Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức, vai trò của tri thức khoa học trong sự phát triển của xã hội.| Đề cương môn Triết học Mác – Lênin

Trên đà phát triển công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động mà chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và tiến bộ kỹ thuật . Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
14 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức, vai trò của tri thức khoa học trong sự phát triển của xã hội.| Đề cương môn Triết học Mác – Lênin

Trên đà phát triển công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động mà chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và tiến bộ kỹ thuật . Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

18 9 lượt tải Tải xuống
BỘ MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
----------
ĐỀ CƯƠNG
---***---
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN
CHỨNG VỀ Ý THỨC, VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC
TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI.
MÃ MÔN HỌC: LLCT 130105_1_24 CLC.
GVC TS: ĐẶNG THỊ MINH TUẤN.
THÀNH VIÊN :Bùi Quang Khải Mssv: 23161137
Phan Vũ Bình Mssv: 23161107
Nguyễn Nhật Hào Mssv: 23161123
Đặng Thiên Lộc Mssv: 23161147
Phạm Phúc Khang Mssv: 23161135
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2023
.
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ Ý
THỨC, VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC TRONG SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA XÃ HỘI.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên đà phát triển công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp
hóa việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào
thời gian lao động và số lượng lao động mà chúng phụ
thuộc vào trình độ chung của khoa học và tiến bộ kỹ
thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy
trong sản xuất. Lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu
là lao động được nhập vào quá trình sản xuất mà chủ yếu
là một loại lao động, trong đó, con người là người kiểm
soát và điều tiết bản thân quá trình sản xuất. Hệ thống
máy móc tự động sẽ từng bước thay thế hầu hết lao động
trực tiếp. Bởi vậy, thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá
trình sản xuất, công nhân lại đứng bên cạnh quá trình ấy.
Khi ấy tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với các
ngành nghề đa dạng khác thì việc vận dụng khoa học vào
nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những
yếu tố có tính chất quyết định và kích thích. Vì vậy, nhóm
em chọn vấn đề: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về ý thức, vai trò của tri thức khoa học trong sự
phát triển của xã hội.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu Quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng về ý thức, vai trò của tri thức khoa học
trong sự phát triển của xã hội.
Để đạt được mục tiêu, bài tiểu luận sẽ tập trung vào các nhiệm vụ
sau:
- Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa
duy vật biện chứng về ý thức.
- Trình bày khái quát vai trò của tri thức khoa học trong sự phát
triển của xã hội; phân tích mối tương quan giữa tri thức khoa học
và sự phát triển của xã hội và đề xuất một số giải pháp phát triển
xã hội Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
-Tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thông tin, nghiên cứu và
đưa ra những nhận xét, đánh giá.
-Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và
mô tả, phân tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành xã hội
và nhân văn.
4. Bố cục đề tài
Tiểu luận được trình bày với nội dung qua 2 chương:
Chương 1: Chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức.
Chương 2: Vai trò của tri thức khoa học trong sự phát triển của
xã hội.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ Ý
THỨC
1.1 Nguồn gốc của ý thức :
Nguồn gốc ý thức luôn đề tài luôn được tranh luận gay gắt giữa chủ nghĩa
duy vật duy tâm nhưng theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
khẳng định ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
1.1.1 Nguồn gốc tự nhiên của ý thức:
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin ý thức chỉ là thuộc tính của một dạng ,
vật chất sống tổ chức cao nhất là bộ óc người. Bộ óc người khí quan vật
chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người .Mối quan hệ giữa bộ óc
người hoạt động bình thường ý thức không thể tách rời bộ óc. Tất cả những
quan niệm tách rời hoặc đồng nhất ý thức với óc người đều dẫn đến quan điểm
duy tâm, thần bí hoặc duy vật tầm thường. Ý thức là chức năng của bộ óc người
hoạt động bình thường. Sinh ý thức hai mặt của một quá trình - quá
trình sinh lý thần kinh trong bộ óc người mang nội dung ý thức, cũng giống như
tín hiệu vật chất mang nội dung thông tin.Như vậy, sự xuất hiện con người
hình thành bộ óc của con người năng lực phản ánh hiện thực khách quan
nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
-Bộ óc con người:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của mộtdạng
vật chất sống tổ chức cao bộ óc người. Bộ óc người cấu trúc đặc biệt
phát triển, rất tinh vi phức tạp, bao gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh.
Sự phân khu của não bộ và hệ thống dây thần kinh liên hệ với các giác quan để
thu nhận và xử lý thông tin từ thế giới khách quan vào não bộ, hình thành những
phản xạ có điều kiện và không có điều kiện, điều khiển các hoạt động của cơ thể
trong quan hệ với thế giới bên ngoài.
=>Bộ óc người quan vật chất của ý thức, điều kiện cần thiết để hình
thành ý thức. Sự tác động của thế giới khách quan lên bộ óc người điều kiện
cần thiết để hình thành ý thức.Sự tác động này diễn ra thông qua các giác quan,
các giác quan tiếp nhận các kích thích tthế giới bên ngoài truyền tới bộ
não.
-Sự phản ánh:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phản ánh thuộc tính phổ
biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên hệ, tác động qua lại
giữa các đối tượng vật chất với nhau. Đósự tái tạo những đặc điểm của một
hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua
lại của chúng. Sự phản ánh phụ thuộc vào vật tác động vật nhận tác động;
đồng thời luôn mang nội dung thông tin của vật tác động. Các kết cấu vật chất
càng phát triển, hoàn thiện thì năng lực phản ánh của càng cao gồm 3 dạng
vật chất ( đơn giản ->phức tạp)
+ Phản ánh vật lý, hóa học: Đó trình độ phản ánh mang tính thụ động, chưa
có sự định hướng, lựa chọn. (giới vô sinh)
+Phản ánh sinh học: Đó trình độ phản ánh mang tính định hướng, lựa chọn,
giúp cho các thể sống thích nghi với môi trường để tồn tại, bao gồm nhiều
hình thức cụ thể cao thấp khác nhau tùy thuộc vào mức độ hoàn thiện, đặc điểm
cấu trúc của các cơ quan chuyên trách làm chức năng phản ánh: ở thực vật, là sự
kích thích,ở động vật hệ thần kinh thì sự phản xạ, động vật cấp cao
bộ óc thì là tâm lý (giới hữu sinh)
+Phản ánh ý thức: Đó là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực,
ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự
xuất hiện của con người.
