lOMoARcPSD| 61197966
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE
-----***-----
BÀI TẬP LỚN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về dân chủ
hội chủ nghĩa sự vận dụng của Đảng trong quá trình
xây dựng dân chủ nước ta hiện nay”
Họ và tên SV: Nguyễn Thị Diễm Huyền
Mã sinh viên: 11240385
Học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Lớp học phần: LLNL1107(224)CLC_17
Khóa: 66
Giảng viên: Nguyễn Văn Thuân
lOMoARcPSD| 61197966
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 3
NỘI DUNG .......................................................................................................... 3
1. Vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ và dân ch .......... 3
XHCN ............................................................................................................. 3
1.1. Quan niệm về dân chủ XHCN ............................................................... 3
1.2. Quá trình ra đời của nền dân chủ XHCN ............................................... 5
1.3. Bản chất của nền dân chủ XHCN .......................................................... 8
2. Quá trình vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với việc 13
xây dựng nền dân chủ XHCN của Đảng taViệt Nam ............................... 13
2.1. Nội dung vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với ... 13
việc xây dựng nền dân chủ XHCN của Đảng ta hiện nay .......................... 13
2.2. Thành tựu và hạn chế ........................................................................... 15
2.3. Phương hướng và giải pháp ................................................................. 18
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 25
lOMoARcPSD| 61197966
LỜI MỞ ĐẦU
Dân chủ một giá trị cốt lõi của xã hội văn minh, phản ánh nguyện vọng
quyền làm chủ của nhân dân. Trong hệ thống luận của chủ nghĩa Mác
Lênin, dân chủ xã hội chnghĩa (XHCN) được xác định là nền dân chủ ưu việt,
gắn liền với bản chất giai cấp công nhân và quyền lực thực sự thuộc vnhân dân.
Khác với dân chủ tư sản nơi quyền lực thường tập trung vào thiểu số giai cấp
thống trị, dân chủ XHCN đặt mục tiêu xây dựng một hội công bằng, bình đẳng,
nơi nhân dân tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước và xã hội.
Trong quá trình cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận
dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về dân chủ XHCN, từng
bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ phù hợp với đặc điểm lịch sử, văn hóa
điều kiện cụ thể của đất nước. Từ khi đổi mới (1986) đến nay, duy về dân
chủ ngày càng được mở rộng, thể hiện qua việc phát huy quyền làm chcủa nhân
dân, cải cách thể chế, đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng dân chủ ở nước ta hiện nay vẫn đứng trước
nhiều thách thức, từ những hạn chế trong chế thực thi dân chủ đến sự chống
phá của các thế lực thù địch. vậy, việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa
Mác Lênin vn chXHCN sự vận dụng của Đảng ta ý nghĩa luận
và thực tiễn sâu sắc, góp phần củng cố nền tảng tư tưởng, hoàn thiện thể chế dân
chủ, đồng thời phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với ý nghĩa đó, bài tiểu luận này tập trung làm rõ những nội dung bản
trong quan điểm của chủ nghĩa c – Lênin vdân chủ XHCN, đồng thời phân
tích quá trình vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vào thực tiễn xây dựng dân
chủ ở nước ta hiện nay. Qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy
giá trị của dân chủ XHCN trong bối cảnh mới.
NỘI DUNG
1. Vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ và dân chủ
XHCN
1.1. Quan niệm về dân chủ XHCN
Thuật ngdân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII VI trước công
nguyên. Các nhà tưởng Hy Lạp cổ đại đã dùng cụm từ “demokratos” để nói
đến dân chủ,ừ trong đó Demos nhân dân (danh từ) kratos cai trị (động từ).
Theo đó, dân chủ được hiểu là nhân dân cai trị và sau này được các nhà chính trị
lOMoARcPSD| 61197966
gọi là giản lược là quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân. Nội
dung trên của khái niệm dân chủ về bản vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay.
Điểm khác biệt bản giữa cách hiểu về dân chủ thời cổ đại hiện nay ở tính
chất trực tiếp của mối quan hệ shữu quyền lực công cộng các hiểu về nội
hàm của khái niệm nhân dân.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ một phạm trù chính
trị - hội, thể hiện mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước và nhân dân. Khác với
các quan niệm phi giai cấp, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định dân chủ luôn mang
bản chất giai cấp rệt, phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị trong mỗi chế độ
hội. Trong hội giai cấp, dân chủ không tồn tại nmột giá trị trừu tượng,
mà luôn gắn liền với chuyên chính giai cấp - tức là mặt đối lập nhưng thống nhất
của nó.
Dân chủ, xét về bản chất, một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước,
trong đó xác định ai chủ thể nắm giữ thực thi quyền lực. Chủ nghĩa Mác
Lênin phân biệt rõ giữa dân chủ tư sản (dân chủ của thiểu số - giai cấp tư sản) và
dân chủ hội chủ nghĩa (dân chủ của đa số - giai cấp công nhân nhân dân lao
động). Trong khi dân chủ sản những hình thức đa nguyên, đa đảng nhưng
vẫn bảo vchế độ hữu bản chnghĩa, thì dân chủ hội chủ nghĩa ớng
tới xóa bỏ áp bức giai cấp, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, đảm bảo
quyền làm chủ thực sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa.
Một đặc điểm quan trọng của dân chủ theo chủ nghĩa Mác - Lênin tính
lịch svà tính tương đối. Dân chủ không phải một hình bất biến, mà phát
triển cùng với sự vận động của các hình thái kinh tế - xã hội. Chẳng hạn, dân chủ
chủ khác với dân chủ phong kiến, dân chủ sản tiến bộ hơn dân chủ phong
kiến nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, dân chủ hội chủ nghĩa được xem bước
phát triển cao nhất, hướng tới một xã hội không còn giai cấp đối kháng.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa nền dân chủ kiểu mới, ưu việt hơn về chất so
với các nền dân chủ trước đây, được xây dựng trên sở chế độ công hữu về
liệu sản xuất sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong
Đảng Cộng sản. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, đây nền dân chủ
thực chất, không chỉ dừng lại các quyền tự do hình thức mà đảm bảo quyền làm
chủ thực scủa nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bản chất
của dân chủ hội chủ nghĩa thể hiện tính giai cấp công nhân, tính nhân dân
rộng rãi skết hợp hài hòa giữa dân chủ và tập trung thông qua nguyên tắc tập
trung dân chủ. Khác với dân chủ tư sản - nền dân chcủa thiểu số giai cấp tư sản,
dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ của đại đa số nhân dân lao động, hướng
tới xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột. Trong
lOMoARcPSD| 61197966
nền dân chủ này, nhân dân thực sự trở thành chủ thể của quyền lực chính trị thông
qua các hình thức dân chủ đại diện dân chủ trực tiếp, được thể chế hóa bằng
hệ thống pháp luật tiến bộ.
Trong thực tiễn, dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng dựa trên nguyên
tắc tập trung dân chủ, kết hợp giữa sự lãnh đạo tập trung của Đảng Cộng sản với
việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua c hình thức dân chủ đại
diện (như bầu cử, Quốc hội) dân chủ trực tiếp (như tham gia giám sát, phản
biện xã hội). Như vậy, khái niệm dân chủ trong chủ nghĩa Mác Lênin không chỉ
dừng lại ở quyền bầu cử hay tự do ngôn luận hình thức, mà đòi hỏi sự tham gia
tích cực của nhân dân vào quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội, trên cơ sở
bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội.
Tóm lại, quan niệm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống
luận khoa học, vừa phê phán những hạn chế của dân chủ sản, vừa đề xuất
một mô hình dân chủ ưu việt hơn - dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong đó nhân dân
lao động thực sự trở thành chủ thể của quyền lực chính trị. Đây chính là cơ sở lý
luận quan trọng để các nước xã hội chnghĩa, trong đó Việt Nam, xây dựng
và hoàn thiện nền dân chủ của mình.
1.2. Quá trình ra đời của nền dân chủ XHCN
a) Sự ra đời và phát triển của dân chủ XHCN theo chủ nghĩa Mác-Lênin
Nhu cầu về dân chủ xuất hiện từ rất sớm trong hội tự quản của cộng
đồng thị tộc, bộ lạc. Trong chế độ cộng sản nguyên thủy đã xuất hiện hình thức
manh nha của dân chủ Ph.Ăngghen gọi “dân chủ nguyên thủy” hay còn gọi
“dân chủ quân sự”. Đặc trưng bản của hình thức dân chủ này nhân dân
bầu ra thủ lĩnh quân sự thông qua “Đại hội nhân dân”. Trong “Đại hội nhân dân”,
mọi người đều có quyền phát biểu tham gia quyết định bằng cách giơ tay hoặc
hoan hô, đó “Đại hội nhân dân” và nhân dân quyền lực thật sự (nghĩa là
dân chủ), mặc dù trình độ sản xuất còn kém phát triển. Khi trình độ của lực lượng
sản xuất phát triển dẫn tới sra đời của chế độ hữu sau đó giai cấp đã làm
cho hình thức “dân chủ nguyên thủy” tan rã, nền dân chủ chủ nồ ra đời. Nền dân
chủ chủ được tổ chức thành nhà nước với đặc trưng dân tham gia bầu ra Nhà
nước. Tuy nhiên, “Dân ai?”, theo quy định của giai cấp cầm quyền chỉ gồm giai
cấp chủ nô và phần nào thuộc về các công dân tự do (tăng lữ, thương gia và một
số tri thức). Đa số còn lại không phải “dân” “nô lệ”. Họ không được tham
gia vào công việc nhà nước. Như vậy, về thực chất, dân chủ chủ cũng chỉ thực
hiện dân chủ cho thiểu số, quyền lực của dân đã hẹp nhằm duy trì, bảo vệ, thực
hiện lợi ích của dân” thôi. Cùng với sự tan của chế độ chiếm hữu nô lệ,
lịch sử hội loài người bước vào thời kỳ đen tối với sthống trị của nhà nước
lOMoARcPSD| 61197966
chuyên chế phong kiến, chế độ dân chủ chủ đã bị xóa bỏ thay vào đó là chế
độ độc tài chuyên chế phong kiến. Sự thống trị của giai cấp trong thời kỳ này
được khoác lên chiếc ảo thần bí của thế lực siêu nhiên. Họ xem việc tuân theo ý
chí của giai cấp thống trị là bổn phận của mình trước sức mạnh của đấng tối cao.
Do đó, ý thức về dân chủ và đấu tranh để thực hiện quyền làm chủ của người n
đã không có bước tiến đáng kể nào.
Cuối thế kỷ XIV - đầu XV, giai cấp sản với những tư tưởng tiến bộ về tự
do, công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản. Chủ
nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Dân chủ tư sản ra đời một bước tiến lớn của nhân
loại với những giá trị nổi bật về quyền tự do, bình đẳng, dân chủ. Tuy nhiên, do
được xây dựng trên nền tảng kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên trên
thực tế, nền dân chủ tự sản vẫn là nền dân chủ của thiểu số những người nắm giữ
liệu sản xuất đối với đại đa số nhân dân lao động. Khi cách mạng hội chủ
nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917), một thời đại mới mở ra thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động ở nhiều quốc gia
giành được quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, thiết lập Nhà nước công
nông (nhà nước hội chnghĩa), thiết lập nền dân chủ vô sản (dân chủ hội
chủ nghĩa) để thực hiện quyền lực của đại đa số nhân dân. Đặc trưng cơ bản của
nền dân chủ hội chủ nghĩa thực hiện quyền lực của nhân dân - tức xây
dựng nhà nước dân chủ thực sự, dân làm chủ nhà nước xã hội, bảo vệ quyền
lợi cho đại đa số nhân dân. Như vậy, vớicách là một hình thái nhà nước, một
chế độ chính trị thì trong lịch sử nhân loại, cho đến nay ba nền (chế độ) dân
chủ. Nền dân chủ chủ nô, gắnvới chế đchiếm hữu nô lệ; nền dân chủ sản, gắn
với chế độ tư bản chủ nghĩa; nền. dân chủ hội chủ nghĩa, gắn với chế độ xã hội
chủ nghĩa. Tuy nhiên, muốn biết một nhà nước dân chủ thực sự hay không phải
xem trong nhà nước ấy dân là ai và bản chất của chế độ xã hội ấy như thế nào?
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền dân
chủ trong lịch sử trực tiếp nhất nền dân chtư sản, các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác - Lênin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài, phức
tạp và giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải hoàn thiện nhất, do đó, tất yếu
xuất hiện một nền n chủ mới, cao hơn nền dân chủ sản đó chính nền
dân chủ vô sản hay còn gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hôi củ nghĩa đã được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp
Pháp Công Pari năm 1871, tuy nhiên, chđến khi Cách mạng Tháng Mười
Nga thành công với sự ra đời của nhà nước hôi c nghĩa đầu tiên trên thế
giới (1917), nền dân chủ hôi c nghĩa mới chính thức được xác lâp. ra
đời của nền dân chủ xã hôi c ủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất của
dân chủ. Qtrình phát triển của nền dân chủ hôi cnghĩa bắt đầu tthấp
lOMoARcPSD| 61197966
đến cao, từ chưa hoàn thiên đến hoàn thiệ n. Trong đ
ó, có sự kế thừa những g
trị của nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung làm sâu sắc thêm những giá trị
của nền dân chủ mới.
