Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, ĐCS Việt Nam về công tác dân vận và sự vận dụng của ĐCS Việt Nam hiện nay | Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh
Vai trò công tác dân vận của Đảng. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác dân vận. Quan điểm của Mác - Ăng ghen. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác dân vận. Những mặt tích cực và hạn chế của công tác dân vận hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM)
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………3
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………………3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………….4
2.1. Mục đích…………………………………………………………………4
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………….4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………………..5
3.1. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………….5
3.2. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………………5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu…………………………………….5
4.1. Cơ sở lý luận……………………………………………………………..5
4.2. Phương pháp nghiên cứu..…………………………….…………………5
5. Kết cấu tiểu luận……………………………………………………………….5
NỘI DUNG…………………………………………………………………………7
Chương 1: Vai trò công tác dân vận của Đản …
g ………………………………..7
1. Một số khái niệm………………………………………………………………7
2. Vai trò công tác dân vận của Đản …
g …………………………………………8
Chương 2: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân vận……………………………………9
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác dân vận…………………..9
1.1. Quan điểm của Mác – Ăng ghen………………………………………….9
1.2. Quan điểm của V.I.Lênin……………………………………………….11
2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác dân vận………………..14
2.1. Mục tiêu………………………………………………………………...14
2.2. Quan điểm………………………………………………………………15 2
Chương 3: Sự vận dụng công tác dân vận của Đảng cộng sản Việt Nam hiện
nay…………………………………………………………………………………23
1. Những mặt tích cực và hạn chế của công tác dân vận hiện nay………………2 3
2. Tổng kết công tác dâ
n vận năm 2021, Đảng triển khai nhiệm vụ năm
2022……………………………………………………………………………. … . 24
KẾT LUẬN……………………………………………………………………….28
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………..29 3
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là
nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều
kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ
máu thịt giữa Đảng,Nhà nước với nhân dân.Ban C ấ
h p hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chủ trương về công tác dân vận.Công tác
dân vận nói chung và công tác dân vận của Nhà nước, trong đó có chính quyền cơ sở
đã đạt được những kết quả quan trọng. Công tác dân vận là một mặt công tác cơ bản
của Đảng, nhân tố quan trọng góp phần củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với
nhân dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Trước yêu cầu mới của tình hình,
nhiệm vụ, công tác dân vận cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, xứng
đáng là cầu nối giữa “ý Đảng” với “lòng dân”, phát huy sức dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm gần đây công tác dân vận của Nhà nước ngày càng được đổi
mới và tăng cường.Nhà nước đã có nhiều chính sách phát triển kinh tế,bảo đảm an
sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống chính quyền các cấp ngày càng trở thành trụ
cột của hệ thống chính trị,giữ vai trò nòng cốt trong công tác dân vận,xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân - nhất là thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Tuy nhiên công tác dân vận của Đảng trong những năm qua còn bộc lộ những
mặt hạn chế nhất định, như:Việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ
thị của Đảng về công tác dân vận còn chưa kịp thời, kém hiệu quả; chưa đánh giá và
dự báo chính xác những diễn biến,thay đổi cơ cấu xã hội, thành phần dân cư,tâm
tư,nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có chủ trương, chính sách phù hợp. 4
Việc thể chế hoá chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác dân vận chưa kịp thời,
nhất là thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Công
tác kiểm tra,sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công
tác dân vận chưa được quan tâm đúng mức. Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện
vọng, lợi ích của Nhân dân, nhiều bức xúc chưa được giải quyết ;quyền làm chủ của
Nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm ,làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước. Một bộ phận không nhỏ cán bộ,đảng viên,trong đó có cán bộ lãnh đạo,quản lý
còn thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Phương thức
lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận chậm đổi mới, chưa theo kịp sự phát triển
nhanh chóng của thực tiễn. Tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể chính trị
- xã hội ở một số cơ sở yếu kém…
Để làm rõ được các mặt tích cực, hạn chế của công tác dân vận hiện nay ở nước
ta, trước hết cần phải đưa ra hệ thống lý luận, các khái niệm, quan điểm về công tác
dân vận chính xác và chặt chẽ. Nhận thức được yêu cầu bức thiết cần phải tìm hiểu
rõ về công tác dân vận và tình hình thực tiễn, em lựa chọn “Quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, Đảng cộng sản Việt Nam về công tác dân vận và sự vận
dụng của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luạn cuối kì của mình.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích
Tiểu luận góp phần làm rõ hơn nữa khái niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng
cộng sản Việt Nam về công tác dân vận. Chỉ ra mặt tích cực và hạn chế trong sự vận
dụng công tác dân vận của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, khái quát tổng quan
kết quả của công tác dân vận năm 2021, nhiệm vụ năm 2022.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận của công tác dân vận 5
- Vận dụng những lý luận cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng cộng sản Việt
Nam để làm rõ quan điểm về công tác dân vận.
- Chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế trong công tác dân vận của Đảng cộng sản
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác dân vận dưới quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, Đảng cộng sản Việt Nam và sự vận dụng của Đảng hiện nay
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: tiểu luận nghiên cứu tại Việt Nam - Thời gian: từ nă m 2017 đến nay
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng cộng sản Việt Nam, các văn
kiện, nghị quyết, chỉ thị, văn bản pháp lý có liên quan đến công tác dân vận.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp: phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương
pháp tổng hợp, phân tích, hệ thống, so sánh, khảo sát,... để làm rõ vấn đề
5. KẾT CẤU TIỂU LUẬN
Trong tiểu luận, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Vai trò công tác dân vận của Đảng 6
Chương 2: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân vận
Chương 3: Sự vận dụng công tác dân vận của Đảng cộng sản Việt Nam 7 NỘI DUNG Chương 1: VAI T Ò
R CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG
1. Một số khái niệm
Dân là khái niệm rất cơ bản trong tư tưởng chính trị - xã hội phương Đông, được
sử dụng rất phổ biến trong các văn kiện chính thức của Đảng và nhà nước, trong cuộc
sống đời thường. Tuy nhiên nội hàm của khái niệm dân không thuần nhất, bao gồm nhiều nghĩa:
- Dân dùng để chỉ dân cư, gồm toàn bộ những người đang ở trong một khu vực địa
lý hoặc hành chính nào đó. (Dùng dân kèm theo một địa danh cụ thể để gọi chung
những người trong cùng một nước, một vùng, một địa phương nhằm khu biệt với
những nơi khác, vùng khác, địa phương khác. Ví dụ: Dân Việt Nam, dân Nghệ An…)
- Dân chỉ những người cùng hoàn cảnh, cùng nghề nghiệp tạo thành một lớp người
có những điểm riêng biệt. Ví dụ: Dân chài, dân thợ, dân làm mộc…
- Dân chỉ những người lao động bình thường, đông đảo không có chức quyền và đối
diện với những người cầm quyền cai trị ở các địa bàn, lãnh thổ, các nghề nghiệp khác
nhau trong lĩnh vực sản xuất vật chất và hoạt động tinh thần của một xã hội nhất định.
Khái niệm dân với nghĩa thông thường phổ biến nhất, chủ yếu nhất, đồng nghĩa với khái niệm n
hân dân, dân chúng, quần chúng nhân dân.
Dân vận là vận động nhân dân nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định. Như vậy,
bất cứ tổ chức nào, nhà nước nào, dưới chế độ nào cũng đều phải quan tâm đến vấn
đề dân vận. Dân vận còn được hiểu là hoạt động của các cơ quan làm công tác dân
vận của Đảng, chính quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị ở nước ta. Dân vận
cũng có nghĩa là cán bộ, đảng viên phải làm gương trước nhân dân, lôi cuốn quần
chúng hoạt động theo mình. 8
- Công tác Dân vận là hoạt động có tính qui luật của Đảng, nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội để tuyên truyền vận động nhân dân nêu cao quyền lợi, trách nhiệm
của người dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện tốt mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội.
+ Công tác dân vận là một trong những công tác cơ bản, có tính chất chiến lược của
một chế độ chính trị.
+ Là công tác tổ chức và vận động nhân dân thực hiện chủ trương đường lối của
Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước, phát huy vai trò và sức mạnh của quần
chúng nhân dân trong xây dựng và phát triển đất nước.
2. Vai trò công tác dân vận của Đảng
Công tác dân vận phát huy hết vai trò của toàn thể quần chúng nhân dân trong
cách mạng: Quá trình lịch sử, mọi của cải vật chất và giá trị tinh thần của xã hội đều
từ nhân dân mà ra. Từ việc đánh giá cao vai trò của nhân dân nên công tác dân vận
đang ngày càng được quan tâm.