1.1.2 Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Bên cạnh nguồn gốc tự nhiên của ý thức thì còn nguồn gốc hội của ý thức
vai trò vô cùng quan trọng điều kiện tiên quyết để trực tiếp quyết định
sự ra đời của ý thức.
- Lao động:
nguồn gốc xã hội trực tiếp của ý thức. Lao động đã tạo ra những nhu cầu và
đòi hỏi mới của con người, thúc đẩy sự phát triển của ý thức. Dấu ấn đầu tiên là
con người phát minh ra lửa từ đó họ dùng lửa để sưởi ấm, xua đuổi thú
hoang,...Hay từ những cuộc hái lượm, săn bắt con người dần làm ra những
công cụ lao động như giáo mác.Tất cả những việc đó giúp duy con người
ngày càng phát triển không ngừng mở rộng,ngày một hoàn thiện sở suy
luận.
- Ngôn ngữ:
phương tiện giao tiếp và tư duy của con người. Ngôn ngữ đã giúp con người
ghi lại, truyền đạt phát triển ý thức. Nhờ ngôn ngữ, con người thể khái
quát, trừu tượng hóa, suy nghĩ độc lập, tách khỏi sự vật cảm tính; ngôn ngữ
để thể giao tiếp, trao đổi tưởng, lưu giữ, kế thừa những tri thức, kinh
nghiệm phong phú của xã hội đã tích lũy được qua các thế hệ, thời kỳ lịch sử. Ý
thức một hiện tượng tính hội, do đó không phương tiện trao đổi
hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
1.2Bản chất của ý thức:
Gồm 4 khía cạnh:
-Thứ nhất, bản chất của ý thức hình ảnh chủ quan của thế giới khách 1 quan,
là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
-Thứ hai, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Về nội dung mà
ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức phản ánh là chủ quan.
-Thứ ba, tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện
trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử thông tin,
lưu giữ thông tin trên sở những thông tin đã thể tạo ra những
thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận.
-Thứ tư, hiện tượng xã hội, là quá trình phản ánh có định hướng, có mục đích rõ
rệt. Ý thức hình thành, phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn hội. Bằng
hoạt động thực tiễn đa dạng, phong phú của
1.3 Kết cấu của ý thức:
*Các lớp cấu trúc của ý thức:
-Tri thức: “Trí thức bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn
bao hàm tất cả mọi người học thức, các đại biểu của những người tự do nói
chung, các đại biểu của lao động trí óc”.Tri thức nhiều lĩnh vực khác nhau
như: trị thức về tự nhiên, xã hội, con người; có nhiều cấp độ khác nhau như:
tri thức cảm tínhtri thức tính; tri thức kinh nghiệm tri thức luận; tri
thức tiền khoa học và tri thức khoa học, v.v.. Tích cực tìm hiểu, tích lũy tri thức
về thế giới xung quanh là yêu cầu thường xuyên của con người trên bước đường
cải tạo thế giới.
-Tình cảm: Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tổn tại,phản
ánh quan hệ giữa người với người quan hệ giữa người với thế giới khách
quanTình cảm tham gia trở thành một trong những động lực quan trọng của
hoạt động con người.
-Ý chí: Muốn vượt qua khó khăn để đạt tới mục đích, chủ thể nhận thức phải có
ý chí, quyết tâm cao. Ý chí chính những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động
mọi tiềm năng trong mỗi con người vào hoạt động để thể vượt qua mọi trở
ngại, đạt mục đích đề ra. Nhận rõ vị trí, vai trò của các nhân tố cấu thành ý thức
mối quan hệ giữa các yếu tố đó, đòi hỏi mỗi chủ thể phải luôn tích cực học
tập, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong nhận
thức và cải tạo thế giới.
*Các cấp độ của ý thức:
-Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với ý
thức về thế giới bên ngoài. Qua đó, xác định đúng vị tríđiểm mạnh, điểm yếu
của mình, ý thức về mình như một nhân - chủ thể ý thức đầy đủ về hành
động của mình; luôn làm chủ bản thân, chủ động điều chỉnh hành vi của mình
trong tác động qua lại với thế giới khách quan.
Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân, mà còn là tự ý thức của các nhóm
xã hội khác nhau.
-Tiềm thức những hoạt động tâm diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý
thức. Về thực chất, tiềm thức những tri thức chủ thể từ trước gần như
đã thành bản năng, kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ thể, ý thức
dưới dạng tiềm tàng.Do đó, tiềm thức thể tự động gây ra các hoạt động tâm
lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp.
Tiềm thức vai trò quan trọng trong đời sống duy khoa học. Tiềm thức
gắn rất chặt chẽ với loại hình duy chính xác, được lặp lại nhiều lần. Khi
tiềm thức hoạt động sẽ góp phần giảm bớt sự quá tải của đầu óc khi công việc
lặp lại nhiều lần, mà vẫn đảm bảo độ chính xác cao và chặt chẽ cần thiết của
duy khoa học.
-Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài
phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. Chúng
điều khiển những hành vi thuộc về bản năng, thói quen... trong con người thông
qua phản xạ không điều kiện. Con người một thực thể hội ý thức,
nhưng không phải mọi hành vi của con người đều do lý trí chỉ đạo Vô thức biểu
hiện ra thành nhiều hiện tượng khá nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị
thôi miên. lời, nói nhiều,...
thức hoạt động tầng sâu của tâm - ý thức, vai trò to lớn trong đời
sống hoạt động của con người. Trong một số hoàn cảnh, thức giúp cho
con người giảm bớt sự căng thẳng không cần thiết của ý thức do thần kinh làm
việc quá tải.
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC TRONG
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI.
2.1 Tri thức khoa học là gì?
Tri thức khoa học hệ thống tri thức khái quát về mọi sự vật, hiện tượng
quy luật vận động của chúng, tri thức khoa học được xác lập trên sở chính
xác, đã được chứng minh và có tính ứng dụng cao.