Nền dân chủ hội chủ nghĩa (XHCN) ra đời phát triển qua các giai
đoạn lịch sử quan trọng, bắt nguồn từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917 - sự kiện đánh dấu bước ngoặt đại trong lịch sử nhân loại. Dưới sự
lãnh đạo của V.I. Lênin Đảng Bolshevik, cách mạng đã lật đổ chế độ Nga
hoàng, thiết lập nnước Xô viết - nhà nước dân chủ kiểu mới đầu tiên trên thế
giới, mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội. Nền dân chủ
XHCN này khác căn bản với dân chủ tư sản chỗ nó thực sự đảm bảo quyền làm
chủ của đại đa số nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, thiết lập
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin: Giai cấp vô sản không thể hoàn thành cuôc
cách mạng hôi c nghĩa, nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới cuôc các
mạng đó thông qua cuôc đấu tranh cho dân c ủ. Rằng, chnghĩa xã hôi không
thể duy trì và thắng lợi, nếu không thực hiên đầy đ
ủ dân chủ.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phát triển theo quy luật từ thấp đến cao, từ
chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh, có sự kế thừa có chọn lọc những giá trị tiến bộ
của các nền dân chủ trước đó, đặc biệt dân chủ sản. Nguyên cốt i của
nền dân chủ này là không ngừng mở rộng quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao
mức độ giải phóng người lao động, tạo điều kiện đquần chúng tham gia tích cực
vào công tác quản nhà nước và xã hội. Quá trình hoàn thiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa đồng thời cũng là quá trình nó tự tiêu vong dần - theo phân tích của Lênin,
khi tính chính trị của dân chủ mất đi do dân chủ đã trở thành tập quán, thói quen
trong đời sống xã hội, không còn tồn tại như một thể chế nhà nước.
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác Lênin cũng lưu ý đây là quá trình lâu dài, khi
xã hôi đ
ã đạt trình đô phát trị ển rất cao, xã hôi không còn  phân
chia giai cấp, đó là xã hôi cộ ng sản c nghĩa đạt tới mức đô hoàn thiệ
n, khi đ
ó dân chủ xã hôi c nghĩa với cách môt chế độ
nhà nự ớc cũng tiêu vong, không còn nữa.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền
dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi
quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ dân m chủ; dân chủ và pháp luật
nằm trong sự thống nhất biên chứng; được thực hi n bằng nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đo của Đảng Cộng sản.
b) Sự ra đời và phát triển của dân chủ XHCN ở Vit Nam
lOMoARcPSD| 61197966
Việt Nam, quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN trải qua các chặng
đường lịch sử quan trọng. Giai đoạn đầu tiên (1930-1945) là quá trình giai cấp
công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (nay
Đảng Cộng sản Việt Nam) đấu tranh giành chính quyền, đỉnh cao thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa -
nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên Đông Nam Á. Giai đoạn thứ hai (1945-
1975) là quá trình sử dụng chính quyền cách mạng để xây dựng nền dân chủ mới
miền Bắc trong điều kiện chiến tranh, đồng thời đấu tranh giải phóng miền
Nam. Đặc biệt, từ năm 1954, miền Bắc bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thiết
lập các cơ sở đầu tiên của nền dân chủ XHCN.
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, cả nước bước vào giai đoạn xây
dựng chủ nghĩa xã hội (1976 đến nay). Đây giai đoạn hoàn thiện nền dân chủ
XHCN trên phạm vi cả nước. Hiến pháp năm 1980 đặc biệt Hiến pháp 2013
đã thể chế hóa nguyên tắc "tất cả quyền lực thuộc về nhân dân", tạo sở pháp
lý vững chắc cho nền dân chủ XHCN.
Những thành quả của nền dân chủ XHCN ở Việt Nam thể hiện rõ qua việc
nhân dân thực sự làm chủ đất nước, đời sống vật chất tinh thần không ngừng
được nâng cao, vị thế quốc tế ngày càng được khẳng định. Bài học lớn nhất
phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp hài hòa giữa
dân chủ và kỷ cương pháp luật, không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong bối cảnh mới, nền
dân chủ XHCN tiếp tục được hoàn thiện, trở thành động lực quan trọng đxây
dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.3. Bản chất của nền dân chủ XHCN
Bản chất của nền dân chủ hội chủ nghĩa thường được xác định bởi sự
kết hợp của hai yếu tố quan trọng: dân chchủ nghĩa xã hội. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa là nền dân chcao hơn về chất so với nền dân chsản, nền dân
chủ đó mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ dân làm chủ; dân
chủ pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng n
nước pháp quyền XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo Lênin đã từng khẳng định: Dân chủ trong chủ nghĩa hội bao quát
tất cả các mặt của đời sống hội. Trong quá trình phát triển, tiến hóa của dân
chủ, nền dân chủ hội chủ nghĩa được xem đỉnh cao. Theo đó, bản chất của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có 4 nội dung sau:
Bản chất chính trị:
lOMoARcPSD| 61197966
sự lãnh đạo về mặt chính trị của giai cấp công nhân trong việc thực hiện
quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân trên mọi lĩnh vực, thông qua Đảng
Cộng sản đối với toàn hội. Quyền lực này của giai cấp công nhân được thể
hiện ở các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa xác lập nguyên tắc "tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân" một ch thực chất thông qua hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Nhân dân lao động những người làm chủ những quan hệ chính trị
trong hội. Hquyền giới thiệu các đại biểu tham giavào bộ máy chính quyền
từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến y dựng chính sách,
pháp luật, xây dựng bộ máy n bộ, nhân viên nhà nước. Quyền được tham gia
rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước của nhân dân chính là nội dung dân chủ
trên lĩnh vực chính trị. Khác với các nước bản chủ nghĩa nơi quyền lực thường
bị chi phối bởi các tập đoàn tài chính nhóm lợi ích, các nước XHCN như
Việt Nam, nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua các cơ chế dân chủ trực
tiếp đại diện. Ví dụ cụ thể, Hiến pháp 2013 quy định chế bầu cử tự do
với các ứng viên đi din cho các tầng lớp nhân dân, hay vic thực hin quy chế
dân chủ sở ti các xã, phường thông qua các cuộc họp dân để lấy ý kiến về
các chính sách địa phương.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ : Bản chất chính trị của nền dân chủ hội
chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó
đối với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng
cho giai cấp công nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn
thể nhân dân, trong đó giai cấp công nhân. Nền n chxã hội chủ nghĩa do
đảng Cộng sản lãnh đạo - yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc
về nhân dân, bởi vì, đăng Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động toàn dân tộc. Với nghĩa này, dân chủ hội chủ nghĩa
mang tính nhất nguyên về chính trị. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông
qua đảng Cộng sản đối với toàn hội về mọi mặt V.I.Lênin gọi sự thống trị
chính trị.
Mặt khác, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được xác định là nhân tố
bảo đảm định hướng XHCN, ngăn chặn nguy cơ chệch hướng. Điều này thể hiện
qua chế Đảng lãnh đạo nhưng Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. dụ,
trong công tác cán bộ, nguyên tắc "Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ"
giúp bảo đảm đội ngũ cán bộ vừa năng lực chuyên môn vừa phẩm chất
chính trị. Tuy nhiên, thách thức đặt ra là phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đo của Đảng để phù hợp với tình hình mới, chống bnh quan liêu, xa rời quần
chúng.
lOMoARcPSD| 61197966
Xét về bản chất chính trị, dân chủ hội chủ nghĩa vừa bản chất giai
cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Do vậy, nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa khác về chất so với nền dân chủ sản ở bản chất giai
cấp (giai cấp công nhân giai cấp sản); chế nhất nguyên chế đa
nguyên; một đảng hay nhiều đảng; bản chất nhà nước (nnước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản).
Bản chất kinh tế:
việc thực hiện chế độ ng hữu về liệu sản xuất chủ yếu việc
thực hiện chế độ phân chia lợi ích chủ yếu theo kết quả lao động. Bản chất được
bộc lộ một cách đầy đủ ràng nhất qua một quá trình ổn định chính trị,
phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội.
Cụ thể hơn, nền dân chủ hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về
những liệu sản xuất chyếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng
cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ hiện đại nhằm
thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất tinh thần của toàn thể nhân
dân lao động. Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một qtrình ổn
định chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự
lãnh đạo của đảng Mác - Lênin và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Trước hết đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu sản
xuất chủ yếu; quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản và phân
phối, phải coi lợi ích kinh tế của người lao động động lực cơ bản nhất có sức
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) khác biệt căn
bản so với các chế độ kinh tế dựa trên hữu, áp bức và bóc lột. Tuy nhiên, nền
kinh tế XHCN không hình thành một cách chủ quan theo ý muốn của bất kỳ
nhân hay nhóm nào, mà kết quả của qtrình kế thừa có chọn lọc những thành
tựu phát triển kinh tế nhân loại đã đạt được trong lịch sử. Đồng thời, loại bỏ
những yếu tố lạc hậu, tiêu cực, đặc biệt là bản chất tư hữu và các quan hệ bóc lột
vốn tồn tại trong các hình thái kinh tế trước đó.
Khác với nền dân chủ tư sản – nơi quyền sở hữu tư liệu sản xuất tập trung
vào tay một thiểu số, dẫn đến bất công hội, bản chất kinh tế của nền dân chủ
XHCN dựa trên chế độ công hữu về liệu sản xuất chủ yếu, đảm bảo quyền làm
chủ thực sự của nhân dân.
Nền kinh tế XHCN vận hành theo chế thị trường nhưng có sự quản lý
của Nhà nước nhằm đảm bảo công bằng hội. Đặc trưng nổi bật là duy trì vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong các ngành then chốt (năng lượng, viễn
lOMoARcPSD| 61197966
thông, giao thông...) đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát
triển. Ví dụ, Tập đoàn Đin lực Vit Nam (EVN) nắm giữ h thống truyền tải đin
quốc gia, đảm bảo cung cấp đin ổn định với giá cả hợp lý, khác với nhiều nước
tư bản nơi giá đin bị các tập đoàn tư nhân thao túng.
Tuy nhiên, nền kinh tế cũng đặt ra yêu cầu phải xmối quan hệ giữa
hiệu quả kinh tế công bằng xã hội. Chính sách thuế lũy tiến, trong đó người
thu nhập cao đóng thuế nhiều hơn để phân phối lại cho an sinh hội, là một biểu
hiện nét. Ví dụ, từ năm 2020, Vit Nam áp dụng thuế thu nhập cá nhân y tiến
đến 35% với thu nhập từ 80 triu đồng/tháng trở lên, số tiền thu được dùng để h
trợ người nghèo, đầu tư y tế, giáo dục. Thách thức hiện nay là nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước, chống thất thoát vốn, đồng thời kiểm soát chặt chẽ hoạt
động của doanh nghiệp nhân để tránh bóc lột lao động hay đầu gây bất ổn
thị trường.
Như vậy, kinh tế XHCN không phủ nhận hoàn toàn các quy luật thị trường,
tiếp thu chọn lọc những mặt tích cực của kinh tế hàng hóa đphát triển lực
lượng sản xuất, đồng thời định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm hạn chế những mặt
trái của chủ nghĩa tư bản như bất bình đẳng, khủng hoảng chu kỳ hay bóc lột sức
lao động. Đây chính điểm ưu việt của nền kinh tế XHCN, hướng tới mục tiêu
phát triển bền vững, công bằng và nhân văn.
Bản chất văn hóa:
Nền dân chủ hội chủ nghĩa kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa
truyền thống của dân tộc. Nhân dân chính người làm chủ những giá trị văn
hóa tinh thần, quyền được nâng cao trình độ văn hóa phát triển theo định
hướng cá nhân. Nhìn chung, dân chủ thành tựu văn hóa, quá trình sáng tạo và
khát vọng về tự do sáng tạo và phát triển của con người.
Văn hóa XHCN được xây dựng trên nền tảng kế thừa các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân
loại. Nnước chính sách bảo tồn phát huy các di sản văn hóa vật thể và
phi vật thể. dụ, Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa đã đầu hàng
ngàn tỷ đồng để trùng tu các di tích như Hoàng thành Thăng Long, hỗ trợ các
ngh nhân dân gian, hay đưa ngh thuật bài chòi, hát xoan vào trường học. Bên
cnh đó, Nhà nước ban hành bộ luật giáo dục. Theo đó, mọi công dân không phân
bit tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính, đặc điểm cá nhân, nguồn gốc gia đình, địa vị
xã hội, hoàn cảnh gia đình, tuổi tác đều được bình đẳng về cơ hội học tập. Đồng
thời Nnước ng ra nhiều chính sách cho những học sinh hoàn cảnh khó
khăn, con của thương binh hay người khuyết tật.
lOMoARcPSD| 61197966
Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc gigìn bản sắc n hóa dân
tộc đang đối mặt với nhiều thách thức. Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ các sản
phẩm văn hóa ngoại lai không phù hợp, đồng thời khuyến khích sáng tạo các tác
phẩm văn học nghệ thuật mang tính giáo dục cao. dụ, BVăn hóa đã cấm phát
hành một số phim nước ngoài có nội dung bo lực, đồng thời đầu sản xuất các
phim lịch sử như "Quỳnh Hoa Nhất D" để giáo dục truyền thống yêu nước cho
thế h trẻ.