Công tác dân vận quyết định đến sự sống còn của Đảng: Sức mạnh của sự nghiệp
cách mạng đến từ nhân dân, Đảng muốn có được sức mạnh thật sự thì phải làm tốt
được công tác dân vận.
Công tác dân vận quyết định đến lợi ích của nhân dân: Ý nghĩa cuối cùng của
công tác dân vận là mang lại lợi ích cho nhân dân. Công tác dân vận của Đảng đảm
nhận vai trò giữ gìn, đảm bảo và phát huy triệt để những lợi ích chính đáng của nhân dân. 9 Chương 2:
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác dân vận
1.1. Quan điểm của Mác - Ăng ghen
- Quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử.
Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp thiết than của quần chúng, là nguyện vọng thiết
tha và yêu cầu bức xúc của quần chúng. Do đó, là sự nghiệp sáng tạo do chính tay quần chúng làm lấy.
- Cách mạng xã hội muốn thắng lợi phải do các chính đảng có lý luận tiên phong
của giai cấp lãnh đạo.
Nghiên cứu lịch sử đấu tranh giai cấp từ năm 1848, đặc biệt là thời kỳ Công
xã Pari và phong trào đấu tranh của công nhân cho chủ nghĩa xã hội vào những năm
cuối thế kỷ XIX, trong lời nói đầu tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp từ 1848 đến
1850” C.Mác và Ph.Ăng ghen đã viết “Đã qua rồi, thời kỳ c ộ
u c đột kích, thời kỳ
những cuộc cách mạng do những nhóm thiểu số tự giác, cầm đầu những quần chúng
không tự giác tiến hành. Ở nơi nào mà vấn đề đặt ra là phải cải tạo hoàn toàn chế
độ xã hội, thì bản than quần chúng phải tự mình tham gia công cuộc cải tạo ấy, phải
tự mình hiểu rõ vì sao phải tiến hành đấu tranh, vì sao mình phải đổ máu và hy sinh
tính mạng”. Từ chỉ dẫn nêu trên cho thấy, từ giữa thế kỷ XVII trở lại đây, các cuộc
cách mạng xã hội không phải do những cá nhân, những nhóm người nhỏ bé cầm đầu,
những quần chúng không tự giác tiến hành. Trái lại, từ những năm cuối thế kỷ XIX
trở đi, những cuộc cách mạng xã hội muốn thắng lợi phải do các chính đảng có lý
luận tiên phong của các giai cấp lãnh đạo. Các đảng đó phải biết thuyết phục, giác 10
ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng dám xả than đấu tranh
mới giành được thắng lợi.
- Động lực của những cuộc cải biến, những cuộc cách mạng ấy lại là các lợi ích.
Theo C.Mác: tất cả cái gì mà con người đấu tranh để giành lấy, đều dính liền với
lợi ích của họ. Đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu những nguyên nhân và động lực của sự
cải biến xã hội nọ sang xã hội kia. Ph.Ăng ghen cho rằng, không phải là ở những lý
tưởng, những chân lý mà chính là ở sự biến đổi của phương thức sản xuất và trao đổi
kinh tế. Động lực thúc đẩy sự cải biến xã hội ấy là những lợi ích kinh tế. Ph.Ăng
ghen đi dến kết luận: “Thoạt nhìn người ta có thể cho rằng chế độ chiếm hữu ruộng
đất phong kiến xưa - ít nhất là lúc ban đầu - bắt nguồn từ những nguyên nhân chính
trị, từ sự chiếm đoạt bằng bạo lực, thì điều đó là không thể chấp nhận được đối với
đối với giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Ở đây, ta thấy rõ ràng và cụ thể rằng
nguồn gốc và sự phát triển của hai giai cấp lớn đó là những nguyên nhân thuần túy
kinh tế, cũng rõ ràng trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp chiếm hữu ruộng đất và
giai cấp tư sản cũng như trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô
sản, thì trước hết, vấn đề là ở những lợi ích kinh tế - để thỏa mãn những lợi ích kinh
tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần”.
- Sức mạnh của quần chúng nhân dân là vô địch.