2.1.1 Sự phát triển là gì ?
Phát triển là một hình thức vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
2.1.2 Mối tương quan giữa tri thức khoa học và sự phát triển của xã hội
Nguồn tri thức khoa học được con người tích lũy không chỉ thông qua thời gian,
kinh nghiệm mà còn thông qua chính con người. Con người luôn vận động
thông qua nhiều hình thức đến nỗi chính con người cũng không thể nhận ra rằng
bản thân đang vận động trong vô thức. Việc đặt câu hỏi tại sao về vạn vật chính
là cách con người vận động để thu thập tri thức về thế giới xung quanh mà con
người đang sống.
Tri thức khoa học được tích lũy càng phong phú, xã hội càng phát triển phong
phú như vậy. Xã hội được phát triển dựa trên nền tảng là tri thức. Hiểu biết càng
nhiều, nhận thức càng lớn. Tri thức chính là nguyên liệu quan trọng trong quá
trình xã hội loài người phát triển từ nguyên thủy đến hiện đại.
Xã hội phát triển kéo theo các phương tiện, vật chất phát triển theo. Các phương
tiện, vật chất không chỉ có sức ảnh hưởng đến một khía cạnh nào đó của xã hội,
mà ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội và những gì bên trong xã hội. Từ đó làm gia
tăng mức độ bao phủ của tri thức lên xã hội loài người, che lấp đi những điều
chưa biết. Đồng thời, xã hội càng phát triển mang đến hệ quả tất yếu là sự thiếu
hụt về nguồn tri thức mới. Yêu cầu về tri thức càng ngày càng gia tăng để đáp
ứng một cách phù hợp sự phát triển của xã hội.
2.2 Vai trò của tri thức khoa học trong sự phát triển của xã hội
#Tri thức khoa học là nền tảng của sự phát triển xã hội
Tri thức khoa học là cơ sở để con người hiểu biết về thế giới khách quan, là cơ
sở để con người sản xuất ra của cải vật chất, tạo ra những giá trị tinh thần mới
#Tri thức khoa học thúc đẩy sự phát triển của xã hội
Tri thức khoa học là cơ sở để con người phát triển xã hội, từ đó tạo ra một xã
hội văn minh, hiện đại. Tri thức khoa học giúp con người giải quyết những vấn
đề xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của con người, giúp con người
xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
#Tri thức khoa học là mục tiêu của sự phát triển xã hội
Tri thức khoa học là mục tiêu của sự phát triển của con người, là mục tiêu của
sự phát triển của xã hội.
-Vai trò của tri thức khoa học trong phát triển kinh tế:
Tri thức khoa học đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh
tế của một quốc gia hoặc xã hội. Bằng cách nghiên cứu và áp dụng các kiến
thức khoa học, con người có thể tạo ra những công nghệ mới, cải tiến quy trình
sản xuất và nâng cao hiệu suất lao động. Điều này góp phần vào tăng trưởng
kinh tế, tạo ra việc làm, gia tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Tri thức khoa học cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những ngành
công nghiệp mới, đổi mới sản phẩm và dịch vụ, và thúc đẩy sự cạnh tranh. Các
phát minh và khám phá khoa học đóng góp vào phát triển các ngành công
nghiệp hiện có và tạo ra cơ hội cho sự đổi mới và phát triển kinh tế bền vững.
Vốn tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giảm
các nước đang phát triển và các nước phát triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức
vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển, trong
đó có Việt Nam. Các quốc gia kém và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp
cận với kinh tế tri thức, thông qua trí thức hoá các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, đặc biệt sớm hình thành các công nghệ cao để nhanh chóng đưa
nền kinh tế đất nước đuổi kịp các nước phát triển.
-Vai trò của tri thức khoa học trong phát triển chính trị:
Tri thức khoa học cũng ảnh hưởng đến phát triển chính trị của một quốc gia hay
xã hội. Nghiên cứu trong các lĩnh vực như khoa học chính trị, quan hệ quốc tế
và kinh tế học chính trị cung cấp thông tin và kiến thức cần thiết để hiểu và
đánh giá các vấn đề chính trị.
Tri thức khoa học cung cấp cơ sở chứng minh và lý thuyết để xây dựng các hệ
thống chính trị, xác định các nguyên tắc và quy tắc cần thiết để quản lý và điều
hành quốc gia. Nó cũng đóng vai trò trong việc đề xuất các giải pháp chính trị
cho các vấn đề xã hội phức tạp, như biến đổi khí hậu, phân phối tài nguyên và
bảo vệ quyền con người.
-Vai trò của tri thức khoa học trong phát triển văn hóa-giáo dục:
Tri thức khoa học đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển văn hóa và giáo
dục của một xã hội. Nó cung cấp kiến thức và thông tin cơ bản về thế giới t
nhiên và xã hội, giúp con người hiểu và đánh giá môi trường xung quanh.
Tri thức khoa học cũng đóng vai trò trong việc phát triển giáo dục, tạo ra các
chương trình học và phương pháp giảng dạy dựa trên cơ sở khoa học. Nó cung
cấp cơ sở cho việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có kiến
thức chuyên môn và kỹ năng cần thiết để đóng góp vào sự phát triển xã hội. Tri
thức khoa học cũng đóng vai trò trong việc duy trì và phát triển văn hóa, giúp xã
hội hiểu và trân trọng các giá trị văn hóa, bảo tồn di sản và thúc đẩy sự đa dạng
và sáng tạo trong nghệ thuật, văn hóa và khoa học.
Một ví dụ về một nước dồi dào tài nguyên thiên nhiên nhưng không giàu phát
triển bằng một nước có sức mạnh tri thức khoa học là Angola và Hàn Quốc.
Angola:
Angola là một quốc gia tại châu Phi được biết đến với tài nguyên dầu mỏ và
khoáng sản phong phú, bao gồm kim cương, vàng và uranium. Tuy nhiên, mặc
dù có tài nguyên thiên nhiên dồi dào, Angola vẫn chưa thể khai thác và phát
triển tài nguyên này một cách hiệu quả để đem lại sự giàu có và phát triển bền
vững. Các thách thức như xung đột chính trị, sự bất ổn và thiếu hụt về hạ tầng
đã gây trở ngại cho việc phát triển kinh tế và sử dụng tài nguyên một cách tối
ưu. Việc thiếu sự đầu tư và sử dụng tri thức khoa học để khai thác và quản lý tài
nguyên đã hạn chế tiềm năng phát triển của Angola.