Bản chất xã hội:
Là sự kết hợp hài hòa trong lợi ích giữa cácnhân, tập thể với lợi ích của
toàn hội. Đồng thời, nền dân chủ hội chủ nghĩa cũng lấy nền tảng hệ
tưởng Mác Lênin và hệ tư tưởng của giai cấp công nhân với mọi hình thái ý thức
xã hội. Để thực hiện được theo nền dân chủ này, điều kiện tiên quyết là bảo đảm
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trước hết, một trong những đặc trưng bản của xã hội hội chủ nghĩa
sự kết hợp hài a giữa lợi ích nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn
hội. Khác với chủ nghĩa tư bản, nơi lợi ích cá nhân thường được đặt lên trên dẫn
đến sự phân hóa giàu nghèo mâu thuẫn giai cấp, hội hội chủ nghĩa xây
dựng chế phân phối công bằng, đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các thành
viên. dụ, chính sách thuế lũy tiến Vit Nam yêu cầu người thu nhập cao
đóng góp nhiều hơn vào ngân sách nhà nước, từ đó tài trợ cho các chương trình
an sinh xã hội, giáo dục và y tế công, mang li lợi ích chung cho toàn dân. Đồng
thời, h thống phúc lợi hội như bảo hiểm y tế toàn dân, trợ cấp thất nghip
không chỉ bảo v quyền lợi cá nhân mà còn góp phần ổn định xã hội, thể hin rõ
sự thống nhất giữa các tầng lớp lợi ích.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo
tính tích cực hội của nhân dân thông qua cácchế dân chủ trực tiếp và đại
diện. Các phong trào như "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" hay
"Nông dân thi đua sản xuất giỏi" đã khơi dậy tinh thần lao động sáng tạo trong
mọi tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, việc thực hiện Quy chế dân chủ sở cho
phép người dân trực tiếp tham gia đóng góp ý kiến vào các quyết định quan trọng
tại địa phương, như quy hoạch đô thị hay xây dựng các công trình phúc lợi công
cộng. Nhà nước cũng tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nhân, trí thức, công
nhân phát huy năng lực thông qua các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, đào tạo nghề
miễn phí, qua đó biến sức mạnh tập thể thành động lực phát triển xã hội.
Bằng cách dung hòa các lợi ích và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân, xã hội hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu xây dựng một cộng đồng n
chủ, công bằng văn minh, nơi mọi người dân đều có hội phát triển toàn
lOMoARcPSD| 61197966
diện trong mối quan hệ hài hòa với cộng đồng. Đây chính là ưu thế vượt trội so
với các hình thái xã hội phân chia giai cấp đối kháng trong lịch sử.
Như vậy, bản chất nền dân chủ XHCN thể hiện toàn diện trên cả bốn mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa, hội, tạo nên một chế độ ưu việt hơn hẳn so với dân chủ
sản. Tuy nhiên, đphát huy tối đa ưu thế của chế độ, cần tiếp tục đổi mới
toàn diện, đặc biệt nâng cao hiệu quả quản nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh
phòng chống tham nhũng, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân
dân. Những thành tựu đạt được trong thời gian qua cùng với những bài học
kinh nghiệm sẽ sở để nền dân chủ XHCN ngày càng hoàn thiện, xứng
đáng với niềm tin yêu của nhân dân.
2. Quá trình vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với việc
xây dựng nền dân chủ XHCN của Đảng ta ở Việt Nam
2.1. Nội dung vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với việc
xây dựng nền dân chủ XHCN của Đảng ta hiện nay
Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - -nin về dân chủ
giá trị nền tảng chỉ dẫn mang tính nguyên tắc đối với công cuộc đổi mới
Việt Nam. Kế thừa, tuân thủ và vận dụng sáng tạo các quan điểm có tính nguyên
tắc về sự kết hợp tất yếu và hữu giữa dân chủ chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng
sản Việt Nam xác định n chủ quy luật hình thành, phát triển của ng cuộc
đổi mới theo định hướng hội chủ nghĩa. Điều đó thể hiện sự kiên định, tầm
nhìn xa, trông rộng và quyết tâm chính trị tầm chiến lược của Đảng trong quá
trình lãnh đạo công cuộc đổi mới. Trong bối cảnh mới, việc vận dụng sáng tạo
những nguyên này ý nghĩa đặc biệt quan trọng, giúp chúng ta xây dựng một
nền dân chủ thực chất, vì nhân dân và do nhân dân làm chủ.
Nội dung cơ bản của thực hành dân chủ Đảng lãnh đạo toàn bộ hội
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước tổ chức quyền lực của
nhân dân, thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp
luật, tchức quản lý, điều hành hội để thực hiện đường lối của Đảng và bảo
đảm lợi ích của nhân dân; các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động theo đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ của các tầng lớp
nhân dân. Nhân dân có quyền và trách nhiệm trực tiếp tham gia xây dựng, hoạch
định và thi hành các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Theo quan điểm Mác - Lênin, dân chủ luôn mang tính giai cấp sâu sắc.
Đảng ta đã vận dụng quan điểm này bằng việc khẳng định dân chủ XHCN là nền
dân chủ của đại đa số nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân
lOMoARcPSD| 61197966
thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng
ta nhấn mạnh: "Dân chủ XHCN bản chất của chế đta, vừa là mục tiêu, vừa
động lực của công cuộc xây dựng CNXH". Quan điểm này đã được thể chế hóa
trong Hiến pháp 2013, khẳng định rõ: "Nước Cộng hòa XHCN Vit Nam do Nhân
dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân".
Lênin đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa dân chchuyên chính, cho
rằng "Dân chủ XHCN là chế độ dân chủ gấp triu lần dân chủ sản, nhưng vẫn
chế độ chuyên chính sản". Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quan điểm này
bằng việc kết hợp mở rộng dân chủ trong Đảng trong hội với tăng ờng
pháp chế XHCN, bảo vệ thành quả cách mạng. Trong thực tiễn, điều này được
thể hiện qua việc thực hiện đồng thời các hình thức dân chủ đại diện dân chủ
trực tiếp, đồng thời kiên quyết đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ
để chống phá chế độ.
Chủ nghĩa Mác khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quan
điểm này đã được Đảng ta cụ thể hóa thành phương châm "Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra". Trong thực tế, các hình thức thực hiện dân chủ ngày càng
đa dạng, từ việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đến việc lấy ý kiến nhân dân
về các dự án luật quan trọng, xây dựng chế giám sát phản biện hội.
Những biện pháp này đã góp phần phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ thực sự của
nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Theo Lênin, nhà nước XHCN phải là "nhà nước nửa nhà nước", từng bước
tiến tới tự quản. Đảng ta đã vận dụng quan điểm này thông qua việc đẩy mạnh cải
cách nh chính, xây dựng bmáy nhà nước tinh gọn, hiệu quả, đồng thời kiên
quyết phòng chống các biểu hiện quan liêu, tham nhũng. Những nỗ lực này đã
mang lại kết quả tích cực, thể hiện qua sự cải thiện chỉ số cải cách hành chính và
việc ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ thông tin trong phục vụ nhân dân.
C.Mác từng cảnh báo về nguy tha hóa quyền lực trong bất kchế độ
nào. Đảng ta đã vận dụng bài học này thông qua việc đề ra các nghị quyết chống
tham nhũng (như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII), xây dựng cơ chế kiểm
soát quyền lực và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong
Đảng. Những biện pháp này đã góp phần quan trọng trong việc giữ vững bản chất
cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.
Việc vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ
XHCN đã giúp Đảng ta từng bước xây dựng thành công nền dân chủ XHCN phù
hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trong thời gian tới, để tiếp tục phát triển
hoàn thiện nền n chủ XHCN, chúng ta cần tập trung đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy mạnh m
lOMoARcPSD| 61197966
hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời kết hợp chặt chẽ giữa mở rộng
dân chủ với tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Sự kết hợp hài hòa giữa lý luận Mác -
Lênin với thực tiễn Việt Nam sẽ tiếp tục là nền tảng vững chắc cho sự phát triển
của nền dân chủ XHCN ở nước ta trong giai đoạn mới.
2.2. Thành tựu và hạn chế
a) Thành tựu
Một , h thống đường lối, chính sách, thể chế chế dân chủ ngày
càng được hoàn thin. Đường lối, chính sách, thể chế, cơ chế dân chủ ngày càng
được phát triển hoàn thiện, tạo cơ sở chính trị nền tảng pháp vững chắc
cho quá trình thực hành dân chủ. Thực hiện dân chủ ngày càng trở thành quá trình
xác định và thực hiện các cơ chế, thể chế về các quyền và lợi ích của Đảng, Nhà
nước của nhân dân. Trong chủ trương đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, nội dung chương trình hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội, vấn đề xây dựng cơ chế, thể chế dân chủ ngày càng được chú
trọng. Thể chế, chế dân chủ quy định tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã trở nên
hiện hữu và phát huy tác dụng. Thể chế, quy chế quy định quyền hạn và trách
nhiệm của các tổ chức, nhân trong các mối quan hệ giữa Nhà nước công
dân, trong kiểm soát quyền lực nhà nước... từng bước được hoàn thiện, làm cho
dân chủ ngày càng được lượng hóa. Đời sống hội được tổ chức vận hành
trên cơ sở các thể chế dân chủ với tính ổn định cao; tính chủ quan, duy ý chí của
các tổ chức và người lãnh đạo, quản lý được giảm thiểu đáng kể.
Hai là, dân chủ trong Đảng, Nhà nước h thống chính trị từng bước
được thực hành có hiu quả. Các cấp ủy và đảng viên ngày càng nhận thức đúng
đắn, thực hành đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ; Quốc hội thực sự quan
quyền lực nhà nước cao nhất; chính quyền các cấp ngày càng dân chủ, liêm chính,
thực hiện chức năng kiến tạo, phục vụ phát triển; các cơ quan tư pháp xứng đáng
quan bảo vệ pháp luật, bảo vcông lý;... Mặt trận Tổ quốc các tổ chức
chính tr- hội ngày càng thực hiện đầy đủ chức năng giám sát, phản biện
hội. Năng lực nhận thức và thực hành dân chủ của cán bộ, đảng viên và nhân dân
từng bước được nâng cao. Phương pháp và phong cách làm việc, ứng xử dân chủ
của cán bộ, đảng viên nhân dân sự chuyển biến tích cực ổn định. Dân
chủ đã và đang trở thành phương pháp làm việc, phong cách giao tiếp và thái độ
ứng xử của cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân, chứ không còn dừng lại ở
quan điểm và định hướng chung.
Ba là, ý thức thực hành dân chủ trong xã hội ngày càng được nâng cao. Ý
thức xã hội về vị thế, quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng, cũng
lOMoARcPSD| 61197966
như trong mối tương quan với các tổ chức, với các thiết chế n chngày càng
được nâng cao; hình thành nhiều giá trị mới trong văn hóa dân chủ, trong kỹ năng
giao tiếp, ứng xử dân chủ. Tính tích cực chính trị của công dân được tăng cường,
không khí dân chtrở nên rộng mở và sự quan tâm đến chính trị, tham gia quản
lý nhà nước của nhân dân ngày càng rộng rãi. Nhân dân ý thức rõ ràng và cụ thể
hơn về quyền trách nhiệm công dân của mình trước pháp luật, thực hiện đầy
đủ hơn quyền trách nhiệm của mình trong sản xuất đời sống. Các quyền dân
chủ của nhân dân - từ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh đến
hưởng thụ kết quả lao động; từ tự do làm ăn đến tự do ngôn luận được hiện thực
hóa. Các quyền đề cử, ứng cử lựa chọn của nhân dân trong các cuộc bầu cử
ngày càng đầy đủ hoàn thiện. Dân chủ không còn là các cuộc vận động, các
phong trào, mà đã và đang trở thành thể chế dân chủ pháp quyền.
Bốn là, nội dung, hình thức, tính chất, phương pháp và công cụ thực hành
dân chủ ngày càng sâu sắc và đa dng, phong phú. Về nội dung, quá trình thực
hiện dân chủ ngày càng được mở rộng và phát triển đến các lĩnh vực, các ngành,
các cấp; cthể chi tiết về tiêu chí và chuẩn mực. Về hình thức, dân chủ gián
tiếp dân chủ trực tiếp từng bước được phát triển đầy đủ, được c định bằng
những quy tắc, quy định quy trình cụ thể; cùng với việc hoàn thiện các hình
thức dân chủ đại diện việc xúc tiến mạnh mẽ các hình thức dân chủ trực tiếp.