Tuy nhiên, quần chúng nhân dân chỉ có thể phát huy được sức mạnh của mình khi
họ được tổ chức lại trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và Ph.Ăng ghen
đã viết: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt
của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ
sựu thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”. Trong bài
“Vấn đề quân sự ở Phổ và Đảng công nhân Đức” Ph.Ăng ghen viết: “…giai cấp vô
sản trở thành một sức mạnh từ khi nó thành lập một đảng công nhân đối lập, mà với
sức mạnh thì người ta phải chú ý đến” 11
- Muốn có sức mạnh phải thống nhất ý chí, phải đoàn kết.
Vì thế, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăng ghen kêu gọi:
Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại. Nhờ đoàn kết, giai cấp công nhân đã thu được
những thắng lợi trong các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế đối với các chủ tư
bản. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn thể Hội liên hợp họp ở La Hay ngày 2 tháng
9 năm 1872 đã khẳng định: “Sự thống nhất các lực lượng của giai cấp công nhân đã
đạt được thông qua đấu tranh kinh tế, cũng phải trở thành đòn bẩy trong cuộc đấu
tranh của nó chống quyền lực chính trị của những kẻ bóc lột nó”. Sau Đại hội La
Hay, tại Amxtécđam, C.Mác đã đọc bài diễn văn, trong đó nhấn mạnh: “…chúng ta
hãy nhớ một nguyên tắc cơ bản của Quốc tế: sự đoàn kết. Chúng ta sẽ đạt được mục
đích vĩ đại mà chúng ta đang hướng tới, nếu chúng ta củng cố vững chắc nguyên tắc
đầy sức sống ấy trong tất cả các công nhân ở tất cả các nước, Cách mạng phải là
đoàn kết, kinh nghiệm lớn lao của Công xã Pari đã dạy chúng ta như thế”.
- Về phương pháp công tác dân vận, Ph.Ăng ghen căn dặn, phải dung phương pháp
nêu gương và giúp đỡ.
Như vậy, chúng ta có thể nhận thức rằng trong công tác dân vận thì những tấm
gương, những mô hình thực tiễn cụ thể… có tác dụng cổ vũ, động viên, hướng dẫn
quần chúng nhân dân rất lớn. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng, đối với quần chúng
nhân dân không được dung mệnh lệnh, áp đặt ý chí chủ quan của các cá nhân lãnh đạo đối với họ.
1.2. Quan điểm của V.I.Lênin
- Muốn vận động quần chúng phải quan tâm đến lợi ích thiết than của họ, lợi ích là
một động lực của sự phát triển, lấy lợi ích của người lao động làm cơ sở để xây dựng
nền kinh tế.
Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin nhấn mạnh lợi ích thiết
thân của cá nhân người lao động. Người viết: “Những lý tưởng cao cả nhất cũng 12
không đáng một xu nhỏ, chừng nào người ta không biết kết hợp chặt chẽ những lý
tưởng đó với lợi ích của chính ngay những người đang tham gia cuộc đấu tranh kimh
tế, chừng nào mà người ta không biết kết hợp những lý tưởng đó với những vấn đề
“chật hẹp” và nhỏ n ặ
h t trong cuộc sống hàng ngày của giai cấp ấy như vấn đề trả
công lao động một cách công bằng”. V.I.Lênin còn căn dặn, phải lấy lợi ích kinh tế
thiết thân của người lao động làm cơ sở để xây dựng nền kinh tế. Người viết: “Chúng
ta nói rằng phải xây dựng một ngành kinh tế quốc dân quan trọng trên cơ sở sự quan
tâm thiết thân của cá nhân”. “Sự quan tâm thiết thân của cá nhân có tác dụng nâng
cao sản xuất”. Đặc biệt, đối với những nước tiểu nông như nước Nga, V.I.Lênin còn
căn dặn: “…tiến lên chủ nghĩa xã hội, không phải bằng cách khuyến khích lợi ích cá
nhân”. Như vậy, lợi ích là cái gắn bó người ta lại với nhau. Lợi ích gắn liền với các
cuộc đấu tranh, là động lực của các cuộc đấu tranh, trong đó lợi ích kinh tế thiết thân
của cá nhân là động lực trực tiếp rất mạnh mẽ.
- Công tác vận động quần chúng trong cách mạng vô sản một cuộc đấu tranh, hươn
nữa - đó là cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, khó khan, gian khổ, cuộc đấu tranh ấy
chưa kết thúc ngay cả khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền, mà còn phải
tiếp tục trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản vì lợi ích
thiết thân của tuyệt đại đa số nhân dân, của toàn xã hội, nhưng với những hình thức
khác. Vì vậy, muốn vận động quần chúng phải quan tâm tới lợi ích thiết thân của họ.