Hàn Quốc:
Hàn Quốc, một quốc gia ở Đông Á, không có tài nguyên thiên nhiên phong phú
như Angola. Tuy nhiên, nhờ sự tập trung mạnh mẽ vào giáo dục và nghiên cứu
khoa học, Hàn Quốc đã phát triển một nền kinh tế mạnh mẽ và trở thành một
trong những quốc gia tiên tiến nhất thế giới. Hàn Quốc đã đầu tư rất nhiều vào
giáo dục, nghiên cứu và phát triển công nghệ, tạo ra những lĩnh vực như điện tử,
ô tô, hàng không và công nghệ thông tin. Qua việc sử dụng tri thức khoa học và
đổi mới, Hàn Quốc đã tạo ra sự cạnh tranh và phát triển kinh tế bền vững, dựa
trên sức mạnh của con người và công nghệ, thay vì dựa vào tài nguyên thiên
nhiên.
2.3 Xã hội Việt Nam hiện nay phát triển như thế nào ?
Vốn tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giũa
các nước đang phát triển và các nước phát triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức
vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển, trong
đó có Việt Nam. Các quốc gia kém và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp
cận với kinh tế tri thức, thông qua trí thức hoá các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, đặc biệt sớm hình thành các công nghệ cao để nhanh chóng đưa
nền kinh tế đất nước đuổi kịp các nước phát triển.
Mặc dù đã có những nỗ lực rõ rệt để tăng cường sự dựa vào tri thức khoa học,
Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với một số thách thức như chất lượng giáo dục,
chênh lệch phát triển kinh tế giữa các vùng, và sự khan hiếm tài nguyên nhân
lực chất lượng cao. Tuy nhiên, sự nhìn nhận và đầu tư vào tri thức khoa học đã
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội của Việt Nam và có khả năng
tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong tương lai.
Để giải quyết các mặt hạn chế liên quan đến sự dựa vào nguồn tri thức khoa học
ở Việt Nam, có thể áp dụng các biện pháp sau đây:
1)Đầu tư vào giáo dục và đào tạo: Tiếp tục đầu tư vào giáo dục và đào tạo là
một biện pháp quan trọng. Chính phủ cần tăng cường đầu tư vào cơ sở vật chất,
nâng cao chất lượng giáo viên và chương trình đào tạo, đặc biệt là ở các lĩnh
vực liên quan đến khoa học, công nghệ và nghiên cứu. Đồng thời, cần khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên và nhà nghiên cứu tham gia vào
hoạt động nghiên cứu và phát triển.
2)Tăng cường hỗ trợ và khuyến khích đổi mới và khởi nghiệp: Chính phủ cần
tạo ra một môi trường thuận lợi và cung cấp hỗ trợ cho các hoạt động đổi mới
và khởi nghiệp. Điều này có thể bao gồm việc cung cấp quỹ hỗ trợ và cơ chế tài
chính để tài trợ cho các dự án nghiên cứu và khởi nghiệp, cũng như tạo ra các
chính sách và quy định thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới.
3)Hợp tác quốc tế và chia sẻ tri thức: Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu
và phát triển là rất quan trọng. Việt Nam nên tăng cường quan hệ đối tác với các
quốc gia và tổ chức quốc tế để chia sẻ tri thức, kỹ thuật và kinh nghiệm. Điều
này sẽ giúp Việt Nam tiếp cận các tiến bộ khoa học và công nghệ mới nhất và
thúc đẩy sự phát triển trong lĩnh vực này.
4)Khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng công nghệ trong các lĩnh vực quan
trọng: Chính phủ cần khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu và
ứng dụng công nghệ trong các lĩnh vực quan trọng như nông nghiệp, năng
lượng, y tế và hạ tầng. Việc áp dụng tri thức khoa học và công nghệ trong
những lĩnh vực này có thể đóng góp đáng kể vào sự phát triển và cải thiện chất
lượng cuộc sống của người dân.
Tổng hợp lại, để giải quyết các mặt hạn chế liên quan đến sự dựa vào nguồn tri
thức khoa học ở Việt Nam, cần có một sự kết hợp các biện pháp như đầu tư vào
giáo dục và đào tạo, khuyến khích đổi mới và khởi nghiệp, tăng cường hợp tác
quốc tế, khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, và xây dựng một môi
trường hỗ trợ và khuyến khích sự đổi mới và sáng tạo. Qua đó, Việt Nam sẽ có
cơ sở vững chắc để phát triển dựa trên nguồn tri thức khoa học và đóng góp vào
sự tiến bộ của xã hội.
Xã hội Việt Nam hiện nay đang không ngừng vận động để đi lên một cách vững
chắc, hợp quy luật, văn minh, lành mạnh,… tất cả đều là những dấu hiệu cho
thấy sự phát triển bền vững của nước ta hiện nay.
Kết luận
Ta có thể thấy rằng sự tương quan giữa triết học duy vật biện chứng nói riêng và
triết học nói chung,thông qua quá trình phát triển của triết học trong lịch sử,
cùng với đó là tính tất yếu xuất phát điểm từ vật lí học mang tính quy luật và
càng ngày càng phát triển hơn nữa. Việc luôn tự đặt cho mình một nhiệm vụ
phải khái quát những thành tựu và tiến trình mới của khoa học, của xã hội và
của vật lí học của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện khả năng đột phá sâu
sắc hóa và phong phú hóa hơn những vấn đề, hiện tượng trong đời sống, trong
thế giới và cả trong từng quy luật ràng buộc nhân loại, con người. Loài người đã
được khai sáng từ những gì C.Mác đem lại, chính là công cụ nhận thức mang
tầm vĩ đại và sự tiến bộ vũ khí lý luận sắc bén.