Về tính chất, quá trình thực hiện dân chủ ngày càng toàn diện triệt để, thiết
thực và hiệu quả.
Năm là, dân chủ skhông còn dừng li những nguyên tắc chung,
trừu tượng, mà được cụ thể hóa ở từng cấp, ngành, địa phương, đơn vị. Dân chủ
ngày càng thoát ra khỏi tính hình thức để trở nên thực chất, thiết thực hơn
kết quả ràng. Dân chủ sđang “chiếc chìa khóa vạn năng” để giải quyết
những khó khăn, phức tạp trong quá trình đổi mới.
Những năm qua, hệ thống thể chế dân chủ nước ta đã bước phát triển đáng
kể. Các cơ chế, chính sách ngày càng được hoàn thiện, tạo nền tảng vững chắc
để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Đặc biệt, việc phân định trách nhiệm,
quyền hạn giữa các cấp, các ngành đã góp phần nâng cao hiệu quả quản nhà
nước. Các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động ngày càng bài bản, phát huy tốt
vai trò đại diện cho các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, để dân chủ thực sự đi
vào cuộc sống, cần tiếp tục đổi mới duy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong quản lý. Những kết quả đạt được
squan trọng để chúng ta tiếp tục xây dựng nền dân chủ hội chủ nghĩa
ngày càng vững mạnh. Có thể khẳng định, việc thực hành dân chủ trong điều
kiện một đảng duy nhất cầm quyền Việt Nam phù hợp với điều kiện
nước ta nên đã đưa tới những thành công tốt đẹp. Đảng Cộng sản Việt Nam
lOMoARcPSD| 61197966
luôn givững chủ trương tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc phát huy dân
chủ trong Đảng trong hội, mọi vấn đề tcương lĩnh, đường lối, chiến
lược, sách lược đến chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng đều được tổ chức
thảo luận rộng rãi trong Đảng và lấy ý kiến của nhân dân. b) Hn chế
Thứ nhất, vic giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của
Nhà nước vẫn còn nhiều hn chế chưa được khắc phục trit để. Trên thực tế, v
thế chính trị của giai cấp công nhân chưa được thể hiện nét trong đời sống
chính trị - hội. Mặc được xác định lực lượng nòng cốt trong liên minh
công - nông - trí, nhưng vai trò của giai cấp công nhân vẫn chưa thực sphát huy
đúng mức. Nguyên nhân chính xuất phát từ trình độ giác ngộ giai cấp không đồng
đều, bản lĩnh chính trcủa một bộ phận công nhân còn hạn chế, cùng với sự thiếu
hiểu biết sâu sắc về các chính sách, pháp luật hiện hành. Điều này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến khả năng tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của giai cấp
công nhân.
Thứ hai, các giá trị cốt lõi của nền dân chủ hội chủ nghĩa tuy đã được
phát huy nhưng vẫn chưa tương xứng với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Hệ thống pháp luật hiện hành tuy đã có nhiều cố gắng trong việc bảo đảm quyền
dân chủ, nhưng vẫn còn nhiều bất cập: thiếu tính đồng bộ, chưa n định đặc
biệt tính khả thi chưa cao. Tình trạng các văn bản pháp luật mới ban hành đã
phải sửa đổi, bổ sung đã trở nên khá phổ biến, gây lãng phí nguồn lực và làm
giảm niềm tin của nhân dân. Bên cạnh đó, bộ máy nhà nước vẫn còn cồng kềnh,
hoạt động kém hiệu quả, trong khi một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức có
biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức, yếu kém về năng lực chuyên môn.
Thứ ba, công cuộc cải cách tổ chức hot động của h thống chính trị
vẫn chưa đt được những kết quả như mong đợi. Bộ máy nhà nước vẫn còn nhiều
bất cập: quy quá lớn, hiệu lực quản chưa cao, cơ chế vận hành thiếu khoa
học. Sự phân công, phối hợp giữa các quan lập pháp, hành pháp pháp
chưa thực sự rõ ràng, dẫn đến tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Về
kinh tế, hình kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa vẫn chưa phát
huy được hết tiềm năng, khả năng cạnh tranh còn yếu. Kinh tế nhà nước chưa
thực sgiđược vai trò chủ đạo, trong khi kinh tế hợp tác và các thành phần kinh
tế khác phát triển chậm, chưa theo kịp yêu cầu hội nhập quốc tế.
Thứ tư, vic tiếp thu vận dụng các giá trị phổ quát về nhà nước pháp
quyền từ kinh nghim quốc tế vẫn n nhiều hn chế. Hệ thống pháp luật phục vụ
cho quá trình hội nhập quốc tế chưa được hoàn thiện, đặc biệt trong các lĩnh vực
then chốt như thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ. Công tác nghiên cứu và thực thi
các điều ước quốc tế chưa được quan tâm đúng mức. Đáng chú ý là chúng ta vẫn
lOMoARcPSD| 61197966
thiếu các chế bảo vhiệu quả nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập sâu rộng,
đặc biệt về mặt thuế quan, bảo vệ môi trường và các lĩnh vực nhạy cảm khác.
Thứ năm, nguyên tắc Đảng lãnh đo trong xây dựng Nnước pháp quyền
vẫn còn nhiều bất cập cần khắc phục. Phương thức lãnh đạo của Đảng chưa theo
kịp yêu cầu đổi mới, vẫn tồn tại tình trạng vừa buông lỏng lại vừa bao biện, dẫn
đến sự chồng chéo không cần thiết. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng chưa
được thực hiện thường xuyên nghiêm túc. Các biện pháp x vi phạm còn
thiếu tính răn đe, chưa đủ sức tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây
dựng Đảng hệ thống chính trị. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực,
hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
2.3. Phương hướng và giải pháp
a) Phương hướng
Đẩy mnh công nghiêp óa, hiên đi óa đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức, bảo vê  ài nguyên, môi trường. Kể từ Đại hôi lần thứ VIII, Đ ảng xác
định bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiêp  óa, hiên đ
ại hóa đất nước.
Quan điểm này tiếp tục được các kỳ Đại hôi lần thứ IX, X, XI, XII của Đảng  ổ
sung, phát triển. Đại hôi lần thứ XIII của Đảng tị ếp tục khẳng định sbổ
sung, cụ thể hơn. Đó tiếp tục đẩy mạnh công nghiêp óa, hiên đ
ại hóa trên
nền tảng của tiến bô khoa  ọc, công nghê  à đổi mới sáng tạo. Điểm mới này là
công nghiêp óa, hiên đ
ại hóa phải dựa trên nền tảng khoa học công nghê,
đổi mới sáng tạo, tân  ụng tốt cơ hôi c
ủa cuôc C
ách mạng công nghiêp 4.0 đ
phát triển bứt phá trong môt ngành nh vực. Trong đó, chú trọng “Đẩy
mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng, phát triển, làm chủ công nghê hiệ
đại; phát triển môt sản phẩm chủ lực thương hiêu nh, uy n trong
khu vực thế giới. Nâng cao tiềm lực khoa học công nghê, c ất lượng nguồn
nhân lực của đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và
phát triển kinh tế số”. Đồng thời, ưu tiên phát triển những ngành công nghiêp
công nghệ cao, thân thiệ n ới i trường, nhằm bảo đảm phát triển nhanh
bền vững.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi c ủ nghĩa. Nhân t ức
về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi c ủ nghĩa được bắt đầu từ
khi đất nước bước vào đổi mới và tiếp tục được bổ sung qua các kỳ đại hôi, hộ ị
nghị của Đảng. Đến nay, bản đã sự thống nhất chung trong nhân t ức. Vì
vây, Đ ại hôi lần thứ XIII của Đảng u c
ầu thống nhất nâng cao nhân t ức
về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hôi c ủ nghĩa. Đó là “nền kinh tế
thị trường hiên đ
ại, hôi nhậ p qụ ốc tế, vân  ành đầy đủ, đồng bô theo quy luậ 
lOMoARcPSD| 61197966
của kinh tế thị trường, sự quản lý của Nhà nước pháp quyền hôi c nghĩa,
do Đảng Công ản Viêt Nam ãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hôi củ nghĩa
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước”. Theo đó, viêc họ àn thiên t chế kinh tế thị
trường là môt trong ba khâu độ t p á chiến lược được Đảng ta xác định từ Đại
hôi lần thứ XI. Đểm mới lần này được xác định nôi àm rông à cthể hơn,
đó là “hoàn thiên đ
ồng bô t chế phát triển, trước hết thể chế phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hôi c ủ nghĩa”.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đâm đ à bản sắc dân tôc; xây ựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiên tị ến bô  à công bằng xã hôi. Đại
hôi lần thứ XIII của Đảng tếp tục nhất quán các phương hướng bổ sung
mới vphát triển văn hóa, con người, quản phát triển hôi, t ực hiên tị ến
bô  à công bằng xã hôi. Đ ó là “xây dựng hê gị á trị quốc gia, hê gị á trị văn hóa
và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hê gị á trị gia đình Viêt Na
trong thời kỳ mới”. Trong bối cảnh đất nước ngày càng hôi nhậ p sâu rộ ng ào
tiến trình phát triển của thế giới, thì viêc g
ắn chăt c giữa gá trị quốc
gia, hê gị á trị văn hóa và chuẩn mực con người với hê gị á trị gia đình Viêt Na
nhân t ức mới, trong đó đăt hệ gị á trị gia đình vào vị thế vốn của nó, với
tư cách là tế bào của xã hôi,  à hạt nhân nuôi dưỡng, lưu giữ và phát huy các g
trị quốc gia, giá trị văn hóa, con người Viêt Nam. Đ i với các vấn đề xã hôi, Đ
ại hôi lần thứ XIII của Đảng n ấn mạnh: “Tăng cường quản lý phát triển xã hôi,
bảo đảm tiến à công bằng hôi, t ính bền vững trong các chính sách hôi,
nhất phúc lợi xã hôi, an sinh x ã hôi, an ninh con ngự i”. Điều này bảo đảm
sự phát triển bền vững của con người và xã hôi, t ể hiên  ản chất của chế đô ta
 à lấy con người làm mục tiêu của sự phát triển.
Bảo đảm vững chắc quốc phòng an ninh quốc gia, trât ự, an toàn
hôi. Quốc phòng, an ninh lĩnh vực vô cùng quan trọng nhiêm trọng
yếu, thường xuyên. Qua mỗi kỳ đại hôi, phương hự ớng xây dựng quốc phòng,
an ninh tiếp tục được bổ sung những nôi dung ới phù hợp với từng giai đoạn.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định phương hướng, nhiệm vquốc phòng, an
ninh mặt đậm nét nhiều điểm mới. Đó là: “Xây dựng Quân đôi nhâ dân,
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuê,  ừng bước hiên đ
ại, môt 
quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiên đ
ại”. Đồng thời, xác định
rõ hơn nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển luận về quốc phòng, an ninh; triển khai
thực hiện các chiến lược về quốc phòng, an ninh trong điều kiên  ới.
Thực hiên đự ng lối đối ngoi đôc lậ p, chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác phát triển, chủ đông à tích cực hôi nhậ p qụ ốc tế. Lần đầu tiên trong
Cương lĩnh năm 2011 xác định “hôi nhậ p qụ ốc tế” thay cho “hôi nhậ p kinh  ế
lOMoARcPSD| 61197966
quốc tế”, không chỉ nhằm mở rông nộ i àm hôi nhậ p kinh  ế quốc tế, hôị
nhâp trên  ất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hôi, qụ ốc phòng an
ninh, đối ngoại. Đại hôi lần thứ XIII của Đảng tị ếp tục khẳng định quan điểm đó,
đồng thời làm hoạt đông đ
ối ngoại và hôi nhậ p qụ ốc tế phải luôn xác định lợi
ích quốc gia - dân tôc à mục tiêu tối thượng, trên sở các nguyên tắc bản
của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.
Xây dựng nền dân chủ xã hôi c ủ nghĩa, thực hiên đi đọ àn kết toàn dân
tôc, tăng cự ờng mở rông mặ t trậ n dân tộ c t ống nhất. Cương lĩnh năm 2011
khẳng định: “Dân chủ hôi c nghĩa bản chất của chế đô ta, ừa mục
tiêu, vừa là đông  ực của sự phát triển đất nước”. Đây là sự tổng kết có tính khái
quát cao về dân chủ, khẳng định bản chất của chế đô ta à dân chủ, là mục tiêu,
đông ực của sự nghiêp xây ựng phát triển đất nước. Đại hôi lần thứ XII
của Đảng tiếp tục cthể hóa bổ sung môt  nôi dung  i: (1) Bổ sung nôị
dung, phương châm thực hiên dân c “dân giám t, dân thụ hưởng” thành
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; (2) Xác
định rõ hơn mối quan hê  à vai trò giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Măt trậ n  ổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hôi àm nòng cốt để nhân
dân làm chủ”; (3) Khẳng định “đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân
dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn qụ á trình xây dựng bảo
vê  ổ quốc”.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hôi c ủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, nhân dân. Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Nnước ta Nhà nước
pháp quyền hôi c nghĩa của nhân dân, do nhân dân, nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuôc ề nhân dân, nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân đôi ng
ũ trí thức, do Đảng Công ản Viêt Na lãnh
đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong viêc t ực hiên c
ác quyền lâp p áp, hành pháp, tư pháp”.