Lợi ích là một động lực của sự phát triển.
- Vận động quần chúng có hiệu quả phải tập hợp họ trong một tổ chức
V.I.Lênin nhấn mạnh: “Tổ chức, tổ chức và tổ chức” , “Hãy cho chúng tôi một
tổ chức những người cách mạng và chúng tôi sẽ làm đảo ngược nước Nga lên”. Vì
vậy, V.I.Lênin rất chú ý đến tổ chức công đoàn của giai cấp công nhân. Người cho
rằng, những công việc tổ chức như thế là của Đảng, Đảng phải biết cách làm công
tác tuyên truyền, tổ chức, cổ động sao cho dễ tiếp thu nhất, dễ hiểu nhất, rõ ràng nhất 13
và sinh động nhất cả đối với các “phố” thợ thuyền, nhà máy lẫn đối với các vùng nông thôn.
- Vận động quần chúng phải đoàn kết quần chúng
V.I.Lênin đã vận dụng tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen vào thời đại của mình,
thời đại của mình-thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản-và kêu gọi mở
rộng khối đoàn kết của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Người kêu gọi: “Vô sản tất cả các nước, các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại". Ở nước
Nga, sau cách mạng tháng Mười năm 1917, giai cấp vô sản nắm chính quyền,
V.I.Lênin khẳng định: “...chúng ta không chấp chính bằng cách chia rẽ, mà bằng
cách tạo ra giữa tất cả mọi người lao động những mối liên hệ keo sơn về những
quyền lợi thiết thân và ý thức giai cấp”. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội,V.I.Lênin
nhấn mạnh việc động viên và phát huy mọi lực lượng của quần chúng nhân dân.
Người cảnh báo những ai chỉ trông vào bàn tay của những người cộng sản để xây
dựng xã hội cộng sản là những kẻ có tư tưởng hết sức ngây thơ.
- Phương pháp vận động là giáo dục, thuyết phục, nêu gương...là nhiệm vụ của Đảng
Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen V.I.Lênin rất coi trọng phương
pháp thuyết phục, giáo dục và nêu gương đối với quần chúng nhân dân. Người đề ra
nhiệm vụ hàng đầu cho các Đảng Cộng sản là phải “thuyết phục cho đa số nhân dân
thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình”. V.I.Lênin cho đây
là nhiệm vụ chiến lược quan trọng cả trong thời kỳ chưa giành được chính quyền và
thời kỳ đã giành được chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặc dù trong thời
kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chủ yếu là quản lý, nhưng Người vẫn căn
dặn: “chúng ta phải suy nghĩ kỹ rằng muốn quản lý được tốt, thì ngoài cái tài biết
thuyết phục, biết chiến thắng trong cuộc nội chiến, còn cần phải biết tổ chức trong
lĩnh vực thực tiễn”. V.I.Lênin cũng cho rằng: “việc giáo dục và rèn luyện quần chúng
lao động” là nhiệm vụ cơ bản của công tác giáo dục của Đảng Cộng sản và “của mọi 14
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa”. V.I.Lênin phê phán những đảng viên, cán bộ, tổ
chức Đảng không gương mẫu, không dũng cảm hoặc “rất ít dùng những điễn hình,
những tấm gương cụ thể, sinh động, lấy trong mọi lĩnh vực của đời sống đế giáo dục
quần chúng”. Người yêu cầu lấy kinh nghiệm lâu dài, lấy ví dụ thực tế để chứng
minh cho quần chúng thấy rõ sự cần thiết của công việc là một biện pháp có hiệu quả
không nhỏ. V.I.Lênin khuyến khích mở rộng dân chủ, công khai làm cho mọi người
dân biết công việc của Đảng, của nhà nước. Đó là một phương pháp công tác quần
chúng có tác dụng nâng cao tính chủ động, tính tích cực sáng tạo cách mạng của quân
chúng. Người viết: “...một nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của quần chúng. Nước
mạnh là khi nào quần chúng biết rõ rất cả mọi cái, quần chúng có thể phán đoán
được về mọi cái và đi vào hành động một cách có ý thức”.