Tài liệu tham khảo:
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 10 (1) 2015
(V.I.Lênin (1979). Toàn tập, tập 8, Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơva.)
https://journalofscience.ou.edu.vn/index.php/soci-vi/article/download/841/703
- :~:text=L%C3%AAnin%20cho%20r%E1%BA%B1ng%2C
%20%E2%80%9Ctr%C3%AD%20th%E1%BB%A9c,372).
Giáo trình Triết học Mác - Lênin : Dành cho bậc đại học hệ không chuyên
luận chính trị. - H. : Chính trị Quốc gia, 2021. - 496tr. ; 21cm ISBN
9786045765944
| 1/14

Preview text:

BỘ MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN ---------- ĐỀ CƯƠNG ---***---
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN
CHỨNG VỀ Ý THỨC, VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC
TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI.
MÃ MÔN HỌC: LLCT 130105_1_24 CLC.
GVC TS: ĐẶNG THỊ MINH TUẤN.
THÀNH VIÊN :Bùi Quang Khải Mssv: 23161137
Phan Vũ Bình Mssv: 23161107
Nguyễn Nhật Hào Mssv: 23161123
Đặng Thiên Lộc Mssv: 23161147
Phạm Phúc Khang Mssv: 23161135
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2023 .
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ Ý
THỨC, VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI. PHẦN MỞ ĐẦU 1.
Lý do chọn đề tài
Trên đà phát triển công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp
hóa việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào
thời gian lao động và số lượng lao động mà chúng phụ
thuộc vào trình độ chung của khoa học và tiến bộ kỹ
thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy
trong sản xuất. Lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu
là lao động được nhập vào quá trình sản xuất mà chủ yếu
là một loại lao động, trong đó, con người là người kiểm
soát và điều tiết bản thân quá trình sản xuất. Hệ thống
máy móc tự động sẽ từng bước thay thế hầu hết lao động
trực tiếp. Bởi vậy, thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá
trình sản xuất, công nhân lại đứng bên cạnh quá trình ấy.
Khi ấy tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với các
ngành nghề đa dạng khác thì việc vận dụng khoa học vào
nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những
yếu tố có tính chất quyết định và kích thích. Vì vậy, nhóm
em chọn vấn đề: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về ý thức, vai trò của tri thức khoa học trong sự
phát triển của xã hội.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu Quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng về ý thức, vai trò của tri thức khoa học
trong sự phát triển của xã hội.

Để đạt được mục tiêu, bài tiểu luận sẽ tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa
duy vật biện chứng về ý thức.

- Trình bày khái quát vai trò của tri thức khoa học trong sự phát
triển của xã hội; phân tích mối tương quan giữa tri thức khoa học
và sự phát triển của xã hội và đề xuất một số giải pháp phát triển
xã hội Việt Nam hiện nay.

3. Phương pháp nghiên cứu
-Tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thông tin, nghiên cứu và
đưa ra những nhận xét, đánh giá.

-Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và
mô tả, phân tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành xã hội và nhân văn.

4. Bố cục đề tài
Tiểu luận được trình bày với nội dung qua 2 chương:
Chương 1: Chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức.
Chương 2: Vai trò của tri thức khoa học trong sự phát triển của xã hội. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ Ý THỨC
1.1 Nguồn gốc của ý thức :
Nguồn gốc ý thức luôn là đề tài luôn được tranh luận gay gắt giữa chủ nghĩa
duy vật và duy tâm nhưng theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
khẳng định ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
1.1.1 Nguồn gốc tự nhiên của ý thức:
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin ,ý thức chỉ là thuộc tính của một dạng
vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Bộ óc người là khí quan vật
chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người .Mối quan hệ giữa bộ óc
người hoạt động bình thường và ý thức không thể tách rời bộ óc. Tất cả những
quan niệm tách rời hoặc đồng nhất ý thức với óc người đều dẫn đến quan điểm
duy tâm, thần bí hoặc duy vật tầm thường. Ý thức là chức năng của bộ óc người
hoạt động bình thường. Sinh lý và ý thức là hai mặt của một quá trình - quá
trình sinh lý thần kinh trong bộ óc người mang nội dung ý thức, cũng giống như
tín hiệu vật chất mang nội dung thông tin.Như vậy, sự xuất hiện con người và
hình thành bộ óc của con người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức. -Bộ óc con người:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của mộtdạng
vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người có cấu trúc đặc biệt
phát triển, rất tinh vi và phức tạp, bao gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh.
Sự phân khu của não bộ và hệ thống dây thần kinh liên hệ với các giác quan để
thu nhận và xử lý thông tin từ thế giới khách quan vào não bộ, hình thành những
phản xạ có điều kiện và không có điều kiện, điều khiển các hoạt động của cơ thể
trong quan hệ với thế giới bên ngoài.
=>Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, là điều kiện cần thiết để hình
thành ý thức. Sự tác động của thế giới khách quan lên bộ óc người là điều kiện
cần thiết để hình thành ý thức.Sự tác động này diễn ra thông qua các giác quan,
các giác quan tiếp nhận các kích thích từ thế giới bên ngoài và truyền tới bộ não. -Sự phản ánh:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phản ánh là thuộc tính phổ
biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên hệ, tác động qua lại
giữa các đối tượng vật chất với nhau. Đó là sự tái tạo những đặc điểm của một
hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua
lại của chúng. Sự phản ánh phụ thuộc vào vật tác động và vật nhận tác động;
đồng thời luôn mang nội dung thông tin của vật tác động. Các kết cấu vật chất
càng phát triển, hoàn thiện thì năng lực phản ánh của nó càng cao gồm 3 dạng
vật chất ( đơn giản ->phức tạp)
+ Phản ánh vật lý, hóa học: Đó là trình độ phản ánh mang tính thụ động, chưa
có sự định hướng, lựa chọn. (giới vô sinh)
+Phản ánh sinh học: Đó là trình độ phản ánh mang tính định hướng, lựa chọn,
giúp cho các cơ thể sống thích nghi với môi trường để tồn tại, bao gồm nhiều
hình thức cụ thể cao thấp khác nhau tùy thuộc vào mức độ hoàn thiện, đặc điểm
cấu trúc của các cơ quan chuyên trách làm chức năng phản ánh: ở thực vật, là sự
kích thích,ở động vật có hệ thần kinh thì là sự phản xạ, ở động vật cấp cao có
bộ óc thì là tâm lý (giới hữu sinh)
+Phản ánh ý thức: Đó là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực,
ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự
xuất hiện của con người.