Đại hôi lần thứ XIII của Đảng đ
ã xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ
quyền hạn của các quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp trên sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm
soát quyền lực nhà nước. Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ
nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, “lấy quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng
tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”. Xây dựng hệ thống pháp luật
đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định.
Xây dựng Đảng trong sch, vững mnh. Từ khi ra đời đến nay, Đảng luôn
coi trọng công tác xây dựng Đảng. Đây là nhiêm then chốt quyết định thành

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61197966
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE -----***----- BÀI TẬP LỚN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ
xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng của Đảng trong quá trình
xây dựng dân chủ nước ta hiện nay”

Họ và tên SV: Nguyễn Thị Diễm Huyền
Mã sinh viên: 11240385
Học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Lớp học phần: LLNL1107(224)CLC_17 Khóa: 66
Giảng viên: Nguyễn Văn Thuân lOMoAR cPSD| 61197966 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 3
NỘI DUNG .......................................................................................................... 3

1. Vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ và dân chủ .......... 3
XHCN ............................................................................................................. 3
1.1. Quan niệm về dân chủ XHCN ............................................................... 3
1.2. Quá trình ra đời của nền dân chủ XHCN ............................................... 5
1.3. Bản chất của nền dân chủ XHCN .......................................................... 8
2. Quá trình vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với việc 13
xây dựng nền dân chủ XHCN của Đảng ta ở Việt Nam ............................... 13
2.1. Nội dung vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với ... 13
việc xây dựng nền dân chủ XHCN của Đảng ta hiện nay .......................... 13
2.2. Thành tựu và hạn chế ........................................................................... 15
2.3. Phương hướng và giải pháp ................................................................. 18
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 25
lOMoAR cPSD| 61197966 LỜI MỞ ĐẦU
Dân chủ là một giá trị cốt lõi của xã hội văn minh, phản ánh nguyện vọng
và quyền làm chủ của nhân dân. Trong hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) được xác định là nền dân chủ ưu việt,
gắn liền với bản chất giai cấp công nhân và quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.
Khác với dân chủ tư sản – nơi quyền lực thường tập trung vào thiểu số giai cấp
thống trị, dân chủ XHCN đặt mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng,
nơi nhân dân tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước và xã hội.
Trong quá trình cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận
dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ XHCN, từng
bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ phù hợp với đặc điểm lịch sử, văn hóa
và điều kiện cụ thể của đất nước. Từ khi đổi mới (1986) đến nay, tư duy về dân
chủ ngày càng được mở rộng, thể hiện qua việc phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, cải cách thể chế, đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng dân chủ ở nước ta hiện nay vẫn đứng trước
nhiều thách thức, từ những hạn chế trong cơ chế thực thi dân chủ đến sự chống
phá của các thế lực thù địch. Vì vậy, việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin về dân chủ XHCN và sự vận dụng của Đảng ta có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn sâu sắc, góp phần củng cố nền tảng tư tưởng, hoàn thiện thể chế dân
chủ, đồng thời phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với ý nghĩa đó, bài tiểu luận này tập trung làm rõ những nội dung cơ bản
trong quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ XHCN, đồng thời phân
tích quá trình vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vào thực tiễn xây dựng dân
chủ ở nước ta hiện nay. Qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy
giá trị của dân chủ XHCN trong bối cảnh mới. NỘI DUNG 1.
Vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ và dân chủ XHCN 1.1.
Quan niệm về dân chủ XHCN
Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII – VI trước công
nguyên. Các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại đã dùng cụm từ “demokratos” để nói
đến dân chủ,ừ trong đó Demos là nhân dân (danh từ) và kratos là cai trị (động từ).
Theo đó, dân chủ được hiểu là nhân dân cai trị và sau này được các nhà chính trị lOMoAR cPSD| 61197966
gọi là giản lược là quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân. Nội
dung trên của khái niệm dân chủ về cơ bản vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay.
Điểm khác biệt cơ bản giữa cách hiểu về dân chủ thời cổ đại và hiện nay là ở tính
chất trực tiếp của mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng và các hiểu về nội
hàm của khái niệm nhân dân.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ là một phạm trù chính
trị - xã hội, thể hiện mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước và nhân dân. Khác với
các quan niệm phi giai cấp, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định dân chủ luôn mang
bản chất giai cấp rõ rệt, phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị trong mỗi chế độ
xã hội. Trong xã hội có giai cấp, dân chủ không tồn tại như một giá trị trừu tượng,
mà luôn gắn liền với chuyên chính giai cấp - tức là mặt đối lập nhưng thống nhất của nó.
Dân chủ, xét về bản chất, là một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước,
trong đó xác định ai là chủ thể nắm giữ và thực thi quyền lực. Chủ nghĩa Mác
Lênin phân biệt rõ giữa dân chủ tư sản (dân chủ của thiểu số - giai cấp tư sản) và
dân chủ xã hội chủ nghĩa (dân chủ của đa số - giai cấp công nhân và nhân dân lao
động). Trong khi dân chủ tư sản dù có những hình thức đa nguyên, đa đảng nhưng
vẫn bảo vệ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thì dân chủ xã hội chủ nghĩa hướng
tới xóa bỏ áp bức giai cấp, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, đảm bảo
quyền làm chủ thực sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa.
Một đặc điểm quan trọng của dân chủ theo chủ nghĩa Mác - Lênin là tính
lịch sử và tính tương đối. Dân chủ không phải là một mô hình bất biến, mà phát
triển cùng với sự vận động của các hình thái kinh tế - xã hội. Chẳng hạn, dân chủ
chủ nô khác với dân chủ phong kiến, dân chủ tư sản tiến bộ hơn dân chủ phong
kiến nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, và dân chủ xã hội chủ nghĩa được xem là bước
phát triển cao nhất, hướng tới một xã hội không còn giai cấp đối kháng.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ kiểu mới, ưu việt hơn về chất so
với các nền dân chủ trước đây, được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất và sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là
Đảng Cộng sản. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, đây là nền dân chủ
thực chất, không chỉ dừng lại ở các quyền tự do hình thức mà đảm bảo quyền làm
chủ thực sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bản chất
của dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện ở tính giai cấp công nhân, tính nhân dân
rộng rãi và sự kết hợp hài hòa giữa dân chủ và tập trung thông qua nguyên tắc tập
trung dân chủ. Khác với dân chủ tư sản - nền dân chủ của thiểu số giai cấp tư sản,
dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ của đại đa số nhân dân lao động, hướng
tới xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột. Trong lOMoAR cPSD| 61197966
nền dân chủ này, nhân dân thực sự trở thành chủ thể của quyền lực chính trị thông
qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, được thể chế hóa bằng
hệ thống pháp luật tiến bộ.
Trong thực tiễn, dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng dựa trên nguyên
tắc tập trung dân chủ, kết hợp giữa sự lãnh đạo tập trung của Đảng Cộng sản với
việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua các hình thức dân chủ đại
diện (như bầu cử, Quốc hội) và dân chủ trực tiếp (như tham gia giám sát, phản
biện xã hội). Như vậy, khái niệm dân chủ trong chủ nghĩa Mác Lênin không chỉ
dừng lại ở quyền bầu cử hay tự do ngôn luận hình thức, mà đòi hỏi sự tham gia
tích cực của nhân dân vào quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội, trên cơ sở
bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội.
Tóm lại, quan niệm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống
lý luận khoa học, vừa phê phán những hạn chế của dân chủ tư sản, vừa đề xuất
một mô hình dân chủ ưu việt hơn - dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong đó nhân dân
lao động thực sự trở thành chủ thể của quyền lực chính trị. Đây chính là cơ sở lý
luận quan trọng để các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, xây dựng
và hoàn thiện nền dân chủ của mình. 1.2.
Quá trình ra đời của nền dân chủ XHCN
a) Sự ra đời và phát triển của dân chủ XHCN theo chủ nghĩa Mác-Lênin
Nhu cầu về dân chủ xuất hiện từ rất sớm trong xã hội tự quản của cộng
đồng thị tộc, bộ lạc. Trong chế độ cộng sản nguyên thủy đã xuất hiện hình thức
manh nha của dân chủ mà Ph.Ăngghen gọi là “dân chủ nguyên thủy” hay còn gọi
là “dân chủ quân sự”. Đặc trưng cơ bản của hình thức dân chủ này là nhân dân
bầu ra thủ lĩnh quân sự thông qua “Đại hội nhân dân”. Trong “Đại hội nhân dân”,
mọi người đều có quyền phát biểu và tham gia quyết định bằng cách giơ tay hoặc
hoan hô, ở đó “Đại hội nhân dân” và nhân dân có quyền lực thật sự (nghĩa là có
dân chủ), mặc dù trình độ sản xuất còn kém phát triển. Khi trình độ của lực lượng
sản xuất phát triển dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu và sau đó là giai cấp đã làm
cho hình thức “dân chủ nguyên thủy” tan rã, nền dân chủ chủ nồ ra đời. Nền dân
chủ chủ nô được tổ chức thành nhà nước với đặc trưng là dân tham gia bầu ra Nhà
nước. Tuy nhiên, “Dân là ai?”, theo quy định của giai cấp cầm quyền chỉ gồm giai
cấp chủ nô và phần nào thuộc về các công dân tự do (tăng lữ, thương gia và một
số tri thức). Đa số còn lại không phải là “dân” mà là “nô lệ”. Họ không được tham
gia vào công việc nhà nước. Như vậy, về thực chất, dân chủ chủ nô cũng chỉ thực
hiện dân chủ cho thiểu số, quyền lực của dân đã bó hẹp nhằm duy trì, bảo vệ, thực
hiện lợi ích của “dân” mà thôi. Cùng với sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ,
lịch sử xã hội loài người bước vào thời kỳ đen tối với sự thống trị của nhà nước lOMoAR cPSD| 61197966
chuyên chế phong kiến, chế độ dân chủ chủ nô đã bị xóa bỏ và thay vào đó là chế
độ độc tài chuyên chế phong kiến. Sự thống trị của giai cấp trong thời kỳ này
được khoác lên chiếc ảo thần bí của thế lực siêu nhiên. Họ xem việc tuân theo ý
chí của giai cấp thống trị là bổn phận của mình trước sức mạnh của đấng tối cao.
Do đó, ý thức về dân chủ và đấu tranh để thực hiện quyền làm chủ của người dân
đã không có bước tiến đáng kể nào.
Cuối thế kỷ XIV - đầu XV, giai cấp tư sản với những tư tưởng tiến bộ về tự
do, công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản. Chủ
nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Dân chủ tư sản ra đời là một bước tiến lớn của nhân
loại với những giá trị nổi bật về quyền tự do, bình đẳng, dân chủ. Tuy nhiên, do
được xây dựng trên nền tảng kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên trên
thực tế, nền dân chủ tự sản vẫn là nền dân chủ của thiểu số những người nắm giữ
tư liệu sản xuất đối với đại đa số nhân dân lao động. Khi cách mạng xã hội chủ
nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917), một thời đại mới mở ra – thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động ở nhiều quốc gia
giành được quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, thiết lập Nhà nước công —
nông (nhà nước xã hội chủ nghĩa), thiết lập nền dân chủ vô sản (dân chủ xã hội
chủ nghĩa) để thực hiện quyền lực của đại đa số nhân dân. Đặc trưng cơ bản của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền lực của nhân dân - tức là xây
dựng nhà nước dân chủ thực sự, dân làm chủ nhà nước và xã hội, bảo vệ quyền
lợi cho đại đa số nhân dân. Như vậy, với tư cách là một hình thái nhà nước, một
chế độ chính trị thì trong lịch sử nhân loại, cho đến nay có ba nền (chế độ) dân
chủ. Nền dân chủ chủ nô, gắnvới chế độ chiếm hữu nô lệ; nền dân chủ tư sản, gắn
với chế độ tư bản chủ nghĩa; nền. dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với chế độ xã hội
chủ nghĩa. Tuy nhiên, muốn biết một nhà nước dân chủ có thực sự hay không phải
xem trong nhà nước ấy dân là ai và bản chất của chế độ xã hội ấy như thế nào?