- Tôn trọng ý kiến của nhân dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của dân V.I.Lênin rất tôn trọn
g ý kiến của quần chúng nhân dân. Người coi đó là tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng nhân dân, là những người thông tin cuc kỳ quý báu để
hình thành chính sách. Vì vậy, Người yêu cầu phải tập hợp, tổng kết nhữn g ý kiến
của quần chúng. V.I.Lênin cũng đề nghị tìm mọi cách để duy trì, phát triển và mở
rộng những hội nghị công nhân, nông dân ngoài Đảng, vì thông qua những hội nghị
như thế, Đảng có thể: “... nhận xét tâm trạng của quần chúng, gần gũi họ, giải quyết
những nhu cầu của họ, giao cho những phẩn tử tốt nhất trong số họ đảm những
những chức vụ trong bộ máy nhà nước v.v...”. Đó cũng là một phương thức công tác
quần chúng rất hiệu nghiệm .
2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác dân vận
2.1. Mục tiêu
Thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng và dân, củng cố và tăng cường khối đại đoàn
kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập,
thống nhất của Tổ q ố
u c, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 15
đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.2. Quan điểm
- Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12.1986) rút ra bốn bài học kinh nghiệm
hết sức sâu sắc, thấm thía, trong đó, bài học đầu tiên là trong toàn bộ hoạt động của
mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng: “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân lao động”. Đại hội khẳng định “Đảng ta không có mục đích
nào khác là đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân. Quần chúng là người làm nên lịch sử”.
+ Hội nghị Trung ương khóa VI họp từ ngày 12 đến 27-3-1990 đã ra nghị quyết
8B/TW (Khóa VI) về “đổi mới công tác quần chúng, tăng cường mỗi quan hệ giữa
Đảng và nhân dân”. Nghị quyết đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng về công tác vận
động quần chúng trong thời kỳ mới, quan điểm đầu tiên là: Cách mạng là sự nghiệp
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996): “cách mạng là sự nghiệp
của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng
kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do
nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó
khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay. Để tiếp
tục đưa sự nghiệp đổi mới tiên lên, giành những thành tựu lớn hơn, cần thực hiện tốt
hơn nữa việc mở rộng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, cả ở trong nước và ở
nước ngoài, phát huy dân chủ, động viên tối đa sức mạnh của toàn thể dân tộc vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
+ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
thông qua tại đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã tiếp tục khẳng địn h rõ 16
bài học kinh nghiệm thứ hai trong quá trình cách mạng nước ta là “Sự nghiệp cách
mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, chính nhân dân là người làm
nên những thắng lợi lịch sử.
Như vậy, cần quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm này trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Biến các đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và nhà nước thành các phong trào cách mạng của nhân dân là việc có ý
nghĩa quyết định đối với sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước là sự nghiệp của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chỉ có lực lượng của nhân dân, sức mạnh của nhân dân, óc thông minh, trí sáng tạo
của nhân dân, ý chí của nhân dân thì mới thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Vì vậy, hơn lúc nào hết, Đảng phải đổi mới và tăng cường công tác dân vận
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, tin nhân dân, tôn trọng ý kiến của nhân dân. Thực hiện “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Mọi chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đều
cần có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân.
Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm, không chỉ là người hưởng thụ
mà còn góp phần tích cực, quan trọng vào việc xây dựng, hoạch định và thi hành các
chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, chống quan liêu, chuyên quyền, độc
đoán, xa dân, v iphạm quyền dân chủ của nhân dân.
- Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân
dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân.
Lợi ích chính là động lực thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân, đồng thời
là mục tiêu của Đảng, của cách mạng. Mọi suy nghĩ và hành động của con người
luôn luôn gắn với lợi ích, Lợi ích kích thích hành vi của con người, là động lực để
phát triển sản xuất, thúc đẩy cuộc đấu tranh giai cấp, là động lực để phát triển xã hội.
Lợi ích là sợi dây liên kết các thành viên của xã hội lại với nhau. Đảng chăm lo lợi
ích của dân, trung thành với quyền lợi của dân thì dân sẽ gắn bó với Đảng, quyết tâm 17
theo Đảng, thực hiện nghiêm túc, tự giác đường lối, chủ trương của Đảng. Mối quan
hệ giữa Đảng và dân hết sức bền chặt mà không kẻ thù nào chia lìa được. Ngược lại,
Đảng không chăm lo lợi ích thiết thực của nhân dân thì không thể gắn kết với Đảng,
Đảng không thể vận động được dân, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
không thế trở thành hiện thực. Đảng và dân đều bị tổn thất.