1.1.2 Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Bên cạnh nguồn gốc tự nhiên của ý thức thì còn là nguồn gốc xã hội của ý thức
có vai trò vô cùng quan trọng và là điều kiện tiên quyết để trực tiếp quyết định
sự ra đời của ý thức. - Lao động:
Là nguồn gốc xã hội trực tiếp của ý thức. Lao động đã tạo ra những nhu cầu và
đòi hỏi mới của con người, thúc đẩy sự phát triển của ý thức. Dấu ấn đầu tiên là
con người phát minh ra lửa từ đó họ dùng lửa để sưởi ấm, xua đuổi thú
hoang,...Hay từ những cuộc hái lượm, săn bắt mà con người dần làm ra những
công cụ lao động như giáo mác.Tất cả những việc đó giúp tư duy con người
ngày càng phát triển và không ngừng mở rộng,ngày một hoàn thiện cơ sở suy luận. - Ngôn ngữ:
Là phương tiện giao tiếp và tư duy của con người. Ngôn ngữ đã giúp con người
ghi lại, truyền đạt và phát triển ý thức. Nhờ ngôn ngữ, con người có thể khái
quát, trừu tượng hóa, suy nghĩ độc lập, tách khỏi sự vật cảm tính; có ngôn ngữ
để có thể giao tiếp, trao đổi tư tưởng, lưu giữ, kế thừa những tri thức, kinh
nghiệm phong phú của xã hội đã tích lũy được qua các thế hệ, thời kỳ lịch sử. Ý
thức là một hiện tượng có tính xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã
hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
1.2Bản chất của ý thức: Gồm 4 khía cạnh:
-Thứ nhất, bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách 1 quan,
là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
-Thứ hai, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Về nội dung mà
ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức phản ánh là chủ quan.
-Thứ ba, tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện
trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin,
lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những
thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận.
-Thứ tư, hiện tượng xã hội, là quá trình phản ánh có định hướng, có mục đích rõ
rệt. Ý thức hình thành, phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn xã hội. Bằng
hoạt động thực tiễn đa dạng, phong phú của
1.3 Kết cấu của ý thức:
*Các lớp cấu trúc của ý thức:
-Tri thức: “Trí thức bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn
bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những người tự do nói
chung, các đại biểu của lao động trí óc”.Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau
như: trị thức về tự nhiên, xã hội, con người; và có nhiều cấp độ khác nhau như:
tri thức cảm tính và tri thức lý tính; tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri
thức tiền khoa học và tri thức khoa học, v.v.. Tích cực tìm hiểu, tích lũy tri thức
về thế giới xung quanh là yêu cầu thường xuyên của con người trên bước đường cải tạo thế giới.
-Tình cảm: Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tổn tại, nó phản
ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách
quanTình cảm tham gia và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người.
-Ý chí: Muốn vượt qua khó khăn để đạt tới mục đích, chủ thể nhận thức phải có
ý chí, quyết tâm cao. Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động
mọi tiềm năng trong mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở
ngại, đạt mục đích đề ra. Nhận rõ vị trí, vai trò của các nhân tố cấu thành ý thức
và mối quan hệ giữa các yếu tố đó, đòi hỏi mỗi chủ thể phải luôn tích cực học
tập, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong nhận
thức và cải tạo thế giới.
*Các cấp độ của ý thức:
-Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với ý
thức về thế giới bên ngoài. Qua đó, xác định đúng vị tríđiểm mạnh, điểm yếu
của mình, ý thức về mình như một cá nhân - chủ thể có ý thức đầy đủ về hành
động của mình; luôn làm chủ bản thân, chủ động điều chỉnh hành vi của mình
trong tác động qua lại với thế giới khách quan.
Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân, mà còn là tự ý thức của các nhóm xã hội khác nhau.
-Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý
thức. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể có từ trước gần như
đã thành bản năng, kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ thể, là ý thức
dưới dạng tiềm tàng.Do đó, tiềm thức có thể tự động gây ra các hoạt động tâm
lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp.
Tiềm thức có vai trò quan trọng trong đời sống và tư duy khoa học. Tiềm thức
gắn bó rất chặt chẽ với loại hình tư duy chính xác, được lặp lại nhiều lần. Khi
tiềm thức hoạt động sẽ góp phần giảm bớt sự quá tải của đầu óc khi công việc
lặp lại nhiều lần, mà vẫn đảm bảo độ chính xác cao và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học.
-Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài
phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. Chúng
điều khiển những hành vi thuộc về bản năng, thói quen... trong con người thông
qua phản xạ không điều kiện. Con người là một thực thể xã hội có ý thức,
nhưng không phải mọi hành vi của con người đều do lý trí chỉ đạo Vô thức biểu
hiện ra thành nhiều hiện tượng khá nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị
thôi miên. lời, nói nhiều,...
Vô thức là hoạt động tầng sâu của tâm lý - ý thức, có vai trò to lớn trong đời
sống và hoạt động của con người. Trong một số hoàn cảnh, vô thức giúp cho
con người giảm bớt sự căng thẳng không cần thiết của ý thức do thần kinh làm việc quá tải.
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC TRONG
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI.

2.1 Tri thức khoa học là gì?
Tri thức khoa học là hệ thống tri thức khái quát về mọi sự vật, hiện tượng và
quy luật vận động của chúng, tri thức khoa học được xác lập trên cơ sở chính
xác, đã được chứng minh và có tính ứng dụng cao.
2.1.1 Sự phát triển là gì ?
Phát triển là một hình thức vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
2.1.2 Mối tương quan giữa tri thức khoa học và sự phát triển của xã hội
Nguồn tri thức khoa học được con người tích lũy không chỉ thông qua thời gian,
kinh nghiệm mà còn thông qua chính con người. Con người luôn vận động
thông qua nhiều hình thức đến nỗi chính con người cũng không thể nhận ra rằng
bản thân đang vận động trong vô thức. Việc đặt câu hỏi tại sao về vạn vật chính
là cách con người vận động để thu thập tri thức về thế giới xung quanh mà con người đang sống.
