần
chúng nhân dân lao động trong việc cải tạo thế giới bằng thực tiễn. Tác động
của ý thức rất năng động và to lớn. Và như C. Mác đã khẳng định “…Lý luận có
thể trở thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào lực lượng quần chúng”.
Điều này được thể hiện rất rõ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta.
Khi nước nhà lâm nguy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến, lời kêu gọi đó đã thấm sâu vào khối óc và con tim của hàng triệu
con người Việt Nam, đặc biệt là các anh bộ đội cụ Hồ, họ đã không ngại khó
khăn gian khổ, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì độc lập, tự do của tổ quốc, vì lí
tưởng chủ nghĩa xã hội. Vật chất quyết định ý thức, ý thức tác động trở lại vật
chất, mối quan hệ biện chứng ấy là cơ sở khách quan của phương pháp luận
khoa học: mọi suy nghĩ và hành động phải xuất phát từ thực tiễn khách quan
đồng thời phải biết phát huy tính năng động chủ quan.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri
thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Mỗi một chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ xu hướng phát triển
tất yếu của xã hội, từ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh lịch
sử xã hội hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế thị trường, mỗi bản
thân chúng ta phải xác định cho mình một lý tưởng sống, sống có mục đích,
sống không lãng phí. Thật không đơn giản chút nào khi cả cái tích cực và tiêu
cực trong xã hội đang đan xen vào nhau, đang triệt tiêu lẫn nhau thậm chí có
những nơi cái tiêu cực còn lấn át cái tích cực. Cái vật chất tầm thường đã làm
gục ngã biết bao nhiêu cán bộ Đảng viên có chức có quyền, đã làm cho họ
không thể ý thức nổi là họ đã phải đánh đổi cả một cuộc đời mới có ngày vinh
quang hôm nay. Cuộc sống hôm nay thật phức tạp, nếu thoát ly khỏi cuộc sống
thực tại sẽ trở thành duy tâm chủ nghĩa, còn nếu phù hợp một cách thụ động sẽ
trở nên thực dụng, còn nếu cứ ôm khư khư lấy cái bản lĩnh, lý tưởng một cách
máy móc, xơ cứng thì chắc chắn sẽ gặp không ít khó khăn nếu không kịp thích
ứng có khi sẽ bị đào thải. Cho nên nói đến vai trò của ý thức thực chất là nói
đến vai trò của con người, do đó cần phải trang bị ý thức lý luận khoa học cho
cán bộ, cho đông đảo quần chúng nhân dân bởi “muốn xây dựng xã hội chủ
nghĩa phải có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Tính năng động sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng không thể vượt
qua tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều
kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên
điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào “vũng bùn” của chủ nghĩa chủ quan, duy tâm,
duy ý chí, phiêu lưu và không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
1.3.2.2. Ý thức tác động trở lại vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai
trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong
hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động
vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò
của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang
bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác
định mục tiêu, đề ra phương huớng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp,
biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý
thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiền của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực
hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm
cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các
quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong
quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo – đó là sự tác động
tích cực cúa ý thức. Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện
thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành
động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ
có tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế
quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng
hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất,
của ý thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và
khả năng sáng tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ
có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải
thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh
của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức,
mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của
con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người
hành động theo định hướng của ý thức.
Ví dụ: Khi ở nhiệt đố 0 độ C thì nước đông thành đá, do đó con người muốn
uống nước đá đã cung cấp một nhiệt độ vừa đủ để nước chuyển từ trạng thái
lỏng, sang trạng thái rắn (nước đá).
Link tham khảo: https://luathoangphi.vn/moi-quan-he-giua-vat-chat-va-y-thuc/
Document Outline

  • 1.3.2Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
  • 1.3.2.2. Ý thức tác động trở lại vật chất