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền dân
chủ trong lịch sử và trực tiếp nhất là nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác - Lênin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài, phức
tạp và giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là hoàn thiện nhất, do đó, tất yếu
xuất hiện một nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ tư sản và đó chính là nền
dân chủ vô sản hay còn gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hôi cḥ ủ nghĩa đã được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp
ở Pháp và Công xã Pari năm 1871, tuy nhiên, chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười
Nga thành công với sự ra đời của nhà nước xã hôi cḥ ủ nghĩa đầu tiên trên thế
giới (1917), nền dân chủ xã hôi cḥ ủ nghĩa mới chính thức được xác lâp. Ṣ ự ra
đời của nền dân chủ xã hôi cḥ ủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất của
dân chủ. Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hôi cḥ ủ nghĩa bắt đầu từ thấp lOMoAR cPSD| 61197966
đến cao, từ chưa hoàn thiên đến hoàn thiệ n. Trong đ ̣ ó, có sự kế thừa những giá
trị của nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc thêm những giá trị của nền dân chủ mới.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ra đời và phát triển qua các giai
đoạn lịch sử quan trọng, bắt nguồn từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917 - sự kiện đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử nhân loại. Dưới sự
lãnh đạo của V.I. Lênin và Đảng Bolshevik, cách mạng đã lật đổ chế độ Nga
hoàng, thiết lập nhà nước Xô viết - nhà nước dân chủ kiểu mới đầu tiên trên thế
giới, mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Nền dân chủ
XHCN này khác căn bản với dân chủ tư sản ở chỗ nó thực sự đảm bảo quyền làm
chủ của đại đa số nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, thiết lập
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin: Giai cấp vô sản không thể hoàn thành cuôc ̣
cách mạng xã hôi cḥ ủ nghĩa, nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới cuôc cácḥ
mạng đó thông qua cuôc đấu tranh cho dân cḥ ủ. Rằng, chủ nghĩa xã hôi không ̣
thể duy trì và thắng lợi, nếu không thực hiên đầy đ ̣ ủ dân chủ.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phát triển theo quy luật từ thấp đến cao, từ
chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh, có sự kế thừa có chọn lọc những giá trị tiến bộ
của các nền dân chủ trước đó, đặc biệt là dân chủ tư sản. Nguyên lý cốt lõi của
nền dân chủ này là không ngừng mở rộng quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao
mức độ giải phóng người lao động, tạo điều kiện để quần chúng tham gia tích cực
vào công tác quản lý nhà nước và xã hội. Quá trình hoàn thiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa đồng thời cũng là quá trình nó tự tiêu vong dần - theo phân tích của Lênin,
khi tính chính trị của dân chủ mất đi do dân chủ đã trở thành tập quán, thói quen
trong đời sống xã hội, không còn tồn tại như một thể chế nhà nước.
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng lưu ý đây là quá trình lâu dài, khi xã hôi đ ̣
ã đạt trình đô phát trị
ển rất cao, xã hôi không còn ṣ ự phân
chia giai cấp, đó là xã hôi cộ ng sản cḥ
ủ nghĩa đạt tới mức đô hoàn thiệ n, khi đ ̣ ó dân chủ xã hôi cḥ
ủ nghĩa với tư cách là môt chế độ nhà nự
ớc cũng tiêu vong, không còn nữa.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền
dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi
quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật
nằm trong sự thống nhất biên chứng; được thực hiệ

n bằng nhà nước pháp ̣
quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
b) Sự ra đời và phát triển của dân chủ XHCN ở Việt Nam lOMoAR cPSD| 61197966
Ở Việt Nam, quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN trải qua các chặng
đường lịch sử quan trọng. Giai đoạn đầu tiên (1930-1945) là quá trình giai cấp
công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là
Đảng Cộng sản Việt Nam) đấu tranh giành chính quyền, đỉnh cao là thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa -
nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Giai đoạn thứ hai (1945-
1975) là quá trình sử dụng chính quyền cách mạng để xây dựng nền dân chủ mới
ở miền Bắc trong điều kiện chiến tranh, đồng thời đấu tranh giải phóng miền
Nam. Đặc biệt, từ năm 1954, miền Bắc bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thiết
lập các cơ sở đầu tiên của nền dân chủ XHCN.
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, cả nước bước vào giai đoạn xây
dựng chủ nghĩa xã hội (1976 đến nay). Đây là giai đoạn hoàn thiện nền dân chủ
XHCN trên phạm vi cả nước. Hiến pháp năm 1980 và đặc biệt là Hiến pháp 2013
đã thể chế hóa nguyên tắc "tất cả quyền lực thuộc về nhân dân", tạo cơ sở pháp
lý vững chắc cho nền dân chủ XHCN.
Những thành quả của nền dân chủ XHCN ở Việt Nam thể hiện rõ qua việc
nhân dân thực sự làm chủ đất nước, đời sống vật chất và tinh thần không ngừng
được nâng cao, vị thế quốc tế ngày càng được khẳng định. Bài học lớn nhất là
phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp hài hòa giữa
dân chủ và kỷ cương pháp luật, không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong bối cảnh mới, nền
dân chủ XHCN tiếp tục được hoàn thiện, trở thành động lực quan trọng để xây
dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.3. Bản chất của nền dân chủ XHCN
Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thường được xác định bởi sự
kết hợp của hai yếu tố quan trọng: dân chủchủ nghĩa xã hội. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân
chủ mà ở đó mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân
chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà
nước pháp quyền XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo Lênin đã từng khẳng định: Dân chủ trong chủ nghĩa xã hội bao quát
tất cả các mặt của đời sống xã hội. Trong quá trình phát triển, tiến hóa của dân
chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xem là đỉnh cao. Theo đó, bản chất của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có 4 nội dung sau:
Bản chất chính trị: lOMoAR cPSD| 61197966
Là sự lãnh đạo về mặt chính trị của giai cấp công nhân trong việc thực hiện
quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân trên mọi lĩnh vực, thông qua Đảng
Cộng sản đối với toàn xã hội. Quyền lực này của giai cấp công nhân được thể
hiện ở các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa xác lập nguyên tắc "tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân" một cách thực chất thông qua hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Nhân dân lao động là những người làm chủ những quan hệ chính trị
trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu tham giavào bộ máy chính quyền
từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách,
pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ, nhân viên nhà nước. Quyền được tham gia
rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước của nhân dân chính là nội dung dân chủ
trên lĩnh vực chính trị. Khác với các nước tư bản chủ nghĩa nơi quyền lực thường
bị chi phối bởi các tập đoàn tài chính và nhóm lợi ích, ở các nước XHCN như
Việt Nam, nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua các cơ chế dân chủ trực
tiếp và đại diện. Ví dụ cụ thể, Hiến pháp 2013 quy định rõ cơ chế bầu cử tự do
với các ứng viên đại diện cho các tầng lớp nhân dân, hay việc thực hiện quy chế
dân chủ cơ sở tại các xã, phường thông qua các cuộc họp dân để lấy ý kiến về
các chính sách địa phương.

Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó
đối với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng
cho giai cấp công nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn
thể nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do
đảng Cộng sản lãnh đạo - yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc
về nhân dân, bởi vì, đăng Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Với nghĩa này, dân chủ xã hội chủ nghĩa
mang tính nhất nguyên về chính trị. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông
qua đảng Cộng sản đối với toàn xã hội về mọi mặt V.I.Lênin gọi là sự thống trị chính trị.
Mặt khác, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được xác định là nhân tố
bảo đảm định hướng XHCN, ngăn chặn nguy cơ chệch hướng. Điều này thể hiện
qua cơ chế Đảng lãnh đạo nhưng Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Ví dụ,
trong công tác cán bộ, nguyên tắc "Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ"
giúp bảo đảm đội ngũ cán bộ vừa có năng lực chuyên môn vừa có phẩm chất
chính trị. Tuy nhiên, thách thức đặt ra là phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng để phù hợp với tình hình mới, chống bệnh quan liêu, xa rời quần chúng.
lOMoAR cPSD| 61197966
Xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai
cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Do vậy, nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa khác về chất so với nền dân chủ tư sản ở bản chất giai
cấp (giai cấp công nhân và giai cấp tư sản); ở cơ chế nhất nguyên và cơ chế đa
nguyên; một đảng hay nhiều đảng; ở bản chất nhà nước (nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản).
Bản chất kinh tế:
Là việc thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và việc
thực hiện chế độ phân chia lợi ích chủ yếu theo kết quả lao động. Bản chất là được
bộc lộ một cách đầy đủ và rõ ràng nhất là qua một quá trình ổn định chính trị,
phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội.
Cụ thể hơn, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về
những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng
cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ hiện đại nhằm
thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân
dân lao động. Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình ổn
định chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự
lãnh đạo của đảng Mác - Lênin và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Trước hết đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu sản
xuất chủ yếu; quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân
phối, phải coi lợi ích kinh tế của người lao động động lực cơ bản nhất có sức
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) khác biệt căn
bản so với các chế độ kinh tế dựa trên tư hữu, áp bức và bóc lột. Tuy nhiên, nền
kinh tế XHCN không hình thành một cách chủ quan theo ý muốn của bất kỳ cá
nhân hay nhóm nào, mà là kết quả của quá trình kế thừa có chọn lọc những thành
tựu phát triển kinh tế nhân loại đã đạt được trong lịch sử. Đồng thời, nó loại bỏ
những yếu tố lạc hậu, tiêu cực, đặc biệt là bản chất tư hữu và các quan hệ bóc lột
vốn tồn tại trong các hình thái kinh tế trước đó.
Khác với nền dân chủ tư sản – nơi quyền sở hữu tư liệu sản xuất tập trung
vào tay một thiểu số, dẫn đến bất công xã hội, bản chất kinh tế của nền dân chủ
XHCN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, đảm bảo quyền làm
chủ thực sự của nhân dân.
Nền kinh tế XHCN vận hành theo cơ chế thị trường nhưng có sự quản lý
của Nhà nước nhằm đảm bảo công bằng xã hội. Đặc trưng nổi bật là duy trì vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong các ngành then chốt (năng lượng, viễn lOMoAR cPSD| 61197966
thông, giao thông...) đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát
triển. Ví dụ, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nắm giữ hệ thống truyền tải điện
quốc gia, đảm bảo cung cấp điện ổn định với giá cả hợp lý, khác với nhiều nước
tư bản nơi giá điện bị các tập đoàn tư nhân thao túng.

Tuy nhiên, nền kinh tế cũng đặt ra yêu cầu phải xử lý mối quan hệ giữa
hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội. Chính sách thuế lũy tiến, trong đó người có
thu nhập cao đóng thuế nhiều hơn để phân phối lại cho an sinh xã hội, là một biểu
hiện rõ nét. Ví dụ, từ năm 2020, Việt Nam áp dụng thuế thu nhập cá nhân lũy tiến
đến 35% với thu nhập từ 80 triệu đồng/tháng trở lên, số tiền thu được dùng để hỗ
trợ người nghèo, đầu tư y tế, giáo dục
. Thách thức hiện nay là nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước, chống thất thoát vốn, đồng thời kiểm soát chặt chẽ hoạt
động của doanh nghiệp tư nhân để tránh bóc lột lao động hay đầu cơ gây bất ổn thị trường.
Như vậy, kinh tế XHCN không phủ nhận hoàn toàn các quy luật thị trường,
mà tiếp thu có chọn lọc những mặt tích cực của kinh tế hàng hóa để phát triển lực
lượng sản xuất, đồng thời định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm hạn chế những mặt
trái của chủ nghĩa tư bản như bất bình đẳng, khủng hoảng chu kỳ hay bóc lột sức
lao động. Đây chính là điểm ưu việt của nền kinh tế XHCN, hướng tới mục tiêu
phát triển bền vững, công bằng và nhân văn.
Bản chất văn hóa:
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa
truyền thống của dân tộc. Nhân dân chính là người làm chủ những giá trị văn
hóa tinh thần, có quyền được nâng cao trình độ văn hóa và phát triển theo định
hướng cá nhân. Nhìn chung, dân chủ là thành tựu văn hóa, quá trình sáng tạo và
khát vọng về tự do sáng tạo và phát triển của con người.
Văn hóa XHCN được xây dựng trên nền tảng kế thừa các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân
loại. Nhà nước có chính sách bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa vật thể và
phi vật thể. Ví dụ, Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa đã đầu tư hàng
ngàn tỷ đồng để trùng tu các di tích như Hoàng thành Thăng Long, hỗ trợ các
nghệ nhân dân gian, hay đưa nghệ thuật bài chòi, hát xoan vào trường học. Bên
cạnh đó, Nhà nước ban hành bộ luật giáo dục. Theo đó, mọi công dân không phân
biệt tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính, đặc điểm cá nhân, nguồn gốc gia đình, địa vị
xã hội, hoàn cảnh gia đình, tuổi tác đều được bình đẳng về cơ hội học tập. Đồng
thời Nhà nước cũng ra nhiều chính sách cho những học sinh có hoàn cảnh khó
khăn, con của thương binh hay người khuyết tật.
lOMoAR cPSD| 61197966
Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc đang đối mặt với nhiều thách thức. Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ các sản
phẩm văn hóa ngoại lai không phù hợp, đồng thời khuyến khích sáng tạo các tác
phẩm văn học nghệ thuật mang tính giáo dục cao. Ví dụ, Bộ Văn hóa đã cấm phát
hành một số phim nước ngoài có nội dung bạo lực, đồng thời đầu tư sản xuất các
phim lịch sử như "Quỳnh Hoa Nhất Dạ" để giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ.