Tri thức khoa học được tích lũy càng phong phú, xã hội càng phát triển phong
phú như vậy. Xã hội được phát triển dựa trên nền tảng là tri thức. Hiểu biết càng
nhiều, nhận thức càng lớn. Tri thức chính là nguyên liệu quan trọng trong quá
trình xã hội loài người phát triển từ nguyên thủy đến hiện đại.
Xã hội phát triển kéo theo các phương tiện, vật chất phát triển theo. Các phương
tiện, vật chất không chỉ có sức ảnh hưởng đến một khía cạnh nào đó của xã hội,
mà ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội và những gì bên trong xã hội. Từ đó làm gia
tăng mức độ bao phủ của tri thức lên xã hội loài người, che lấp đi những điều
chưa biết. Đồng thời, xã hội càng phát triển mang đến hệ quả tất yếu là sự thiếu
hụt về nguồn tri thức mới. Yêu cầu về tri thức càng ngày càng gia tăng để đáp
ứng một cách phù hợp sự phát triển của xã hội.
2.2 Vai trò của tri thức khoa học trong sự phát triển của xã hội
#Tri thức khoa học là nền tảng của sự phát triển xã hội
Tri thức khoa học là cơ sở để con người hiểu biết về thế giới khách quan, là cơ
sở để con người sản xuất ra của cải vật chất, tạo ra những giá trị tinh thần mới
#Tri thức khoa học thúc đẩy sự phát triển của xã hội
Tri thức khoa học là cơ sở để con người phát triển xã hội, từ đó tạo ra một xã
hội văn minh, hiện đại. Tri thức khoa học giúp con người giải quyết những vấn
đề xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của con người, giúp con người
xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
#Tri thức khoa học là mục tiêu của sự phát triển xã hội
Tri thức khoa học là mục tiêu của sự phát triển của con người, là mục tiêu của
sự phát triển của xã hội.
-Vai trò của tri thức khoa học trong phát triển kinh tế:
Tri thức khoa học đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh
tế của một quốc gia hoặc xã hội. Bằng cách nghiên cứu và áp dụng các kiến
thức khoa học, con người có thể tạo ra những công nghệ mới, cải tiến quy trình
sản xuất và nâng cao hiệu suất lao động. Điều này góp phần vào tăng trưởng
kinh tế, tạo ra việc làm, gia tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Tri thức khoa học cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những ngành
công nghiệp mới, đổi mới sản phẩm và dịch vụ, và thúc đẩy sự cạnh tranh. Các
phát minh và khám phá khoa học đóng góp vào phát triển các ngành công
nghiệp hiện có và tạo ra cơ hội cho sự đổi mới và phát triển kinh tế bền vững.
Vốn tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giảm
các nước đang phát triển và các nước phát triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức
vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển, trong
đó có Việt Nam. Các quốc gia kém và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp
cận với kinh tế tri thức, thông qua trí thức hoá các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, đặc biệt sớm hình thành các công nghệ cao để nhanh chóng đưa
nền kinh tế đất nước đuổi kịp các nước phát triển.
-Vai trò của tri thức khoa học trong phát triển chính trị:
Tri thức khoa học cũng ảnh hưởng đến phát triển chính trị của một quốc gia hay
xã hội. Nghiên cứu trong các lĩnh vực như khoa học chính trị, quan hệ quốc tế
và kinh tế học chính trị cung cấp thông tin và kiến thức cần thiết để hiểu và
đánh giá các vấn đề chính trị.
Tri thức khoa học cung cấp cơ sở chứng minh và lý thuyết để xây dựng các hệ
thống chính trị, xác định các nguyên tắc và quy tắc cần thiết để quản lý và điều
hành quốc gia. Nó cũng đóng vai trò trong việc đề xuất các giải pháp chính trị
cho các vấn đề xã hội phức tạp, như biến đổi khí hậu, phân phối tài nguyên và
bảo vệ quyền con người.
-Vai trò của tri thức khoa học trong phát triển văn hóa-giáo dục:
Tri thức khoa học đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển văn hóa và giáo
dục của một xã hội. Nó cung cấp kiến thức và thông tin cơ bản về thế giới tự
nhiên và xã hội, giúp con người hiểu và đánh giá môi trường xung quanh.
Tri thức khoa học cũng đóng vai trò trong việc phát triển giáo dục, tạo ra các
chương trình học và phương pháp giảng dạy dựa trên cơ sở khoa học. Nó cung
cấp cơ sở cho việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có kiến
thức chuyên môn và kỹ năng cần thiết để đóng góp vào sự phát triển xã hội. Tri
thức khoa học cũng đóng vai trò trong việc duy trì và phát triển văn hóa, giúp xã
hội hiểu và trân trọng các giá trị văn hóa, bảo tồn di sản và thúc đẩy sự đa dạng
và sáng tạo trong nghệ thuật, văn hóa và khoa học.
Một ví dụ về một nước dồi dào tài nguyên thiên nhiên nhưng không giàu phát
triển bằng một nước có sức mạnh tri thức khoa học là Angola và Hàn Quốc. Angola:
Angola là một quốc gia tại châu Phi được biết đến với tài nguyên dầu mỏ và
khoáng sản phong phú, bao gồm kim cương, vàng và uranium. Tuy nhiên, mặc
dù có tài nguyên thiên nhiên dồi dào, Angola vẫn chưa thể khai thác và phát
triển tài nguyên này một cách hiệu quả để đem lại sự giàu có và phát triển bền
vững. Các thách thức như xung đột chính trị, sự bất ổn và thiếu hụt về hạ tầng
đã gây trở ngại cho việc phát triển kinh tế và sử dụng tài nguyên một cách tối
ưu. Việc thiếu sự đầu tư và sử dụng tri thức khoa học để khai thác và quản lý tài
nguyên đã hạn chế tiềm năng phát triển của Angola. Hàn Quốc:
Hàn Quốc, một quốc gia ở Đông Á, không có tài nguyên thiên nhiên phong phú
như Angola. Tuy nhiên, nhờ sự tập trung mạnh mẽ vào giáo dục và nghiên cứu
khoa học, Hàn Quốc đã phát triển một nền kinh tế mạnh mẽ và trở thành một
trong những quốc gia tiên tiến nhất thế giới. Hàn Quốc đã đầu tư rất nhiều vào
giáo dục, nghiên cứu và phát triển công nghệ, tạo ra những lĩnh vực như điện tử,
ô tô, hàng không và công nghệ thông tin. Qua việc sử dụng tri thức khoa học và
đổi mới, Hàn Quốc đã tạo ra sự cạnh tranh và phát triển kinh tế bền vững, dựa
trên sức mạnh của con người và công nghệ, thay vì dựa vào tài nguyên thiên nhiên.