+ Đại hội VI: Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích,
nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình,
hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại
lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2001) rút ra bốn bài học kinh nghiệm
của 15 năm đổi mới (1986-2000), trong đó bài học thứ hai là: “Đổi mới phải dựa vào
nhân dân, vì lơi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo”.
+ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
thông qua tại đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ XI khẳng định, và nhấn mạnh:
toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của
nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn
lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Trong xã hội do nhân dân làm chủ, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội
gắn chặt và thống nhất với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp “Công
tác vận động và tổ chức nhân dân chỉ có thể thành công nếu trước hết bảo vệ và đáp
ứng được trên thực tế lợi ích thiết thân của người dân, từ đó kết hợp hài hòa các lợi
ích, gắn chặt quyền lợi và nghĩa vụ công dân”.
Việc giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng, chính trị và phẩm chất, đạo đức của con người
mới xã hội chủ nghĩa được tiến hành đi đôi với bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần
của nhân dân, đồng thời, khắc phục tư tưởng coi nhẹ lợi ích tập thể và xã hội, chỉ
thấy quyền lợi mà quên nghĩa vụ công dân hoặc ngược lại. Trong thời kỳ mới công 18
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lợi ích chung của các giai cấp, các tầng lớp thống
nhất với lợi ích của cả dân tộc, đó là dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh. Lợi ích của mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp, mỗi cá nhân phải nằm trong lợi ích
chung của cả dân tộc. Lợi ích của công - nông thống nhất với lợi ích của đất nước,
của nhân dân. Đảm bảo lợi ích chung của đất nước, cũng có nghĩa đã đảm bảo lợi ích của công - nông.
Thực hiện dân chủ gắn liền với kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí;
không ngừng bối dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống
nhất tổ quốc, tỉnh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước cho mỗi công dân.
- Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân.
Nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ đối ngoại làm cho sự
biến đổi cơ cấu giai cấp trong xã hội diễn ra nhanh chóng. Kinh tế phát triển, dân trí
nâng cao, nhu cầu và lợi ích của nhân dân cũng hết sức đa dạng, phong phú. Vì vậy,
công tác dân vận phải mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân nhằm
thích ứng với nhu cầu phát triển của xã hội. Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức
tập hợp nhân dân mới phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mọi tầng
lớp nhân dân vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mới giải quyết
được lợi ích chính đáng hợp pháp của các tầng lớp nhân dân.
+ Tư tưởng chỉ đạo việc mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân:
• Cùng với các đoàn thể chính trị-xã hội, trong giai đoạn mới cần thành lập
những tổ chức quần chúng đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời
sống nhân dân, hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái. 19
• Các tổ chức quần chúng được thành lập trên nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự
trang trải về tài chính, được tổ chức trong từng địa phương hoặc có quy mô
toàn quốc, không nhất loạt giống nhau.
• Các đoàn thể chính trị - xã hội cần chủ động xây dựng và tham gia các tổ chức
nói trên, qua đó vận động quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Các hình thức tổ chức, tập hợp quần chúng đều phải
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và có sự quản lý của Nhà nước.
+ Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân hiện nay.
• Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân
và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn
giáo, là tổ chức liên hiệp và thống nhất hành động của hàng trăm tổ chức thành viên.
• Các đoàn thể chính trị-xã hội, gồm: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông
dân, Hội Cựu chiến binh, Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam, Liên
hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị.
• Các tổ chức xã hội gồm các hội mang tính nghề nghiệp, nhân đạo, giới tính,
tôn giáo... như: Hội người cao tuổi, Hội nuôi ong, Hội nuội cá ba sa, Hội
khuyến học, Hội phụ huynh học sinh... Có hội 4 cấp, có hội chi hoạt động ở cơ sở.
• Các đoàn thể nhân dân, bao gồm: đoàn thể chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội.
Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, tức là khắc phục
tình trạng hành chính hóa, Nhà nước hóa, phô trương, hình thức, nâng cao chất lượng
tổ chức, thu hẹp diện cơ sở yếu kém, làm tốt công tác dân vận theo cách trọng tâm,