Bản chất xã hội:
Là sự kết hợp hài hòa trong lợi ích giữa các cá nhân, tập thể với lợi ích của
toàn xã hội. Đồng thời, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng lấy nền tảng là hệ tư
tưởng Mác Lênin và hệ tư tưởng của giai cấp công nhân với mọi hình thái ý thức
xã hội. Để thực hiện được theo nền dân chủ này, điều kiện tiên quyết là bảo đảm
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trước hết, một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã
hội.
Khác với chủ nghĩa tư bản, nơi lợi ích cá nhân thường được đặt lên trên dẫn
đến sự phân hóa giàu nghèo và mâu thuẫn giai cấp, xã hội xã hội chủ nghĩa xây
dựng cơ chế phân phối công bằng, đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các thành
viên. Ví dụ, chính sách thuế lũy tiến ở Việt Nam yêu cầu người có thu nhập cao
đóng góp nhiều hơn vào ngân sách nhà nước, từ đó tài trợ cho các chương trình
an sinh xã hội, giáo dục và y tế công, mang lại lợi ích chung cho toàn dân. Đồng
thời, hệ thống phúc lợi xã hội như bảo hiểm y tế toàn dân, trợ cấp thất nghiệp
không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân mà còn góp phần ổn định xã hội, thể hiện rõ
sự thống nhất giữa các tầng lớp lợi ích.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo và
tính tích cực xã hội của nhân dân thông qua các cơ chế dân chủ trực tiếp và đại
diện. Các phong trào như "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" hay
"Nông dân thi đua sản xuất giỏi" đã khơi dậy tinh thần lao động sáng tạo trong
mọi tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở cho
phép người dân trực tiếp tham gia đóng góp ý kiến vào các quyết định quan trọng
tại địa phương, như quy hoạch đô thị hay xây dựng các công trình phúc lợi công
cộng. Nhà nước cũng tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nhân, trí thức, công
nhân phát huy năng lực thông qua các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, đào tạo nghề
miễn phí, qua đó biến sức mạnh tập thể thành động lực phát triển xã hội.
Bằng cách dung hòa các lợi ích và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân, xã hội xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu xây dựng một cộng đồng dân
chủ, công bằng và văn minh,
nơi mọi người dân đều có cơ hội phát triển toàn lOMoAR cPSD| 61197966
diện trong mối quan hệ hài hòa với cộng đồng. Đây chính là ưu thế vượt trội so
với các hình thái xã hội phân chia giai cấp đối kháng trong lịch sử.
 Như vậy, bản chất nền dân chủ XHCN thể hiện toàn diện trên cả bốn mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo nên một chế độ ưu việt hơn hẳn so với dân chủ
tư sản. Tuy nhiên, để phát huy tối đa ưu thế của chế độ, cần tiếp tục đổi mới
toàn diện, đặc biệt là nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh
phòng chống tham nhũng, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân. Những thành tựu đạt được trong thời gian qua cùng với những bài học
kinh nghiệm sẽ là cơ sở để nền dân chủ XHCN ngày càng hoàn thiện, xứng
đáng với niềm tin yêu của nhân dân.
2. Quá trình vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với việc
xây dựng nền dân chủ XHCN của Đảng ta ở Việt Nam
2.1. Nội dung vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với việc
xây dựng nền dân chủ XHCN của Đảng ta hiện nay
Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin về dân chủ có
giá trị nền tảng và là chỉ dẫn mang tính nguyên tắc đối với công cuộc đổi mới ở
Việt Nam. Kế thừa, tuân thủ và vận dụng sáng tạo các quan điểm có tính nguyên
tắc về sự kết hợp tất yếu và hữu cơ giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng
sản Việt Nam xác định dân chủ là quy luật hình thành, phát triển của công cuộc
đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó thể hiện sự kiên định, tầm
nhìn xa, trông rộng và quyết tâm chính trị ở tầm chiến lược của Đảng trong quá
trình lãnh đạo công cuộc đổi mới. Trong bối cảnh mới, việc vận dụng sáng tạo
những nguyên lý này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, giúp chúng ta xây dựng một
nền dân chủ thực chất, vì nhân dân và do nhân dân làm chủ.
Nội dung cơ bản của thực hành dân chủ là Đảng lãnh đạo toàn bộ xã hội
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước là tổ chức quyền lực của
nhân dân, thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp
luật, tổ chức quản lý, điều hành xã hội để thực hiện đường lối của Đảng và bảo
đảm lợi ích của nhân dân; các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động theo đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước và bảo đảm quyền làm chủ của các tầng lớp
nhân dân. Nhân dân có quyền và trách nhiệm trực tiếp tham gia xây dựng, hoạch
định và thi hành các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Theo quan điểm Mác - Lênin, dân chủ luôn mang tính giai cấp sâu sắc.
Đảng ta đã vận dụng quan điểm này bằng việc khẳng định dân chủ XHCN là nền
dân chủ của đại đa số nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân lOMoAR cPSD| 61197966
thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng
ta nhấn mạnh: "Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của công cuộc xây dựng CNXH".
Quan điểm này đã được thể chế hóa
trong Hiến pháp 2013, khẳng định rõ: "Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân
dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân".

Lênin đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa dân chủ và chuyên chính, cho
rằng "Dân chủ XHCN là chế độ dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản, nhưng vẫn
là chế độ chuyên chính vô sản".
Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quan điểm này
bằng việc kết hợp mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội với tăng cường
pháp chế XHCN, bảo vệ thành quả cách mạng. Trong thực tiễn, điều này được
thể hiện qua việc thực hiện đồng thời các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ
trực tiếp, đồng thời kiên quyết đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ
để chống phá chế độ.
Chủ nghĩa Mác khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quan
điểm này đã được Đảng ta cụ thể hóa thành phương châm "Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra".
Trong thực tế, các hình thức thực hiện dân chủ ngày càng
đa dạng, từ việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đến việc lấy ý kiến nhân dân
về các dự án luật quan trọng, xây dựng cơ chế giám sát và phản biện xã hội.
Những biện pháp này đã góp phần phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ thực sự của
nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Theo Lênin, nhà nước XHCN phải là "nhà nước nửa nhà nước", từng bước
tiến tới tự quản. Đảng ta đã vận dụng quan điểm này thông qua việc đẩy mạnh cải
cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu quả, đồng thời kiên
quyết phòng chống các biểu hiện quan liêu, tham nhũng. Những nỗ lực này đã
mang lại kết quả tích cực, thể hiện qua sự cải thiện chỉ số cải cách hành chính và
việc ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ thông tin trong phục vụ nhân dân.
C.Mác từng cảnh báo về nguy cơ tha hóa quyền lực trong bất kỳ chế độ
nào. Đảng ta đã vận dụng bài học này thông qua việc đề ra các nghị quyết chống
tham nhũng (như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII), xây dựng cơ chế kiểm
soát quyền lực và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong
Đảng. Những biện pháp này đã góp phần quan trọng trong việc giữ vững bản chất
cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.
Việc vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ
XHCN đã giúp Đảng ta từng bước xây dựng thành công nền dân chủ XHCN phù
hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trong thời gian tới, để tiếp tục phát triển
và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, chúng ta cần tập trung đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy mạnh mẽ lOMoAR cPSD| 61197966
hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời kết hợp chặt chẽ giữa mở rộng
dân chủ với tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Sự kết hợp hài hòa giữa lý luận Mác -
Lênin với thực tiễn Việt Nam sẽ tiếp tục là nền tảng vững chắc cho sự phát triển
của nền dân chủ XHCN ở nước ta trong giai đoạn mới. 2.2.
Thành tựu và hạn chế a) Thành tựu
Một là, hệ thống đường lối, chính sách, thể chế và cơ chế dân chủ ngày
càng được hoàn thiện. Đường lối, chính sách, thể chế, cơ chế dân chủ ngày càng
được phát triển và hoàn thiện, tạo cơ sở chính trị và nền tảng pháp lý vững chắc
cho quá trình thực hành dân chủ. Thực hiện dân chủ ngày càng trở thành quá trình
xác định và thực hiện các cơ chế, thể chế về các quyền và lợi ích của Đảng, Nhà
nước và của nhân dân. Trong chủ trương và đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước, nội dung và chương trình hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội, vấn đề xây dựng cơ chế, thể chế dân chủ ngày càng được chú
trọng. Thể chế, cơ chế dân chủ quy định tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã trở nên
hiện hữu và phát huy tác dụng. Thể chế, quy chế quy định quyền hạn và trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong các mối quan hệ giữa Nhà nước và công
dân, trong kiểm soát quyền lực nhà nước... từng bước được hoàn thiện, làm cho
dân chủ ngày càng được lượng hóa. Đời sống xã hội được tổ chức và vận hành
trên cơ sở các thể chế dân chủ với tính ổn định cao; tính chủ quan, duy ý chí của
các tổ chức và người lãnh đạo, quản lý được giảm thiểu đáng kể.
Hai là, dân chủ trong Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị từng bước
được thực hành có hiệu quả. Các cấp ủy và đảng viên ngày càng nhận thức đúng
đắn, thực hành đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ; Quốc hội thực sự là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất; chính quyền các cấp ngày càng dân chủ, liêm chính,
thực hiện chức năng kiến tạo, phục vụ phát triển; các cơ quan tư pháp xứng đáng
là cơ quan bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý;... Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội ngày càng thực hiện đầy đủ chức năng giám sát, phản biện xã
hội. Năng lực nhận thức và thực hành dân chủ của cán bộ, đảng viên và nhân dân
từng bước được nâng cao. Phương pháp và phong cách làm việc, ứng xử dân chủ
của cán bộ, đảng viên và nhân dân có sự chuyển biến tích cực và ổn định. Dân
chủ đã và đang trở thành phương pháp làm việc, phong cách giao tiếp và thái độ
ứng xử của cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân, chứ không còn dừng lại ở
quan điểm và định hướng chung.
Ba là, ý thức thực hành dân chủ trong xã hội ngày càng được nâng cao. Ý
thức xã hội về vị thế, quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng, cũng lOMoAR cPSD| 61197966
như trong mối tương quan với các tổ chức, với các thiết chế dân chủ ngày càng
được nâng cao; hình thành nhiều giá trị mới trong văn hóa dân chủ, trong kỹ năng
giao tiếp, ứng xử dân chủ. Tính tích cực chính trị của công dân được tăng cường,
không khí dân chủ trở nên rộng mở và sự quan tâm đến chính trị, tham gia quản
lý nhà nước của nhân dân ngày càng rộng rãi. Nhân dân ý thức rõ ràng và cụ thể
hơn về quyền và trách nhiệm công dân của mình trước pháp luật, thực hiện đầy
đủ hơn quyền và trách nhiệm của mình trong sản xuất và đời sống. Các quyền dân
chủ của nhân dân - từ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh đến
hưởng thụ kết quả lao động; từ tự do làm ăn đến tự do ngôn luận được hiện thực
hóa. Các quyền đề cử, ứng cử và lựa chọn của nhân dân trong các cuộc bầu cử
ngày càng đầy đủ và hoàn thiện. Dân chủ không còn là các cuộc vận động, các
phong trào, mà đã và đang trở thành thể chế dân chủ pháp quyền.
Bốn là, nội dung, hình thức, tính chất, phương pháp và công cụ thực hành
dân chủ ngày càng sâu sắc và đa dạng, phong phú. Về nội dung, quá trình thực
hiện dân chủ ngày càng được mở rộng và phát triển đến các lĩnh vực, các ngành,
các cấp; cụ thể và chi tiết về tiêu chí và chuẩn mực. Về hình thức, dân chủ gián
tiếp và dân chủ trực tiếp từng bước được phát triển đầy đủ, được xác định bằng
những quy tắc, quy định và quy trình cụ thể; cùng với việc hoàn thiện các hình
thức dân chủ đại diện là việc xúc tiến mạnh mẽ các hình thức dân chủ trực tiếp.
Về tính chất, quá trình thực hiện dân chủ ngày càng toàn diện và triệt để, thiết thực và hiệu quả.
Năm là, dân chủ ở cơ sở không còn dừng lại ở những nguyên tắc chung,
trừu tượng, mà được cụ thể hóa ở từng cấp, ngành, địa phương, đơn vị. Dân chủ
ngày càng thoát ra khỏi tính hình thức để trở nên thực chất, thiết thực hơn và có
kết quả rõ ràng. Dân chủ ở cơ sở đang là “chiếc chìa khóa vạn năng” để giải quyết
những khó khăn, phức tạp trong quá trình đổi mới.