2.3 Xã hội Việt Nam hiện nay phát triển như thế nào ?
Vốn tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giũa
các nước đang phát triển và các nước phát triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức
vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển, trong
đó có Việt Nam. Các quốc gia kém và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp
cận với kinh tế tri thức, thông qua trí thức hoá các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, đặc biệt sớm hình thành các công nghệ cao để nhanh chóng đưa
nền kinh tế đất nước đuổi kịp các nước phát triển.
Mặc dù đã có những nỗ lực rõ rệt để tăng cường sự dựa vào tri thức khoa học,
Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với một số thách thức như chất lượng giáo dục,
chênh lệch phát triển kinh tế giữa các vùng, và sự khan hiếm tài nguyên nhân
lực chất lượng cao. Tuy nhiên, sự nhìn nhận và đầu tư vào tri thức khoa học đã
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội của Việt Nam và có khả năng
tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong tương lai.
Để giải quyết các mặt hạn chế liên quan đến sự dựa vào nguồn tri thức khoa học
ở Việt Nam, có thể áp dụng các biện pháp sau đây:
1)Đầu tư vào giáo dục và đào tạo: Tiếp tục đầu tư vào giáo dục và đào tạo là
một biện pháp quan trọng. Chính phủ cần tăng cường đầu tư vào cơ sở vật chất,
nâng cao chất lượng giáo viên và chương trình đào tạo, đặc biệt là ở các lĩnh
vực liên quan đến khoa học, công nghệ và nghiên cứu. Đồng thời, cần khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên và nhà nghiên cứu tham gia vào
hoạt động nghiên cứu và phát triển.
2)Tăng cường hỗ trợ và khuyến khích đổi mới và khởi nghiệp: Chính phủ cần
tạo ra một môi trường thuận lợi và cung cấp hỗ trợ cho các hoạt động đổi mới
và khởi nghiệp. Điều này có thể bao gồm việc cung cấp quỹ hỗ trợ và cơ chế tài
chính để tài trợ cho các dự án nghiên cứu và khởi nghiệp, cũng như tạo ra các
chính sách và quy định thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới.
3)Hợp tác quốc tế và chia sẻ tri thức: Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu
và phát triển là rất quan trọng. Việt Nam nên tăng cường quan hệ đối tác với các
quốc gia và tổ chức quốc tế để chia sẻ tri thức, kỹ thuật và kinh nghiệm. Điều
này sẽ giúp Việt Nam tiếp cận các tiến bộ khoa học và công nghệ mới nhất và
thúc đẩy sự phát triển trong lĩnh vực này.
4)Khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng công nghệ trong các lĩnh vực quan
trọng: Chính phủ cần khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu và
ứng dụng công nghệ trong các lĩnh vực quan trọng như nông nghiệp, năng
lượng, y tế và hạ tầng. Việc áp dụng tri thức khoa học và công nghệ trong
những lĩnh vực này có thể đóng góp đáng kể vào sự phát triển và cải thiện chất
lượng cuộc sống của người dân.
Tổng hợp lại, để giải quyết các mặt hạn chế liên quan đến sự dựa vào nguồn tri
thức khoa học ở Việt Nam, cần có một sự kết hợp các biện pháp như đầu tư vào
giáo dục và đào tạo, khuyến khích đổi mới và khởi nghiệp, tăng cường hợp tác
quốc tế, khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, và xây dựng một môi
trường hỗ trợ và khuyến khích sự đổi mới và sáng tạo. Qua đó, Việt Nam sẽ có
cơ sở vững chắc để phát triển dựa trên nguồn tri thức khoa học và đóng góp vào
sự tiến bộ của xã hội.
Xã hội Việt Nam hiện nay đang không ngừng vận động để đi lên một cách vững
chắc, hợp quy luật, văn minh, lành mạnh,… tất cả đều là những dấu hiệu cho
thấy sự phát triển bền vững của nước ta hiện nay. Kết luận
Ta có thể thấy rằng sự tương quan giữa triết học duy vật biện chứng nói riêng và
triết học nói chung,thông qua quá trình phát triển của triết học trong lịch sử,
cùng với đó là tính tất yếu xuất phát điểm từ vật lí học mang tính quy luật và
càng ngày càng phát triển hơn nữa. Việc luôn tự đặt cho mình một nhiệm vụ
phải khái quát những thành tựu và tiến trình mới của khoa học, của xã hội và
của vật lí học của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện khả năng đột phá sâu
sắc hóa và phong phú hóa hơn những vấn đề, hiện tượng trong đời sống, trong
thế giới và cả trong từng quy luật ràng buộc nhân loại, con người. Loài người đã
được khai sáng từ những gì C.Mác đem lại, chính là công cụ nhận thức mang
tầm vĩ đại và sự tiến bộ vũ khí lý luận sắc bén.
Tài liệu tham khảo:
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 10 (1) 2015
(V.I.Lênin (1979). Toàn tập, tập 8, Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơva.)
https://journalofscience.ou.edu.vn/index.php/soci-vi/article/download/841/703 -
:~:text=L%C3%AAnin%20cho%20r%E1%BA%B1ng%2C
%20%E2%80%9Ctr%C3%AD%20th%E1%BB%A9c,372).
Giáo trình Triết học Mác - Lênin : Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý
luận chính trị. - H. : Chính trị Quốc gia, 2021. - 496tr. ; 21cm ISBN 9786045765944