 Những năm qua, hệ thống thể chế dân chủ nước ta đã có bước phát triển đáng
kể. Các cơ chế, chính sách ngày càng được hoàn thiện, tạo nền tảng vững chắc
để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Đặc biệt, việc phân định rõ trách nhiệm,
quyền hạn giữa các cấp, các ngành đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước. Các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động ngày càng bài bản, phát huy tốt
vai trò đại diện cho các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, để dân chủ thực sự đi
vào cuộc sống, cần tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong quản lý. Những kết quả đạt được
là cơ sở quan trọng để chúng ta tiếp tục xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ngày càng vững mạnh. Có thể khẳng định, việc thực hành dân chủ trong điều
kiện một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam là phù hợp với điều kiện ở
nước ta nên đã đưa tới những thành công tốt đẹp. Đảng Cộng sản Việt Nam lOMoAR cPSD| 61197966
luôn giữ vững chủ trương và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc phát huy dân
chủ trong Đảng và trong xã hội, mọi vấn đề từ cương lĩnh, đường lối, chiến
lược, sách lược đến chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng đều được tổ chức
thảo luận rộng rãi trong Đảng và lấy ý kiến của nhân dân. b) Hạn chế
Thứ nhất, việc giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của
Nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế chưa được khắc phục triệt để. Trên thực tế, vị
thế chính trị của giai cấp công nhân chưa được thể hiện rõ nét trong đời sống
chính trị - xã hội. Mặc dù được xác định là lực lượng nòng cốt trong liên minh
công - nông - trí, nhưng vai trò của giai cấp công nhân vẫn chưa thực sự phát huy
đúng mức. Nguyên nhân chính xuất phát từ trình độ giác ngộ giai cấp không đồng
đều, bản lĩnh chính trị của một bộ phận công nhân còn hạn chế, cùng với sự thiếu
hiểu biết sâu sắc về các chính sách, pháp luật hiện hành. Điều này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến khả năng tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của giai cấp công nhân.
Thứ hai, các giá trị cốt lõi của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tuy đã được
phát huy nhưng vẫn chưa tương xứng với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Hệ thống pháp luật hiện hành tuy đã có nhiều cố gắng trong việc bảo đảm quyền
dân chủ, nhưng vẫn còn nhiều bất cập: thiếu tính đồng bộ, chưa ổn định và đặc
biệt là tính khả thi chưa cao. Tình trạng các văn bản pháp luật mới ban hành đã
phải sửa đổi, bổ sung đã trở nên khá phổ biến, gây lãng phí nguồn lực và làm
giảm niềm tin của nhân dân. Bên cạnh đó, bộ máy nhà nước vẫn còn cồng kềnh,
hoạt động kém hiệu quả, trong khi một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức có
biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức, yếu kém về năng lực chuyên môn.
Thứ ba, công cuộc cải cách tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị
vẫn chưa đạt được những kết quả như mong đợi. Bộ máy nhà nước vẫn còn nhiều
bất cập: quy mô quá lớn, hiệu lực quản lý chưa cao, cơ chế vận hành thiếu khoa
học. Sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp
chưa thực sự rõ ràng, dẫn đến tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Về
kinh tế, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa phát
huy được hết tiềm năng, khả năng cạnh tranh còn yếu. Kinh tế nhà nước chưa
thực sự giữ được vai trò chủ đạo, trong khi kinh tế hợp tác và các thành phần kinh
tế khác phát triển chậm, chưa theo kịp yêu cầu hội nhập quốc tế.
Thứ tư, việc tiếp thu và vận dụng các giá trị phổ quát về nhà nước pháp
quyền từ kinh nghiệm quốc tế vẫn còn nhiều hạn chế. Hệ thống pháp luật phục vụ
cho quá trình hội nhập quốc tế chưa được hoàn thiện, đặc biệt trong các lĩnh vực
then chốt như thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ. Công tác nghiên cứu và thực thi
các điều ước quốc tế chưa được quan tâm đúng mức. Đáng chú ý là chúng ta vẫn lOMoAR cPSD| 61197966
thiếu các cơ chế bảo vệ hiệu quả nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập sâu rộng,
đặc biệt về mặt thuế quan, bảo vệ môi trường và các lĩnh vực nhạy cảm khác.
Thứ năm, nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
vẫn còn nhiều bất cập cần khắc phục. Phương thức lãnh đạo của Đảng chưa theo
kịp yêu cầu đổi mới, vẫn tồn tại tình trạng vừa buông lỏng lại vừa bao biện, dẫn
đến sự chồng chéo không cần thiết. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng chưa
được thực hiện thường xuyên và nghiêm túc. Các biện pháp xử lý vi phạm còn
thiếu tính răn đe, chưa đủ sức tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực,
hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. 2.3.
Phương hướng và giải pháp a) Phương hướng
Đẩy mạnh công nghiêp ḥ óa, hiên đại ḥ óa đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức, bảo vê ṭ ài nguyên, môi trường. Kể từ Đại hôi lần thứ VIII, Đ̣ ảng xác
định bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiêp ḥ óa, hiên đ ̣ ại hóa đất nước.
Quan điểm này tiếp tục được các kỳ Đại hôi lần thứ IX, X, XI, XII của Đảng ḅ ổ
sung, phát triển. Đại hôi lần thứ XIII của Đảng tị ếp tục khẳng định và có sự bổ
sung, cụ thể hơn. Đó là tiếp tục đẩy mạnh công nghiêp ḥ óa, hiên đ ̣ ại hóa trên
nền tảng của tiến bô khoa ḥ ọc, công nghê ṿ à đổi mới sáng tạo. Điểm mới này là
công nghiêp ḥ óa, hiên đ ̣ ại hóa phải dựa trên nền tảng khoa học và công nghê,̣
đổi mới sáng tạo, tân ḍ ụng tốt cơ hôi c ̣ ủa cuôc C̣ ách mạng công nghiêp 4.0 đ ̣ ể
phát triển bứt phá trong môt ṣ ố ngành và lĩnh vực. Trong đó, chú trọng “Đẩy
mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng, phát triển, làm chủ công nghê hiệ ṇ
đại; phát triển môt ṣ ố sản phẩm chủ lực có thương hiêu ṃ ạnh, có uy tín trong
khu vực và thế giới. Nâng cao tiềm lực khoa học và công nghê, cḥ ất lượng nguồn
nhân lực của đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và
phát triển kinh tế số”. Đồng thời, ưu tiên phát triển những ngành công nghiêp
công nghệ cao, thân thiệ n ṿ ới môi trường, nhằm bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi cḥ ủ nghĩa. Nhân tḥ ức
về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi cḥ ủ nghĩa được bắt đầu từ
khi đất nước bước vào đổi mới và tiếp tục được bổ sung qua các kỳ đại hôi, hộ ị
nghị của Đảng. Đến nay, cơ bản đã có sự thống nhất chung trong nhân tḥ ức. Vì
vây, Đ̣ ại hôi lần thứ XIII của Đảng yêu c ̣ ầu thống nhất và nâng cao nhân tḥ ức
về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hôi cḥ ủ nghĩa. Đó là “nền kinh tế
thị trường hiên đ ̣ ại, hôi nhậ p qụ ốc tế, vân ḥ ành đầy đủ, đồng bô theo quy luậ ṭ lOMoAR cPSD| 61197966
của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hôi cḥ ủ nghĩa,
do Đảng Công ṣ ản Viêt Nam ḷ ãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hôi cḥ ủ nghĩa vì
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước”. Theo đó, viêc họ àn thiên tḥ ể chế kinh tế thị
trường là môt trong ba khâu độ t pḥ á chiến lược được Đảng ta xác định từ Đại
hôi lần thứ XI. Đị ểm mới lần này được xác định nôi ḥ àm rông ṿ à cụ thể hơn,
đó là “hoàn thiên đ ̣ ồng bô tḥ ể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hôi cḥ ủ nghĩa”.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đâm đ̣ à bản sắc dân tôc; xây ḍ ựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiên tị ến bô ṿ à công bằng xã hôi.̣ Đại
hôi lần thứ XIII của Đảng tị ếp tục nhất quán các phương hướng và có bổ sung
mới về phát triển văn hóa, con người, quản lý phát triển xã hôi, tḥ ực hiên tị ến
bô ṿ à công bằng xã hôi. Đ̣ ó là “xây dựng hê gị á trị quốc gia, hê gị á trị văn hóa
và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hê gị á trị gia đình Viêt Naṃ
trong thời kỳ mới”. Trong bối cảnh đất nước ngày càng hôi nhậ p sâu rộ ng ṿ ào
tiến trình phát triển của thế giới, thì viêc g ̣ ắn bó chăt cḥ ẽ giữa hê gị á trị quốc
gia, hê gị á trị văn hóa và chuẩn mực con người với hê gị á trị gia đình Viêt Naṃ
là nhân tḥ ức mới, trong đó đăt hệ gị á trị gia đình vào vị thế vốn có của nó, với
tư cách là tế bào của xã hôi, ḷ à hạt nhân nuôi dưỡng, lưu giữ và phát huy các giá
trị quốc gia, giá trị văn hóa, con người Viêt Nam. Đ̣ ối với các vấn đề xã hôi, Đ̣
ại hôi lần thứ XIII của Đảng nḥ ấn mạnh: “Tăng cường quản lý phát triển xã hôi,̣
bảo đảm tiến bô ṿ à công bằng xã hôi, t ̣ính bền vững trong các chính sách xã hôi,̣
nhất là phúc lợi xã hôi, an sinh x ̣ ã hôi, an ninh con ngự ời”. Điều này bảo đảm
sự phát triển bền vững của con người và xã hôi, tḥ ể hiên ḅ ản chất của chế đô ta
ḷ à lấy con người làm mục tiêu của sự phát triển.
Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trât ṭ ự, an toàn xã
hôi.̣ Quốc phòng, an ninh là lĩnh vực vô cùng quan trọng và là nhiêm ṿ ụ trọng
yếu, thường xuyên. Qua mỗi kỳ đại hôi, phương hự ớng xây dựng quốc phòng,
an ninh tiếp tục được bổ sung những nôi dung ṃ ới phù hợp với từng giai đoạn.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh có mặt đậm nét và có nhiều điểm mới. Đó là: “Xây dựng Quân đôi nhâṇ dân,
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuê, ṭ ừng bước hiên đ ̣ ại, môt ṣ ố
quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiên đ ̣ ại”. Đồng thời, xác định
rõ hơn nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, an ninh; triển khai
thực hiện các chiến lược về quốc phòng, an ninh trong điều kiên ṃ ới.
Thực hiên đự ờng lối đối ngoại đôc lậ p, ṭ ự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển, chủ đông ṿ à tích cực hôi nhậ p qụ ốc tế. Lần đầu tiên trong
Cương lĩnh năm 2011 xác định “hôi nhậ p qụ ốc tế” thay cho “hôi nhậ p kinh ṭ ế lOMoAR cPSD| 61197966
quốc tế”, không chỉ nhằm mở rông nộ i ḥ àm hôi nhậ p kinh ṭ ế quốc tế, mà hôị
nhâp trên ṭ ất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hôi, qụ ốc phòng an
ninh, đối ngoại. Đại hôi lần thứ XIII của Đảng tị ếp tục khẳng định quan điểm đó,
đồng thời làm rõ hoạt đông đ ̣ ối ngoại và hôi nhậ p qụ ốc tế phải luôn xác định lợi
ích quốc gia - dân tôc ḷ à mục tiêu tối thượng, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.
Xây dựng nền dân chủ xã hôi cḥ ủ nghĩa, thực hiên đại đọ àn kết toàn dân
tôc, tăng cự ờng và mở rông mặ t trậ n dân tộ c tḥ ống nhất. Cương lĩnh năm 2011
khẳng định: “Dân chủ xã hôi cḥ ủ nghĩa là bản chất của chế đô ta, ṿ ừa là mục
tiêu, vừa là đông ḷ ực của sự phát triển đất nước”. Đây là sự tổng kết có tính khái
quát cao về dân chủ, khẳng định bản chất của chế đô ta ḷ à dân chủ, là mục tiêu,
đông ḷ ực của sự nghiêp xây ḍ ựng và phát triển đất nước. Đại hôi lần thứ XIIỊ
của Đảng tiếp tục cụ thể hóa và bổ sung môt ṣ ố nôi dung ṃ ới: (1) Bổ sung nôị
dung, phương châm thực hiên dân cḥ ủ là “dân giám sát, dân thụ hưởng” thành
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; (2) Xác
định rõ hơn mối quan hê ṿ à vai trò giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Măt trậ
n Ṭ ổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hôi ḷ àm nòng cốt để nhân
dân làm chủ”; (3) Khẳng định “đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân
dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bô qụ á trình xây dựng và bảo vê Ṭ ổ quốc”.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hôi cḥ ủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước
pháp quyền xã hôi cḥ ủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuôc ṿ ề nhân dân, nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đôi ng ̣ ũ trí thức, do Đảng Công ṣ ản Viêt Naṃ lãnh
đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong viêc tḥ ực hiên c ̣ ác quyền lâp pḥ áp, hành pháp, tư pháp”.
Đại hôi lần thứ XIII của Đảng đ ̣ ã xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm
soát quyền lực nhà nước. Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, “lấy quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng
tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”. Xây dựng hệ thống pháp luật
đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Từ khi ra đời đến nay, Đảng luôn
coi trọng công tác xây dựng Đảng. Đây là nhiêm ṿ ụ then chốt quyết định thành